Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

phòng ngừa tội giết người trên địa bàn các tỉnh phía nam việt nam bằng biện pháp giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.08 KB, 96 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b><small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </small></b>

<small>Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Minh Tâm </small>

<small>Lớp: CLC46C Khố: 46 Khoa: Các chương trình đào tạo Chất lượng cao </small>

<b><small>Mã số cơng trình: HS13 </small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b><small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </small></b>

<small>Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Minh Tâm </small>

<small>Lớp: CLC46C Khố: 46 Khoa: Các chương trình đào tạo Chất lượng cao </small>

<b><small>Mã số cơng trình: HS13 </small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1.1. Khái niệm giáo dục và đặc điểm của biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam ... 7 </b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm giáo dục và biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam ... 7 </b></i>

<i><b>1.1.2. Đặc điểm của biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam ... 12 </b></i>

<b>1.2. Vị trí, vai trị của biện pháp giáo dục đối với phòng ngừa tội giết người trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam ... 19 </b>

<i><b>1.2.1. Vị trí của biện pháp giáo dục đối với phịng ngừa tội giết người ... 19 </b></i>

<i><b>1.2.2. Vai trò của biện pháp giáo dục đối với phòng ngừa tội giết người ... 21 </b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ... 24 </b>

<b>CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TRONG PHÒNG NGỪA TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH PHÍA NAM VIỆT NAM ... 26 </b>

<b>2.1. Nội dung của biện pháp giáo dục nhằm phòng ngừa tội giết người ... 26 </b>

<i><b>2.1.1. Giáo dục học vấn - văn hóa ... 26 </b></i>

<i><b>2.1.2. Giáo dục đạo đức và ý thức pháp luật ... 31 </b></i>

<b>3.1. Thực trạng thực hiện biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam ... 50 </b>

<b>3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp giáo dục nhằm phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam ... 63 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>3.2.1. Kiến nghị khắc phục hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp </b></i>

<i><b>giáo dục của gia đình ... 63 </b></i>

<i><b>3.2.2. Kiến nghị khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp giáo dục của nhà trường ... 65 </b></i>

<i><b>3.2.3. Kiến nghị khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp giáo dục thơng qua chính sách xã hội ... 67 </b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ... 71 </b>

<b>KẾT LUẬN ... 72 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 73 </b>

<b>PHỤ LỤC ... 77</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>DANH MỤC BIỂU ĐỒ </b>

3.1 Tỉ lệ phần trăm tình trạng gia đình của các đối tượng phạm tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam

58

3.2 Trình độ học vấn của người phạm tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam

67

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu </b>

Các tỉnh phía Nam Việt Nam – bao gồm các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các tỉnh miền Tây Nam Bộ - có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa nắng mưa rõ rệt. Đây là khu vực có nền kinh tế phát triển theo xu hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng đến sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ, thương mại, nâng cao sự giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới. Tại các thành phố lớn, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh, dân cư tập trung đông đúc do sự nhập cư từ nhiều nơi trong và ngồi nước nên có sự ảnh hưởng đến hoạt động kiểm tra, giám sát tình hình xã hội trên địa bàn này. Địa bàn này có sự phát triển kinh tế nhanh chóng, đặc điểm dân cư và văn hóa đa dạng của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc, nhiều quốc tịch, nhiều tôn giáo nên ẩn chứa nguy cơ xung đột xã hội, đồng thời gây ra nhiều khó khăn trong quản lý đời sống xã hội. Tình hình hình gia tăng của các tệ nạn xã hội, sự ảnh hưởng tiêu cực của nền công nghiệp 4.0 cũng tác động đến nhận thức, suy nghĩ và hành vi của con người, gây nên nhiều hậu quả xã hội, trong đó có tình trạng giết người.

Từ xưa đến nay, quyền sống của con người luôn được coi trọng và đề cao. Điều đó khơng chỉ được thể hiện qua lời nói mà cịn được thể hiện trong các văn kiện chính trị - pháp lý. Các bản Hiến pháp của nước Việt Nam ở các thời kỳ đều dành một chương quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Thuở sinh thời, Bác Hồ đã khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”<small>1</small>. Khơng dừng lại ở đó, quyền con người còn được bảo vệ bằng những điều khoản cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Mục đích ưu tiên của pháp luật là bảo vệ con người khỏi những hành vi sai trái xâm phạm đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm. Đáng tiếc là hiện nay ở Việt Nam nói chung và địa bàn các tỉnh phía Nam nói riêng đã xảy ra nhiều vụ án giết người, có trường hợp giết người man rợ với những tình tiết phức tạp. Tình trạng trên là thách thức to lớn đối với Đảng và Nhà nước ta về vấn đề bảo vệ quyền con người.

Nhìn lại quá khứ, những vụ án lớn gây hoang mang dư luận có tội giết người như vụ án Năm Cam xảy ra, vụ án giết người của Phước tám ngón, vụ án giết 6 người dã man tại Bình Dương… đã có tác động mạnh mẽ đến tâm lý – ý thức của người dân, đe dọa sự an toàn của cộng đồng. Trong số những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, tội giết người rất đáng lên án bởi sự tàn ác và hậu quả mà nó gây ra. Những vụ án thương tâm <small> </small>

<small>1 Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tun ngơn độc lập”, Minh/Tuy%C3%AAn-ng%C3%B4n-%C4%91%E1%BB%99c-l%E1%BA%ADp/poem-</small>

<small>[ (truy cập ngày 14/8/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

không chỉ để lại thiệt hại cho gia đình nạn nhân mà cịn gây bất an cho người dân vì sự man rợ, tàn nhẫn của người phạm tội.

Vấn đề đặt ra là tại sao con người lại giết chính đồng loại của mình? Hành vi của con người nên trước hết tìm nguyên nhân giết người ở chính bản thân người thực hiện hành vi và biện pháp phòng ngừa cũng ưu tiên tác động đến nhận thức, tâm lý, giáo dục con người. Biện pháp giáo dục đóng vai trị quan trọng nhất trong số các biện pháp tác động đến nhận thức, tâm lý của con người để phòng ngừa tội giết người. Ở các tỉnh phía Nam Việt Nam đời sống dân cư cịn khó khăn, phức tạp nên nhu cầu giáo dục con người để phòng ngừa tội giết người càng trở nên cấp thiết. Do đó, nhóm nghiên cứu chọn vấn đề “Phòng ngừa tội giết người trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam bằng biện pháp

<b>giáo dục” để làm đề tài nghiên cứu khoa học. 2. Tình hình nghiên cứu </b>

Vấn đề nhận thức về tội giết người, nguyên nhân và biện pháp tuy đã được bàn ở một số cơng trình nghiên cứu nhưng nhìn chung vẫn có những hạn chế nhất định. Bàn sâu về phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp giáo dục tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam cịn là vấn đề mới mẻ. Để có bức tranh tổng qt về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, làm cơ sở để kế thừa và phát triển thêm có thể đánh giá các kết quả

<b>nghiên cứu đã công bố như sau: </b>

Tại chương II của Giáo trình Luật Hình sự phần các tội phạm - Quyển 1 theo tác giả Trần Thị Quang Vinh (chủ biên) đề cập đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người. Theo đó, tác giả tập trung làm rõ những đặc trưng pháp lý liên quan đến các tội xâm phạm đến tính mạng con người bằng cách đi sâu vào tìm hiểu khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của nhóm tội phạm đó.

Giáo trình Tội phạm học của tác giả Trịnh Tiến Việt - Nguyễn Khắc Hải không chỉ nêu lên giải pháp phòng ngừa các hành vi phạm tội mà còn xử lý tất cả những vấn đề liên quan đến hiện tượng tội phạm trong xã hội, như tác động của tội phạm gây nên nỗi sợ hãi cho cộng đồng hay sự mất ổn định, trật tự xã hội. Chính hướng tiếp cận này đã định hình lên các đối tượng nghiên cứu cùng hệ thống các phương pháp nghiên cứu hiện đại, đã dạng trong Tội phạm học.

“Chiến lược phòng ngừa tội phạm - Lý luận và ứng dụng” của tác giả Nguyễn Khắc Hải. Tác phẩm cung cấp những vấn đề lý luận, sự hình thành và phát triển của các chiến lược phịng ngừa tội phạm trong lịch sử; cung cấp các cơ sở về khoa học, công nghệ, thực tiễn, phương pháp và quyền con người của chiến lược phòng ngừa tội phạm; xây dựng chiến lược phòng ngừa tội phạm cùng kinh nghiệm xây dựng, mơ hình chiến lược phịng ngừa tội phạm ở một số quốc gia trên thế giới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 6/2015 với nội dung “Nội luật hoá các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay”<small>2</small> của tác giả Ngô Hữu Phước đề xuất các kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nội luật hoá các điều ước quốc tế đấu tranh phòng, phòng chống tội phạm mà Việt Nam là thành viên trong giai đoạn hiện nay<small>3</small>.

“Phòng ngừa tội phạm: Những vấn đề lý luận cơ bản”<small>4</small> của tác giả Trịnh Tiến Việt tại Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23 (2007) 214-234. Bài viết nghiên cứu những vân để lý luận cơ bản về khái niệm phịng ngừa tội phạm và ý nghĩa của nó, các nguyên tắc cơ bản của phòng ngừa tội phạm, các chủ thể phòng ngừa tội phạm và các biện pháp phòng ngừa tội phạm để đưa ra những kết luận mang tính định hướng hồn thiện ngành khoa học nghiên cứu về tội phạm này. Kết quả ông rút ra được rằng: đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đổng thời tìm ra nguyên nhân và điều kiện của nó phải xuất phát từ xã hội, cũng như việc đưa ra các biện pháp phải phù hợp và dựa trên những quy luật kinh tế - xã hội khách quan và có tính tất yếu gắn liền với từng giai đoạn tương ứng của xã hội. Việc các ngành khoa học đang ngày càng phát triển, tội phạm học tập trung nghiên cứu tội phạm dưới góc độ hiện tượng xã hội từ đó có thể đưa ra được các giải pháp hiệu quả. Phòng ngừa tội phạm chính là nhiệm vụ cuối cùng của tội phạm học, ngồi ra tội phạm học cịn nghiên cứu xây dựng hệ thống các chủ thể thực hiện công tác đấu tranh phịng chống tội phạm, kế hoạch hóa đế đưa cơng tác phịng ngừa cũng như các Chương trình Quốc gia về phòng, chống tội phạm vào thực tiễn đời sống

<i>xã hội, góp phần bảo vệ chế độ, pháp chế, kỷ luật - kỷ cương và Nhà nước Việt Nam xã </i>

hội chủ nghĩa.

