Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Yêu Cầu Bồi Thường Thiệt Hại Trong Tố Tụng Hành Chính Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.82 KB, 107 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>

<small>Họ tên tác giả, nhóm tác giả : Mã số SV: Năm thứ: </small>

<small>1. Hà Thanh Hoàng Châu 2053801014026 Năm 3 </small>

<small>2. Lê Thị Kiều Diễm 2053801014036 Năm 3 </small>

<small>3. Nguyễn Thị Ngọc Linh 2053801014126 Năm 3 </small>

<small>4. Phan Trần Thanh Ngọc 2053801014171 Năm 3 </small>

<small>Trưởng nhóm: Hà Thanh Hồng Châu </small>

<i><small>Lớp : 118-HC45(A) </small></i> <small>Khố 45 Khoa: Hành chính – Nhà nước </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>

<small>Họ tên tác giả, nhóm tác giả : Mã số SV: Năm thứ: </small>

<small>1. Hà Thanh Hoàng Châu 2053801014026 Năm 3 </small>

<small>2. Lê Thị Kiều Diễm 2053801014036 Năm 3 </small>

<small>3. Nguyễn Thị Ngọc Linh 2053801014126 Năm 3 </small>

<small>4. Phan Trần Thanh Ngọc 2053801014171 Năm 3 </small>

<small>Trưởng nhóm: Hà Thanh Hồng Châu </small>

<i><small>Lớp : 118-HC45(A) </small></i> <small>Khố 45 Khoa: Hành chính – Nhà nước </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH ... 7</b>

<b>1.1 Những vấn đề lý luận về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính ... 7</b>

<i><b>1.1.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại và yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính ... 7</b></i>

<i><b>1.1.2 Đặc điểm của yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính</b></i>

<i><b>1.2.4 Thiệt hại được yêu cầu bồi thường thiệt hại ... 331.2.5 Thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính 361.2.6 Thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính... 40</b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ... 41CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ... 42</b>

<b>2.1 Thực tiễn thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính Việt Nam ... 42</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>2.1.1 Kết quả thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>

TNBTCNN Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>TĨM TẮT CƠNG TRÌNH </b>

Đề tài nghiên cứu các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận và pháp lý về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính dưới góc độ tiếp cận khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính và quy định của pháp luật Việt Nam về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính.

Bên cạnh đó, đề tài tiến hành phân tích thực tiễn thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính, từ đó kiến nghị hồn thiện pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU </b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Quyền khởi kiện vụ án hành chính là phương thức để cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm phạm từ các hoạt động quản lý nhà nước. Trong q trình khởi kiện vụ án hành chính, nhằm bảo vệ tốt hơn cho người khởi kiện và người có nghĩa vụ liên quan khi họ phải chịu những tổn thất về vật chất và tinh thần do hoạt động quản lý nhà nước của các chủ thể có thẩm quyền cũng như tăng tính hiệu quả của hoạt động tố tụng hành chính trên thực tiễn, yêu cầu BTTH đã được ghi nhận từ Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính 1996.

Điều 3 của Pháp lệnh quy định như sau: “Người khởi kiện vụ án hành chính có thể đồng thời u cầu địi bồi thường thiệt hại; trong trường hợp này các quy định của pháp luật dân sự, pháp luật TTDS cũng được áp dụng để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại”.

Nghị quyết 03/2003/NQ- HĐTP và Nghị quyết 04/2006/NQ- HĐTP để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đã có những hướng dẫn cụ thể về chế định yêu cầu bồi thường trong vụ án hành chính. Chế định này đã được Luật Tố tụng hành chính năm 2010 quy định cụ thể tại Điều 6. Đến Luật Tố tụng hành chính năm 2015, các quy định về vấn đề này ngày càng được hoàn thiện. Các quy định này đã góp phần giúp cho người chịu thiệt hại có căn cứ để đưa ra yêu cầu bồi thường những thiệt hại mà họ phải gánh chịu.

Thế nhưng, thực tiễn sau hơn 7 năm áp dụng Luật Tố tụng hành chính 2015, việc giải quyết các vụ án hành chính nói chung mà đặc biệt là giải quyết yêu cầu bồi thường cho người dân trong vụ án hành chính cịn nhiều bất cập và hạn chế.

Thứ nhất, số lượng vụ án khơng có u cầu bồi thường thiệt hại trong tổng số vụ án hành chính chiếm số lượng khá lớn. Xuất phát từ tâm lý tránh tranh chấp kiện tụng hay biểu thị các yêu cầu liên quan của người yêu cầu bồi thường thiệt hại, tránh phiền phức.

Thứ hai việc đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại còn chưa đúng thời điểm và đảm bảo tính hiệu quả dẫn đến khả năng được xem xét và giải quyết không cao.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Thứ ba, việc xác định không đúng người có trách nhiệm bồi thường làm cho quá trình giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, loại thiệt hại được yêu cầu bồi thường thiệt hại chưa xác định đầy đủ phạm vi đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Thứ năm, phạm vi các yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính chưa được quy định rõ ràng.

Thứ sáu, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của người yêu cầu chưa thực sự tạo điều kiện cho người dân khi họ đứng ở vị thế yếu thế.

Thứ bảy, quyết định của tòa án về yêu cầu bồi thường thiệt hại vẫn còn nhiều trường hợp cấp xét xử sơ thẩm qua loa trong xét xử dẫn đến trường hợp xét xử sai gây thiệt hại cho các bên trong vụ án hành chính.

Các bất cập trên đã gây nhiều khó khăn trong q trình đưa ra u cầu bồi thường thiệt hại của người dân. Những khó khăn trên đã làm hẹp đi khả năng được bồi thường thiệt hại của họ.

Hiện nay chưa có cơng trình nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu về vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam. Xuất phát từ thực tiễn đó, với mong muốn nghiên cứu chuyên sâu hơn về quy định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính tại Việt Nam, nhóm tác giả lựa chọn đề tài “Yêu cầu bồi thường

<i>thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam” trong lần nghiên cứu này. </i>

<b>2. Tổng quan tình hình nghiên cứu </b>

Yêu cầu BTTH trong tố tụng hành chính là một trong những nội dung quan trọng trong pháp luật hành chính nước ta. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chun sâu về đề tài chưa đáp ứng được tính cấp thiết của vấn đề.

<b>2.1 Trong trường </b>

Tính đến thời điểm hiện nay, tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh có những cơng trình liên quan, tiêu biểu như: Nguyễn Thị Hoài Phương (2010), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của Nhà nước ở Việt Nam - Nhìn từ góc độ đảm bảo quyền con người”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số 04(57)/2010, trang 41 - 48; Luận án Tiến sĩ Lê Việt Sơn “Thi hành án hành chính ở Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Nam - Lý luận và thực tiễn” năm 2013, “Bàn về người khởi kiện và người bị kiện trong tố tụng hành chính”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số 04(77)/2013-2013, trang 28-36.

<b>2.2 Ngồi trường </b>

Phần lớn các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài chỉ dừng lại ở mức khái quát chung như Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Lê Mai Anh với đề tài “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra” năm 2002, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Tiến Dũng về “Giải quyết khiếu nại hành chính về bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án trên địa bàn thành phố Nam Định” năm 2011, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thái Phương “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước” năm 1999.

Bên cạnh đó, cịn có các bài tạp chí nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài. Điển hình như: bài viết “Thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: “Đùn đẩy trách nhiệm hay “né luật”” của TS. Lê Văn Sua in trên Tạp chí Luật sư Việt Nam số 4, tháng 4 năm 2016, bài viết “Quyền khiếu kiện trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư - Thực trạng và hướng hoàn thiện” do TS. Nguyễn Thành Phương nghiên cứu và được in trên Tạp chí Nghề luật số 07/2020.

Về tổng thể, tính đến thời điểm hiện tại chưa có đề tài nghiên cứu khoa học về đề tài “ Yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam” được nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu.

<b>3. Mục tiêu và nhiệm vụ </b>

<i><b>3.1 Mục tiêu nghiên cứu </b></i>

<i>Thứ nhất, đề tài nhằm làm rõ vấn đề lý luận về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong </i>

tố tụng hành chính.

<i>Thứ hai, phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về yêu cầu bồi thường trong </i>

tố tụng hành chính.

