Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.92 KB, 95 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Trưởng nhóm: Phan Thanh Tuyền

<b>Mã số cơng trình:……….</b>

<i>(Phần này do Phịng QL NCKH & HTQT đánh số vào)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH</b>

Trưởng nhóm: Phan Thanh Tuyền

GVHD: ThS. Trần Quốc Minh

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1 </b>

<b>Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN ... 7 </b>

<b>1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp nhân ... 7 </b>

1.1.1. Khái niệm pháp nhân ... 7

1.1.2. Đặc điểm của pháp nhân ... 10

<b>1.2. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội .. 13 </b>

1.2.1. Khái niệm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội ... 13

1.2.2. Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân phạm tội ... 14

1.2.3. Ý nghĩa của các quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội ... 18

<b>1.3. Khái quát quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân .. 19 </b>

1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ... 19

1.3.2. Khái niệm thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ... 20

1.3.3. Việc tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân .... 21

1.3.4. Cơ sở của việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân .. 24

1.3.5. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ... 26

2.2.1. Tổng quan về pháp luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp ... 32

2.2.2. Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ... 33

2.2.3. Kết luận và gợi mở cho Việt Nam ... 42

<b>2.3. Pháp luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ... 43 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.3.1. Tổng quan về về Pháp luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung

<b>3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ... 55 </b>

3.1.1. Giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can pháp nhân phạm tội ... 55

3.1.2. Giai đoạn điều tra đối với pháp nhân phạm tội ... 60

3.1.3. Giai đoạn truy tố đối với bị can là pháp nhân ... 64

3.1.4. Giai đoạn xét xử vụ án đối với bị cáo là pháp nhân ... 64

<b>3.2. Thực trạng pháp luật về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ... 67 </b>

3.2.1. Tính đồng bộ giữa nội dung so với các quy định khác của pháp luật trong việc quy định chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân .. 67

3.2.2. Vấn đề quy định người đại diện của pháp nhân thương mại tham gia tố tụng ... 69

3.2.3. Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân bị buộc tội ... 70

3.3.4. Những vấn đề cần phải chứng minh và nghĩa vụ khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội ... 74

3.2.5. Thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân ... 77

3.2.6. Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội ... 78

<b>3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân ... 79 </b>

3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ... 79

3.3.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ... 82

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ... 84 </b>

<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

NĐDTPL Người đại diện theo pháp luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

<i>BLHS năm 2015 quy định “Pháp nhân thương mại” là chủ thể thứ hai có thể chịu </i>

trách nhiệm hình sự bên cạnh chủ thể truyền thống là con người/cá nhân/thể nhân. BLHS từ thừa nhận chủ thể chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là cá nhân/thể nhân thơng qua hành vi phạm tội thì nay đã thừa nhận thêm pháp nhân thương mại vẫn có thể là chủ thể

<i>chịu trách nhiệm hình sự mặc dù “pháp nhân thương mại” được xem như là con người </i>

pháp lí khơng thể tự mình thực hiện được xem là tội phạm mà cần phải thông qua hành

<b>vi của thể nhân/cá nhân thể hiện sự bứt phá trong tư duy lập pháp hình sự ở Việt Nam. </b>

Việc quy định về Pháp nhân – Pháp nhân thương mại thể hiện sự đột phá tư duy lập pháp chung và tư duy lập pháp hình sự nói riêng. Điều này cũng khiến cho các quy định của Bộ luật Hình sự có sự thích ứng kịp thời với sự phát triển của các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ một cách tốt nhất các quan hệ xã hội, truy cứu trách nhiệm hình sự và đấu tranh phịng, chống tội phạm một cách có hiệu quả đặt trong bối cảnh sự phát triển đa dạng, phức tạp của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong mối tương quan pháp luật hình thức và pháp luật nội dung giữa BLTTHS và BLHS thì BLTTHS đóng vai trị là luật hình thức có nhiệm vụ cơng cụ nhằm mục đích triển khai, thực hiện, cụ thể hóa các quy định của BLHS thơng qua các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự các tội phạm được quy định trong BLHS. Với vai trị đó, địi hỏi BLTTHS phải có tính đồng

<i>bộ nhất định với quy định của BLHS về trách nhiệm hình sự của “pháp nhân thương </i>

<i>mại”. Do đó, BLTTHS 2015 đã bổ sung chế định “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” được quy định tại chương XXIX. </i>

Đây là một chế định mới dẫn đến việc chưa có nhiều kinh nghiệm lập pháp lẫn thực tiễn cho nên chế định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân còn nhiều bất cập trong quy định và nhiều lúng túng trong thực tiễn áp dụng. Đặc biệt việc truy cứu trách nhiệm hình sự và tố tụng hình sự ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực quyền công dân là quyền Hiến định, nếu thủ tục tố tụng, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khơng được hồn thiện, quy định chặt chẽ thì có khả năng đặt các quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước nguy cơ bị xâm phạm.

Cần phải lưu ý là việc tố tụng nói chung và đặc biệt là tố tụng hình sự nói riêng là nơi mà quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng trong đó có cả bên

<i>bị buộc tội là “pháp nhân”. Cho nên nếu không quy định một cách chặt chẽ thì sẽ đặt “pháp nhân” vào nguy cơ bị xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Mặt khác, hiện nay số lượng cơng trình nghiên cứu ở lĩnh vực này cực kỳ khiêm tốn. Các nguồn tài liệu từ thư viện, sách báo đến mạng internet hầu như khơng tìm thấy bất kỳ cơng trình nào chun sâu và có tính hệ thống ở cấp độ bài báo chuyên ngành hay là luận văn, luận án, sách hoặc nếu có thì rất ít, đơn giản và thiếu chiều sâu.

Do đó, để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của pháp nhân, cũng như đảm bảo việc thực thi pháp luật, đưa các quy định của BLTTHS vào trong cuộc sống, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa địi hỏi cần có những cơng trình nghiên cứu về chế định thủ tục truy trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân để góp phần hồn thiện và áp dụng một cách có hiệu quả quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự

<i>pháp nhân. Đó chính là lý do mà nhóm tác giả quyết định chọn đề tài “Thủ tục truy cứu </i>

<i>trách nhiệm hình sự pháp nhân: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam” để </i>

nghiên cứu, qua đó đóng góp ý kiến đối với q trình hồn thiện pháp luật hiện hành.

<b>2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu </b>

<i><b>2.1. Trong trường </b></i>

Về luận văn, luận án, tài liệu hội thảo tiêu biểu như:

<i>- Hoàng Thị Tuệ Phương (2006), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân, Luận văn </i>

thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;

<i>- Trần Bá Quang (2016), Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, khóa </i>

luận Tốt nghiệp, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;

<i>- Hồ Thị Ngọc Ánh (2018), Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: </i>

<i>Nghiên cứu so sánh pháp luật Hình sự Canada và kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận văn </i>

Thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;

<i>- Phan Thị Phương Hiền và những người khác (2018), Trách nhiệm hình sự của </i>

<i>pháp nhân trong luật hình sự Australia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu </i>

khoa học, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.

Về báo và tạp chí chun ngành có thể nói đến các bài viết như:

<i>- Nguyễn Phương Thảo (2021), Hồn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình </i>

<i>sự của pháp nhân thương mại, tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện hành chính quốc gia, </i>

số 308;

<i>- Lương Thị Mỹ Quỳnh (2016), Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự của pháp </i>

<i>nhân thương mại và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, tạp chí </i>

Khoa học pháp lý, Số 07 (101);

<i>- Trần Quốc Minh (2019), Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân theo Luật tố </i>

<i>tụng Hình sự Việt Nam, kỷ yếu hội thảo “Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng Hình sự”, </i>

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Về các giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo thì tiêu biểu như:

<i>- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng </i>

<i>hình sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội; </i>

<i>- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Những quy </i>

<i>định chung về Luật Dân sự, Tái bản lần 1, có sửa đổi bổ sung, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. </i>

<i><b>2.2. Ngoài trường </b></i>

Về luận văn, luận án, tài liệu hội thảo tiêu biểu như:

<i>Trịnh Quốc Toản (2005), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật Hình sự </i>

<i>nước ngồi và mơ hình lý luận của nó trong pháp luật Hình sự Việt Nam tương lai, Đề </i>

tài Nghiên cứu khoa học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Về báo và tạp chí chuyên ngành có thể nói đến các bài viết như:

<i>- Nguyễn Hoàng Anh (2018), Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp </i>

<i>nhân ở một số quốc gia và những gợi mở cho Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, </i>

số 21 (373);

<i>- Nguyễn Văn Quân (2018), Vai trò và quy chế pháp lý của người đại diện trong </i>

<i>thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại, tạp chí Kiểm sát, số 09; </i>

<i>- Hoàng Văn Vân (2017), Một số vấn đề về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với </i>

<i>pháp nhân thương mại theo Bộ luật hình sự năm 2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; </i>

<i>- Bạch Ngọc Du (2019), Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương </i>

<i>mại phạm tội, tạp chí Tịa án; </i>

<i>- Ngơ Ngọc Diễm & Vũ Thị Phượng (2020), Trách nhiệm hình sự và thủ tục truy </i>

<i>cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội về mơi trường, tạp chí </i>

Kiểm sát, số 07.

<i>- Phạm Thị Hồng Đào (2017), Pháp nhân thương mại trong pháp luật Việt Nam, </i>

tạp chí Nghiên cứu trao đổi, Bộ Tư pháp;

<i>- Nguyễn Thị Minh, Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật </i>

<i>Hình sự 2015, tạp chí Nghiên cứu khoa học – Học viện Tòa án; </i>

<i>- Vũ Hằng (2014), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của pháp </i>

<i>luật Cộng Hịa Pháp, trang thơng tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính trung ương; </i>

<i>- Trương Khải Tuấn, Nắm bắt chính xác và ứng dụng của quy định đơn vị phạm </i>

<i>tội, Khoa luật Đại học Kinh tế Thượng Hải; </i>

Về các giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo thì tiêu biểu như:

<i>- Giáo trình “Luật Dân sự Việt Nam tập 1” – trường Đại học Luật Hà Nội; </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>- Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp </i>

<i>nhân thương mại và những vấn đề đặt ra khi thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự (hiện hành), NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2019; </i>

<i>- Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - </i>

Nghiên cứu các quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hịa Pháp và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Về nội dung nghiên cứu: Để tài tập trung nghiên cứu các khía cạnh về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân dựa trên BLTTHS năm 2015, BLHS năm 2015 cũng như nghiên cứu, so sánh với pháp luật của Cộng hoà Pháp, Cộng hoà Nhân

<i><b>dân Trung Hoa để từ đó đưa ra những kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam. </b></i>

Về không gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hịa Pháp và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Về thời gian: Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ năm 1789 đến nay.