Bài luận văn nghiên cứu về “Tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh<small>5</small>” của tác giả ng Văn Tuấn, đã nêu những vấn đề lý luận chung, thực trạng tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra những biện pháp trong việc phịng ngừa tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Bài luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Trọng Tuệ về “Đấu tranh, phòng, chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam”, năm 2004. Tác giả thông qua những vấn đề chung về tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam đã nghiên cứu, phân <small> </small>

<small>2 Ngô Hữu Phước, “Nội luật hoá các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay” [ (truy cập ngày 31/10/2022). </small>

<small>3Ngô Hữu Phước, “Nội luật hoá các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay” [ (truy cập ngày 31/10/2022). </small>

<small>4 Trịnh Tiến Việt (2007), “Phòng ngừa tội phạm: Những vấn đề lý luận cơ bản”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23 (2007) 214-234, [[PDF] vnu.edu.vn] (truy cập ngày 31/10/2022). </small>

<small>5 Uông Văn Tuấn (2016), “Tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, [ (truy cập ngày 15/8/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tích chun sâu về tình hình, nguyên nhân, điều kiện và thực trạng đấu tranh phòng chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 1997 - 2003. Từ đó, tác giả đưa ra một số biện pháp đấu tranh phòng chống tội giết người trên địa bàn tỉnh này, trong đó có biện pháp về giáo dục, tuyên truyền đạo đức, pháp luật, nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức đấu tranh với tội phạm.

Bài luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Huỳnh Vĩnh Khanh về “Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”, năm 2017. Trong bài luận văn, tác giả đã làm rõ được nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn 2011 - 2015. Qua đó, tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội giết người trên địa bàn tỉnh này.

Tại bài luận văn thạc sĩ Luật học “Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”<small>6</small> của tác giả Nguyễn Bình Minh đã làm rõ các yếu tố, các quy luật tác động tới sự hình thành nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ đó hồn thiện giải pháp phịng ngừa. Trong bài luận tác giả nêu lên những đặc điểm, phân tích chúng, dựa vào các đặc điểm nêu ra các yếu tố tác động tạo cơ sở để đề ra các biện pháp từ nhiều góc độ khác nhau. Bằng sách sử dụng các biện pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học. Kết quả cho thấy nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố tiêu cực tác động đến sự hình thành nhân thân của người phạm tội giết người phù hợp với đặc điểm về địa lý, dân cư, điều kiện kinh tế, xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; tìm ra hồn cảnh cụ thể đã đưa đến việc thực hiện tội phạm; từ đó đưa ra dự báo về tình hình tội giết người trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi.

Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đều đã phân tích rõ các lý luận về tội “giết người”. Tuy nhiên hầu hết các cơng trình trên mới chỉ đưa ra các biện pháp phòng ngừa tổng qt, chưa có cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người. Trên cơ sở tiếp thu các thành quả của những bài nghiên cứu trên. Nhóm nghiên cứu tiếp cận đến loại tội này từ góc độ tội phạm học, tiếp cận, tìm hiểu, tổng hợp và phát triển các vấn đề thực tiễn trong q trình phịng chống tội “Giết người” tại khu vực phía Nam Việt Nam.

<b>3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu </b>

<i>3.1. Đối tượng nghiên cứu </i>

<small> </small>

<small>6 Nguyễn Bình Minh (2017), “Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Vấn đề nghiên cứu của đề tài bao gồm khía cạnh lý luận biện pháp giáo dục, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp giáo dục trong phịng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam

<i><b>Về thời gian, vấn đề thực tiễn được đánh giá từ năm 2016 đến nay. </b></i>

<b>4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

<i>4.1. Mục tiêu nghiên cứu </i>

Đề tài đưa ra kết quả nghiên cứu lý luận và triển khai áp dụng có hiệu quả biện

<i>pháp giáo dục trong phịng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam. </i>

<b>4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: </b>

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, nhóm tác giả đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Làm rõ khái niệm phòng ngừa tội phạm giết người bằng biện pháp giáo dục là gì; biện pháp giáo dục có đặc điểm gì nổi bật, có gì khác so với các biện pháp khác; vị trí vai trị của biện pháp giáo dục trong hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội giết người và tầm quan trọng của việc phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp giáo dục;

- Phân tích chi tiết nội dung của biện pháp giáo dục trong phịng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía nam Việt Nam.

- Đánh giá khái quát về tội giết người, trong đó có đề cập đến nguyên nhân thiếu giáo dục dẫn đến phạm tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt nam.

- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đảm bảo và nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp giáo dục phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

Để nghiên cứu đề tài trên, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp sau:

<i>Phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu lý thuyết: Từ việc nghiên cứu các tài </i>

liệu trong và ngồi nước sẽ tìm kiếm được các thơng tin để đưa ra những luận điểm, luận cứ và hướng đi đúng đắn.

<i>Phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu: Đây là phương pháp được sử dụng </i>

xuyên suốt bài nghiên cứu. Từ những thông tin đã được thu thập rút ra được các kiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thức cần thiết, làm rõ các vấn đề lý luận, pháp luật, thực tiễn,... về tội giết người. Những khó khăn, bất cập việc xác định động cơ và đưa ra giải pháp giáo dục.

<i>Phương pháp nghiên cứu điển hình và tình huống pháp lý điển hình: Phương pháp </i>

này được tiến hành qua khảo sát 100 vụ án giết người ở các tỉnh phía Nam Việt Nam để tìm ra ngun nhân phạm tội, trong đó có ngun nhân ở khía cạnh giáo dục. Ngồi ra, các vụ án giết người điển hình cũng được chọn để phân tích các tình huống pháp lý cụ thể có mối quan hệ với biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người.

<b>6. Kết cấu của bài nghiên cứu </b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu gồm ba chương, cụ thể là:

<b>- Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp </b>

giáo dục tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam.

<b>- Chương 2: Nội dung của biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người và phương thức thực hiện trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt nam. </b>

<b>- Chương 3: Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TỘI GIẾT NGƯỜI BẰNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI ĐỊA BÀN CÁC TỈNH PHÍA NAM </b>

Như đã biết, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của con người là giáo dục. “Giáo dục” hiện chưa được định nghĩa cụ thể. Thông thường, giáo dục được hiểu là sự truyền tải kiến thức, kỹ năng từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua các hình thức, phương pháp khác nhau như giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu<small>7</small>... Giáo dục là một trong những biện pháp quan trọng để tác động đến ý thức và hành vi của con người. Dưới góc độ pháp luật, giáo dục tác động đến ý thức và hành vi của con người bằng cách truyền đạt các quy tắc, quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước ban hành. Qua giáo dục, cá nhân được tiếp thu kiến thức về luật pháp và các quy định xã hội, nhận biết được hành vi nào hợp pháp và hành vi nào vi phạm pháp luật. Hơn nữa, giáo dục pháp luật giúp nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm pháp lý của con người. Từ đó, con người hiểu rõ về quyền tự do, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ <small> </small>

<small>7 Trần Điệp, “Giáo dục là gì? Giáo dục hướng tới những mục tiêu gì?” duc-la-gi-2707-45701-article.html] (truy cập ngày 10/03/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

[ pháp luật. Đồng thời, khuyến khích sự tơn trọng và tn thủ quy tắc pháp lý, từ việc hạn chế hành vi vi phạm pháp luật và tăng cường trật tự xã hội sẽ dẫn đến hạn chế các vụ án, như giết người.

Giáo dục định hướng tôn trọng các giá trị xã hội tốt đẹp. Nếu con người thiếu giáo dục hoặc được giáo dục sai cách sẽ làm sai lệch nhận thức, sai lệch nhân cách, từ đó có thể dẫn đến phạm tội. Một người sinh ra, lớn lên trong một gia đình có điều kiện khó khăn, khơng đủ điều kiện để nhận được nền tảng giáo dục tốt, có thể vơ tình bị đẩy vào môi trường xã hội bạo lực và tội phạm. Thiếu giáo dục cũng làm cho người trẻ khơng có kiến thức cơ bản, thiếu kỹ năng xã hội và ý thức đạo đức, từ đó gây khó khăn trong việc thích nghi và giao tiếp với xã hội. Điều này có thể dẫn đến sự mất lịng tin vào người khác, thiếu hiểu biết về giá trị cuộc sống và khơng có khả năng giải quyết xung đột một cách hợp pháp. Đối với người trẻ thiếu giáo dục dễ bị lôi cuốn vào tệ nạn xã hội hoặc tội phạm. Thiếu hiểu biết về hậu quả của tội phạm và khơng có nhận thức đúng đắn về quyền sống của người khác dễ dàng thực hiện hành vi giết người một cách đáng tiếc. Vấn đề này cho thấy có mối quan hệ nhân quả giữa việc thiếu giáo dục và tội phạm giết người. Để ngăn chặn những trường hợp như vậy xảy ra, cần thiết phải có hệ thống giáo dục tồn diện và cơng bằng, đảm bảo rằng mọi người đều có quyền nhận được giáo dục chất lượng để phát triển và phòng ngừa tội phạm.