<i><b>Thứ ba, đánh giá thực tiễn thi hành chế định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong </b></i>

tố tụng hành chính Việt Nam và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu </b>

<i>Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận của vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt </i>

<i>Thứ hai, quy định pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại </i>

<i>Thứ ba, thực tiễn thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Thứ tư, giải pháp hồn thiện quy định pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại </i>

<b>trong tố tụng hành chính. </b>

<b>4.2 Phạm vi nghiên cứu </b>

Nhằm giải quyết tốt mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, đề tài tập trung phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý của yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính cùng các quy định của pháp luật Việt Nam và tham khảo pháp luật của các quốc gia khác. Trên cơ sở đó, đề tài nhằm làm rõ chế định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) từ và có sự so sánh, đánh giá với quy định liên quan trong bồi thường thiệt hại của Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước năm 2009 và năm 2017, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Bên cạnh đó nhóm dựa vào số liệu, vụ việc thực tiễn được khảo sát từ thời điểm từ năm 2015 tính đến thời điểm hiện tại. Cùng với đó, là việc thu thập các thông tin từ các báo cáo từ năm 2013 đến năm 2022. Từ đó, có được cái nhìn chung nhất

<b>về nguyên nhân của các bất cập, hạn chế để đưa ra được kiến nghị hoàn thiện. </b>

<b>5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>5.1 Cách tiếp cận </b>

Nhóm tác giả nghiên cứu các quy phạm pháp luật có liên quan về vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam để giải thích, phân tích làm rõ các quy định. Từ đó, có sự đánh giá khách quan và chính xác về hiệu quả mà chế định này mang lại, đi từ thực tiễn xét xử của Tồ án để có những kết luận về những bất cập còn tồn tại và kiến nghị những giải pháp góp phần hồn thiện chế định.

Đề tài yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính là một đề tài mang tính khoa học pháp lý và cần tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhằm đảm bảo việc nghiên cứu diễn ra thuận lợi và thu thập thông tin một cách tồn diện, kết quả nghiên cứu mang tính khoa học cao thì các cách tiếp cận được nhóm tác giả sử dụng là:

Tiếp cận dưới góc độ so sánh: Tìm hiểu các quan điểm lý luận và các cơ sở pháp lý về vấn đề về vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam. Từ đó, đánh giá và chọn lọc các nguồn thơng tin cần thiết để hồn thiện bài nghiên cứu. Tiếp cận dưới góc độ có cấu trúc và logic: Nhóm tác giả đi từ nghiên cứu những vấn đề lý luận về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính thơng qua phân tích khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của vấn đề này. Từ đó, triển khai nghiên cứu sâu rộng hơn, tồn diện hơn, kết hợp giữa nghiên cứu cơ sở pháp lý và nghiên cứu thực tiễn để trình bày, phân tích và kết luận.

Tiếp cận dưới góc độ đánh giá và phân tích: Nhóm tác giả tiến hành đánh giá những quy định, cơ sở lý luận, thực tiễn đã được làm rõ về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính để đưa ra kiến nghị và giải pháp hoàn thiện chế định.

<b>5.2 Phương pháp nghiên cứu </b>

Để thực hiện thành công đề tài, nhóm tác giả sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh quy phạm, phương pháp logic, phương pháp phân tích pháp luật.

Phương pháp tổng hợp đóng vai trị quan trọng trong đề tài, có tác dụng tổng hợp và thống kê các nguồn thông tin khác nhau để nhóm tác giả có thể đưa ra đánh giá tổng thể và tồn diện trong q trình hồn thiện đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp tổng hợp

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cịn giúp nhóm tác giả tiến hành thống kê số liệu và các đề mục thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu thực tiễn xét xử của tòa án liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp so sánh các quy phạm được áp dụng để tìm hiểu những quan điểm lý luận, các cơ sở pháp lý về vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam.

Phương pháp logic được sử dụng để lập luận và xâu chuỗi các dữ kiện nhằm đưa ra những đánh giá phù hợp từ cơ sở lý luận và pháp lý. Từ đó, đưa ra các quan điểm về hồn thiện vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp phân tích pháp luật được sử dụng để giải thích và làm sáng tỏ các điều luật có liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam. Sau q trình phân tích, nhóm tác giả sẽ chỉ ra thực tiễn thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam. Đồng thời, phương pháp này cũng được sử dụng trải đều qua các chương nhằm phân tích rõ các cơ sở lý luận, quy định và vấn đề hoàn thiện pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Đặc biệt, nhóm tác giả đã tiến hành sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu, nội dung của 301 bản án hành chính có cả sơ thẩm và phúc thẩm trên khắp các tỉnh thành của cả nước. Từ việc thống kê và liệt kê các nội dung đề mục cần chú trọng của từng bản án thì nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp và phân tích các nội dung khác nhau. Thơng qua đó, đưa ra những đánh giá về thực tiễn cũng như kiến nghị giải pháp hoàn

<b>thiện cho vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính Việt Nam. </b>

<b>6. Kết cấu đề tài </b>

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu gồm 2 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt trong tố tụng hành chính Việt Nam và giải pháp hoàn thiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH </b>

<b>1.1 Những vấn đề lý luận về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính </b>

<i><b>1.1.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại và yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính </b></i>

Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật tố tụng hành chính. Quy định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại một cách nhanh chóng, thuận lợi.

“Yêu cầu” theo từ điển tiếng Việt là “nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”<small>1</small><i>. </i>

<i>Theo đại từ điển tiếng Việt, “bồi thường” là “đền bù những tổn thất đã gây ra”</i><small>2</small>. Điều này, có thể được hiểu theo hướng là một giải pháp khắc phục hậu quả do chính người gây ra tổn thất tạo ra, đồng thời cũng có cách hiểu nó là hình thức đền bù, phạt khắc phục hậu quả của những tổn thất đã tạo ra. Thiệt hại là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của”<small>3</small>. Nói cách khác là sự biến đổi tình trạng ban đầu một cách tiêu cực sau khi chịu sự tác động từ một hay nhiều nguyên nhân khác nhau.

Như vậy, yêu cầu BTTH là đưa ra yêu cầu với chủ thể gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những tổn thất trên thực tế của chủ thể bị thiệt hại. Từ đó, có thể kết luận, yêu cầu BTTH trong tố tụng hành chính có nghĩa là đề nghị Tịa án thụ lý và giải quyết về việc cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước phải bù đắp những tổn thất về tinh thần và tài sản do quyết định hành chính, hành vi hành chính gây ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Theo từ điển Luật học, “BTTH là việc bồi thường bằng tiền mà pháp luật buộc bên vi phạm phải thực hiện đối với bên phải chịu những thiệt hại do hành vi vi phạm của bên vi phạm gây ra”<small>4</small>. Theo tác giả Phạm Hồng Nhung: “Chế tài BTTH là một chế tài mang tính tài sản, việc BTTH chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm của một bên trong quan hệ hợp đồng”<small>5</small>. Quan điểm của tác giả

<i>Nguyễn Phương Thảo đưa ra “Bồi thường được hiểu là sự đền bù hay bù đắp khi có một </i>

giá trị đã bị giảm sút hoặc mất đi trước đó. Mục đích của việc bồi thường là khơi phục lại tình trạng ban đầu hoặc gần nhất với tình trạng ban đầu. Buộc BTTH là một dạng trách nhiệm pháp lý được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật mà các chủ thể có hành vi trái pháp luật phải chịu hậu quả bất lợi”<small>6</small>. Từ đó, quan điểm của nhóm tác giả, thì BTTH được hiểu là: sự bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần của bên gây thiệt hại cho người phải gánh chịu thiệt hại đó.

BTTH là một loại trách nhiệm pháp lý mang tính bắt buộc với những chủ thể đã vi phạm pháp luật. Trong quy phạm pháp luật gồm ba bộ phận, về phần trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tổ chức khi vi phạm được quy định ở phần chế tài. BTTH trong TTHC không chỉ ràng buộc trách nhiệm giữa người có thẩm quyền; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền với người bị thiệt hại mà còn là cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ của những chủ thể khác trong TTHC.

BTTH trong TTHC khác với BTTH trong TTDS. Đây là BTTH do quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri gây ra. Những chủ thể trong các hoạt động trên có những hành vi trái với pháp luật phải khắc phục những tổn thất đã gây ra cho người khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Khi người khởi kiện có thiệt hại đưa ra mong muốn của mình thơng qua đơn khởi kiện gửi đến Tịa án, và yêu cầu Tòa án giải quyết quyền lợi cho họ. “Yêu cầu” chính là

<small>4 Từ điển Luật học (1999), tlđđ, NXB Thống kê Hà Nội, tr. 59 </small>

<small>5 Phạm Hồng Nhung (2022), Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005, NXB Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 11 </small>

<small>6 Nguyễn Phương Thảo (2022), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam, NXB Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 47 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

mong muốn mà người bị thiệt hại đề nghị tòa án thực hiện để bảo vệ cho họ. Trong vụ án hành chính có u cầu BTTH thì u cầu chính là lời đề nghị tòa án xem xét giải quyết các thiệt hại mà họ phải gánh chịu.

Như vậy có thể hiểu “yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hành chính là việc người khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính đề nghị Tịa án buộc người bị kiện phải đền bù, bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh

<i>thần do các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính gây ra”. </i>

<i><b>1.1.2 Đặc điểm của yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính </b></i>

<i>Thứ nhất, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. </i>

Trong vụ án hành chính, người bị kiện ln là cơ quan nhà nước, vì thế khi có u cầu BTTH sẽ làm phát sinh trách nhiệm BTTH của Nhà nước. Nguyên nhân là do người bị kiện thực hiện công vụ với tư cách là Nhà nước, khơng nhân danh chính mình vì vậy Nhà nước sẽ thực hiện trách nhiệm BTTH. Người gây thiệt hại có trách nhiệm hồn trả theo Luật TNBTCNN.