Để giải quyết những vấn đề cụ thể được đặt ra xung quanh đề tài nghiên cứu về

<i>“Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam”, nhóm tác giả đã áp dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: </i>

<i>Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp. Đây là hai phương pháp được nhóm </i>

nghiên cứu sử dụng chủ yếu và xuyên suốt đề tài. Cụ thể, phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu nhằm xây dựng các luận điểm, luận cứ cho đề tài, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Cịn phương pháp tổng hợp được sử dụng trong q trình nhóm tác giả tiến hành thu thập, dịch thuật tài liệu, tổng hợp các quan điểm của các tác giả khác nhau để từ đó tổng hợp đưa ra được những đánh giá chung, chuyên sâu nhất. Đồng thời, hai phương pháp này

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

cịn được nhóm nghiên cứu sử dụng trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật của Cộng hoà Pháp và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cuối cùng, các phương pháp này còn được vận dụng để tổng hợp và đưa ra kết luận chung đối với kết quả nghiên cứu.

<i>Thứ hai, phương pháp lịch sử: phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu nhằm </i>

mục đích xem xét và làm rõ về lịch sử hình thành và phát triển của pháp nhân cũng như quá trình phát triển của chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Từ đó, giúp nhóm nghiên cứu có thêm các cơ sở khoa học để nghiên cứu về nhận thức và khuynh hướng điều chỉnh của các quy định về vấn đề trên. Đồng thời cũng góp phần tạo điều kiện cho việc đưa ra gợi mở, khuyến nghị pháp luật phù hợp và khoa học đối với việc xây dựng các quy định pháp luật tại Việt Nam. Phương pháp này được nhóm nghiên cứu sử dụng chủ yếu ở chương 1.

<i>Thứ ba, phương pháp phân tích bản án, vụ việc: phương pháp này được sử dụng </i>

để đánh giá và bình luận về các vụ việc liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội. Cụ thể, việc áp dụng phương pháp này nhằm mục đích phân tích, đánh giá và bình luận các khó khăn, vướng mắc của Tòa án và các cơ quan tư pháp liên quan đến việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Từ đó, một mặt góp phần giúp đánh giá bản chất của chế định thủ tục truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại phạm tội giúp hồn thiện đề tài hơn dưới góc độ thực tiễn, mặt khác giúp tạo góc nhìn trọn vẹn hơn trong nghiên cứu một đề tài khoa học pháp lý. Phương pháp này được nhóm tác giả sử dụng chủ yếu ở chương 2 và chương 3.

<i>Thứ tư, phương pháp so sánh: phương pháp này dùng để so sánh, đối chiếu những </i>

quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục truy cứu TNHS pháp nhân. Từ đó đưa ra các gợi mở, khuyến nghị phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam. Phương pháp này được nhóm tác giả sử dụng chủ yếu ở chương 3 của đề tài.

<i>Thứ năm, phương pháp thống kê số liệu: phương pháp này dùng để khảo sát người </i>

tiến hành tố tụng, các luật sư, sinh viên, giảng viên có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động xét xử vụ án hình sự đối với pháp nhân phạm tội ở Việt Nam để nắm rõ tình hình thực tế và đưa ra các kiến nghị phù hợp. Phương pháp này được nhóm tác giả sử dụng chủ yếu ở chương 3 của đề tài.

<b>7. Kết cấu của đề tài </b>

<i>Đối với đề tài “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân: Nghiên cứu so </i>

<i>sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam”, nhóm nghiên cứu triển khai theo bố cục nghiên </i>

<b>cứu khoa học truyền thống. Cụ thể, đề tài có 3 chương: </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA

Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ </b>

<b>THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN </b>

<i><b>Giới thiệu về Chương 1 </b></i>

Trong chương đầu tiên của đề tài, nhóm tác giả sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thủ tục truy cứu TNHS pháp nhân. Dựa trên nền tảng các quy định pháp luật, nhóm tác giả sẽ làm rõ khái niệm cơ bản; chỉ ra những đặc điểm của thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân phạm tội. Thơng qua việc phân tích, đối chiếu những tồn đọng xảy ra khi phát sinh vụ án hình sự đối với pháp nhân trong thực tiễn, bài viết đưa ra những cơ sở quy định về tục truy cứu TNHS và ý nghĩa của quy định này.

<b>1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp nhân 1.1.1. Khái niệm pháp nhân </b>

Pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, hình sự, thương mại với những đặc thù về tổ chức hoạt động kinh tế được thể hiện ở sự tách bạch tài sản tạo nên một chủ thể riêng độc lập. Điều này góp phần tạo cho các chủ thể kinh doanh sự năng động, đa dạng, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh.

Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam chưa có một định nghĩa chung về pháp nhân mà chỉ dừng lại ở việc quy định các dấu hiệu của pháp nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, đó là pháp nhân tồn tại khơng phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong pháp nhân đó. Theo quan niệm chung của các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, chủ thể của pháp luật là pháp nhân có những thuộc tính đặc biệt, được Nhà nước trao cho năng lực chủ thể.

<i>Theo từ điển Luật học, “Pháp nhân là tổ chức hội tụ đủ các điều kiện cần và điều </i>

<i>kiện đủ do pháp luật quy định,… là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự; khác với thể nhân (cá nhân) là một con người, một cá nhân riêng biệt; pháp nhân là một tổ chức nhưng không phải là một tổ chức bất kỳ mà chỉ những tổ chức có đủ điều kiện do pháp luật quy định”.<small>1</small> Theo đó, pháp nhân là một tổ chức, nhưng không phải tổ chức nào cũng </i>

là pháp nhân. Chỉ những tổ chức có đủ điều kiện luật định, thì mới có thể trở thành pháp nhân, có tư cách chủ thể độc lập để tham gia vào các quan hệ pháp luật, tức là có địa vị pháp lý gần giống như cá nhân con người và bình đẳng với con người.<small>2</small>

<i>PGS. TS Ngô Huy Cương cũng đã lập luận về pháp nhân, cụ thể như sau: “Các tổ </i>

<i>chức của con người xét từ phương diện nào đó là các phương tiện giúp con người thỏa mãn các nhu cầu sống. Để duy trì và phát triển các tổ chức đó trong mối quan hệ tương </i>

<small>1</small><i><small> Viện Khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB. Từ điển bách khoa và NXB. Tư pháp liên </small></i>

<small>kết xuất bản, tr. 606. </small>

<small>2</small><i><small> Trường Đại học Luật TP. HCM (2020), Giáo trình Những quy định chung về Luật Dân sự, Tái bản lần 1, có sửa </small></i>

<small>đổi, bổ sung, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr. 147. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>thuộc, con người thông qua pháp luật ban tặng cho một số loại tổ chức nhất định một đời sống pháp lý thích ứng, có nghĩa là biến chứng thành chủ thể của một số quyền thích ứng, và, trong mối quan hệ tương thuộc, gánh vác những nghĩa vụ nhất định. Cách thức này đã được mở rộng tới lợi ích (khơng chỉ là các tổ chức), có nghĩa là một hoặc một tập hợp lợi ích nào đó cũng được xem là chủ thể của quyền. Chủ thể của quyền có nghĩa là chủ thể của pháp luật bởi pháp luật bao gồm các qui tắc xử sự bắt buộc chỉ ra quyền và nghĩa vụ thích ứng của các bên tham gia các quan hệ (nói một cách đơn giản). Phương thức ban tặng này đã mô phỏng đời sống pháp lý của thể nhân gán cho chủ thể khác (tổ chức hoặc lợi ích) để xem nó cũng là người (dưới giác độ pháp lý), nhưng đồng thời gán cho nó một tính từ để phân biệt với thể nhân (con người tự nhiên có thể chất – chủ nhân đích thực của thế giới) và gọi nó là pháp nhân (con người pháp định)”.<small>3</small> Theo </i>

lập luận này, PGS. TS Ngô Huy Cương cho rằng pháp nhân khơng có nghĩa hồn toàn là một tổ chức (một tập hợp người) hoặc khơng có nghĩa là bắt buộc phải có thành viên. Pháp nhân theo đó có thể là một tổ chức hoặc có thể là một tập hợp lợi ích nào đó đã

<i>được nhân cách hóa. </i>

Dưới góc nhìn của pháp luật, khái niệm pháp nhân đã được quy định tại BLDS Việt Nam năm 2015, Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, BLDS Liên bang Nga.

Theo quy định của pháp luật dân sự, pháp nhân có thể được hiểu thông qua các dấu hiệu mà quy phạm pháp luật thể hiện. Những dấu hiệu của một tổ chức có tư cách pháp nhân được xác định bởi các nhân tố như: sự tồn tại độc lập của pháp nhân mà không phụ thuộc vào các thành viên trong pháp nhân đó; sở hữu tài sản riêng, độc lập với tài sản của các thành viên; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp lý nhân danh mình; có quyền tham gia hoạt động tố tụng bằng địa vị pháp lý của mình; chịu trách nhiệm độc lập về tài sản.<small>4</small> Theo đó BLDS Việt Nam

<i>2015 quy định:“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau </i>

<i>iv) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”. </i>

<small>3</small><i><small> Ngơ Huy Cương (2015), Bình luận các quy định về pháp nhân trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Tạp chí </small></i>

<small>Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự), NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr. 38-39. </small>

<small>4</small><i><small> Hoàng Thị Tuệ Phương (2006), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học </small></i>

<small>Luật TP. HCM, tr. 14. </small>

<small>5 Điều 74 BLDS 2015. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

BLDS 2015 cũng chia pháp nhân thành hai loại chính: Pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Theo đó, pháp nhân thương mại là pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Việc thành lập, hoạt động, tổ chức lại và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của các luật có liên quan.<small>6</small> Như vậy, có thể hiểu pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh

<i>nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Cụ thể, “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có </i>

tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của

<i>pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.”<small>7</small> Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một </i>

số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.<small>8</small> Các tổ chức kinh tế khác trong trường hợp này được hiểu là các tổ chức khơng phải là doanh nghiệp, cũng có hoạt động kinh tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Đồng thời, để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận thì doanh nghiệp có các quyền như: Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật khơng cấm; Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh...

Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân hoạt động khơng vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và khơng phân chia lợi nhuận cho các thành viên. Bởi loại hình pháp nhân này khơng có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên. Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác.<small>9</small> Việc thành lập, hoạt động, tổ chức lại và chấm dứt pháp nhân phi thương mại được thực hiện theo quy định của các luật có liên quan.

Như vậy, nhìn chung, điểm khác biệt giữa pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại đó là:

<i>Thứ nhất, về mục đích thành lập. Đối với pháp nhân thương mại thì khi thành lập </i>

mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên, còn đối với pháp nhân phi thương mại thì khơng có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận bởi vì mục đích khơng phải kinh doanh mà mục đích chính là mang lợi ích cho một nhóm đối tượng nhất định. Trong trường hợp, pháp nhân phi thương mại tạo ra được lợi nhuận thì

<small>6 Điều 75 BLDS 2015. </small>

<small>7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (sửa đổi, bổ sung 2022). </small>

<small>8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (sửa đổi, bổ sung 2022). </small>

<small>9 Điều 76 BLDS 2015. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

cũng không được phân chia cho các thành viên mà dùng lợi nhuận đó để hỗ trợ các nhóm đối tượng như trại trẻ mồ cơi, một số tổ chức hỗ trợ những người có hồn cảnh khó khăn…

<i>Thứ hai, về thành viên của pháp nhân. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh </i>

nghiệp và các tổ chức kinh tế khác; cịn đối với pháp nhân phi thương mại thì bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác.

<i>Thứ ba, về Luật áp dụng. Theo đó, đối với pháp nhân thương mại, thì Luật áp dụng </i>

sẽ là Bộ luật Dân sự, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan; Cịn đối với pháp nhân phi thương mại thì Luật áp dụng sẽ là Bộ luật Dân sự, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Bên cạnh đó, Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN đã định nghĩa về pháp

<i>nhân như sau: “Pháp nhân có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành lập hoặc </i>

<i>tổ chức một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi nhuận hoặc khơng vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao gồm mọi cơng ty, tập đồn, liên danh, liên doanh, công ty một chủ hoặc hiệp hội”</i><small>10</small> hay theo BLDS Liên bang Nga, quy định:

<i>“Các pháp nhân có thể là các tổ chức, mà tìm kiếm lợi nhuận phái sinh với tư cách là </i>

<i>mục đích chính của tổ chức đó (tổ chức thương mại), hoặc các tổ chức mà khơng tìm kiếm lợi nhuận phái sinh với tư cách là mục đích chính và khơng phân phối lợi nhuận phái sinh giữa các thành viên của tổ chức (tổ chức phi lợi nhuận)”.</i><small>11</small>

Như vậy, có thể khái quát một cách ngắn gọn, cụ thể trên cơ sở tổng hợp các quan

<i>điểm của các học giả và căn cứ trên nền tảng pháp luật về pháp nhân như sau: Pháp </i>

<i>nhân là một tổ chức hợp pháp được pháp luật thừa nhận tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp luật, có địa vị pháp lý độc lập, bình đẳng với cá nhân cũng như các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, được hưởng quyền và có những nghĩa vụ hình sự phù hợp theo pháp luật quy định. </i>

<i><b>1.1.2. Đặc điểm của pháp nhân </b></i>

Dựa trên khái niệm về pháp nhân và những quy định trong BLDS năm 2015 về những điều kiện để một tổ chức được cơng nhận là pháp nhân thì pháp nhân có những đặc điểm như sau:

<small>10 Điều 1, Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. </small>

<small>11 Khoản 1 Điều 50 BLDS Liên Bang Nga. </small>

<small>Lưu Thị Bích Hạnh, “Bình luận về chế định pháp nhân trong Bộ luật dân sự 2015”. Xem thêm tại địa chỉ: truy cập ngày 14/09/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i>Thứ nhất, pháp nhân là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật (quy </i>

định của BLDS và các luật khác có liên quan).

Pháp nhân được thành lập theo mong muốn của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai, bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác theo quy định của pháp luật.<small>12</small>

Tính hợp pháp của pháp nhân được thể hiện thơng qua mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và thành lập theo những trình tự và thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới các dạng: cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng kí hoặc cơng nhận. Nhà nước bằng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện thành lập các tổ chức chi phối đến các tổ chức trong xã hội. Việc công nhận sự tồn tại một tổ chức phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức đó có phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị hay không.<small>13</small>

Như vậy, chỉ những tổ chức được nhà nước cơng nhận mới có thể trở thành chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách hợp pháp.

<i>Thứ hai, pháp nhân phải có cơ quan điều hành, cơ cấu tổ chức chặt chẽ. </i>

Để có thể tồn tại và hoạt động bình thường, pháp nhân phải được cơ cấu theo một hình thái tổ chức hồn chỉnh, ổn định, thống nhất.<small>14</small> Theo đó, pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.<small>15</small> Đây là yêu cầu mang tính thiết yếu cơ bản về mặt tổ chức của pháp nhân. Để cho hoạt động được thực hiện trôi chảy, nhất qn thì tổ chức đó bắt buộc phải có sự liên kết chặt chẽ và thống nhất.

Bên cạnh đó, pháp nhân cần phải có điều lệ hoạt động rõ ràng. Điều lệ của pháp nhân do các sáng lập viên xây dựng, nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì điều lệ do cơ quan nhà nước đã thành lập chuẩn y. Cơ quan điều hành của pháp nhân bao gồm các bộ phận, phòng ban được phân chia cụ thể, phân công chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ ràng trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập.

Cơ cấu tổ chức là cấu trúc nội tại bên trong bao gồm các cơ quan lãnh đạo, bộ phận chuyên môn của tổ chức, đảm bảo cho tổ chức có khả năng thực tế để hoạt động và điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

hành đảm bảo tính nhất quán trong hoạt động pháp nhân. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống nhất có khả năng thực hiện có hiệu quả một hoặc nhiều nhiệm vụ nhất định của pháp nhân đặt ra. Việc lựa chọn hình thức tổ chức căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ và cách thức góp vốn của pháp nhân đó, ngồi ra cịn có thể do tính chất, truyền thống về loại hình, tên gọi của pháp nhân.<small>16</small>

<i>Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng </i>

tài sản đó.

Để một tổ chức tham vào các quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì tổ chức đó phải có tài sản riêng của mình. Tài sản riêng của pháp nhân có thể là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân hoặc có thể được Nhà nước giao cho tổ chức được quyền quản lí của pháp nhân đó. Tuy nhiên, khơng phải pháp nhân nào cũng có thể có quyền sở hữu riêng đối với tài sản riêng của nó, nhất là các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, thậm chí tổ chức xã hội hay xã hội – nghề nghiệp trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.<small>17</small> Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân – thành viên của pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác, được thể hiện dưới dạng vốn, các tư liệu sản xuất và các loại tài sản khác phù hợp với từng loại pháp nhân.<small>18</small> Tài sản của pháp nhân là độc lập, được pháp luật cơng nhận và bảo vệ nên pháp nhân có tồn quyền sử dụng những tài sản này mà không chịu sự chi phối, kiểm soát của bất kỳ ai. Do đó, tài sản của pháp nhân độc lập và được bảo vệ trước những khoản nợ của các chủ sở hữu. Đồng thời, tài sản các chủ sở hữu cũng độc lập và được bảo vệ trước các khoản nợ của pháp nhân. Đây là đặc điểm rõ ràng nhất để phân biệt giữa pháp nhân với thể nhân (cá nhân).

Pháp nhân tự chịu trách nhiệm tài sản của mình và chỉ trong giới hạn tài sản đó, pháp nhân sẽ tự đem tất cả tài sản để trả các khoản nợ. Năng lực trách nhiệm của các thành viên trong pháp nhân là trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là các thành viên đó chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản đã góp cho pháp nhân trừ trường hợp ngoại lệ là các công ty hợp danh thì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vơ hạn, có thể phải chịu trách nhiệm liên đới về các khoản nợ. Độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của pháp nhân là tiền đề vật chất để một tổ chức tham gia vào quan hệ dân sự như một chủ thể độc lập.

<i>Thứ tư, quyền nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập, có </i>

thể là ngun đơn hoặc bị đơn trước Tịa án.

Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân có quyền nhân danh mình vào các quan hệ pháp luật, được hưởng quyền và gánh chịu những nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm

<small>16 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), gtđd (13) , tr. 109. </small>

<small>17 Trường Đại học Luật TP. HCM (2020), gtđd (2), tr. 168. </small>

<small>18 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), gtđd (13), tr. 110. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

hình sự phù hợp theo pháp luật quy định. Việc phân định các điều kiện của pháp nhân phụ thuộc vào cách sắp xếp ở các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên ở bất cứ hệ thống pháp luật nào cũng phải thỏa mãn các điều kiện sau:

<i>Một, tiền đề về tổ chức để biến một tập thể người thành một chủ thể độc lập và </i>

hợp pháp để tham gia vào các quan hệ pháp luật;

<i>Hai, tiền đề vật chất để tham gia vào các quan hệ tài sản và tự chịu trách nhiệm </i>

bằng tài sản đó;

<i>Ba, tổng hợp các tiền đề tổ chức và vật chất để một tổ chức có tư cách chủ thể tham </i>

gia vào các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ của pháp nhân quy định.

Các điều kiện của pháp nhân nêu trên là một chủ thể thống nhất không tách rời nhau, hợp thành tư cách chủ thể của pháp nhân.<small>19</small>

Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật để nhân danh (thay mặt, đại diện) pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật. Người đại diện này do các sáng lập viên bầu chọn (chỉ định trong điều lệ), nếu pháp nhân được thành lập bởi cơ quan nhà nước thì do cơ quan nhà nước chỉ định, bổ nhiệm. Trong một số trường hợp như tố tụng tại Tịa án thì người đại diện có thể do Tịa án chỉ định.