Việc làm giảm tội phạm giết người thông qua biện pháp giáo dục đang nhận được sự quan tâm, hỗ trợ từ các cơ quan chức năng và cộng đồng. Trong môi trường giáo dục, có thể triển khai các chương trình giáo dục đổi mới nhằm tác động tích cực lên nhận thức và hành vi của cá nhân, đặc biệt là người trẻ tuổi. Một trong những cách tiếp cận trong việc phòng ngừa tội giết người thông qua giáo dục là tạo ra các chương trình, biện pháp, giải pháp giáo dục nhằm nâng cao ý thức về giá trị cuộc sống, quyền sống và tình yêu thương đối với con người. Các chương trình, biện pháp, giải pháp này có thể tập trung vào việc giáo dục về học vấn để nâng cao kiến thức toàn diện. Đặc biệt chú ý giáo dục đạo đức, nhân phẩm, trách nhiệm cá nhân và xã hội; giáo dục pháp luật và thái độ, ứng xử khi giải quyết xung đột lợi ích; giáo dục tình cảm và xây dựng mối quan hệ xã hội, quan hệ cá nhân lành mạnh. Đồng thời, giáo dục về sự đa dạng văn hóa, tơn giáo; tơn trọng sự hiểu biết về các giá trị, quan điểm khác nhau cũng là yếu tố quan trọng để ngăn chặn sự bạo lực và giết người. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả trong việc phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam thơng qua giáo dục, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về tình hình tội giết người trên địa bàn các địa phương này. Điều này đòi hỏi sự đồng lòng và hỗ trợ từ các cơ quan chức năng để thu thập và phân tích thơng tin về các vụ án giết người, xác định các yếu tố nguyên nhân và mơ hình hành vi phạm tội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Đặc biệt, cần tìm hiểu rõ về đặc thù văn hóa và xã hội của từng tỉnh, thành phố để xây dựng những chương trình giáo dục phù hợp và có hiệu quả cao.

Biện pháp phịng ngừa tội phạm nói chung hay tội phạm giết người nói riêng thực chất là hành động nhằm mục đích khắc phục nguy cơ xảy ra tội phạm hay những tác động có hại của chúng đối với cá nhân và xã hội, bao gồm cả nỗi sợ hãi về tội phạm bằng cách can thiệp để tác động đến nhiều nguyên nhân của chúng<small>8</small>. Để thực hiện cơng tác phịng ngừa này một cách hiệu quả, cần sự chủ động, sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, toàn dân và toàn xã hội. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần tiến hành nhiều biện pháp áp dụng trên các lĩnh vực khác nhau. Mục đích cuối cùng hướng đến là hạn chế, ngăn chặn các hành vi phạm tội giết người.

Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cần phải đối mặt với những thách thức. Sự thay đổi nhận thức và thói quen của một cá nhân, cũng như các yếu tố chính trị và xã hội, có thể tạo ra rào cản trong việc thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Đồng thời, việc xây dựng và duy trì sự hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức và cộng đồng là rất quan trọng để đạt được hiệu quả trong cơng tác phịng ngừa tội phạm. Trong đó, giáo dục là một trong các biện pháp phòng ngừa tội giết người mà khi được triển khai đồng bộ, đúng và đủ sẽ tác động lên ý thức điều khiển hành vi của con người. Khi ý thức đó đã được tác động theo chiều hướng tích cực do phương pháp giáo dục đúng đắn thì hành vi được thể hiện ra thế giới khách quan cũng sẽ trở nên khả quan hơn, từ đó góp phần phịng ngừa tội phạm.

Trên thực tế, các hoạt động giáo dục và tuyên truyền nhằm phòng chống tội phạm giết người đã được triển khai ở nhiều địa phương trên toàn quốc, bao gồm các tỉnh phía Nam Việt Nam. Các tỉnh phía Nam Việt Nam có những đặc thù văn hố và xã hội đặc biệt, ảnh hưởng đến tình hình tội giết người trên địa bàn: sự đa dạng trong cơ cấu kinh tế, bao gồm công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xu hướng đơ thị hóa và cơng nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ; các thành phố và đô thị phát triển với số dân đông đúc, nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người ngày càng cao; là khu vực đông dân, nơi giao thoa của nhiều dân tộc và cộng đồng văn hóa khác nhau, thu hút lượng lớn dân số lao động di cư từ các vùng khác trong nước đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh. Để nghiên cứu rõ hơn về biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam, nhóm tác giả lựa chọn các tỉnh, thành phố nổi bật sau: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ. Bởi lẽ khi tiến hành các biện pháp giáo dục, các khu vực này đem đến một số lợi thế như:

<small> </small>

<small>8</small><i><small> Nguyễn Khắc Hải, Chiến lược phòng ngừa tội phạm - Lý luận và Ứng dụng (2021), Nxb. Chính trị quốc gia sự </small></i>

<small>thật, Hà Nội, tr.7. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Đây là khu vực có vị trí chiến lược gần các tuyến đường quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, xuất nhập khẩu và du lịch. Nơi tập trung các ngành nghề kinh tế đa dạng với tiềm năng phát triển cao, thu hút một lượng lớn đầu tư về giáo dục đến từ nhiều nơi. Từ đó, điều kiện học tập, sinh sống và làm việc được cải thiện, đáp ứng xu hướng đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa hiện nay. Điều kiện sống phát triển thu hút người dân trong và ngoài nước đến để sinh sống và làm việc. Điều này khiến dân số tăng cao, cung cấp nguồn nhân lực lớn trong hoạt động triển khai thực hiện các biện pháp giáo dục tại địa phương. Dân cư đến từ nhiều nơi trong và ngồi nước tạo nên một nền văn hóa đa sắc màu, đa giáo dục, thành phần nghề nghiệp, trình độ dân cư. Sự đa dạng này tạo nên một môi trường năng động, lôi kéo sự đầu tư, hợp tác từ nhiều nơi trên thế giới. Đồng thời, tại các khu vực này, giáo dục được coi trọng và đánh giá cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy đam mê học hỏi của người dân. Từ đó giúp xóa nạn mù chữ, tăng vốn hiểu biết nhằm phòng ngừa tội phạm. Ở các thành phố lớn, việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động giảng dạy góp phần nâng cao cơ sở vật chất. Nhờ có công nghệ, con người tiếp cận gần hơn với giáo dục thông qua báo đài, các trang mạng xã hội, phim ảnh… dẫn đến việc thực hiện các biện pháp giáo dục được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, các tỉnh trên địa bàn phía Nam cũng có những thách thức như đơ thị hóa, nghèo đói, mất việc làm, cạnh tranh khốc liệt, sự chênh lệch giàu nghèo, một số vấn đề xã hội như ma túy, tệ nạn xã hội, giao thơng ùn tắc. Điều này địi hỏi các biện pháp phòng ngừa tội giết người cần được thiết kế dựa trên nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng về đặc thù văn hoá và xã hội của từng tỉnh. Các chương trình giáo dục phịng chống tội giết người chủ yếu thơng qua các hình thức truyền thơng đại chúng, tọa đàm, hội thảo... Nhiều chương trình vẫn chưa thực sự tiếp cận đến với người dân, những người cần phải được truyền đạt những kiến thức nhất.

Mỗi khu vực có nền văn hóa, nền kinh tế, đặc điểm dân cư… khác nhau, do đó, cần có một hoặc một số biện pháp giáo dục phù hợp và linh hoạt với đặc điểm của từng vùng. Đối với việc phịng ngừa tội giết người, khơng chỉ có một biện pháp duy nhất mà cần đa dạng hóa và tùy chỉnh theo từng tình huống cụ thể. Bên cạnh đó, việc tùy chỉnh các biện pháp giáo dục cũng phải dựa vào sự đánh giá và phân tích kỹ lưỡng về tình hình tội phạm giết người ở từng địa phương. Việc hiểu rõ nguyên nhân và tình hình cụ thể giúp xây dựng những chương trình giáo dục phù hợp và hiệu quả hơn trong việc phòng ngừa tội giết người. Vậy nên, việc nghiên cứu nội dung của biện pháp giáo dục trong hoạt động phòng ngừa tội phạm giết người thực sự cần thiết.

Một số nội dung của biện pháp giáo dục cụ thể tác động đến ý thức và hành vi của con người, góp phần phịng ngừa tội giết người, bao gồm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Giáo dục học vấn - văn hóa chịu trách nhiệm quan trọng trong việc ảnh hưởng đến phòng chống tội giết người bằng cách nâng cao nhận thức, truyền tải các giá trị văn hóa tốt đẹp và duy trì truyền thống quan trọng. Qua việc tiếp thu kiến thức về sinh học, văn hóa và lịch sử, mỗi cá nhân sẽ hiểu rõ hơn về giá trị sự sống. Điều này xây dựng một cách nhìn sâu sắc hơn về ý nghĩa cuộc sống, khuyến khích họ trân trọng và bảo vệ cuộc sống của chính mình và của người khác.

<i>- Giáo dục đạo đức và ý thức pháp luật: </i>

Giáo dục đạo đức là biện pháp giáo dục tác động đến nhận thức và hành vi của con người. Đó là kết quả của việc chỉ ra và phân biệt giữa những điều đúng và sai, thiện và ác, tốt và xấu. Giáo dục ý thức đạo đức làm rõ giá trị cuộc sống và giá trị thiêng liêng của mỗi sinh mạng.

Giáo dục ý thức pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật, khuyến khích sự tơn trọng và tuân thủ pháp luật. Đây là một trong những nội dung giáo dục hiệu quả để phòng ngừa tội phạm giết người. Qua việc tuyên truyền và đào tạo về pháp luật, về ý thức phòng chống tội giết người góp phần xây dựng một xã hội với những cá nhân có nhận thức sâu sắc về quyền và trách nhiệm trong tuân thủ và thực thi pháp luật.

<i>- Giáo dục ứng xử: </i>

Giáo dục bằng cách hướng dẫn về hành vi và thái độ ứng xử đúng đắn giữa người với người, giữa cá nhân với tổ chức, tập thể, cộng đồng. Giáo dục ứng xử có ý nghĩa trong một mơi trường xã hội có xung đột, căng thẳng và bạo lực. Kết quả giáo dục nhằm có được sự văn minh trong giao tiếp, hạn chế ứng xử tự phát, vi phạm đạo đức và vi phạm pháp luật.