Mặc dù, công chức là người gây thiệt hại, tuy nhiên hành vi thi hành công vụ của công chức được coi là hành vi của Nhà nước, các quyết định của công chức khi thi hành công vụ là quyết định của Nhà nước. Do đó, trong trường hợp người thi hành cơng vụ có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân hoặc tổ chức thì Nhà nước phải có trách nhiệm về những thiệt hại đó và cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý người thi hành công vụ thay mặt Nhà nước thực hiện việc bồi thường các thiệt hại đã gây ra<b><small>7</small>. </b>

Việc cơ quan nhà nước thực hiện công vụ xuất phát từ nhiệm vụ mà nhà nước trao cho họ, và họ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và nhân dân. Trong quá trình thực hiện cơng vụ, sự sai sót ln có khả năng xảy ra xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sự thiệt hại này họ phải khắc phục nó, nhưng do họ thực hiện với danh nghĩa nhà nước, nên nhà nước sẽ thay mặt họ bồi thường cho người bị thiệt hại.

<small>7 Chính sách pháp luật thơng tin và truyền thơng, “Một số phân tích về Khái niệm về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”, ngày truy cập 2/8/2023 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Khác với vụ án dân sự thì trách nhiệm BTTH là chủ thể nào gây ra thiệt hại. Trong quan hệ dân sự, mối quan hệ giữa các chủ thể là bình đẳng, tự nguyện, tự do ý chí. Các giao dịch dân sự được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, các bên phải tôn trọng quyền và nghĩa vụ được các bên thống nhất. Trong quá trình thực hiện giao dịch nếu có một bên vi phạm các cam kết trong giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho bên cịn lại thì phải chịu trách nhiệm BTTH. Như vậy, trong vụ án dân sự, khi có u cầu BTTH thì phát sinh trách nhiệm BTTH của bên vi phạm. Trong giao dịch dân sự, cũng có khả năng xuất hiện chủ thể là cơ quan nhà nước, nhưng khi tranh chấp xảy ra sẽ không phát sinh thủ tục TTHC mà theo thủ tục TTDS. Vì mối quan hệ giữa các chủ thể vẫn là bình đẳng thỏa thuận chứ khơng phải là quyền uy phục tùng như trong hành chính. Vì vậy, dù có cơ quan hành chính nhà nước hay khơng thì trách nhiệm BTTH vẫn là bên vi phạm thỏa thuận trong giao dịch dân sự.

Ngoài ra đối với vụ án hình sự, khi có u cầu BTTH của ngun đơn dân sự thì phát sinh trách nhiệm BTTH của bị cáo và bị đơn dân sự. Trong vụ án hình sự, tồn tại mối quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội. Trách nhiệm BTTH là phần dân sự trong vụ án hình sự. Một hành vi phạm tội, có thể gây ra những thiệt hại cho đối tượng mà tội phạm hướng đến. Lúc này, người phạm tội và bị đơn dân sự phải có trách nhiệm BTTH cho nạn nhân. Bị cáo trong vụ án hình sự là người thực hiện hành vi phạm tội. Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự có thể là bị cáo, cha, mẹ, người giám hộ đối với bị cáo chưa thành niên... Khi nguyên đơn dân sự đã có u cầu thì Tịa án phải xem xét trách nhiệm BTTH của hai chủ thể này.

Khi so sánh vụ án hành chính, với vụ án dân sự và hình sự, sự khác biệt đầu tiên đó là trách nhiệm BTTH trong vụ án hành chính ln là nhà nước, cịn trong vụ án dân sự và hình sự luôn là chủ thể thường. Điều này xuất phát từ sự khác nhau cơ bản trong các mối quan hệ pháp luật. Hành chính, ln là giữa nhà nước với chủ thể thường, mối quan hệ giữa họ là quyền uy phục tùng. Dân sự là chủ thể thường vì nó tồn tại sự bình đẳng của các chủ thể. Hình sự là mối quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội, mối quan hệ giữa họ cũng là quyền uy phục tùng, tuy nhiên sự khác biệt là Nhà nước đứng ra chứng minh là họ phạm tội và bắt buộc họ phải BTTH cho người phạm tội.

<i>Thứ hai, chủ thể có yêu cầu bồi thường trong Tố tụng hành chính là người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Chủ thể có quyền yêu cầu BTTH trong TTHC hiện nay bao gồm người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các chủ thể này bị ảnh hưởng bởi các đối tượng khởi kiện do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do đó, chủ thể có quyền yêu cầu BTTH trong TTHC phải chịu tác động bởi các QĐHC, HVHC từ cá nhân, cơ quan nhà nước. Chủ thể chịu sự xâm phạm các quyền lợi chính đáng và chịu thiệt hại thì họ sẽ có quyền u cầu bên gây thiệt hại phải có trách nhiệm BTTH để bù đắp, khôi phục phần nào những tổn thất mà họ phải chịu. “Trách nhiệm bồi thường nhà nước là trách nhiệm được xác định trên mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước và một bên khác là bị thiệt hại. Đây là đặc điểm nhằm cá thể hóa trách nhiệm chủ thể phải BTTH so với trách nhiệm BTTH cá nhân”<small>8</small>.

Chủ thể có quyền trong Luật TTDS “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để u cầu Tịa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”<b><small>9</small></b>.

<i><b>Điều này có nghĩa là, dù đương sự trong TTDS được quyền yêu cầu BTTH trong vai trò </b></i>

là nguyên đơn hay bị đơn và cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thông qua phản

<b>tố. Đây là điểm khác nhau giữa Luật TTHC và Luật TTDS về chủ thể có quyền yêu cầu </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tính cần thiết của việc xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa yêu cầu BTTH và đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trái pháp luật là vô cùng quan trọng trong TTHC, bởi lẽ đây là một trong các cơ sở để người khởi kiện đưa ra yêu cầu BTTH cũng như Toà án xem xét giải quyết yêu cầu BTTH. Trong quá trình đưa ra yêu cầu BTTH cần làm rõ vấn đề đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trái pháp luật. Đây là nguyên nhân phát sinh yêu cầu BTTH trong TTHC. Ngược lại, thì những thiệt hại được nêu ra trong yêu cầu BTTH cần xuất phát từ đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trái pháp luật nói trên.

Những đối tượng này là kết quả của hoạt động quản lý nhà nước. “Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là các hoạt động nhằm tổ chức, thực hiện pháp luật và chỉ đạo, điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.<small>10</small> Điều này khác so với đối tượng khởi kiện trong TTDS yêu cầu bồi thường sẽ phát

<i>sinh khi “người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy </i>

tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”<b><small>11</small>. </b>

Vấn đề trên cũng khác với tố tụng hình sự là những quan hệ đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại; địi BTTH về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt hoặc đòi BTTH về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự , nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm do hành vi phạm tội gây ra<small>12</small>.

Trong vụ án hành chính khi người khởi kiện nhận thấy các đối tượng khởi kiện nói trên là trái pháp luật, lúc này họ mới phát sinh mong muốn được BTTH từ đó đưa ra yêu cầu BTTH trong vụ án hành chính. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có thể do các yếu tố khách quan lẫn chủ quan mà người có yêu cầu BTTH xác định không đúng thiệt hại mà họ yêu cầu có mối quan hệ liên quan trực tiếp đến đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính trái pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Bên cạnh đó thì u cầu BTTH trong TTHC phát sinh do đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trái pháp luật gây ra, điều này có thể hiểu là trách nhiệm yêu cầu BTTH của nhà nước chỉ phát sinh khi các đối tượng nói trên là trái pháp luật. Ngược lại nếu các đối tượng nói trên là hợp pháp, điều này đồng nghĩa với việc trách nhiệm yêu cầu BTTH của nhà nước sẽ không phát sinh.

Trên thực tế vẫn có thể phát sinh yêu cầu BTTH do nguyên nhân chủ quan đến từ phía người có u cầu BTTH trong việc đánh giá tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính. Trong trường hợp này dù yêu cầu BTTH có phát sinh nhưng sẽ khơng được chấp nhận bởi vì việc ban hành và thực hiện hành vi thuộc các đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính tại khoản 1 Điều 7 là hợp pháp.

<i>Thứ tư, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính được giải quyết theo quy định của pháp luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước và pháp luật tố tụng dân sự. </i>

Trong quá trình hoạt động của các người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, cơ quan nhà nước khó tránh khỏi xảy ra các thiệt hại cho phía người dân. Do đó nhà làm luật đặt ra quy định về nghĩa vụ phải BTTH do các hành vi trái pháp luật của các chủ

<b>thể này gây ra thiệt hại. Trên thực tế, các tổn thất do cơ quan công quyền mà cụ thể là </b>

do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra thì bao giờ cũng nặng nề hơn các thiệt hại do quan hệ dân sự gây ra. Vì vậy, việc giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước gây ra phải được đặc biệt quan tâm, chứ không thể xem xét và giải quyết như các vụ BTTH dân sự thông thường. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ việc bồi thường này không đơn thuần chỉ là bù đắp, đền bù tổn thất vật chất hoặc tinh thần mà một yêu cầu quan trọng khác đặt ra trong các vụ án hành chính. Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc bồi thường này mang tính chất dân sự vì tổn thất mà người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, cơ quan nhà nước gây ra. Về nguyên tắc, khi BTTH thì chủ thể bồi thường phải đảm bảo được tính kịp thời khi khắc phục hiệu quả. Điều này chỉ đảm bảo thực hiện khi nó được giải quyết trong khn khổ pháp luật về TTDS.