Nếu người đại diện theo pháp luật bị bắt giam, bị bỏ tù, bị chết hoặc khơng cịn đủ khả năng đại diện nữa thì pháp nhân đó có quyền bầu ra người đại diện theo pháp luật mới để tiếp tục hoạt động. Điều này thể hiện tính độc lập của pháp nhân rất rõ, pháp nhân không bị phụ thuộc vào bất cứ một cá nhân nào.

Như vậy, có thể thấy pháp nhân được coi là một chủ thể độc lập đồng nghĩa với việc trong hoạt động của mình nếu pháp nhân gây thiệt hại hoặc đều phải chịu các chế tài theo quy định của pháp luật.

<b>1.2. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội 1.2.1. Khái niệm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội </b>

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp nhân phải gánh chịu trước Nhà nước, do pháp nhân đó thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà những hành vi này được quy định là tội phạm trong pháp luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân chỉ địi hỏi có tội phạm xảy ra mà khơng địi hỏi chủ thể đã thực hiện tội phạm đó có phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp cá biệt có thể khơng có một trong hai trách nhiệm hình sự của cả pháp nhân và cá nhân/ thể nhân vì một trong hai chủ thể này được miễn trách nhiệm hình sự.<small>20</small>

<small>19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), gtđd (13), tr. 112. </small>

<small>20</small><i><small> Nguyễn Ngọc Hòa (2020), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại – Nhận thức cần thống nhất?, NXB </small></i>

<small>Tư pháp, tr. 21. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang đề cập được định nghĩa như sau: pháp nhân thương mại phạm tội là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được BLHS ghi nhận, bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.<small>21</small>

Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội là buộc pháp nhân phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà pháp nhân đó đã thực hiện. Hay nói cách khác là áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự qua các giai đoạn từ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến điều tra, truy tố và xét xử để buộc pháp nhân đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi ấy, tức là phải chịu hình phạt.

<b>1.2.2. Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân phạm tội </b>

Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự là một trong những nội dung cơ bản của chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nó khơng những chỉ thể hiện bản chất của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân mà còn là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng, khơng phải với mọi pháp nhân đều là chủ thể phạm tội mà chỉ có pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Pháp nhân không phải là con người mà là một tổ chức hoạt động vì mục đích lợi nhuận, cần có ngun tắc xử lý riêng mang tính đặc thù cũng như áp dụng chế tài tương xứng, có tính khả thi.

Theo quy định tại Điều 75, Điều 76 BLHS 2015 thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:<small>22</small>

<i>(i) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; (ii) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; </i>

<i>(iii) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; </i>

<i>(iv) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS; </i>

<i>(v) Pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong trong các tội được liệt kê ở Điều 76 của BLHS. </i>

Như vậy, có thể thấy có 05 điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

<small>21</small><i><small> Bạch Ngọc Du (Chủ tịch HĐQT CIENCO5), “Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại </small></i>

<i><small>phạm tội” – Nghiên cứu – Xây dựng pháp luật, Tạp chí điện tử của TANN Tối cao, </small></i>

<small> truy cập ngày 11/10/2022. </small>

<small>22 Khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>Điều kiện thứ nhất, đòi hỏi hành vi phạm tội được thực hiện phải nhân danh pháp </i>

nhân thương mại.

Có thể hiểu hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại là hành vi của một hoặc một số cá nhân thuộc tổ chức kinh tế mà theo quy định của pháp luật thì tổ chức kinh tế đó là pháp nhân thương mại. Nếu một tổ chức kinh tế không được pháp luật công nhận là pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội của chủ thể đó khơng phải là hành vi của pháp nhân thương mại.

Pháp nhân nói chung và pháp nhân thương mại nói riêng khi tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác đều này địi hỏi pháp nhân đó phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Hai dạng năng lực này phát sinh đồng thời kể từ thời điểm pháp nhân được cấp phép hoạt động với chức năng, nhiệm vụ được đăng ký. Vì là thực thể xã hội nên hoạt động của pháp nhân thương mại bắt buộc phải thông qua hoạt động của những cá nhân. Chỉ khi nào những hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại thì mới làm phát sinh điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân đó. Người có thẩm quyền thực hiện hoạt động nhân danh pháp nhân thương mại có thể là người đại diện theo pháp luật, người quản lý, điều hành và những người được ủy quyền, phân công nhiệm vụ tại pháp nhân thương mại đó.

Ngược lại, nếu cá nhân được pháp nhân thương mại ký hợp đồng hay uỷ quyền để thực hiện nhiệm vụ mà khi thực hiện nhiệm vụ được giao lại phạm tội thì hành vi đó vẫn được xem là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, hành vi không nhằm nhân danh pháp nhân mà chỉ mang danh nghĩa cá nhân thì cho dù của bất kì ai cũng không thỏa mãn điều kiện này.<small>23</small>

<i>Điều kiện thứ hai, hành vi phạm tội phải được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân </i>

thương mại.

Theo đó, khi cá nhân thuộc pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại giao hoặc uỷ quyền đều phải là vì lợi ích của pháp nhân thương mại, khơng phải vì lợi ích cá nhân. Mặc dù, pháp nhân thương mại hoạt động thông qua hành vi của cá nhân nhưng những hành vi đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân. Đồng thời, hành vi của những cá nhân đó được coi là hành vi và ý chí của pháp nhân thương mại, thơng qua sự hoạt động của pháp nhân thương mại đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội này trong một chừng mực nhất định. Tức là khi này, mục đích của hành vi phạm tội là phải đem lại lợi ích cho chung cho pháp nhân, lợi ích này có thể biểu hiện là lợi ích vật chất hoặc tinh thần hoặc cả vật chất lẫn tinh thần.

<small>23 Nguyễn Ngọc Hòa (2020), sđd (20), tr. 163. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Ngược lại, nếu trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội cá nhân đó lại lợi dụng pháp nhân thương mại để thực hiện thêm hành vi vì lợi ích cá nhân thì chỉ hành vi nào vì lợi ích của pháp nhân thương mại mới là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại, cịn hành vi nào vượt ra ngồi lợi ích của pháp nhân thương mại, được thực hiện vì lợi ích của chính cá nhân người thực hiện hành vi thì cá nhân đó phải tự gánh chịu.

<i>Điều kiện thứ ba, đòi hỏi hành vi phạm tội được thực hiện phải có sự chỉ đạo, điều </i>

hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại.

Như đã khẳng định, pháp nhân thương mại phạm tội thông qua các hành vi của các cá nhân trong pháp nhân đó. Thơng qua chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đưa ra những phương hướng, mục tiêu hoạt động, phân cơng vai trị, vị trí cho các cá nhân trong pháp nhân để tổ chức thực hiện, hoặc chấp thuận các nhiệm vụ cụ thể của các cá nhân trong pháp nhân đó. Theo đó, hành vi phạm tội của một hoặc một cá nhân phải có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Sự chỉ đạo điều hành là sự chỉ đạo của những người đứng đầu hoặc của một tập thể trong pháp nhân thương mại, giữ các chức vụ như: Giám đốc, Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc,… của cơng ty. Ngồi sự chỉ đạo, điều hành của những người nhân danh pháp nhân thương mại cịn có trường hợp tuy khơng có sự chỉ đạo, điều hành nhưng lại có sự chấp thuận của những người đứng đầu pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội cũng là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại. Bởi vì họ đã nhận thức được việc mình chấp thuận cho người khác thực hiện là hành vi phạm tội nhưng pháp nhân thương mại vẫn cố ý chấp thuận cho người đó thực hiện hành vi.

Cho nên, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì pháp nhân thương mại phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật định, nhưng trong nhiều trường hợp hành vi phạm tội đó lại khơng có sự chỉ đạo, điều hành, phân cơng hay đồng ý của pháp nhân thương mại thì cũng khơng đặt ra trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.

<i>Điều kiện thứ tư, dựa trên cơ sở quy định của BLHS về thời hiệu truy cứu trách </i>

nhiệm hình sự, địi hỏi phải chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS.

Theo đó, tuỳ thuộc vào tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có sự thay đổi phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà pháp nhân thực hiện. Cụ thể là 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này được áp dụng chung đối với trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội.

<i>Điều kiện thứ năm, về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương </i>

mại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Điều 76 BLHS 2015 quy định 33 tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu

<i>trách nhiệm hình sự, cụ thể: “Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái </i>

<i>phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn ni, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thơng tin trong hoạt động chứng khốn); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản); Điều 234 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã); Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phịng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố mơi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an tồn cơng trình thủy lợi, đê điều và phịng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản); Điều 243 (tội hủy hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 324 (tội rửa tiền)”. </i>

Cùng với đó, Luật Hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới và cả Việt Nam đã quy định việc pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự thì cũng khơng loại trừ trách nhiệm hình sự của các cá nhân. Pháp nhân thương mại phải gánh chịu các chế tài khi thỏa mãn các điều kiện tại khoản 1 Điều 75 BLHS. Còn đối với cá nhân sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sụ khi hành vi của cá nhân đó thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS.

<i>Quy định này không mâu thuẫn với nguyên tắc “không ai bị kết án hai lần vì một </i>

<i>tội phạm”.</i><small>24</small> Vì khi ấy, pháp nhân thương mại khi đã trở thành một thực thể pháp lý, có những quyền, nghĩa vụ độc lập với những cá nhân tham gia với tư cách là thành viên.