Nhằm đạt hiệu quả trong cao trong hoạt động phòng ngừa tội giết người, nhà nước và xã hội cần sử dụng các nội dung giáo dục đa dạng và phù hợp: giáo dục học vấn - văn hóa; đạo đức và ý thức pháp luật; ứng xử. Để làm được điều này, nhà nước phải tập trung vào việc đưa ra phương hướng thực hiện phù hợp với đặc điểm riêng của từng khu vực. Mỗi đối tượng, tùy vào độ tuổi, trình độ học vấn, môi trường xã hội mà họ tiếp xúc sẽ có những cách tiếp cận phù hợp, dễ dàng và thuận tiện hơn với từng biện pháp giáo dục khác nhau. Việc kết hợp nội dung giáo dục vào nhiều môi trường đa dạng giúp tạo ra những tiến bộ quan trọng trong hoạt động phòng ngừa tội giết người. Đồng thời, cần đảm bảo rằng nội dung giáo dục được truyền đạt một cách mạnh mẽ để giáo dục và cảnh báo những nguy cơ, hậu quả của hành vi phạm tội. Từ đó thúc đẩy nhận thức và thay đổi hành vi của cộng đồng trong việc chấp nhận và hỗ trợ ngăn chặn tội giết người.

Từ việc phân tích trên về biện pháp phịng ngừa tội phạm giết người, ta có thể khái quát định nghĩa “phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp giáo dục” như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>Phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam bằng biện pháp giáo dục là một phương pháp phịng ngừa bằng cách hồn thiện nội dung và cải thiện phương thức giáo dục hướng đến cá nhân và cộng đồng về sự hiểu biết, các giá trị đạo đức, pháp luật và ứng xử nhằm góp phần phịng ngừa tội phạm này tại các tỉnh phía Nam Việt Nam. </i>

<i><b>1.1.2. Đặc điểm của biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam </b></i>

Biện pháp giáo dục rất đa dạng, phong phú, cần phải sử dụng linh hoạt cho phù hợp với mục đích, đối tượng và từng tình huống, nội dung giáo dục cụ thể. Nhà nước Việt Nam luôn xem giáo dục là quốc sách, đồng thời cũng có vai trị lo lớn trong phịng, chống tội phạm. Để phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả, nhà nước và xã hội cần lấy giáo dục để ngăn ngừa là chính, kết hợp với răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, đề cao tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Tính dân chủ của giáo dục cũng được thể hiện trong biện pháp giáo dục để phòng ngừa tội phạm với sự phát huy vai trò quần chúng và các đoàn thể nhân dân chủ động tham gia tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa tội phạm. Hoạt động giáo dục trong phòng ngừa tội phạm phải đạt đến mục đích cuối cùng là nâng cao trách nhiệm, vai trị chủ động của các ngành, đoàn thể, tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm giết người có nguyên nhân xã hội<small>9</small>.

Sau đây là những đặc điểm nổi bật của phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp

<small>9 Tô Thị Thu Hà, “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật trong phòng ngừa tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội”, [ class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

hợp với đối tượng đó. Thái độ và hành vi có thể ảnh hưởng lẫn nhau. Thái độ của con người có thể làm thay đổi hành vi của họ. Nếu con người có thái độ tích cực, họ có xu hướng hành động tốt hơn. Tương tự, hành vi của con người cũng có thể làm thay đổi thái độ của họ. Nếu con người có hành động tích cực, họ có xu hướng đem đến thái độ tích cực hơn, làm giảm thiểu đi những xung đột tiêu cực, giúp các cá nhân biết cách giải quyết vấn đề một cách hịa bình và đúng mực.

Tuy nhiên, ý thức khơng thể thay đổi được thực tiễn mà nó chỉ chỉ đạo hành vi hoạt động của con người, quyết định tính đúng sai trong hành động. Do đó, biện pháp giáo dục là biện pháp vô cùng quan trọng trong việc hình thành và tác động lên ý thức của con người. Biện pháp này có giá trị sâu sắc trong việc thay đổi nguyên nhân phạm tội trong ý thức của mỗi người.

Đặc biệt, giáo dục là một biện pháp nhân văn và tiến bộ khi hướng tới việc nâng cao giá trị con người và xã hội thông qua việc tác động đến ý thức của từng cá nhân trong cộng đồng. Một số biện pháp khác đơn thuần ngăn ngừa các hành vi xấu bằng việc áp đặt luật lệ, kiểm soát chặt chẽ hoặc sử dụng bạo lực, tập trung vào việc kiểm soát hành vi của người khác bằng cách trừng phạt hoặc ngăn chặn hành vi xấu. Ngược lại, biện pháp giáo dục tập trung vào việc giúp đỡ và đào tạo con người trở nên tốt hơn, thông qua việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng, giá trị và cách thức hành xử đúng đắn. Biện pháp này khuyến khích sự phát triển tích cực, tăng cường nhận thức, giúp con người hiểu rõ hơn về hậu quả cho hành động của họ và đưa ra quyết định thơng minh hơn.

Do đó, biện pháp giáo dục không chỉ giúp ngăn ngừa các hành vi xấu, mà còn giúp cải thiện đời sống con người, tăng cường nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, xã hội, đồng thời đóng góp vào sự phát triển bền vững của cộng đồng.

<i>Thứ hai, biện pháp giáo dục có tính thuyết phục cao, khơng bị cưỡng chế, không làm tổn thương quyền con người, đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm về thân thể. </i>

Đúng vậy, biện pháp giáo dục có tính thuyết phục cao hơn so với các biện pháp phòng ngừa khác, bởi vì nó tập trung vào việc giáo dục, truyền đạt kiến thức, kỹ năng, giá trị và cách thức hành xử đúng đắn cho người học. Trong quá trình giáo dục, người học sẽ được học tập và tiếp nhận thông tin một cách tự nguyện, chủ động, đồng thời có thể đưa ra ý kiến và cảm nhận của mình về những gì họ học được.

Bên cạnh đó, biện pháp giáo dục cũng không thể hiện sự cưỡng chế, vì mọi người có quyền lựa chọn việc học và không học, tiếp thu hoặc không tiếp thu những nội dung mà họ không muốn học. Nếu người học không đồng ý với nội dung giáo dục hoặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

phương pháp giảng dạy, họ có quyền đưa ra ý kiến và tìm kiếm các giải pháp khác phù hợp với mình.

Hơn nữa, biện pháp giáo dục khơng làm tổn thương quyền con người, đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Giáo dục được thực hiện theo các quy định pháp luật, đảm bảo tính đúng đắn, không gây tổn thương, không vi phạm quyền con người. Trong khi các biện pháp phòng ngừa khác như sử dụng bạo lực, kiểm soát chặt chẽ, áp dụng các chế tài, thường đặt trọng tâm vào việc nghiêm cấm các hành vi gây nguy hiểm của con người bằng cách trừng phạt hoặc áp đặt những quy định nghiêm ngặt. Các biện pháp này có thể gây tổn thương đến nhân quyền, xâm phạm quyền tự do và nhân đạo của con người, đặc biệt là khi áp dụng một cách cứng nhắc mà không cân nhắc đến các yếu tố xã hội, tâm lý, tình cảm của cá nhân.

Nếu sử dụng các biện pháp phòng ngừa bằng cưỡng chế, không phải biện pháp giáo dục có thể gây tổn thương đến con người như là việc sử dụng áp lực vũ lực quá mức để giải quyết các vấn đề an ninh trong xã hội. Những hành động này có thể gây tổn thương đến quyền tự do thân thể và quyền khác của con người của các cá nhân bị bắt giữ, khiến cho người dân mất niềm tin vào chính quyền và những quyền lợi được bảo vệ của họ. Các biện pháp phịng ngừa nghiêm khắc khác như các chính sách phạt tiền hay tù giam cũng có thể gây tổn thương đến con người nếu chúng không được áp dụng một cách cơng bằng và cân nhắc. Ví dụ, một hành vi xấu nhất định có thể được phạt nặng hơn cho một người dân có địa vị xã hội thấp hơn, trong khi người có địa vị xã hội cao hơn lại không bị phạt tương tự. Điều này dẫn đến sự bất đồng xã hội, gây tổn thương đến quyền cơng bằng của các cá nhân.

Ngồi ra, các biện pháp như sử dụng bạo lực, kiểm soát chặt chẽ, áp dụng các chế tài… nếu không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ sẽ dẫn đến tình trạng các hành vi vi phạm vẫn tiếp tục diễn ra sau khi các biện pháp này được áp dụng. Trong khi đó, biện pháp giáo dục thay vì chỉ giải quyết những hậu quả của các vấn đề này, thì nó có thể ngăn ngừa các hành vi vi phạm trước khi chúng trở nên nghiêm trọng hơn. Đặc biệt, biện pháp này được thực hiện một cách nhân đạo và tôn trọng nhân quyền của con người, đảm bảo tính cân bằng và phù hợp với hồn cảnh, đặc điểm của tất cả mọi người.

Vì vậy, biện pháp giáo dục được xem là phương pháp hiệu quả và có tính nhân đạo, tiến bộ cao trong việc đảm bảo an ninh, trật tự, giáo dục và phát triển con người.

<i>Thứ ba, biện pháp giáo dục cần tiến hành lâu dài, thường xuyên để đạt được hiệu quả. </i>

Đúng với tính chất của nó, biện pháp giáo dục tác động lâu dài và giúp thay đổi dần về nhận thức, thái độ và ứng xử của cá nhân và cộng đồng từ đó giúp ngăn chặn

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

hoặc giảm thiểu tình trạng phạm tội trong cộng đồng. Đây là một quá trình “mưa dầm, thấm lâu” và khơng thể có ngay kết quả trong một sớm, một chiều.

Để thực hiện biện pháp giáo dục phịng ngừa tội giết người, các chương trình giáo dục thường tập trung vào việc giáo dục cho học sinh về các giá trị đạo đức, kỹ năng sống, giải quyết vấn đề và tư duy phản biện. Những kỹ năng và kiến thức này cũng giúp học sinh nhận thức, hiểu rõ về các hành vi phạm tội, nhận biết được hậu quả của chúng từ đó biết cách tránh xa hoặc giải quyết tình huống phạm tội.

Việc thay đổi nhận thức, thái độ của một cá nhân đòi hỏi thời gian và sự tiến hành thường xuyên, cùng với sự ủng hộ, hướng dẫn của giáo viên, gia đình và cộng đồng. Khi những kỹ năng và kiến thức được các cá nhân áp dụng và sử dụng thường xuyên, chúng sẽ trở thành thói quen và hành vi tự nhiên.