Cùng với đó, tính chất của trách nhiệm BTTH này trách nhiệm nhà nước đối với người bị thiệt hại. Ngoài ra, trong một số vấn đề khác của như việc xác định mức độ thiệt hại và phạm vi trách nhiệm cần có sự điều chỉnh của Luật TNBTCNN. Bởi vì thiệt hại có thể cùng do một loại cơ quan, nhưng theo thủ tục tố tụng khác nhau thì diễn biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

của thiệt hại trên thực tế lại khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá mức độ thiệt hại, xác định phạm vi trách nhiệm và nội dung các thiệt hại được bồi thường đặt trong điều kiện hoạt động của cơ quan nhà nước để giải quyết BTTH dựa trên quy phạm pháp luật áp dụng riêng cho trường hợp BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra là pháp Luật TNBTCNN. Việc xác định chính xác các vấn đề này đóng vai trị quan trọng đối với việc đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại một cách đúng đắn.

<i><b>1.1.3 Ý nghĩa của yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính </b></i>

<i>Thứ nhất, đối với người khởi kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan </i>

Trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại, người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã phải chịu những tổn thất về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên việc đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại trong cùng một vụ án hành chính và chỉ tách ra khi không đủ điều kiện chứng minh cũng đã đem lại những lợi ích to lớn cho người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính góp phần đảm bảo quyền lợi

<i>của chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mục đích lớn nhất của họ là được </i>

Tịa án giải quyết nhanh chóng, kịp thời để khắc phục những tổn thất mà họ đã gánh chịu và tránh làm phát sinh những thiệt hại khác. Đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi được cơ quan có thẩm quyền đưa ra hoặc thực hiện thì người có quyền u cầu bồi thường thiệt hại chỉ có thể chấp hành hoặc bị cưỡng chế thi hành. Vì vậy, khi khởi kiện thì tịa án có thể áp dụng các biện pháp để tạm thi hành các QĐHC, HVHC nhằm đảm bảo quyền lợi của họ. Khi đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại và yêu cầu này được giải quyết trong cùng một vụ án hành chính góp phần giúp người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại hạn chế các tổn thất, tiết kiệm chi phí, thời gian và công sức. Nếu phải tách yêu cầu bồi thường thiệt hại ra thành một vụ án dân sự độc lập thì sẽ gây nhiều phiền phức cho người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Họ phải tham gia cả hai vụ án cho cùng một đối tượng khởi kiện, bị tác động bởi một QĐHC, HVHC. Điều này chỉ tăng tính phức tạp cho q trình giải quyết vụ án, đồng thời làm cho người

<b>có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại bị tốn kém nhiều hơn. </b>

Bên cạnh đó, đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại trong cùng vụ án hành chính sẽ rút ngắn thời gian giải quyết cho họ khi chỉ phải tham gia một vụ án. Việc giải quyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

trong cùng một vụ án hành chính này đảm bảo được tính kịp thời và hợp lý do cùng một sự tác động của một QĐHC, HVHC mà chia ra hai vụ án khác nhau sẽ gây ra nhiều khó khăn, mất thời gian. Họ phải chứng minh lại vấn đề từ đầu, người giải quyết vụ án dân sự cũng không phải là người giải quyết vụ án hành chính nên cũng tồn tại khả năng có hai cách giải quyết cho cùng một QĐHC, HVHC. Nếu điều này xảy ra rất có thể vụ án sẽ phát sinh các giai đoạn tố tụng khác làm kéo dài thời gian giải quyết.

Khi so với yêu cầu BTTH độc lập theo quy định của Luật TNBTCNN thì việc giải quyết trong vụ án hành chính có nhiều ưu điểm. Khi tham gia vào một vụ án hành chính, người có quyền u cầu bồi thường thiệt hại sẽ tham gia vào một quy trình, thủ tục tố tụng chặt chẽ gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Trong q trình giải quyết vụ án, có sự tham gia của VKS góp phần đảm bảo hoạt động tố tụng diễn ra đúng pháp luật, trả lại lợi ích hợp pháp cho người yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ngồi ra, trong vụ án hành chính để xác định các thiệt hại của người chịu thiệt hại thì Luật TTHC đã quy định một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Điều này, sẽ góp phần xác định rõ ràng các thiệt hại, để từ đó có được sự giải quyết phù hợp đảm bảo quyền lợi tối đa cho người bị thiệt hại.

<i>Thứ hai, đối với hoạt động Tố tụng hành chính </i>

Hiện nay, người bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường thiệt hại được thực hiện bằng hai phương thức “giải quyết đồng thời trong vụ án hành chính hoặc tách vấn đề yêu cầu bồi thường để giải quyết bằng một vụ án dân sự độc lập”<small>13</small>. Do đó, việc giải quyết yêu cầu BTTH trong vụ án hành chính mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động TTHC.

<i>Một là, việc giải quyết đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại đảm bảo được tính </i>

kịp thời và hợp lý trong giải quyết vụ án hành chính. Người tham gia tố tụng không cần phải tham gia thêm vụ án dân sự khác, ít gặp phải các trở ngại khách quan khác khi tiến hành tách ra thành một vụ án dân sự riêng đối với yêu cầu BTTH của họ. Qua đó, Tồ án sẽ hạn chế được thời gian cần thiết để xác định lại các tình tiết của vụ án dân sự. Khi chế định yêu cầu bồi thường trở thành quy định của pháp luật đã làm cho các chủ thể có liên quan phải có trách nhiệm hợp tác, cung cấp tài liệu chứng cứ để thuận lợi cho quá

<small>13 Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2017), “Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, trang 15 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

trình giải quyết. Trong mỗi vụ án dù là hành chính hay dân sự đều có những khó khăn cụ thể như triệu tập các bên, thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh trong vụ án… Khi yêu cầu bồi thường đã trở thành một phần không thể tách rời trong vụ án hành chính và đã có những quy định chặt chẽ về cách thức giải quyết, sẽ tạo một cơ sở để tịa án dựa vào đó mà giải quyết. Nếu việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong cùng một vụ án thì Tịa án sẽ được giải quyết nhanh chóng, kịp thời và minh bạch hơn.

<i>Hai là, quy định chế định giải quyết yêu cầu BTTH trong cùng một vụ án hành </i>

chính sẽ làm giảm bớt khối lượng cơng việc cho tịa án. Bởi lẽ, điều này tạo ra cơ sở để tòa án đưa ra những phán quyết về bồi thường thiệt hại ngay trong cùng vụ án thay vì giải quyết trong hai vụ án khác nhau. Quy định này giúp tòa án cắt giảm đi các thủ tục bị trùng lặp giữa hai vụ án. Vì thế, đây sẽ là cơ sở để tịa án giải quyết vụ án có u cầu bồi thường thiệt hại nhanh chóng, thuận lợi hơn.

<i>Ba là, việc giải quyết trong cùng một vụ án hành chính sẽ tiết kiệm thời gian và </i>

chi phí cho hoạt động tố tụng. Về thời gian, việc giải quyết yêu cầu BTTH trong cùng một vụ án hành chính sẽ tránh phát sinh thêm một quy trình tố tụng khác để giải quyết cho cùng một đối tượng khởi kiện là QĐHC, HVHC. Ngồi ra, nếu để hai tịa án khác nhau cùng giải quyết rất có thể có những quan điểm trái chiều nhau, tạo sự so sánh cho người khởi kiện, từ đó phát sinh thêm các giai đoạn tố tụng khác. Về chi phí, khi giải quyết bằng hai thủ tục tố tụng có thể tăng các chi phí như in ấn, tổ chức hịa giải, xét xử… trong khi chúng ta có thể hạn chế bằng cách giải quyết trong cùng một vụ án.

<i>Thứ ba, đối với hoạt động quản lý nhà nước </i>

Việc quy định một các rõ ràng về vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong TTHC tạo ra một cơ sở tốt hơn giúp cho Nhà nước có thể tiến hành kịp thời bồi thường những thiệt hại cho người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi họ có yêu cầu bồi thường thiệt hại hợp pháp. Đồng thời, tạo điều kiện để hoạt động này của Nhà nước diễn ra một cách nghiêm túc và có hiệu quả khi có những quy định minh bạch và điều chỉnh sát sao nhằm đảm bảo tốt nhất cho người dân khi có yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Bên cạnh đó, việc thực hiện tốt chế định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong TTHC chứng minh tính có trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính.