<small>24 Khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Do vậy, nếu pháp nhân thương mại và cá nhân khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự và bị kết án thì được hiểu đó là hành vi phạm tội do hai chủ thể khác nhau thực hiện. Trường hợp người lãnh đạo, người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của pháp nhân thương mại lại phạm tội do vượt quá thẩm quyền được trao, hoặc lợi dụng danh nghĩa pháp lý hoặc vật chất của pháp nhân đó để thực hiện tội phạm vì quyền hoặc lợi ích của mình, thì về ngun tắc chỉ có cá nhân liên quan phải chịu trách nhiệm về tội phạm đó, cịn pháp nhân sẽ khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của họ. Quy định này hướng đến phòng ngừa những trường hợp cá nhân cố tình thực hiện hành vi phạm tội nhưng được che đậy dưới danh nghĩa pháp nhân thương mại.<small>25</small>

Như vậy, theo quy định thì pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đầy đủ 05 điều kiện trên. Trong đó, 03 điều kiện đầu tiên và điều kiện cuối cùng có tính chất đặc trưng cũng như giữ vai trò quyết định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

<b>1.2.3. Ý nghĩa của các quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội </b>

Việc bổ sung trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân là vơ cùng cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc thắt chặt hành lang pháp lý trong thời kỳ kinh tế Việt Nam hội nhập và phát triển như hiện nay. Bởi lẽ, như đã phân tích thì hành vi phạm tội cũng được thực hiện bởi pháp nhân.

Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có giá trị trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; nâng cao khả năng tiếp cận công lý của người dân; bởi vì số tiền tạm ứng án phí để khởi kiện pháp nhân lớn (thậm chí rất lớn) và người bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp sẽ gặp khó khăn trong việc chứng minh tội phạm của pháp nhân. Tuy nhiên, khi quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, thì các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự sẽ phải làm rõ, chứng minh điều này. Việc xử lý hình sự đối với pháp nhân sẽ giúp ích nhiều cho việc giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự, đảm bảo phán quyết của Tịa án có đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội về cải cách tư pháp.<small>26</small>

<small>25</small><i><small> Phạm Thị Hồng Đào (2017), “Pháp nhân thương mại trong pháp luật Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu trao đổi, </small></i>

<small>Bộ Tư pháp. Xem thêm tại địa chỉ: truy cập ngày 11/10/2022. </small>

<small>26</small><i><small> Nguyễn Thị Minh, “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự 2015”, Tạp chí </small></i>

<small> truy cập ngày 14/10/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<b>1.3. Khái quát quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân </b>

Luật Tố tụng Hình sự với tư cách là lĩnh vực hình thức, đảm bảo cho quá trình quy kết các tội danh được Luật Hình sự quy định được thực hiện một cách đúng đắng, có thể nói quy định của Luật Tố tụng Hình sự ln gắn liền với quy định của Luật Hình sự. Khơng ngoại lệ, quá trình ra đời của chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân gắn liền với sự ra đời của việc nhìn nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm, làm phát sinh nhu cầu cần phải quy định trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng nhằm mục đích quy kết tội danh đối với pháp nhân. Nên lịch sử ra đời của chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân luôn song hành với lịch sử ra đời của chế định truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân.

Ở phạm vi thế giới, lịch sử ra đời của việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở hai hệ thống pháp luật lớn là Common law và Civil, dẫn đến lịch sử ra đời thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở hai hệ thống pháp lý nào cũng có sự khác biệt. Đối với hệ thống Common law, vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân gắn liền với sự hình thành, phát triển của các cơng ty thương mại. Vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỉ XVII các công ty thương mại ngày một phát triển về quy mô, lẫn số lượng, sự phát triển này dẫn đến nhu cầu công ty thương mại cần được công nhận như một thực thể pháp lý, khi này xuất hiện một câu hỏi là khi nhìn nhận các cơng ty thương mại như một thực thể pháp lý thì có hay khơng sự quy kết cách trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm dân sự, hình sự, hành chính lên chủ thể mới này. Câu hỏi này đưa đến nhiều quan điểm trái chiều khách nhau, có quan điểm nhìn nhận rằng các cơng ty do đã là thực thể pháp lý độc lập nên nó cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý với các hành vi mà mình gây ra, ngược lại cũng tồn tại quan điểm cho rằng các cơng ty khơng thể tự mình hành động mà các hành vi được hành động thông qua cá nhân nên không phải chịu sự truy cứu trách nhiệm pháp lý. Đến đầu thế kỷ XVIII, trách nhiệm hình sự pháp nhân có những nét biến triển, điển hình nhất là ở Hoa Kỳ, khi mà các công ty được th để thực hiện các cơng trình dân sinh công cộng như cống rạch, đèn đường, … Khi các cơng ty khơng thực hiện bảo trì theo đúng trách nhiệm của mình, các cơng ty đã bị tịa án buộc phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không bảo trì đúng trách nhiệm của mình, đây là trường hợp đầu tiên mà công ty thương mại tư nhân phải chịu trách nhiệm hình sự. Từ thời điểm này trở đi cùng với sự liên tục phát triển của việc truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, dần dần đặc ra nhu cầu cần phải có cơng cụ pháp lý ghi nhận trình tự thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

So với hệ thống Common Law, trong hệ thống Civil Law việc truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ra đời khá muộn, điều này ảnh hướng đến sự ra đời của thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong hệ thống pháp luật Civil Law. Trong hệ thống Civil Law có thể nói Nhật Bản là nước đi tiên phong đối với vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, trước năm 1932 ở Nhật Bản, Bộ luật Hình sự loại trừ hồn tồn trách nhiệm hình sự đối với chủ thể là pháp nhân, tuy nhiên với việc ra đời của Đạo

<i>luật chống thốt vốn ra nước ngồi, với việc đạo luật này ghi nhận nguyên tắc “một cá </i>

<i>nhân phạm tội thì pháp nhân cũng phải chịu hình phạt<small>27</small></i>” đây là bước chuyển cho việc ra đời của chế định truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong hệ thống pháp luật Civil Law, sau Nhật Bản vào năm Bộ luật Hình sự năm 1976 của Hà Lan đã ghi nhận ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân như là một nguyên tắc chung của pháp luật hình sự, tiếp đến là Cộng Hòa Pháp bắt đầu ghi nhận pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 1994, kể từ đó về sau có ngày càng nhiều quốc gia phi Common Law bắt đầu nhìn nhận lại và truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân chẳng hạn Đan Mạch năm 1996, Trung Quốc 1997, Bỉ năm 1999, Italia năm 2001, Việt Nam năm 2015, … Với sự phát triển của việc truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, đã đặc ra vấn đề cần phải có thủ tục đặc thù để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể tội phạm là pháp nhân, chính nhu cầu đó đã thơi thúc các quốc gia xây dựng nên thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, điển hình có thể nói về Bộ luật Tố tụng hình sự của Pháp đã giành hẳng một chương để ghi nhận thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân.

Ở phạm vi Việt Nam, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân ở Việt Nam ra đời gắn liền với sự ra đời của việc Bộ luật Hình sự năm 2015 ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, kể từ Bộ luật Hình sự năm 2015 pháp nhân thương mại đã trở thành một chủ thể của tội phạm, phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi được xem là tội phạm ghi nhận trong bộ luật hình sự. Vì phải chịu trách nhiệm hình sự, nên địi hỏi cần có một trình tự, thủ tục tố tụng hình sự để quy kết trách nhiệm hình sự pháp nhân, nhằm đảm bảo quá trình tố tụng được đúng đắng, bảo đảm được quyền, lợi ích của pháp nhân bị buộc tội. Nên Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã dành riêng một chương để ghi nhận trình tự thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, kể từ đây ở Việt Nam mới hình thành thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân.

<b>1.3.2. Khái niệm thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân </b>

Điểm mới quan trọng và khác biệt nhất được quy định trong BLTTHS năm 2015 so với các bộ BLTTHS về trước là các nhà lập pháp đã xây dựng một chương riêng là

<small>27 Đỗ Nhật Ánh (2022), “Trách nhiêm hình sự của pháp nhân theo hệ thống pháp luật Civil Law”, link: (Truy cập ngày ... tháng … năm 2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i>Chương XXIX “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” (các Điều từ </i>

Điều 431 đến Điều 446) với nhiều quy định về thủ tục, việc tham gia tố tụng, các biện pháp cưỡng chế, những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội, thẩm quyền và thủ tục xét xử, thi hành án đối với pháp nhân cũng như trình tự điều tra, truy tố, xét xử… đối với đối tượng là pháp nhân.

Như vậy, có thể thấy dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân là trình tự và cách thức thực hiện các hành vi và hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật TTHS khi tiến hành giải quyết vụ án liên quan đến bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại và áp dụng những quy định pháp luật khác có liên quan địi hỏi các chủ thể quan hệ pháp luật TTHS phải tuân thủ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo đảm xử lý đúng đắn vụ án, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Là một phần của thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cũng phải trải qua các giai đoạn theo một trình tự nhất định từ khởi tố hình sự đến điều tra vụ án hình sự, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và các giai đoạn xét xử theo thủ tục đặc biệt.

<b>1.3.3. Việc tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân </b>

<i>Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người do pháp luật hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định để đại diện cho pháp nhân thực hiện các quyền </i>

và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của pháp nhân, đại diện cho pháp nhân với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Điều 137 BLDS năm 2015 quy định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân gồm có:

<i>(i) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; </i>

<i>(ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; (iii) Người do Tòa án chỉ định trong q trình tố tụng tại Tịa án. </i>

<i>Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì: “Người đại diện theo pháp luật của </i>

<i>doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.<small>28</small></i> Cùng với đó thì Doanh nghiệp phải bảo đảm ln có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Và khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật

<small>28 Khoản 1 Điều 12 Luật Doanh nghiệp 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.<small>29</small>

Điều 431 BLTTHS quy định phạm vi áp dụng của BLTTHS đối với pháp nhân:

<i>Theo đó, “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị </i>

<i>khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. </i>

Với tư cách là chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự, pháp nhân thơng qua người đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định tại Điều 434 BLTTHS:

Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại có mối quan hệ rất chặt chẽ đối với pháp nhân, họ là người nhân danh pháp nhân tham gia các hoạt động. Do đó, khi BLTTHS năm 2015 quy định pháp nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thì mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm

<i>hình sự được thơng qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải </i>

cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm nhân danh pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân, thực hiện tội phạm theo sự lãnh đạo, điều hành hay có sự chấp thuận của pháp nhân và tội phạm được thực hiện chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì khơng chỉ có pháp nhân thương mại đó mà cả người đại diện theo pháp luật của pháp nhân này cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội.