Ngoài ra, biện pháp giáo dục phòng ngừa tội giết người cũng tác động đến cộng đồng xung quanh và tạo ra những thay đổi văn hóa. Việc thay đổi văn hóa địi hỏi thời gian cũng như sự nỗ lực của nhiều người trong cộng đồng bởi lẽ việc này không thể thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên, khi cộng đồng thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi, thì sự thay đổi đó sẽ trở thành một phần của nền văn hóa cộng đồng, từ đó có thể duy trì trong thời gian dài. Do đó, để đạt được kết quả lâu dài, biện pháp giáo dục phòng ngừa này cần phải được triển khai một cách có kế hoạch, liên tục và kiên trì, phải được thực hiện khơng chỉ trong trường học mà cịn trong cả cộng đồng.

<i>Thứ tư, biện pháp giáo dục có hiệu quả khác biệt so với các biện pháp khác. </i>

Đối với phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp kinh tế:

Biện pháp kinh tế dù không dễ thực hiện nhanh chóng nhưng cũng có thể đem lại hiệu quả trước mắt bằng cách cải thiện điều kiện kinh tế xã hội, cải thiện thu nhập, giảm thất nghiệp và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Những điều kiện này có thể giúp giảm bớt tình trạng tội phạm vì người dân khơng bị ép buộc phải phạm tội để sống. Hay việc tăng cường đầu tư kinh tế vào các khu vực có nguy cơ cao về tội phạm sẽ giúp tăng cường an ninh, đồng thời cung cấp cho những người dân trong khu vực đó các cơ hội việc làm và giáo dục.

Tuy nhiên, biện pháp kinh tế có thể dẫn đến những hệ quả không mong muốn như sự phân biệt chủng tộc hoặc tình trạng bất bình đẳng. Khi áp dụng các biện pháp kinh tế nhằm hỗ trợ tạo việc làm và cơ hội kinh doanh, có nguy cơ rằng các cơ hội này khơng được phân phối công bằng cho tất cả các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhóm thiểu số (dân tộc thiểu số). Điều này có thể làm gia tăng sự phân biệt chủng tộc trong xã hội và gây ra tình trạng bất bình đẳng trong cơ hội kinh doanh và sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, các biện pháp kinh tế có thể tập trung vào tăng cường phát triển kinh tế trong các

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

thành phố và khu vực đô thị, dẫn đến sự phân cực giữa vùng đô thị và vùng nông thơn, dễ gây ra tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận cơ hội, giáo dục giữa các vùng.

Biện pháp kinh tế có thể có tác động ngắn hạn, dài hạn để ngăn chặn tội phạm nhưng khó tác động trực tiếp đến khả năng nhận thức để phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp kinh tế như tạo việc làm, đầu tư vào hạ tầng, và cải thiện điều kiện kinh tế có thể có tác động tích cực ngắn hạn để giảm tạm thời mức độ tội phạm. Khi người dân có cơ hội việc làm và thu nhập ổn định, khả năng họ dính líu đến các hoạt động tội phạm có thể giảm đi trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, các biện pháp kinh tế khơng thể giải quyết tồn bộ những yếu tố sâu xa của tội phạm. Vấn đề đặt ra là các biện pháp kinh tế có thể tập trung vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế, nhưng chúng không đáp ứng đầy đủ các yếu tố đa diện của tội phạm. Tội phạm có thể bắt nguồn từ nhiều yếu tố phức tạp như sự bất bình đẳng xã hội, thiếu cơ hội, nghèo đói, tiếp xúc với ma túy, giáo dục kém cỏi và vấn đề tâm lý xã hội. Các biện pháp kinh tế chỉ giải quyết một phần nhỏ của những vấn đề này và khơng thể điều chỉnh mọi khía cạnh. Do đó, các biện pháp kinh tế cần phải được kết hợp với các biện pháp khác để có thể tạo ra hiệu quả lâu dài.

Đối với phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp chính trị:

Biện pháp chính trị tập trung vào thiết lập và duy trì các thiết chế dân chủ, nhân quyền và bảo đảm an ninh trật tự. Nó đặt ra các quy tắc và chính sách giúp nâng cao hiệu quả ngăn chặn tội phạm. Biện pháp chính trị thường được áp dụng trong cấu trúc chính trị, tại các cơ quan chức năng, các lực lượng chính trị và các đối tượng cộng đồng có sự ảnh hưởng trong xã hội chứ khơng được áp dụng cho tồn dân như biện pháp giáo dục. Biện pháp chính trị có thể tạo ra các tác động ngay lập tức bằng cách sử dụng quyền lực và lực lượng để thực thi các quy tắc và chính sách.

Tóm lại, biện pháp giáo dục có nhiều điểm khác biệt so với các biện pháp khác, từ mục đích, phạm vi áp dụng, hiệu quả và cả tính sáng tạo. Điều này cho thấy, biện pháp giáo dục là một biện pháp hiệu quả trong việc ngăn ngừa và giảm thiểu tội giết người thông qua những điểm nổi trội đặc thù của phương pháp này.

<i>Thứ năm, biện pháp giáo dục có mối quan hệ với các biện pháp khác. </i>

Biện pháp giáo dục trong phịng ngừa tội giết người có hiệu quả nhất định, làm giảm thiểu tội phạm trong xã hội, tuy nhiên, nó cũng có mối quan hệ hỗ trợ với các biện pháp khác để phát huy hiệu quả. Thực tế, biện pháp giáo dục này có mối quan hệ chặt chẽ với các biện pháp khác như biện pháp kinh tế, chính trị, quản lý, pháp luật và phát hiện, xử lý tội phạm bằng hình phạt. Các biện pháp khác tác động có tính độc lập nhưng cũng tác động hỗ trợ qua lại với biện pháp giáo dục trong phịng ngừa tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Về biện pháp kinh tế: khi kinh tế phát triển và tăng trưởng ổn định sẽ giúp phát </i>

triển giáo dục, từ đó có tác dụng phịng ngừa tội phạm, trong đó có tội giết người. Kinh tế ổn định tạo điều kiện cho người dân tiêu dùng đầy đủ, giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội và giúp người dân có nhiều cơ hội tiếp cận với đa dạng các dịch vụ giáo dục, cải thiện môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng giáo dục.

<i>Về biện pháp chính trị: một khi hệ thống chính trị ổn định, minh bạch, cơng bằng </i>

và dân chủ thì hiển nhiên làm tăng tính hiệu quả của các biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội phạm. Chính trị ổn định và minh bạch làm tăng độ tin cậy của hệ thống pháp luật và giáo dục trong lòng người dân. Việc tăng cường quản lý chính trị và cải thiện hệ thống pháp luật khiến an ninh trật tự được giữ vững, bảo vệ được quyền lợi của người dân, giảm thiểu khả năng xảy ra tội giết người. Các biện pháp chính trị có thể giúp giảm thiểu tội giết người bằng cách nâng cao ý thức chính trị, đảm bảo trật tự an ninh, cải thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố và xử lý tội phạm. Tuy nhiên, biện pháp này có thể khơng đạt được hiệu quả tốt nếu khơng có sự kết hợp và phối hợp giữa biện pháp giáo dục. Biện pháp giáo dục giúp tăng cường nhận thức của người dân về vấn đề tội giết người và quyền lợi của họ trong trường hợp họ là nạn nhân, từ đó tăng cường sự đồng thuận và ủng hộ của người dân đối với các biện pháp chính trị trong phòng ngừa tội giết người.

<i>Về biện pháp quản lý: biện pháp quản lý có vai trị kiểm soát xã hội. Kết quả kiểm </i>

soát xã hội giúp phân loại nhóm người có nguy cơ phạm tội, từ đó đề ra các biện pháp, nội dung giáo dục phù hợp với từng nhóm. Biện pháp quản lý là các kỹ thuật và tiến trình được sử dụng để quản lý hoạt động của một tổ chức, cơ quan hay chính phủ. Việc áp dụng biện pháp quản lý hiệu quả giúp giảm thiểu các rủi ro tội phạm và tăng cường an ninh. Điều này bao gồm việc sử dụng các kỹ thuật và phương pháp như quản lý rủi ro, đánh giá đối tượng, theo dõi các vùng nguy hiểm và đàm phán với các băng nhóm tội phạm để đạt được mục tiêu giảm thiểu tội phạm. Biện pháp quản lý và biện pháp giáo dục phịng ngừa tội giết người có thể hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục tiêu giảm thiểu tội phạm. Ví dụ, việc sử dụng phương pháp quản lý rủi ro và theo dõi vùng nguy hiểm có thể giúp nhận biết các cá nhân có nguy cơ cao để cung cấp cho họ các chương trình giáo dục phịng ngừa tội giết người. Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra tình huống tiêu cực khi phương pháp quản lý được sử dụng bị áp dụng sai hoặc áp đặt quá nhiều, gây ra sự phản đối và tăng nguy cơ tội phạm.

<i>Về biện pháp pháp luật: là một hệ thống các biện pháp được quy định trong luật, </i>

bao gồm các quy tắc và quy định được thiết lập để điều chỉnh các quan hệ xã hội từ đó duy trì trật tự và ổn định xã hội, góp phần phịng ngừa tội phạm. Biện pháp này cịn bao gồm việc áp dụng hình phạt, biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp ngăn chặn,

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

biện pháp cưỡng chế khác. Đặc điểm nổi bật của biện pháp pháp luật là có tính quy tắc, có tính cưỡng chế buộc các chủ thể phải tuân thủ.