Chế định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong TTHC hướng tới việc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước, cơ quan Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do hành vi hoặc quyết định mà họ đưa ra. Cụ thể là quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri được liệt kê tại khoản 1 Điều 7 Luật TTHC mang tính trái pháp luật. Nhà nước thừa nhận những sai phạm trong công tác quản lý dẫn đến vi phạm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân thơng qua việc thực hiện có hiệu quả chế định. Nhà nước tiến hành răn đe và chấn chỉnh kịp thời, đốc thúc kiểm tra việc bồi thường thiệt hại của các chủ thể có thẩm quyền. Thơng qua đó, từng bước đã xây dựng được lịng tin cho nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước nói

<i><b>riêng và bộ máy nhà nước nói chung. </b></i>

<b>1.2 Quy định pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính Việt Nam </b>

<i><b>1.2.1 Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính </b></i>

Trong quan hệ BTTH theo quy định của Luật TTHC thì chỉ có người khởi kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mới có quyền yêu cầu BTTH. Người có quyền yêu cầu BTTH được quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật TTHC 2015 “Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu BTTH do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại

<i>trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri gây ra”. Theo quy định này, trong </i>

một vụ án hành chính chỉ có người khởi kiện và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được yêu cầu BTTH.

Quy định trên đã xác định rõ được tư cách chủ thể yêu cầu BTTH để có thể quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể và đảm bảo các lợi ích của họ. Chỉ có người khởi kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan mới được yêu cầu BTTH xuất phát từ bản chất của

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

việc BTTH. Xét đến cùng, BTTH là bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần mà chủ thể thường khi tham gia vào quan hệ quản lý nhà nước phải gánh chịu từ những quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của họ. Người bị kiện là chủ thể mang quyền lực nhà nước đã nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực công. Họ phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của mình và thực hiện công vụ một cách cẩn trọng và đúng luật. Vì thế, nếu phía người khởi kiện có hành vi, quyết định hành chính sai phạm thì phải chịu trách nhiệm đối với vấn đề nói trên.

<i>Thứ nhất, người đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại là người khởi kiện. </i>

<i>Người khởi kiện là “cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối </i>

với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân (sau đây gọi chung là danh sách cử tri)”<small>14</small><i>. Người khởi kiện là chủ thể làm khởi động </i>

hoạt động tố tụng thông qua việc khởi kiện.Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính về các QĐHC, HVHC mà họ cho rằng các QĐHC, HVHC đó khơng đúng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên họ nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết và chủ thể này được gọi là “người khởi kiện” trong vụ án hành chính. Người khởi kiện là là chủ thể có vai trò quan trọng trong pháp luật TTHC. Chủ thể có yêu cầu bồi thường thường là người khởi kiện vì đây là một trong những chủ thể mà ở các luật tố tụng được quyền yêu cầu khởi kiện một hành vi xâm phạm đến quyền lợi trực tiếp của họ. Yêu cầu bồi thường đã được luật quy định tức là pháp luật đã công nhận và bảo vệ yêu cầu BTTH trong vụ án hành chính của người khởi kiện. Luật không quy định trực tiếp là quyền yêu cầu BTTH trong TTHC nhưng người bị thiệt hại “có thể yêu cầu BTTH”<small>15</small> nghĩa là người bị thiệt hại được quyền lựa chọn là họ được quyền yêu cầu đưa vấn đề BTTH vào vụ án hành chính ra Tịa án nhằm khởi kiện đối tượng đã xâm phạm đến quyền lợi của mình hay là họ khơng vì nhiều lý do khác nhau.

<small>14 Khoản 8 điều 3 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 15 Điều 5 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Theo Điều 8 Luật TTHC không đề cập đến “quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” dẫn đến thiệt hại nhưng luật quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”<small>16</small>. Điều này có nghĩa là khi người khởi kiện theo ý chí chủ quan của mình có quyền u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bao gồm cả yêu cầu BTTH. Pháp luật TTHC quy định về yêu cầu BTTH trong TTHC nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền thì họ hồn tồn có quyền u cầu Tòa án giải quyết.

<i> Một là, người khởi kiện là cá nhân. Cá nhân bao gồm công dân và người nước </i>

ngồi. Mặc dù, cơng dân Việt Nam hay người nước ngồi thì đều có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Việt Nam. Theo khoản 1 Điều 5 Luật quốc tịch Việt Nam 2008, sửa đổi, bổ sung 2014 “Người có quốc tịch Việt Nam là cơng dân Việt Nam. Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày luật quốc tịch 2014 có hiệu lực, người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của luật quốc tịch, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa có quốc tịch Việt Nam<small>17</small>. Người nước ngồi bao gồm người mang quốc tịch nước ngồi khơng phải là quốc tịch Việt Nam và người khơng có quốc tịch. Quốc tịch nước ngoài là “quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”<small>18</small> và người khơng có quốc tịch là “người khơng có quốc tịch Việt Nam và cũng khơng có quốc tịch nước ngồi”<small>19</small>.

Trường hợp là cơng dân Việt Nam thì đương nhiên áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết u cầu BTTH. Bởi vì cơng dân Việt Nam chịu sự quản lý của nhà nước Việt Nam và có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với nhà nước, vì thế khi giải quyết vấn đề liên quan đến quyền lợi của công dân Việt Nam sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam. Cịn đối với người nước ngồi thì chia ra hai trường hợp khác nhau. Nếu người nước ngồi u cầu BTTH thì sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam nếu ĐƯQT mà Việt Nam là thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

viên khơng có quy định khác<small>20</small>. Nếu người nước ngoài thuộc đối tượng hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ thì sẽ giải quyết bằng con đường ngoại giao<small>21</small>. Đây xuất phát từ các quy định của luật quốc tế về bảo hộ công dân cũng như các quy định về ngoại giao và lãnh sự.

<i>Hai là, người khởi kiện là cơ quan, tổ chức. </i>

Cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu BTTH bao gồm “Cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”<small>22</small>.

<i>Ba là, điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức trở thành người khởi kiện. </i>

Người khởi kiện phải đáp ứng hai điều kiện: (i) cơ quan, tổ chức cá nhân phải có quyền khởi kiện và (ii) họ phải có năng lực TTHC.

(i) Người khởi kiện phải có quyền khởi kiện.

Quyền khởi kiện phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính<b><small>23</small></b>. “Người khởi kiện trong vụ án hành chính phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính”<b><small>24</small>. Tính trực tiếp đã đề cập là sự tác động của các QĐHC, </b>

HVHC đến một chủ thể cụ thể mà đã được luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. QĐHC,

<b>HVHC đã làm hạn chế quyền hoặc làm phát sinh những nghĩa vụ cho người khởi kiện. </b>

Sự tác động trực tiếp đối với người khởi kiện thể hiện ở trường hợp họ là chủ thể bị áp dụng QĐHC, HVHC hoặc họ bị tác động bởi QĐHC, HVHC dù người khởi kiện không phải là chủ thể bị áp dụng bởi các đối tượng tượng trên. Điều này nhằm đảm bảo tính khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết yêu cầu BTTH. Bởi lẽ chỉ

<small>20Khoản 2 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam 21 Điều 2 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

<small>22 Khoản 11 Điều 3 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

<small>23 Trịnh Ngọc Diệu, “Người khởi kiện trong vụ án hành chính”,Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, trang 61 </small>

<small>24 Lê Việt Sơn(2013), “Bàn về người khởi kiện và người bị kiện trong vụ án hành chính”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam,(04(77)/2013), trang 28-36 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

có người bị tác động một cách trực tiếp và gánh chịu hậu quả thì mới có cách hiểu đúng đắn về thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Đồng thời, những chủ thể này mới có khả năng cung cấp các tài liệu, bằng chứng kịp thời giúp cơ quan có thẩm quyền thuận lợi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn.