Có thể thấy rằng, pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng như cá nhân bị buộc tội. Khác với cá nhân phạm tội là các quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện.

Như vậy, pháp nhân thương mại có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. BLTTHS năm 2015 đã quy định trường hợp pháp nhân có nhiều người cùng là đại diện

<i>theo pháp luật thì “cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện </i>

<i>cho pháp nhân tham gia tố tụng”<small>30</small></i>.

<i>Để tránh bỏ lọt tội phạm, khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định: “Việc pháp </i>

<i>nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự khơng loại trừ trách nhiệm hình sự của cá </i>

<small>29 Khoản 2 Điều 12 Luật Doanh nghiệp 2020. </small>

<small>30 Khoản 1 Điều 434 BLTTHS năm 2015. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i>nhân”. Theo quy định này thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương </i>

mại phạm tội không loại trừ trách nhiệm của cá nhân – người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại. Do đó, trong trường hợp chứng minh được việc phạm tội của pháp nhân có sự tham gia của các cá nhân cụ thể thì các cá nhân này cũng phải chịu

<i>trách nhiệm hình sự về tội phạm mà cá nhân đó đã thực hiện. </i>

Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về cùng một tội hoặc tội phạm khác hoặc khơng thể tham gia tố tụng được vì bị chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc lí do khác thì pháp nhân (chủ sở hữu pháp nhân, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị) thì pháp nhân đó phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thơng báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.<small>31</small>

Theo quy định của BLDS năm 2015 cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2020, một pháp nhân có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân trong phạm vi đại diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều lệ của pháp nhân; nội dung ủy quyền; quy định khác của pháp luật. Trong trường hợp pháp nhân thương mại có nhiều người đại diện theo pháp luật thì pháp nhân thương mại đó cần phải lựa chọn cử ra một người đại diện theo pháp luật của pháp nhân trực tiếp bị buộc tội tham gia tố tụng.

Để cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được kịp thời và nhanh chóng, bảo đảm được quyền và nghĩa vụ của pháp nhân là bị can, bị cáo, khoản 1 Điều 434 BLTTHS cịn có quy định tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân khơng có người đại diện vì nhiều lý do khác nhau hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật mà không lựa chọn được người đại diện tham gia tố tụng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng.

Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ của mình; nếu có sự thay đổi những thơng tin này thì phải thơng báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho pháp nhân thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS 2015.<small>32</small>

<small>31 Khoản 1 Điều 434 BLTTHS năm 2015. </small>

<small>32</small><i><small> Nguyễn Văn Quân (2017), “Người đại diện của pháp nhân trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát online, số </small></i>

<small>24/2017. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Để tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của thì người đại diện theo pháp luật của pháp nhân trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, BLTTHS đã xây dựng những quy định về những quyền và nghĩa vụ cụ thể vào một điều riêng biệt – Điều 435 BLTTDS.

Bên cạnh đó, việc triệu tập người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và việc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được thực hiện theo quy định tại Điều 440, 442 BLTTHS.

<b>1.3.4. Cơ sở của việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân </b>

Về mặt lý luận, khi xem xét tương quan về vai trò của BLHS và BLTTHS, có thể dễ dàng nhận thấy rằng BLHS có vai trò là luật nội dung, quy định về tội phạm và hình phạt, vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự khi phát sinh tội phạm. Cịn BLTTHS là luật thủ tục, dựa trên các quy phạm, quy định của pháp luật nội dung mà đưa ra có thủ tục, trình tự hiện thực hóa, triển khai các quy định của pháp luật nội dung vào trong thực tiễn cuộc sống, đời sống xã hội. Giữa pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục ln có tính đồng bộ nhất định và ln có mối quan hệ hai chiều. Nhờ pháp luật thủ tục mà pháp luật nội dung mới được triển khai trong cuộc sống, và đối với pháp luật thủ tục để thực hiện vai trò của mình thì phải có tính đồng bộ nhất định với pháp luật nội dung. Chế định “Pháp nhân thương mại phạm tội” là một chế định mới được đưa vào trong nội dung của BLHS 2015, chế định này cho phép nhà nước có thể quy kết trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự phi truyền thống là “Pháp nhân”. Việc cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đặt ra vấn đề trình tự thủ tục tố tụng để quy kết trách nhiệm pháp hình sự đối với pháp nhân có khác gì với trình tự, thủ tục quy kết trách nhiệm hình sự pháp nhân hay khơng? Để thực hiện vai trị của mình và nhằm giải quyết những vấn đặt ra khi cho phép quy kết trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân nêu trên, BLTTHS 2015 đã quy định chế định “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” thành một chương riêng, cụ thể là chương XXIX. Việc quy định chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân giúp cho Bộ luật Tố tụng hình sự có sự đồng bộ với quy định Truy cứu trách nhiệm hình pháp nhân của BLHS 2015, ở chỗ BLHS đưa ra các quy định xác định tội danh, hình phạt để quy kết trách nhiệm pháp lý cho pháp nhân, cịn Bộ luật tố tụng hình sự sẽ đưa ra các quy định về trình tự thủ tục để quy kết chẳng hạn như vấn đề chứng minh, lấy lời khai,…

Bên cạnh đó, việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự cịn giải quyết các vấn đề như phải thực hiện truy cứu như thế nào, ra sao khi mà BLTTHS năm 2015 đưa ra hàng loạt các quy định mang tính hướng dẫn để tịa án thực hiện tố tụng quy kết trách nhiệm pháp lý hình sự cho pháp nhân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Như đã phân tích thì quan niệm pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác theo Điều 75 BLDS 2015. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của BLDS, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cùng với đó, Điều 8 BLHS năm 2015 quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm pháp nhân thương mại phạm tội được định nghĩa là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được BLHS ghi nhận, bảo vệ mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự.

<i>Trên cơ sở này, khoản 2 Điều 2 BLHS đã quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại </i>

<i>nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của luật </i>

hình sự Việt Nam, quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đã được ghi nhận, đồng thời đây chính là “tuyên bố” mang tính nền tảng, tiền đề để các nhà làm luật quy định những vấn đề khác trong nội dung trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân của BLHS năm 2015. Nhấn mạnh hơn, về vấn đề này, rõ ràng “hành vi, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện cũng được coi là hành vi, lỗi của pháp nhân. Như vậy, lý thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm được các nhà lập pháp Việt Nam quy định là cơ sở quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại”.<small> 33 </small>

Ngoài ra, cơ sở của việc bổ sung pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với tình hình vi phạm pháp luật của pháp nhân thương mại trong lĩnh vực kinh tế và môi trường; yêu cầu công bằng trong xử lý hình sự giữa cá nhân và pháp nhân; yêu cầu của hội nhập quốc tế, thực hiện cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.<small>34</small>

<small>33</small><i><small> Bạch Ngọc Du (2019), Tlđd. </small></i>

<small>34</small><i><small> Trần Thị Quang Vinh – Vũ Thị Thúy (2018), Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí </small></i>

<small>Minh, tr. 304. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Như vậy, có thể khẳng định cơ sở của việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đó chính là việc quy định vấn đề quy kết trách nhiệm pháp lý hình sự đối với pháp nhân thương mại được quy định trong BLHS 2015.

<b>1.3.5. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân </b>

Trong nền kinh tế thị trường khơng ít pháp nhân thương mại vì chạy theo lợi nhuận mang tính cục bộ đã có sự thơng đồng thực hiện nhiều hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế như trốn thuế, kinh doanh trái phép, đầu cơ, buôn lậu hoặc vì lợi ích cục bộ đã khơng thực hiện các biện pháp mà pháp luật đòi hỏi để bảo vệ mơi trường, gây hậu quả nghiêm trọng. Việc núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân để phạm tội ngày càng tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao. Các hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất tội phạm do pháp nhân thực hiện trong thời gian qua diễn ra ngày càng tăng. Đa số những trường hợp trên là do cơ quan lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân thực hiện vì lợi ích của pháp nhân hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức cao và có những trường hợp mang tính quốc tế, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội và cho đời sống của người dân, địi hỏi cần phải có giải pháp mạnh để phịng ngừa và đấu tranh.<small>35</small>

Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm trong thời kì mới, Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên đã quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong BLHS năm 2015, đồng thời cũng quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trong BLTTHS năm 2015. Việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân tạo ra sự thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật mà cụ thể là trong mối quan hệ giữa BLHS và BLTTHS.

Bên cạnh đó, việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có ý nghĩa bảo đảm việc tố tụng, quy kết trách nhiệm pháp lý hình sự diễn ra một cách nghiêm ngặt, tránh hết sức có thể những sai sót, thiếu sót trong quá trình quy kết trách nhiệm hình sự lên pháp nhân, qua đó đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân được đảm bảo. Bởi vì, như đã nói vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân mới chỉ được đưa vào trong BLHS 2015, cho nên khi tiến hành tố tụng nếu không có sự quy định chặt chẽ hướng dẫn từng bước trong quá trình tố tụng đối với pháp nhân sẽ có thể dẫn đến sự tùy tiện trong tố tụng do các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có kinh nghiệm đối với quá trình tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Sự tùy tiện có thể dẫn đến quyền và lợi ích thiết thân của pháp nhân bị xâm phạm. Do vậy, việc quy

<small>35 Nguyễn Xuân Thanh, Bùi Thế Phương , “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015”, trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Bình Định, truy cập ngày 07/12/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

định thủ tục sẽ đưa ra những hướng dẫn, những khung thước giúp q trình tố tụng khơng diễn ra tùy nghi tùy tiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<b>KẾTLUẬNCHƯƠNG 1 </b>

Pháp nhân trước đây chỉ nằm trong phạm trù điều chỉnh của pháp luật về kinh tế, tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. Trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay ở nước ta, khi các quy định về xử phạt hành chính, bồi thường dân sự không đủ sức răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Luật hình sự cần căn cứ vào các điều kiện, đặc điểm của pháp nhân theo pháp luật dân sự, từ đó lựa chọn phạm vi chủ thể của tội phạm, chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật là pháp nhân làm cơ sở để đánh giá, phân loại, phân tích, các quy định pháp luật để nắm bắt về bản chất của pháp nhân. Hiểu rõ khái niệm pháp nhân là tiền đề để áp dụng trách nhiệm hình sự và vận dụng các thủ tục tố tụng đối với pháp phân để truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân hiệu quả, đúng đắn. Chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đặt ra yêu cầu về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân phạm tội. Bên cạnh các cơ quan, tổ chức mang tư cách pháp nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cơ bản thì với tư cách là người bị buộc tội cần có các quy phạm pháp luật tố tụng đặc thù để điều chỉnh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<b>Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TRUY CỨU </b>

<b>TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA </b>

<i><b>Giới thiệu về Chương 2 </b></i>

Trong Chương 2, nhóm tác giả sẽ phân tích chun sâu quy định của pháp luật Cộng hồ Pháp và Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa về thủ tục truy cứu TNHS pháp nhân. Trên cơ sở đó, nhóm sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá về những quy định trên để nhóm tác giả so sánh, đánh giá pháp luật về thủ tục truy cứu TNHS pháp nhân giữa Việt Nam với Cộng hồ Pháp và Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện cho Chương 3 của đề tài.