Biện pháp pháp luật và biện pháp giáo dục trong phịng ngừa tội giết người có mối quan hệ chặt chẽ khi hai biện pháp này có thể tác động qua lại để giảm thiểu tội phạm. Biện pháp pháp luật được sử dụng để phát hiện, xử lý tội phạm. Người vi phạm pháp luật nói chung và người phạm tội nói riêng cần có biện pháp, nội dung giáo dục phù hợp. Đối với người phạm tội bị kết án phạt tù thì biện pháp giáo dục được quy định trong luật thi hành án hình sự, có kết hợp tính cưỡng chế để bảo đảm hiệu quả giáo dục. Biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người được sử dụng kết hợp với biện pháp pháp luật nhằm phòng ngừa tái phạm tội và phòng ngừa chung. Các biện pháp giáo dục phòng ngừa tội giết người được đưa vào khung pháp luật để đảm bảo thực hiện thống nhất. Tuy nhiên, việc tập trung quá nhiều vào biện pháp pháp luật có thể làm tăng nguy cơ tái phạm. Khi người phạm tội không nhận được sự hỗ trợ cần thiết và giáo dục phù hợp để thay đổi hành vi, họ có thể lạm dụng hệ thống pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Điều này dẫn đến thất bại trong việc tái hòa nhập vào xã hội, làm tăng nguy cơ tái phạm trong tương lai. Mặt khác, đối với tội phạm nghiêm trọng, việc chỉ dựa vào giáo dục không đủ sức răn đe để ngăn chặn hành vi phạm tội. Các vấn đề liên quan đến tội phạm nghiêm trọng thường rất phức tạp, địi hỏi phải có các biện pháp tồn diện kết hợp với phương tiện quản lý, giám sát tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái hòa nhập xã hội sau khi thi hành án phạt. Do đó, để đạt hiệu quả tốt nhất trong hoạt động phòng ngừa tội giết người và giảm nguy cơ tái phạm cần cân nhắc kết hợp biện pháp pháp luật và giáo dục tồn diện, thơng minh.

<i>Thứ sáu, biện pháp giáo dục mang yếu tố vùng miền. </i>

Các tỉnh phía Nam Việt Nam có sự giao thoa đa dạng về văn hóa dân tộc nhờ sự di dân của dân cư đến từ nhiều nơi trong và ngoài nước. Tuy nhiên, dân số đông ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và quản lý hệ thống giáo dục. Số lượng lớp học, đội ngũ giáo viên, giảng viên có trình độ chun mơn trong nhà trường cần được đảm bảo, kiểm soát chặt chẽ phù hợp với mật độ dân số của từng tỉnh thành. Nếu trường lớp không đảm bảo về chất lượng giáo dục, đội ngũ cán bộ cơng nhân viên thì việc thực hiện hoạt động giáo dục trở nên khó khăn, khơng đạt hiệu quả cao.

Nhờ nền kinh tế phát triển, đơ thị hóa được đẩy mạnh ở các thành phố lớn thu hút đầu tư của nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Điều này tạo ra sự chênh lệch giáo dục giữa nông thôn - thành thị, khoảng cách giàu - nghèo xuất hiện. Môi trường giáo dục tại các thành phố lớn được trang bị tốt hơn, trong khi trường học tại nơng thơn gặp khó khăn về cơ sở vật chất và nguồn lực do thiếu kinh phí đầu tư. Người có mơi

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

trường giáo dục tốt hơn thường có nhiều cơ hội tốt trong việc tìm kiếm việc làm, ngược lại, những người khơng được giáo dục đầy đủ có thể bị kìm hãm sự phát triển.

Các tỉnh, thành phố phía Nam Việt Nam tồn tại nhiều loại hình văn hóa đa dạng trong ngơn ngữ, tơn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ nghi. Môi trường phát triển với nhiều nền văn hóa khác nhau ảnh hưởng đến lối sống, nhận thức và tính cách của con người nơi đây. Các phương tiện giải trí xuất hiện, con người năng động hơn do sự giao thoa văn hóa đến từ nhiều vùng miền, quốc gia, dân tộc trên thế giới. Thực tế cho thấy, so với các tỉnh miền Bắc, miền Trung thì giáo dục tại miền Nam khơng được trú trọng nhiều. Đối với các tỉnh phía Nam Việt Nam, bên cạnh hoạt động giáo dục, họ cịn đẩy mạnh các hoạt động giải trí, văn hố nghệ thuật khác. Các hoạt động này có sự thu hút, lôi kéo con người hơn là sự giáo dục một cách khô khan, áp đặt. Điều này làm cho hoạt động giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tập trung triệt để đến tâm lý, nhận thức và hành vi của con người.

Biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người tại các tỉnh phía Nam Việt Nam tồn tại nhiều đặc điểm nổi bật. Các đặc điểm ấy đều hướng đến mục tiêu chung là tạo ra mơi trường giáo dục tích cực và hiệu quả. Từ đó giúp người dân phát triển toàn diện về nhận thức, hành vi, thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.

<b>1.2. Vị trí, vai trị của biện pháp giáo dục đối với phòng ngừa tội giết người trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam </b>

<i><b>1.2.1. Vị trí của biện pháp giáo dục đối với phòng ngừa tội giết người </b></i>

Phòng ngừa tội phạm giết người bao gồm nhiều biện pháp trên các lĩnh vực khác nhau: biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa - tâm lý, tổ chức quản lý, pháp luật và phát hiện - xử lý tội phạm bằng hình phạt. Trong hệ thống này, biện pháp giáo dục đóng vai trị quan trọng và thuộc nhóm các biện pháp văn hóa - tâm lý, tác động lên đời sống tinh thần của xã hội và cá nhân.

Trong đó, nhóm các biện pháp văn hóa - tâm lý thường nằm ở vị trí bổ sung và kết hợp với các nhóm biện pháp khác để đạt được hiệu quả tốt nhất trong giải quyết các vấn đề xã hội. Chẳng hạn, trong việc giải quyết vấn đề tội phạm, các biện pháp văn hóa - tâm lý có thể được sử dụng bổ sung với các biện pháp pháp lý, an ninh quốc phòng và kinh tế để giảm thiểu tội phạm. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực hình sự, nhà làm luật cũng như các cơ quan, bộ máy nhà nước áp dụng biện pháp này trong hệ thống tư pháp nhằm tiếp cận gần hơn với tâm lý tội phạm để giải quyết vụ án. Tương tự, trong việc giải quyết vấn đề giáo dục, các biện pháp văn hóa - tâm lý có thể được kết hợp với các biện pháp kinh tế và chính trị để cải thiện chất lượng giáo dục và nâng cao trình độ dân trí. Vì vậy,

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

nhóm các biện pháp văn hóa - tâm lý thường được coi là một phần quan trọng trong chiến lược toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội.

Có thể thấy, biện pháp giáo dục phịng ngừa tội phạm giết người thuộc nhóm các biện pháp văn hóa - tâm lý. Cốt lõi của biện pháp này là tác động lên đời sống tinh thần của cá nhân và toàn xã hội, tức là ảnh hưởng đến suy nghĩ, nhận thức bên trong mỗi người. Biện pháp giáo dục khơng phải nhóm các biện pháp có tính chất vật chất như kinh tế, cũng khơng áp dụng các hình phạt cưỡng chế mà nó nằm gần với các biện pháp thuộc lĩnh vực tinh thần như biện pháp chính trị. Nằm trong nhóm các biện pháp văn hóa - tâm lý, biện pháp giáo dục là bước đầu tiên, cơ bản nhất tác động đến suy nghĩ, thái độ, tâm lý của con người trước hành vi của bản thân họ. Giáo dục ảnh hưởng đến tư duy của não bộ, não bộ điều khiển hành vi của con người. Vậy nên, biện pháp giáo dục được xem là “quốc sách” ưu tiên hàng đầu trong hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội giết người trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam mà nhóm tác giả lựa chọn.

Biện pháp giáo dục có tính độc lập với các biện pháp phịng ngừa tội phạm người khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, biện pháp giáo dục có thể được tiến hành riêng biệt, nhưng có những nội dung cần phải kết hợp với các biện pháp khác để tiến tới mục đích cuối cùng là phịng ngừa tội giết người. Chẳng hạn như các cơ quan tổ chức cần kết hợp với biện pháp tổ chức quản lý để đẩy mạnh hệ thống các biện pháp giáo dục tới toàn dân, nắm được số lượng người tiếp cận được nguồn thông tin này là bao nhiêu để đưa ra giải pháp phù hợp. Bên cạnh đó, biện pháp pháp luật cũng góp phần to lớn trong việc tạo lập một hệ thống các giải pháp xử lý, khắc phục khi con người không tham gia các biện pháp giáo dục do địa phương, nhà nước tổ chức quản lý. Từ đó đẩy lùi “tội giết người” ra khỏi xã hội, đem lại cuộc sống an yên, ổn định cho quốc gia, dân tộc.

Giáo dục giúp ngăn chặn các hành vi bạo lực của tội phạm liên quan đến án mạng. Biện pháp này bao gồm các hoạt động giáo dục, tuyên truyền về đạo đức, văn hóa, luật pháp và các giá trị xã hội khác nhằm ngăn chặn hành vi giết người, xây dựng một xã hội văn minh, tốt đẹp hơn. Việc áp dụng các biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người giúp tăng cường kỹ năng sống cho mọi người, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên. Từ đó, họ có được những kiến thức cơ bản để tránh xa các yếu tố bạo lực, tăng khả năng đối phó với áp lực tâm lý đến từ xã hội.

Biện pháp giáo dục được coi là trung tâm của hệ thống vì nó tác động sâu vào tư tưởng, ý thức và hành vi của con người. Qua việc cung cấp kiến thức về giá trị đạo đức, luật pháp và quy tắc xã hội, biện pháp này xây dựng nền tảng văn hóa và giá trị cộng đồng, hình thành niềm tin, lý tưởng và thái độ đúng đắn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Sự kết nối và tương tác giữa biện pháp giáo dục với các lĩnh vực khác trong hệ thống phòng ngừa tội phạm tạo ra một hệ thống tồn diện và hiệu quả. Giáo dục đóng vai trò trung tâm trong việc tác động sâu vào nhận thức và hành vi của con người, đồng thời tương tác, hỗ trợ các biện pháp khác để đạt được mục tiêu chung là xây dựng một xã hội an tồn, khơng tội phạm giết người và phát triển bền vững.