(ii) Chủ thể khởi kiện phải có năng lực chủ thể

Chủ thể khi tham gia vào vụ án hành chính bên cạnh việc xác lập tư cách tham gia tố tụng thì năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi TTHC đóng vai trị quan trọng. “Năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi tố tụng chính là những hình thức thể hiện địa vị pháp lý của cá nhân, cơ quan và tổ chức trong xã hội”<small>25</small><b>. Người khởi kiện </b>

phải đáp ứng điều kiện năng lực chủ thể TTHC theo quy định của pháp luật. Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi TTHC được quy định tại điều 54 Luật TTHC 2015. “Năng lực pháp luật TTHC là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong TTHC do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật TTHC như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”<small>26</small>. Năng lực pháp luật phát sinh từ khi cá nhân đó được sinh ra, còn đối với cơ quan, tổ chức thì năng lực pháp luật phát sinh từ khi cơ quan, tổ chức đó thành lập và tồn tại hợp pháp. Năng lực pháp luật tố tụng không phân biệt chủ thể là cá nhân hay cơ quan, tổ chức; những chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ trong TTHC mà pháp luật đã quy định. Năng lực pháp luật hành chính là điều kiện cần có để cá nhân có thể làm phát sinh và tham gia vào việc giải quyết vụ án hành chính. Năng lực hành vi TTHC “là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ trong TTHC hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia TTHC”<b><small>27</small></b>. Năng lực hành vi TTHC là điều kiện đủ, bởi lẻ năng lực pháp luật TTHC là mặc nhiên phát sinh và không thay đổi, cịn năng lực hành vi hành chính có sự thay đổi theo những độ tuổi, trường hợp khác nhau. Vì thế, nếu thiếu đi năng lực hành vi TTHC thì năng lực pháp luật hành chính khơng thể được thực hiện trên thực tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc quyền và nghĩa vụ TTHC không thể được thực hiện, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Việc xác định năng lực hành vi TTHC

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

của đương sự tác động đến quyền và nghĩa vụ của họ, quyền lợi ích hợp pháp bị thu hẹp hay mở rộng. Điều này đảm bảo tính cơng bằng, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố

<b>tụng. </b>

Năng lực hành vi TTHC của cá nhân, cơ quan, tổ chức được xác định theo năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của BLDS 2015 thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân gồm: năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ (người chưa thành niên), năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi và người hạn chế khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân được xác định theo bản án của tịa án, nếu khơng có phán quyết của tịa án thì người từ đủ 18 tuổi trở lên thì đương nhiên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Chỉ người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thì mới quyền tự mình thực hiện việc khởi kiện yêu cầu BTTH. Trong vụ án hành chính, thì người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì khơng được ủy quyền khởi kiện mà phải tự mình thực hiện. Vì người ủy quyền không phải là người chịu thiệt hại trực tiếp từ quyết định hành chính, hành vi hành chính nên họ không thể được khởi kiện. Họ chỉ được ủy quyền tham gia vào việc giải quyết vụ án hành chính. Đối với các trường hợp còn lại và người chưa thành niên thì họ thực hiện việc khởi kiện thơng qua người đại diện theo pháp luật của họ<small>28</small><b>. </b>

Đối với năng lực hành vi tố tụng của cơ quan tổ chức chia thành cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân và cơ quan, tổ chức không có tư cách pháp nhân. Trường hợp người khởi kiện để yêu cầu BTTH là cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân thì người thực hiện việc khởi kiện là người đại diện theo pháp luật. Trường hợp người có yêu cầu BTTH là cơ quan, tổ chức khơng có tư cách pháp nhân thì việc khởi kiện để thực hiện yêu cầu của họ được xác định theo pháp luật về dân sự. Khi khởi kiện vụ án hành chính thì các thành viên của cơ quan, tổ chức này sẽ cùng nhau thực hiện hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp để thực hiện (ủy quyền phải lập thành văn bản).

Trong một số trường hợp đặc biệt thì người khởi kiện khơng thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện như khơng đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể thì người đại diện theo pháp luật sẽ tiến hành khởi kiện và yêu cầu BTTH. “Người đại diện trong tố tụng hành

<small>28 Khoản 4 Điều 54 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chính bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền”<small>29</small>. Theo đó, người đại diện được chia thành hai dạng nhằm phù hợp với NLHV của đương sự về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng trong vụ án hành chính. Người đại diện theo pháp luật “có thể là một trong những người được quy định tại khoản 2 Điều 60” luật đã giới hạn người đại diện theo đó phạm vi đại diện của các chủ thể tương đối hẹp. Vì những chủ thể này đại diện cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì họ là chủ thể đặc biệt, có năng lực pháp luật TTHC nhưng năng lực hành vi chưa đầy đủ. Người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự nếu không có người đại diện u cầu BTTH thì quyền lợi ích hợp pháp của họ không được đảm bảo. Đối với các tổ chức, cơ quan hay pháp nhân thì hoạt động tập thể nên khi thành lập thì người đại diện theo pháp luật để “thay mặt cho cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, hợp tác xã bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”<small>30</small>. Trường hợp người bị thiệt hại rơi thuộc các trường hợp bắt buộc phải có người đại diện theo pháp luật thì người đại diện sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quá trình diễn ra yêu cầu BTTH trong TTHC.

<i>Thứ hai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. </i>

“Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu BTTH”<small>31</small>. Người có quyền yêu cầu BTTH được quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật TTHC “Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu BTTH do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri gây ra”. Theo đó, chủ thể có quyền u cầu BTTH cịn có một chủ thể khác là người có quyền và nghĩa vụ liên quan. “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có hai dạng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

<small>29 Khoản 1 Điều 60 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

<small>30 Lê Quốc Việt (2014), “Người đại diện và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án hành chính, Khóa luận tốt nghiệp”, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, trang 15 </small>

<small>31 Khoản 1 Điều 7 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên khởi kiện hoặc với bên bị kiện”<small>32</small>.

Theo quy định của Luật TTHC thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là “cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”<small>33</small><b>. Tuy nhiên, trong vụ án </b>

hành chính nếu một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu BTTH do quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực thi quyền lực nhà nước thì họ sẽ trở thành người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Trong thực tiễn, người này có đầy đủ khả năng trở thành người khởi kiện, tuy nhiên họ không thực hiện việc khởi kiện hoặc họ chưa khởi kiện nhưng vụ án hành chính đã phát sinh do một chủ thể khác đã khởi kiện và được Tòa án thụ lý nên họ tham gia tố tụng và đưa ra yêu cầu độc lập để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Trong vụ án hành chính, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án với người khởi kiện có yêu cầu BTTH với hai hình thức là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Đối với người có quyền lợi có nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập thì họ không được đưa ra yêu cầu BTTH. Tuy nhiên, việc giải quyết vụ án trên có ảnh hưởng đến họ, nên họ phải tham gia, để làm rõ các tình tiết của vụ án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có u cầu độc lập thì được đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại. Yêu cầu này sẽ được tòa án giải quyết chung trong vụ án hành chính và độc lập với yêu cầu BTTH của người khởi kiện. Khi người khởi kiện rút đơn thì u cầu BTTH thì u cầu BTTH của người có quyền lợi có nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn được giải quyết<small>34</small>. Nghĩa là, hành vi rút đơn của người khởi kiện sẽ là không làm căn cứ đình chỉ vụ án đối với yêu cầu BTTH của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Khi

<small>32 Nguyễn Thị Thanh Vân(2019), “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính về đất đai”, Tạp chí Tòa án nhân dân </small>

<small>33 Khoản 10 Điều 3 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019 </small>

<small>34Điểm b khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015, sửa đổi, bổ sung 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

tham gia vào vụ án hành chính, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có những quyền như người khởi kiện<small>35</small>.

<i><b>1.2.2 Thời điểm đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại </b></i>

<i>Theo khoản 2 Điều 6 Luật TNBTCNN “Thời hiệu yêu cầu bồi thường trong q </i>

trình giải quyết vụ án hành chính được xác định theo thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.

Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một nội dung của đơn khởi kiện<small>36</small>. Vấn đề này chỉ đặt ra cho người khởi kiện. Vì thế, thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại là đồng nhất với thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là thời hạn mà người bị xâm phạm trực tiếp bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được đưa ra các yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, họ chỉ được thực hiện trong khoảng thời gian luật định nếu đã hết thời hạn thì xem như mất đi quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Người khởi kiện có quyền lựa chọn là thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại hay chỉ khởi kiện vụ án hành chính, đây là điều mà pháp luật cho phép người khởi kiện quyết định mà khơng phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân nào khác. Người khởi kiện “tự lựa chọn và quyết định các hành vi được pháp luật quy định”<small>37</small> theo đó khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế thì người khởi kiện phải là chủ thể làm phát sinh quyền khởi kiện và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khi người hay cơ quan có thẩm quyền thực hiện quyết định hay hành vi sai phạm dẫn đến thiệt hại thì người khởi kiện có quyền yêu cầu khởi kiện. Trong vụ án hành chính thì u cầu bồi thường khơng tách bạch với vụ án hành chính. Do đó, việc xác định được thời điểm đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại, chúng ta xét đến thời điểm nộp đơn khởi kiện được quy định tại Điều 116 Luật TTHC về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.