<b>2.1. Cơ sở cho việc chọn pháp luật Cộng Hòa Pháp và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để nghiên cứu </b>

<i>Thứ nhất, xét về nét tương đồng trong kỹ thuật lập pháp. </i>

Có thể thấy rằng, Cộng hịa Pháp tuy khơng phải là quốc gia đầu tiên đưa vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trở thành một quy định trong BLHS nhưng Pháp lại là một trong những nước hiếm hoi trên thế giới quy định cụ thể chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trong BLTTHS. Cụ thể, chế định này được quy định tại Thiên XVIII, từ Điều 706-41 đến Điều 706-46 của BLTTHS năm 1954. Tương tự với Pháp, BLTTHS năm 2015 của Việt Nam cũng giành một chương riêng, Chương XXIX – Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân từ Điều 430 đến Điều 446.

<small>36</small><i><small> Tô Thị Phương Dung (2021), “Một số vấn đề pháp lý về nước Pháp (Bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật)”, </small></i>

<small> truy cập ngày 12/12/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Bên cạnh đó, Pháp là cái nôi của hệ thống pháp luật Civil Law và Việt Nam cũng là một trong những nước trên thế giới thuộc hệ thống pháp luật này.

<i>Thứ hai, xét về kinh nghiệm lập pháp. </i>

Cộng hòa Pháp là một trong những nước có truyền thống pháp điển hóa các quy định thành Bộ luật thống nhất. Bên cạnh đó, Pháp cũng là nước có trình độ lập pháp rất cao, rất nhiều luật, bộ luật ở các quốc gia trên thế giới được xây dựng dựa trên các quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp. Điển hình nhất cho việc này là BLDS năm 2015 của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở của rất nhiều quy định từ BLDS Pháp.

<i>Thứ ba, xét về khía cạnh lịch sử. </i>

Ở giai đoạn Pháp thuộc (1884 -1954), nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và là thuộc địa của Pháp. Sau khi xâm lược Nam kỳ, thực dân Pháp đã ban hành sắc lệnh áp dụng Bộ luật Napoleon của Pháp, thừa nhận chế định luật sư của Pháp tại Đông Dương được thực hiện thống nhất theo Sắc lệnh ngày 25/7/1864 của Hoàng Đế Napoleon III. Giai đoạn trước năm 1930, hoạt động luật sư của Việt Nam do người Pháp giữ độc quyền. Theo đó, trước khi vào tập sự và trở thành luật sư thực thụ, người luật sư phải tuyên thệ trước Tòa án thực dân khơng được làm điều gì trái với pháp luật và triệt để trung thành với chế độ thực dân.<small>37</small> Chính chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội – kinh tế - chính Việt Nam có nhiều thay đổi, đặt biệt là đã gây khơng ít ảnh hưởng đến tư duy lập pháp của Việt Nam.

<b>2.1.2. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa </b>

Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa là tên gọi chính thức của Trung Quốc, là một quốc gia có lãnh thổ rộng lớn với diện tích chiếm phần lớn khu vực Đông Á, lớn thứ tư trên thế giới.

Xây dựng một quốc gia pháp trị hiện đại luôn là chủ trương và nguyên tắc mà nhân dân Trung Quốc theo đuổi, và cũng là phương hướng thực tiễn mà người dân Trung Quốc chọn lựa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trung Quốc dần đi lên con đường xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.

Khác với Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuy có quy định trách nhiệm pháp lý hình sự đối với đơn vị (bao gồm cả pháp nhân và tổ chức) phạm tội nhưng trong BLTTHS năm 1976 (sửa đổi, bổ sung năm 1996) khơng có bất kỳ chương hay chế định cụ thể nào quy định riêng về trình tự, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.

<i>Thứ nhất, xét về thể chế chính trị. </i>

<small>37</small><i><small> Trần Thu Hà (2021), “Giai đoạn pháp thuộc và thời kỳ chế độ Ngụy Sài Gòn”, Tạp chí Nghề luật, </small></i>

<small> truy cập ngày 19/12/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong số ít những quốc gia trên thế giới theo con đường xã hội chủ nghĩa điều này tương tự với Việt Nam chúng ta. Do chịu ảnh hưởng của các học thuyết về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa mà giữa pháp luật Việt Nam và Trung Quốc sẽ có những nét tương đồng với nhau. Cùng với đó, cả hai nước đều lấy chủ nghĩa Mác làm cơ sở lý luận, làm nền tảng để xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.

<i>Thứ hai, xét về nét tương đồng trong kỹ thuật lập pháp. </i>

Tương tự với Cộng hịa Pháp, pháp luật của Cơng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng thuộc hệ thống pháp luật Civil law và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư duy lập pháp kiểu Liên Xô. Sau khi giành được độc lập, với sự giao lưu, hợp tác, học hỏi từ các nhà khoa học pháp lý của Liên Xơ, pháp luật hình sự của hai nước Việt – Trung được xây dựng dựa trên những lý luận cơ bản của hệ thống pháp luật hình sự Xơ Viết nên có nhiều điểm tương đồng.<small>38</small>

Tuy nhiên, BLTTHS Trung Quốc không đưa ra các quy định riêng đối với quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với đơn vị phạm tội mà quy định nó song song với quy định về thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử với cá nhân trong cùng một quy định. Tại Điều 432, 433, 443 BLTTHS năm 2015 của Việt Nam cũng quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố đối với pháp nhân cũng được dẫn chiếu đến các quy định áp dụng cho cá nhân.

<i>Thứ ba, xét trên phương diện kinh tế. </i>

Hai nước cũng đều trải qua quá trình từ xây dựng nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp đến thực hiện chính sách cải cách mở cửa và chuyển dần sang nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua, quan hệ Việt - Trung đã không ngừng phát triển cả bề rộng và chiều sâu trên mọi lĩnh vực, đã hình thành khn khổ quan hệ mới với rất nhiều Hiệp định, thỏa thuận làm cơ sở pháp lý cho việc đi sâu hợp tác ngày càng có hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thể chế luật pháp của Trung Quốc cũng không ngừng được cải thiện nhằm phù hợp với cuộc sống thiết thực của người dân.

Xuất phát từ kỹ năng, trình độ lập pháp và những nét tương đồng giữa pháp luật Việt Nam, Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân để tìm ra những quy định tiến bộ, phù hợp góp phần hồn thiện chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trong BLTTHS 2015 của Việt Nam.

<small>38</small><i><small> Lê Trung Kiên, Hệ thống hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam và Trung Quốc, NXB. Tư Pháp, tr. 17. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>2.2. Pháp luật Cộng hòa Pháp </b>

<b>2.2.1. Tổng quan về pháp luật Tố tụng hình sự Cộng hịa Pháp </b>

Cộng hịa Pháp là một trong những nước có độ pháp điển hóa pháp luật rất cao, khi Napoleon trở thành tổng tài của nước Pháp, đã cho pháp điển hóa, biên tập 5 Bộ luật rất đồ sộ. Đối với pháp luật Tố tụng hình sự, Napoleon bằng cách pháp điển hóa các quy

<i>tắc, thủ tục tố tụng được ban hành trong thời đại “chế độ cũ - Ancien Régime” và các </i>

nguyên tắc của cách mạng tư sản Pháp<small>39</small> đã cho ra đời BLTTHS năm 1808 (Code d’Instruction Criminelle).

BLTTHS năm 1808 của Pháp, bao gồm 643 điều khoản được chia thành hai quyển.

<i>Quyển thứ nhất (De la police judiciaire, et des officiers de police qui l’exercent) quy </i>

định về các trình tự, thủ tục tiền truy tố đối với tội phạm và quy kết tội phạm; Quyển

<i>thứ hai (De la Justice) quy định về thủ tục tố tụng để ra phán quyết và các vấn đề liên </i>

quan đến việc thi hành bản án hình sự sau khi có bản án.<small>40</small> BLTTHS năm 1808 được xem là đỉnh cao của sự pháp điển hóa trình tự thủ tục tố tụng mà cốt lõi dẫn đến sự hình thành bộ luật này đó là Sắc lệnh năm 1670 của vua Louis XIV và Luật năm 1791.

BLTTHS năm 1808 chia tố tụng hình sự thành hai giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị xét xử và giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, bao gồm các hoạt động phát hiện, tiếp nhận hành vi phạm tội; điều tra, thu thập thông tin xác định tội phạm, nhìn chung các hoạt động ở giai đoạn này nhằm mục đích phục vụ cho giai đoạn xét xử. Ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa, giai đoạn này các thẩm phán có thẩm quyền sẽ phân tích các chứng cứ, đối đáp, hỏi với người người bị xét xử nhằm xem xét có hay khơng có hành vi phạm tội.<small>41</small> Bộ luật tố tụng 1808 được áp dụng trong một thời gian rất dài khoản 150 năm từ năm 1808 cho đến năm 1958.

Năm 1958, Cộng hòa Pháp ban hành BLTTHS năm 1958 (Code de Procédure Pénal) thay thế cho BLTTHS năm 1808 sau 150 năm sử dụng. Từ khi được ban hành cho đến nay, BLTTHS 1958 đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần với nhiều nội dung khác nhau để hoàn thiện thêm quy định của bộ luật.