<i><b>1.2.2. Vai trò của biện pháp giáo dục đối với phòng ngừa tội giết người </b></i>

Khi Nghiên cứu về cơ chế tâm lý - xã hội của hành vi phạm tội cụ thể, GS.TS. Võ

<i>Khánh Vinh nhận định: “Cơ chế của hành vi phạm tội là một hiện tượng động, là sự tác </i>

<i>động lẫn nhau nhất định trong các yếu tố cấu thành nó. Các yếu tố cá nhân bên trong của cơ chế hành vi phạm tội là những quá trình và trạng thái tâm lý được xem xét trong trạng thái động, không tách rời mà là ở trong sự tác động lẫn nhau với các nhân tố của mơi trường bên ngồi quyết định hành vi đó”<small>10</small>. Cơ chế của hành vi phạm tội bao gồm </i>

ba khâu cơ bản: quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm; việc kế hoạch hóa các hoạt động phạm tội; việc trực tiếp thực hiện tội phạm.

Theo đó:

Khâu thứ nhất bao gồm các nhu cầu cá nhân, các ý định, dự định, kế hoạch và lợi ích trong đời sống hàng ngày của họ. Các nhu cầu, ý định, dự định, kế hoạch và lợi ích trong sự tác động lẫn nhau với hệ thống các định hướng giá trị của cá nhân sinh ra các động cơ của hành vi phạm tội.

Khâu thứ hai của cơ chế hành vi phạm tội là sự cụ thể hóa tính động cơ vào kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội. Ở đây, chủ thể xác định các mục đích của mình, cũng như các biện pháp, địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm và có các quyết định thích ứng.

Khâu thứ ba là việc trực tiếp thực hiện tội phạm. Nó bao gồm cả hành động (khơng hành động) phạm tội của chủ thể lẫn việc gây ra các hậu quả có hại cho xã hội<small>11</small>.

<small> </small>

<small>10 Đỗ Thành Trường, “Một số vấn đề về cơ chế tâm lý - xã hội của hành vi phạm tội cụ thể và nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy”. </small>

<small>hoi-cua-hanh-v-d14-t7695.html?Page=8#new-related] (truy cập ngày 09/7/2023). </small>

<small>[ Đỗ Thành Trường, “Một số vấn đề về cơ chế tâm lý - xã hội của hành vi phạm tội cụ thể và nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy”. </small>

<small>hoi-cua-hanh-v-d14-t7695.html?Page=8#new-related] (truy cập ngày 09/7/2023).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i>[ đồ hoá cơ chế hành vi phạm tội cụ thể </i>

Vậy để ngăn chặn một hành vi phạm tội mà cụ thể ở dây là tội phạm giết người thì ta cần phải đảm bảo không để cho ba khâu này được thực hiện một cách đầy đủ. Lúc này giáo dục được hiểu như một cách thức tác động vào thế giới quan của chủ thể từ đó sẽ quyết định đến việc hình thành hoặc khơng hình thành “động cơ của tội phạm” - khâu đầu tiên cấu thành nên cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Nói cách khác giáo dục là biện pháp phòng ngừa tác động vào tận gốc của cơ chế hình thành nên ý nghĩ phạm tội. Ý thức sẽ dẫn đến việc thực hiện hành vi, do đó nếu biện pháp giáo dục được áp dụng một cách đúng đắn và thường xuyên chắc chắn sẽ làm cho con số những vụ án giết người ở các tỉnh thành phía Nam nói riêng hay ở các khu vực khác giảm xuống một cách đáng kể.

Quá trình thực hiện các biện pháp giáo dục đặc biệt là trong việc phịng ngừa tội giết người là một q trình dài và khó khăn, khơng chỉ là những biện pháp được đề ra cho có mà cần phải có sự hợp tác, nỗ lực của toàn dân, toàn xã hội. Biện pháp giáo dục tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, tuy sự tác động là khác nhau nhưng tất cả đều có chung một mục đích là nhằm phịng ngừa và giảm thiểu đi tình trạng phạm tội giết người. Đây là một cơ chế tác động mạnh mẽ và hiệu quả đối với nhận thức, hành vi của con người. Với khả năng tác động lên cả tầng lớp xã hội và cá nhân, biện pháp giáo dục giúp hình thành, thừa nhận các giá trị xã hội tốt đẹp, đồng thời tạo ra những thay đổi tích cực trong tư duy, ý thức và hành vi của mỗi người.

Một trong những tác động của biện pháp giáo dục là tạo ra sự thừa nhận và tôn trọng các giá trị xã hội tốt đẹp. Qua việc truyền đạt kiến thức về đạo đức và pháp luật, biện pháp giáo dục giúp người dân hiểu rõ về những giá trị đúng đắn trong xã hội, tầm quan trọng của việc tuân thủ quy định của pháp luật. Điều này giúp xây dựng một tinh thần tơn trọng và đồng lịng với những giá trị chung của cộng đồng, đồng thời ngăn chặn sự lan truyền của tư tưởng và hành vi xấu xa. Theo nhà xã hội học người Mỹ George Herbert Mead, nhận thức xã hội được hình thành thơng qua q trình tương tác xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

giữa các cá nhân<small>12</small>. Có thể thấy được trong q trình tương tác xã hội, các cá nhân tiếp nhận thông tin, kinh nghiệm và tình huống xã hội từ mọi người xung quanh. Những thơng tin và kinh nghiệm này có thể là những giá trị, quan niệm, hay các quy tắc và chuẩn mực của xã hội. Các cá nhân sẽ đánh giá, lựa chọn và xử lý thông tin này theo cách của mình, dựa trên những kiến thức và kinh nghiệm đã có trước đó, để hình thành và cập nhật nhận thức của mình về xã hội. Qua đó, ta thấy được rằng việc có một biện pháp giáo dục phù hợp trong phòng ngừa tội phạm giết người tác động rất lớn lên nhận thức xã hội đặc biệt là đối với trẻ em. Bởi lẽ, nếu xung quanh tất cả mọi người đều được giáo dục, đều hiểu được những giá trị của con người, của cuộc sống, hay những quy tắc chuẩn mực đúng đắn thì xã hội lúc bấy giờ trở nên tốt đẹp hơn. Chính điều này khiến cho ý định giết người và tước đoạt mạng sống của người khác được giảm thiểu, từ đó có thể phịng ngừa tội phạm giết người xuất hiện.

Bên cạnh việc tác động rất lớn đến nhận thức xã hội, biện pháp giáo dục còn đặc biệt tác động đến ý thức, thái độ, hành vi của cá nhân. Ý thức, thái độ và hành vi là những khía cạnh khác nhau của con người nhưng chúng không tách rời mà đều có sự ảnh hưởng đến nhau. Theo như từ điển tiếng Việt thì ý thức là nhận thức, hiểu biết, tri thức của cá nhân về một vấn đề. Ý thức bao gồm những suy nghĩ, cảm nhận và đánh giá của con người về thế giới xung quanh mình. Ý thức của một cá nhân phản ánh các giá trị, quan điểm, kiến thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của họ. Thái độ là cách nhìn nhận, đánh giá và phản ứng của một cá nhân đối với một đối tượng, một sự việc hoặc một tình huống. Thái độ có thể được hình thành dựa trên những thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và giá trị cá nhân. Hành vi là các hoạt động cụ thể mà một cá nhân thực hiện. Hành vi bị ảnh hưởng bởi ý thức và thái độ của con người, cũng như môi trường xung quanh và các yếu tố khác. Việc đưa ra những biện pháp giáo dục phù hợp trong phòng ngừa tội phạm giết người khiến cho các cá nhân ý thức đúng đắn hơn về giá trị đạo đức, về những tình huống, hậu quả mà tội giết người gây nên, từ đó điều chỉnh thái độ và hành vi của mình phù hợp với pháp luật. Điều này có tác động rất lớn trong việc ngăn chặn, phịng ngừa tội phạm giết người nói chung và tội giết người nói riêng.

Ngồi ra, chủ thể chịu tác động trực tiếp bởi biện pháp giáo dục này chính là con người. Mục đích chính nhằm ngăn chặn sự tương tác của những đặc điểm xấu với các tình huống và hồn cảnh khách quan. Đây là cách thức tác động trực tiếp đến những đặc điểm tâm lý, ý thức, thái độ và hành vi. Con người là chủ thể quan trọng trong xã hội, hành vi của họ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của cộng đồng. Mỗi con người sinh ra đều có một đặc điểm tính cách riêng biệt, do đó khơng loại trừ việc mỗi cá thể có một điểm xấu cũng khác nhau. Những đặc điểm này vô cùng đa dạng và đôi khi cũng vô cùng <small> </small>

<small>12</small><i><small> George H.Mead, Mind, Self and Society, The University of Chicago Press, tr.139. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

phức tạp, nó có thể dẫn đến những hành vi phạm tội và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Đặc biệt là khi hoàn cảnh khách quan xung quanh ta thay đổi, nếu không nhận thức được đặc điểm xấu, hành vi xấu của bản thân thì rất dễ bị cuốn theo và dễ phạm phải những hành vi sai lệch ấy, cụ thể hơn là hành vi bạo lực gây thiệt hại tính mạng con người. Do đó, giáo dục phịng ngừa tội phạm là một phương pháp hiệu quả để giúp con người nhận thức về những đặc điểm xấu của mình. Từ đó đối phó, thích nghi được với những thay đổi của mơi trường xung quanh một cách tích cực, tránh mắc phải những hành vi sai trái, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, ngăn ngừa được sự hình thành động cơ phạm tội giết người. Đồng thời giúp con người nhận ra và kiểm soát những động cơ tiềm năng có thể dẫn đến hành vi phạm tội. Hơn hết là sự phát triển những phẩm chất, kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề và xử lý tình huống một cách hợp lý. Qua việc cung cấp kiến thức về giá trị đạo đức, pháp luật và hậu quả của hành vi phạm tội, biện pháp giáo dục giúp con người nhận ra những rủi ro và hậu quả đáng sợ của việc tham gia vào các hành vi này, bao gồm cả tội giết người. Nó khuyến khích con người xem xét và đánh giá lại những giá trị, động cơ và hành vi của mình trong các tình huống gây áp lực hoặc xung đột. Qua q trình này, người ta có thể đưa ra những lựa chọn và hành động phù hợp với quy tắc pháp luật và giá trị đạo đức. Điều này khiến cho tình hình tội giết người được giảm thiểu đáng kể.