<small>35 Khoản 1 và 2 Điều 58 Luật Tố tụng hành chính 2015, sửa đổi, bổ sung 2019 </small>

<small>36 Chương IX, Khoản 1 Điều 118, Luật số 30 VBHN-VPQH ngày 16/12/2019, Luật TTHC </small>

<small>37 Trương Thị Minh Thùy(2014), “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện trong vụ án hành chính”, NXH trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, trang 12 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Trong một số trường hợp thì thời điểm này có thể bị tác động bởi các yếu tố khác nhau trong đó có các trở ngại khách quan. Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật

<i>TTHC, “trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm </i>

cho người có quyền, nghĩa vụ khơng thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình

<i>bị xâm phạm hoặc khơng thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ của mình”. Thứ nhất, </i>

nó cũng xuất phát từ hồn cảnh bên ngồi và khơng chịu sự chi phối tác động từ ý muốn

<i>của người khởi kiện. Thứ hai, không thể biết về quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị </i>

xâm phạm nghĩa là khi chịu sự tác động của quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có thể gây ra những tổn thất nhất định cho họ. Những tổn thất này đã ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của họ những do một tác động từ yếu tố bên ngồi làm cho họ khơng nhận ra họ đang chịu thiệt hại. Thứ ba, không thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình, tức là khi quyền và lợi ích bị xâm phạm thì họ có quyền nộp đơn ra tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, vì một sự tác động bất lợi từ yếu tố bên ngồi như

<b>thiên tai xảy ra, chính sách của nhà nước… dẫn đến họ không thể thực hiện được các </b>

quyền của mình một cách đúng thời hạn, làm mất đi quyền khởi kiện do thời hiệu khởi kiện đã hết. Quy định này phù hợp với thực tiễn, đảm bảo cho người khởi kiện có đủ thời gian thực hiện quyền khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền và lợi ích tối đa cho người khởi kiện. Trên thực tế khơng phải lúc nào tình hình xã hội cũng trong trạng thái ổn định, đôi khi vẫn xảy ra thiên tai, dịch bệnh… Do đó, luật đã quy định loại bỏ khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng khi tính thời hiệu để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại.

Trong khoản thời hiệu luật định đã đề cập như trên để yêu cầu BTTH của mình được thụ lý và giải quyết thì chủ thể đưa ra yêu cầu cần phải đáp ứng điều kiện về thời điểm đưa ra yêu cầu BTTH. Quy định về thời điểm đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Luật TNBTCNN:“b) Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại”. Theo quy định này, khi tòa án xác định có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại trở thành đối tượng khởi kiện và thuộc phạm vi trách nhiệm của nhà nước thì người khởi kiện có quyền đưa ra yêu cầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

bồi thường thiệt hại. “Khi thấy quyết định hành chính, hành vi hành chính gây thiệt hại cho mình, họ có quyền thể hiện yêu cầu đó ngay trong đơn khởi kiện vụ án hành chính và được quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình cho đến phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại”<small>38</small><i>. Điều này có nghĩa là sau khi qua giai </i>

đoạn này thì người khởi kiện và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không thể đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của Luật TNBTTH của Nhà nước cho thấy tính hệ thống của pháp luật Việt Nam khi có sự tương đồng với quy định luật TTHC 2015. Luật TTHC 2015 cho phép người khởi kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu bồi thường tại hai thời điểm sau: (i) thứ nhất, yêu cầu khởi kiện được đưa ra yêu cầu BTTH ngay tại thời điểm nộp đơn khởi kiện thơng qua nội dung u cầu đề nghị tịa án giải quyết trong đơn khởi kiện; (ii) thứ hai, người khởi kiện có thể bổ sung yêu cầu bồi thường thiệt hại tại thời điểm trước giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Việc quy định này nhằm giúp người bị thiệt hại có thêm thời gian để thu thập chứng cứ chứng minh cho yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đồng thời cũng giúp cho quá trình giải quyết vụ án hành chính của Tịa án trở nên hiệu quả hơn.

<i><b>1.2.3 Phạm vi đối tượng khởi kiện được yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Tố tụng hành chính </b></i>

Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính là quyết định hành chính, hành vi hành vi hành chính nên phạm vi các thiệt hại được giải quyết sẽ nằm trong lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính. Theo Điều 17 Luật TNBTCNN có 14 nhóm đối tượng nằm trong phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước.

<i>Thứ nhất, về quyết định xử phạt vi hành chính trái pháp luật. Xử phạt vi phạm </i>

hành chính được giải thích tại khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC: là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định từ

<small>38 Tưởng Duy Lượng (2017), Bình luận quy định về giải quyết bồi thường trong quá trình giải quyết khiếu nại, giải quyết vụ án hành chính, vụ án hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 9 (337)/Kỳ 1, tháng 5/2017, trang 22 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Điều 38 đến 51 Luật XLVPHC. Tuy nhiên, chỉ có quyết định xử phạt vi hành chính là TAND sẽ không nằm trong đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, nên sẽ khơng được xem xét giải quyết theo vụ án hành chính. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và trục xuất. Các biện pháp khắc phục quả mặc dù nằm trong quyết định xử phạt vi hành chính nhưng được tách ra thành một khoản riêng tại Luật TNBTCNN nên sẽ phân tích sau.

<i>Thứ hai, áp dụng biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính </i>

trái pháp luật. Mục đích của biện pháp này là ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính hoặc để bảo đảm xử lý vi phạm hành chính, mà cụ thể là, ngăn chặn việc thực hiện các hành vi vi phạm hành chính, ngăn chặn hậu quả, thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, hoặc để bảo đảm cho việc chấp hành các quyết định xử lý VPHC của CQNN có thẩm quyền hoặc vì lý do an ninh, quốc phịng, lợi ích cơng cộng<small>39</small>. Các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Điều 119 Luật XLVPHC gồm:

5. Khám phương tiện vận tải, đồ vật;

6. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

7. Quản lý người nước ngồi vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;

8. Giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính;

<small>39 Trường Đại học Luật TP HCM (2019), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, trang 653 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

9. Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp bỏ trốn”.

<i>Thứ ba, áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính </i>

trái pháp luật. Biện pháp khắc phục hậu quả có thể được thực hiểu là việc sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm hạn chế hoặc khôi phục lại tình trạng ban đầu do hành vi vi phạm hành chính mà mình gây ra<small>40</small>. Theo quy định tại Điều 28 Luật XLVPHC có tới 10 nhóm biện pháp khắc phục hậu quả tuy nhiên chỉ có ba trong số 10 nhóm biện pháp nằm trong phạm vi yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ba nhóm biện pháp khắc phục hậu quả được bồi thường gồm: buộc tháo dỡ cơng trình, phần cơng trình xây dựng khơng có phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa khơng đảm bảo chất lượng.

<i>Thứ tư, là áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành </i>

chính trái pháp luật. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC là một trong các biện pháp cưỡng chế nhà nước áp dụng khi cá nhân, tổ chức bị xử phạt VPHC không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn luật định<small>41</small>. Các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật XLVPHC gồm: (1) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm; (2) Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá, (3) Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản; (4) buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả. Luật XLVPHC quy định bốn biện pháp trên theo mức độ tăng dần về mức độ của biện pháp. Khi áp dụng thì cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng theo trật tự được quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật XLVPHC mà không được đảo ngược trật tự. Hình thức của quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC, phải được thể hiện dưới dạng bằng văn bản. Khi ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

quyết định hành chính trên phải thực hiện đúng thẩm quyền tại Điều 87 Luật XLVPHC, nếu khơng thì quyết định trên sẽ khơng có giá trị pháp luật.

<i>Thứ năm, là áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trái pháp luật. Theo quy </i>

định tại khoản 3 Điều 2 Luật XLVPHC, thì các biện pháp xử lý hành chính là là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo Luật TNBTCNN thì tất cả các biện pháp trên đều nằm trong phạm vi yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bởi lẽ, các quyết định trên đã trực tiếp tước đi các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do đi lại, tự do thân thể… Vì thế, nếu trái luật thì cần phải bồi thường cho người dân nhằm giúp họ khắc phục những tổn thất về tinh thần và tài sản.

<i>Thứ sáu, là không áp dụng hoặc áp dụng không đúng quy định của Luật Tố cáo </i>

các biện pháp sau đây để bảo vệ người tố cáo khi người đó u cầu: (1) Đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc tồn bộ quyết định xử lý kỷ luật hoặc quyết định khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo; khơi phục vị trí cơng tác, vị trí việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm cho người tố cáo tại nơi cơng tác; (2) Đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc tồn bộ quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo; khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo đã bị xâm phạm tại nơi cư trú; (3) Áp dụng biện pháp ngăn chặn, xử lý hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo theo quy định của pháp luật. Luật Tố cáo quy định chặt chẽ về việc bảo vệ người tố cáo. Bởi lẽ trong tố cáo người tố cáo phải ghi rõ thơng tin cá nhân của mình trong đơn tố cáo. Trong khi đó tố cáo có thể sẽ dẫn đến người bị tố cáo bị truy cứu trách nhiệm hành chính, hình sự. Vì thế, việc bảo vệ người tố cáo là cần thiết, nếu không làm tốt công tác bảo vệ người tố cáo có thể gây những hậu quả nghiêm trọng cho người tố cáo đồng thời làm giảm bớt niềm tin của người dân vào nhà nước. Từ đó làm giảm đi số lượng đơn tố cáo sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động quản lý nhà nước.

<i>Thứ bảy, là thực hiện hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Tiếp cận </i>

thông tin về cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà khơng đính chính và khơng cung cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

lại thông tin. Thông tin là một yếu tố quan trọng, có thể ảnh hưởng đến đời sống cá nhân của một chủ thể trong xã hội, ảnh hưởng đến cả xã hội, đất nước. Chính vì thế, các chủ thể công quyền khi công bố thông tin đặc biệt là công bố thông tin lên mạng xã hội phải đảm bảo độ chính xác về thơng tin và không gây hại cho cá nhân, cộng đồng, quốc gia. Bởi lẽ, họ là chủ thể mang quyền lực nhà nước thông tin từ họ đưa ra được xem là nguồn thơng tin có độ tin cậy cao. Nhưng nếu họ đã công bố thông tin không đúng thì phải kịp thời đính chính. Nếu họ vi phạm mà khơng đính chính thơng tin hoặc đính chính khơng kịp thời mà nếu gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì phải bồi thường thiệt hại.