Về nội dung, bộ luật này được chia thành năm quyển và một tiêu đề sơ bộ, bao

<i>gồm 934 điều khoản. Chế định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân </i>

là một chế định được thêm vào trong BLTTHS năm 1958 sau khi bộ luật này được bổ sung bởi đạo luật số 92-1336 vào năm 1992.<small>42</small> Chế định này được quy định thành một chương riêng, từ Điều 706-41 đến Điều 706-46.

<small>39</small><i><small> Zacharie Clémence, The code d’instruction criminelle 1808. </small></i>

<small>40</small><i><small> R. Garraud, Code d’ instruction criminelle de 1808 Présentation. </small></i>

<small>41 BLTTHS Pháp năm 1808. </small>

<small>42 Créé par Loi n°92-1336 du 16 décembre 1992 – art. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<b>2.2.2. Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân </b>

<i><b>2.2.2.1. Khái quát về chế định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân </b></i>

Luật của Pháp, về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, có tính bảo vệ cao hơn các luật khác, đặc biệt là của Hoa Kỳ, với các điều kiện áp dụng nghiêm ngặt. Do đó, thể có xu hướng các cơ quan tư pháp cố gắng mở rộng phạm vi áp dụng bằng cách tập trung vào các quyết định của các cơ quan tập thể để thiết lập trách nhiệm pháp lý của pháp nhân.<small>43</small>

Theo đó, BLHS Pháp năm 1992 lại có những giai đoạn khác nhau với những quan điểm lập pháp về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khác nhau. Có thể nói, đó là giai đoạn trước và sau khi sửa đổi bổ sung BLHS năm 1992 vào năm 2004.<small>44</small> Trước thời điểm sửa đổi, bổ sung BLHS 1992, theo quy định tại Điều 121-2 BLHS 1992<small>45</small> thì vấn đề trách nhiệm hình sự chỉ được đặc ra đối với các pháp nhân thuộc lĩnh vực tư mà loại trừ những pháp nhân thuộc lĩnh vực công là các cơ quan nhà nước.<small>46</small>

Khác với cách quy định của BLHS Việt Nam, BLHS Cộng hịa Pháp khơng có một điều luật nào định nghĩa khái niệm tội phạm hay một số khái niệm liên quan như khái niệm lỗi cố ý, lỗi vô ý. Khái niệm tội phạm thực sự chỉ tồn tại trong khoa học pháp lý.

<i>Điều 121- 4 BLHS Pháp quy định: “Được coi là chủ thể của tội phạm nếu thuộc </i>

<i>một trong hai trường hợp sau đây: </i>

<small>43 Benjamin Grundler, Xem thêm tại địa chỉ: responsabilite-penale-des-personnes-morales-a-celle-des-dirigeants-vers-une-mutation-du-droit-penal-</small>

<small> truy cập ngày 14/12/2022 </small>

<small>44 Nguyễn Ngọc Hòa (2020), sđd (20), tr. 200. </small>

<small>45 Điều 121-2 BLHS Pháp: </small>

<i><small>“Pháp nhân, ngoại trừ nhà nước, phải chịu trách nhiệm hình sự, theo quy định từ các điều 121-4 đến 121-7 và </small></i>

<i><small>trong những trường hợp quy định trong các luật hoặc trong các nghị định Chính phủ, về các tội phạm thực hiện, vì lợi ích của pháp nhân và được thực hiện bởi cá nhân người đại diện hoặc tập thể lãnh đạo của pháp nhân đó”. </small></i>

<small>46 Vũ Hằng (2014), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của pháp luật Cộng Hòa Pháp”, trang thông tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính trung ương. Xem thêm tại địa chỉ: truy cập ngày 14/12/2022. </small>

<small>47 Điều 121-5 BLHS Cộng hòa Pháp. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Như vậy, chủ thể trong BLHS Pháp không chỉ là thể nhân mà cịn có thể là pháp

<i>nhân. Theo tinh thần của Điều 131-39 BLHS Pháp quy định “ngoại trừ Nhà nước Pháp, </i>

<i>pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh tế – xã hội (Nhà nước hoặc phi nhà nước), pháp nhân cơng quyền, các đảng phái chính trị hoặc cơng đồn đều có thể phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội”. Tuy vậy, phạm vi </i>

và các hình thức hình phạt cụ thể có thể áp dụng với các pháp nhân cơng quyền hoặc các hội đồn chính trị hạn chế hơn so với các loại pháp nhân khác.<small>48</small>

Những loại pháp nhân là chủ thể của trách nhiệm hình sự theo BLTTHS Cộng hòa Pháp:

<i>Thứ nhất, pháp nhân theo luật tư. </i>

Về nguyên tắc, tất cả các pháp nhân theo luật tư có mục đích sinh lợi đều có đủ tư cách chịu trách nhiệm hình sự như: các pháp nhân dân sự, các pháp nhân thương mại bao gồm cả các pháp nhân có điều lệ hợp tác hoặc nông nghiệp, các pháp nhân một thành viên cũng như các nhóm có lợi ích kinh tế…

Đối với các pháp nhân khơng có mục đích sinh lợi có nghĩa là khi hoạt động khơng vì mục đích thu lợi nhuận, trách nhiệm hình sự cũng được đặt ra đối với các pháp nhân này - đó là các hiệp hội đã đăng kí hợp lệ, các giáo đồn, các cơng đồn, các đảng phái và các nhóm chính trị,<small>49</small>…

<i>Thứ hai, pháp nhân theo luật cơng. </i>

BLHS Cộng hịa Pháp quy định một số ngoại lệ, đó là:

<i>Một, Nhà nước khơng phải chịu trách nhiệm hình sự vì Nhà nước bảo vệ lợi ích </i>

chung, có chủ quyền, đặc quyền về pháp luật hình sự và do vậy, Nhà nước khơng thể tự mình trừng trị mình.

<i>Hai, các tập thể lãnh thổ và các tổ chức của nó như: các cơng xã, các tỉnh và các </i>

vùng lãnh thổ cũng như các tổ chức của nó chỉ có thể bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội phạm được thực hiện trong khi tiến hành những hoạt động có thể là đối tượng của sự thỏa thuận ủy quyền cơng vụ.<small>50</small>

Ngồi hai ngoại lệ trên, tất cả các loại pháp nhân theo luật cơng đều có tư cách chủ thể chịu trách nhiệm hình sự, khơng phân biệt các lĩnh vực hoạt động như: các cơ quan công cộng, các tập đồn vì lợi ích chung, các tổ chức kinh tế hỗn hợp, các xí nghiệp, các nhà máy được quốc hữu hóa, các đồn, hội nghề nghiệp.

<small>48 Đoạn 2 Điều 131-39 BLHS Cộng hòa Pháp. </small>

<small>49 Điều 121-2 BLHS Cộng hòa Pháp. </small>

<small>50 khoản 2 Điều 121-2 BLHS Cộng hòa Pháp. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Tuy nhiên, cần lưu ý là hình phạt giải thể và giám sát tư pháp không được áp dụng đối với các pháp nhân cơng<small>51</small> vì lý do trật tự hiến định.

<i>Thứ ba, pháp nhân nước ngồi. </i>

Điều 121-2 BLHS Pháp khơng phân biệt trách nhiệm hình sự giữa pháp nhân nước Pháp và pháp nhân nước ngoài và pháp nhân nước ngoài vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm thực hiện chiểu theo những quy định tại Điều 113-1 và các điều tiếp theo của BLHS về hiệu lực áp dụng của đạo luật hình sự về khơng gian. Pháp nhân nước ngồi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước tịa án của nước Pháp trong trường hợp phạm tội trên lãnh thổ hoặc ngoài lãnh thổ Cộng hòa Pháp trong những trường hợp và những điều kiện được quy định tại những điều luật nêu trên. Quốc tịch của pháp nhân cần được xác định trên cơ sở các quy định của Luật dân sự hoặc Luật thương mại.

Mặt khác, tại Điều 121-2 BLHS Pháp quy định pháp nhân cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm được quy định từ Điều 124-2 đến Điều 121-7 và một số khinh tội được quy định trong Nghị định của Chính phủ. Điều 121-2

<i>BLHS Pháp quy định: “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân khơng loại trừ trách nhiệm </i>

<i>hình sự của thể nhân tham gia thực hiện hành vi phạm tội hoặc những đồng phạm thực hiện hành vi đó”.</i><small>52</small> Như vậy, BLHS Pháp cũng đã khẳng định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khơng loại trừ trách nhiệm hình sự đối với cá nhân/thể nhân. Quy định này có tác động không nhỏ đến đến quy định của BLTTHS, bởi khi tiến hành tố tụng bên cạnh chứng minh tội phạm của pháp nhân để truy cứu trách nhiệm hình sự thì trong quá trình tố tụng có thể cịn phải chứng minh trách nhiệm hình sự của cá nhân/thể nhân liên quan.

<i>Theo quy định tại Điều 121-2 BLHS Cộng hòa Pháp năm 1992 thì: “Pháp nhân, </i>

<i>trừ Nhà nước, phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 121-4 đến 121-7, và trong các trường hợp quy định bởi luật và pháp quy, đối với hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân bởi cơ quan hoặc đại diện của pháp nhân…”. Như vậy, </i>

điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân bao gồm:<small>53</small>

<i>(i) Trách nhiệm hình sự của pháp nhân được thực hiện thông qua hành vi của cá nhân người đại diện hoặc tập thể lãnh đạo của pháp nhân đó; </i>

<i>(ii) Việc thực hiện tội phạm vì lợi ích của pháp nhân đó. </i>

<i>Thứ nhất, hành vi phạm tội do cơ quan hoặc đại diện của pháp nhân thực hiện. </i>

<small>51 Điều 131-39 BLHS Cộng hòa Pháp. </small>

<small>52</small><i><small> Phạm Thị Thảo (2019), “Tìm hiểu pháp luật hình sự của Cộng hịa Pháp”, tạp chí điện tử của Tịa án nhân dân </small></i>

<small>Tối cao. Xem thêm tại địa chỉ: truy cập ngày 14/12/2022. </small>

<small>53 Nguyễn Ngọc Hòa (2020), sđd (20), tr. 203. </small>

</div>

×