<i>Thứ tám, là cấp, thu hồi, không cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy </i>

chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trái pháp luật. Cấp, thu hồi hay không cấp các loại giấy tờ trên đều gây những thiệt hại cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, nhà đầu tư. Vì thế cần thiết phải đền bù thiệt hại cho họ

<i>Thứ chín, là áp dụng thuế, phí, lệ phí trái pháp luật; thu thuế, phí, lệ phí trái pháp </i>

luật; truy thu thuế, hoàn thuế trái pháp luật; thu tiền sử dụng đất trái pháp luật. Đây là những biện pháp tác động trực tiếp đến thu nhập, lợi nhuận của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Những biện pháp này chắc chắn sẽ gây ra những tổn thất cho chủ thể bị tác động, vì thế bồi thường là điều nên làm đảm bảo lợi ích chính đáng cho họ, hoàn trả lại cho họ những lợi ích mà họ đã bị tước đoạt.

Ngồi ra, cịn có áp dụng thủ tục hải quan trái pháp luật. Thủ tục hải quan là các biện pháp cần thiết để hàng hóa được xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Vì thế thủ tục hải quan được xem như là cửa ngõ ra vào của hàng hóa. Nếu ở khâu làm thủ tục hải quan xảy ra sai phạm sẽ dẫn đến những thiệt hại to lớn. Bởi lẽ hàng hóa khơng xuất khẩu được có thể dẫn đến hư hỏng, vi phạm hợp đồng… Hàng hóa khơng nhập khẩu được có thể làm cho hàng hóa đó mất đi giá trị hoặc ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu cho sản xuất… Vì thế thủ tục hải quan có thể gây ra những tổn thất cho người bị thiệt hại vì thế họ cần phải bồi thường thiệt hại.

Tiếp theo, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư trái pháp luật; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trái pháp luật. Đây là những tác động đến quyền sử dụng đất và tài sản

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

gắn liền với đất của người dân. Đất đai và tài sản gắn liền với đất là những tài sản có giá trị lớn, ít biến động có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống người dân. Vì thế các quyết định liên quan đến đất đai phải tiến hành cẩn trọng và chính xác.

Khơng những thế cịn có trường hợp ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật. Cạnh tranh là sự đối lập nhau về lợi ích của chủ thể dẫn đến muốn loại bỏ đối thủ của mình để đọc chiếm thị trường khách hàng. Vì thế, nó liên quan đến hoạt động kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp. Vụ việc cạnh tranh phải thực hiện đúng trình tự thủ tục được quy định tại Luật cạnh tranh hoặc Luật TTHC (trường hợp khởi kiện vụ án hành chính về quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh)

Luật TNBTCNN cịn có quy định Cấp văn bằng bảo hộ khi có căn cứ pháp luật cho rằng người nộp đơn khơng có quyền nộp đơn hoặc có căn cứ pháp luật cho rằng đối tượng không đáp ứng điều kiện bảo hộ; từ chối cấp văn bằng bảo hộ với lý do đối tượng không đáp ứng điều kiện bảo hộ mà khơng có căn cứ pháp luật; chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ mà không có căn cứ pháp luật. Đây là những hoạt động vi phạm trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ phải được bảo hộ tuyệt đối tức không cho bất kỳ chủ thể nào xâm phạm. Nếu có hành vi sai trái sẽ gây những tổn thất nghiêm trọng ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống cá nhân của người đó và xã hội.

<i>Cuối cùng, là việc ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật đối với </i>

công chức từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống. Quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc là một hình thức xử lý kỷ luật rất nặng, buộc một người đang làm việc phải chấm dứt cơng việc mình đang làm. Do đó, quy trình để đưa ra quyết định trên rất nghiêm ngặt, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đúng. Việc đưa ra một quyết định sai lầm sẽ ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của họ.

Nhìn chung, điểm giống nhau của 14 nhóm trên đó là tính trái pháp luật. Trái luật được hiểu là việc thực hiện các hoạt động kể trên không đúng thẩm quyền hoặc khơng đúng trình tự thủ tục luật đình hoặc vi phạm điều cấm của luật. Tính trái pháp luật ở đây không đặt ra vấn đề lỗi, nghĩa là dù lỗi vơ ý hay cố ý thì chỉ cần trái pháp luật thì nằm trong phạm vi bồi thường thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, cơ quan.

Theo Bộ luật Tố tụng Tịa án hành chính Estonia thì phạm vi các loại thiệt hại được bồi thường bao gồm: chi phí ngồi tư pháp (Điều 103), chi phí tố tụng (Khoản 5

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Điều 109). Chi phí ngồi tư pháp bao gồm: (1) chi phí cho người đại diện và cố vấn của những người tham gia tố tụng, (2) mọi chi phí đi lại, bưu phí, viễn thơng, ăn ở và các chi phí tương tự khác phát sinh liên quan đến thủ tục tố tụng, (3) tiền lương hoặc thu nhập cố định khác mà những người tham gia tố tụng đã từ bỏ, (4) chi phí xem xét đơn yêu cầu hỗ trợ thủ tục đối với việc thanh toán chi phí thủ tục. Tuy nhiên để được bồi thường dạng chi phí này người yêu cầu phải là người người tham gia tố tụng đã trở thành đối tượng có nghĩa vụ nộp các chi phí đó. Đối với chi phí tố tụng thì tịa án chỉ bồi thường một khoản chi phí cần thiết và hợp lý.

<i><b>1.2.4 Thiệt hại được yêu cầu bồi thường thiệt hại </b></i>

Trong các vụ án có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì việc xác định thiệt hại cần được bồi thường là rất quan trọng. Tuy pháp luật về TTHC quy định về quyền yêu cầu bồi thường nhưng chưa cụ thể thiệt hại nào được bồi thường thiệt hại mà Luật TTHC quy định áp dụng theo luật TNBTCNN và BLDS (Điều 585). Với đặc trưng của TTHC được diễn ra trên phạm vi rộng từ các quyết định hành chính, hành vi hành chính phổ biến nhất thì cần có quy định một cách cụ thể. Trong luật TNBTTHCNN đã quy định về nhiều loại thiệt hại khác nhau nhưng có thể sắp các loại thiệt hại này thành hai nhóm chính là thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về vật chất được quy định từ Điều 22 đến Điều

<b>28 luật TNBTCNN. </b>

Theo quy định của luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại có 6 nhóm sau được yêu cầu bồi thường: (1) Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm (Điều 23), (2) Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (Điều 24), (3) Thiệt hại về vật chất cho người bị thiệt hại chết (Điều 25), (4) Thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 26), (5) Thiệt hại về tinh thần (Điều 27) và (6) Các chi phí khác được bồi thường (Điều 28). Tại các điều luật có những quy định cụ thể chi tiết về các loại thiệt hại, các tính chi phí bồi thường cho người bị thiệt hại.

<i>Thứ nhất, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm. </i>

Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm là những thiệt hại liên quan đến tài sản đã bị tổn thất, hư hỏng, mất mát do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Để xác định được nhóm thiệt hại này ta sẽ dựa vào các quy định tại Điều 23 Luật TNBTCNN

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

và Điều 3, Điều 4 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật TNBTCNN. Thiệt hại này được chia ra thành nhiều trường hợp.

<i>Thứ hai, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút. </i>

Trường hợp này quy định tại Điều 24 Luật TNBTCNN và các Điều 5, 6, 7 và 9 Nghị định số 68/NĐ-CP hướng dẫn luật TNBTCNN. Thu nhập thực tế là thu nhập ổn định mà người bị thiệt hại có được trên thực tế trong q trình làm việc, sản xuất, kinh doanh. Thu nhập thực tế bị mất là trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn thu nhập mà họ đáng lẽ sẽ có được nếu khơng có hành vi sai phạm của cơ quan nhà nước. Thu nhập thực tế bị giảm sút là thu nhập mà họ có được ở hiện tại ít hơn so với thu nhập trước đây.

<i>Thứ ba, là thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết. </i>

Trên thực tế, một quyết định hành chính khơng thể là ngun nhân trực tiếp gây ra cái chết cho một người mà nó là nguyên nhân gián tiếp làm cho người bị thiệt hại chết. Có thể kể đến như người bị thiệt hại chịu áp lực nhất thời hoặc trong thời gian dài

<b>mà không được giải quyết. Các thiệt hại được đền bù do người bị thiệt hại chết được </b>

quy định tại Điều 25 Luật TNBTCNN gồm: Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị thiệt hại trước khi chết. Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án, chi phí cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian khám bệnh, chữa bệnh trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại, chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại chết được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định là 01 tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

<i>Thứ tư, thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm. </i>

</div>

×