Mặt khác, biện pháp giáo dục tạo điều kiện cho con người phát triển theo nhiều phương diện khác nhau, bao gồm tinh thần, tình cảm và cảm xúc, giúp họ thấy hài lòng về cuộc sống của mình và đóng góp tích cực vào xã hội. Có thể thấy, so với việc phịng ngừa tội giết người bằng các biện pháp kinh tế - chính trị - xã hội, biện pháp giáo dục khơng chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế mà cịn tập trung vào mục đích phát triển con người, giúp họ có lối tư duy, cái nhìn tích cực hơn vào cuộc sống, từ đó góp phần hình thành nên một xã hội an toàn, ổn định, văn minh.

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>

Giết người là hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đáng lên án khi xâm phạm đến quyền được sống của con người. Đây là mối đe dọa mà nếu khơng có biện pháp phịng ngừa sẽ để lại mối lo ngại cho sự an toàn của nhân loại và tồn xã hội. Phịng ngừa tội giết người trở thành một vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải có sự chung tay của tồn xã hội chứ không riêng các cơ quan chức năng. Việc áp dụng biện pháp giáo dục là một trong những cách thức hiệu quả để giảm thiểu tội phạm trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam mà khơng cần dùng đến các biện pháp cưỡng chế.

Trong quá trình nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội giết

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

đã đưa ra được khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của biện pháp giáo dục này. Phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp giáo dục giúp cung cấp các kiến thức cần thiết về pháp luật cũng như các kỹ năng để phịng tránh tình trạng phạm tội xảy ra.

Từ việc nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật, các bài báo liên quan đến tội giết người, tội phạm giết người, nhóm tác giả định hình được nội dung, đặc điểm liên quan đến biện pháp giáo dục trong hoạt động phòng ngừa tội giết người. Từ đó có cái nhìn sâu hơn để điều chỉnh nội dung của biện pháp giáo dục cho phù hợp với thực tiễn.

Nội dung của biện pháp giáo dục cần được đa dạng hoá và linh hoạt cho từng lứa tuổi, đối tượng hay vùng miền. Đồng thời cũng cần kết hợp với các biện pháp khác như kinh tế, chính trị... để tạo sự đồng lòng và hỗ trợ từ các tầng lớp trong cộng đồng. Những chương trình giáo dục cũng cần được tích hợp vào các hoạt động phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Ngoài ra biện pháp giáo dục không thể thiếu sự tham gia hỗ trợ từ gia đình, nhà trường và xã hội để thực hiện có hiệu quả các chương trình giáo dục phịng ngừa tội giết người. Sự phối hợp giữa các cơ quan chính quyền, tổ chức xã hội với người dân là cần thiết để nâng cao chất lượng của công tác phịng ngừa. Những vấn đề này sẽ được trình bày và phân tích trong chương 2, về nội dung của biện pháp giáo dục trong phòng ngừa tội giết người trên địa bàn các tỉnh phía Nam Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<b>CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TRONG PHÒNG NGỪA TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN </b>

<b>CÁC TỈNH PHÍA NAM VIỆT NAM </b>

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm giết người gia tăng ở mức báo động. Điều này để lại nỗi lo sợ, e ngại khơng chỉ trong lịng người dân mà cịn đối với các cơ quan tổ chức, bộ máy nhà nước. Bởi lẽ sự an toàn của nhân dân, của nhà nước đang bị đe dọa bởi tình trạng giết người này. Tuy nhiên, nhà nước ln tích cực đẩy mạnh, tăng cường phịng chống tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng bằng nhiều phương thức khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục.

Hiện nay, phương thức giáo dục cho các độ tuổi khác nhau, nhóm thành phần xã hội khác nhau chưa phù hợp. Ngun nhân là do các chính sách về phịng ngừa tội phạm ở khía cạnh hình lý (trong đó có giáo dục) vẫn chưa được chú trọng, những phương pháp đã được đề ra chưa thể hiện được sự phù hợp, sự đồng bộ cũng như giá trị thực tiễn cao ở những môi trường khác nhau với các nhóm đối tượng tác động khác nhau. Tình trạng trẻ hố tội phạm giết người, trình độ học vấn thấp, khơng có nghề nghiệp, tệ nạn xã hội, gia đình chưa có phương pháp giáo dục đúng đắn đều là những vấn đề mà các biện pháp giáo dục phòng ngừa tội giết người hiện hay chưa có giải pháp triệt để. Giáo dục tốt không đảm bảo ngăn chặn hoàn toàn hành vi giết người, nhưng việc cung cấp một mơi trường giáo dục tốt có thể giúp giảm thiểu nguy cơ và phòng ngừa hành vi phạm tội. Do đó, cần phải đưa những nội dung hồn chỉnh đối với biện pháp giáo dục cũng như cách thức thực hiện có hiệu quả các biện pháp phịng ngừa tội giết người để giảm thiểu hành vi phạm tội.

<b>2.1. Nội dung của biện pháp giáo dục nhằm phòng ngừa tội giết người </b>

<i><b>2.1.1. Giáo dục học vấn - văn hóa </b></i>

Học vấn là sự hiểu biết của con người được biểu hiện thông qua nguồn kiến thức mà họ có được bằng nhiều phương thức khác nhau như: học tập, nghiên cứu, tìm hiểu hay học hỏi từ người khác. Trình độ học vấn thể hiện mức độ hiểu biết, khả năng của một con người trong một hoặc một số lĩnh vực về tự nhiên và xã hội. Văn hóa là những đặc trưng về ngơn ngữ, phong tục, tập qn, tín ngưỡng tôn giáo, kiến trúc... của một tập thể, một quốc gia dân tộc. Văn hóa giúp con người định hình và bảo tồn bản sắc độc đáo của cộng đồng người, hỗ trợ họ trong việc định hình phong cách cá nhân và xã hội.

Về cơ bản, giáo dục học vấn - văn hóa là tổng hợp các hoạt động và biện pháp được sử dụng trong quá trình giảng dạy kết hợp với đặc trưng văn hóa của một quốc gia, dân tộc nhằm nâng cao kiến thức, trình độ học vấn. Đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh trong khu vực Đơng Nam Bộ và một số thành phố lớn lân cận là trung tâm kinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

tế, văn hoá, giáo dục, khoa học đang phát triển rất mạnh mẽ của Việt Nam. Điều này tạo ra môi trường học tập thuận lợi, khuyến khích sự tìm hiểu, sáng tạo và phát triển tư duy. Theo đó, giáo dục học vấn - văn hóa nhằm phịng ngừa tội giết người được hiểu đơn giản là những hành vi tác động lên ý thức của con người. Thông qua hoạt động truyền đạt kinh nghiệm, kiến thức đã có của văn hóa truyền thống, bồi dưỡng thêm nguồn kiến thức mới tích cực đến từ nhiều lĩnh vực, phương diện trong xã hội. Từ đó hình thành nên nhân cách, phẩm chất tốt đẹp, hành vi đúng đắn của con người. Sự hiểu biết giúp họ tránh xa những tiêu cực, hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại không chỉ cho nạn nhân mà còn cho xã hội và chính bản thân người phạm tội. Thơng qua giáo dục học vấn - văn hóa, nhà nước và xã hội hình thành một nền tảng cơ bản những nguồn tri thức cần phải có. Con người nhờ đó mà xây dựng cho mình những lối suy nghĩ phù hợp, biết phân biệt phải trái thông qua những hành vi, hành động đúng pháp luật và phù hợp với tiêu chuẩn cộng đồng.

Theo thống kê của Công an Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021, trong số 516 vụ phạm pháp do người dưới 18 tuổi thực hiện, số người bỏ học chiếm hơn 71%<small>13</small>. Đây là một con số đáng báo động về tình trạng giáo dục học vấn ở người trẻ. Việc giáo dục học vấn - văn hóa khơng trọn vẹn kìm hãm sự phát triển nhận thức của con người. Nhà trường thực hiện các hoạt động giáo dục, truyền tải kiến thức, văn hóa tích cực vào suy nghĩ con người. Tuy nhiên, khi họ không được đi học, được giáo dục trọn vẹn tại nhà trường khó có thể hình thành nhận thức đúng đắn. Các tệ nạn xã hội, tác động tiêu cực từ môi trường xã hội thu hút, lôi kéo khiến con người sa ngã, xuất hiện những hành vi trái pháp luật.

Giáo dục học vấn - văn hóa chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đình hình nhận thức, tư tưởng của mỗi người. Nội dung giáo dục văn hóa - học vấn phù hợp góp phần nâng cao trình độ văn hóa, trình độ học vấn trong nhân dân. Từ đó ngăn chặn hành vi giết người, giảm thiểu sự gia tăng của tội phạm. Tuy nhiên, tùy vào từng độ tuổi sẽ có những nội dung giáo dục phù hợp. Chẳng hạn, người chưa thành niên cần phải chịu sự giáo dục từ gia đình, nhà trường, xã hội. Người thành niên, khi đã hoàn thành xong chương trình phổ cập giáo dục chịu sự giáo dục từ xã hội là chính.

<i>Giáo dục học vấn - văn hóa đối với người chưa thành niên </i>

Người chưa thành niên ở đây là người chưa đủ mười tám tuổi, khi mà năng lực hành vi và năng lực pháp luật chưa đủ để họ có thể tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội. Theo Bộ luật hình sự 2015, về nguyên tắc thì người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ không bị xử phạt tù chung thân hay tử hình. Tuy nhiên, nếu phạm tội giết người thì họ sẽ bị <small> </small>

<small>13 Phạm Dũng, “Báo động thực trạng thanh thiếu niên phạm tội”, trang-thanh-thieu-nien-pham-toi-20210415163714319.htm] (truy cập ngày 07/8/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

[ tù theo điểm b khoản 1 Điều 123. Và theo khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự 2015, tội giết người đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì sẽ phải chịu mức hình phạt cao

<i>nhất là: “...nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình </i>

<i>thì mức hình phạt cao nhất khơng q 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng q ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định”. </i>

Giết người để lại những hệ lụy nghiêm trọng cho bản thân người phạm tội, gia đình họ và cả xã hội. Bên cạnh đó, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu,

<i>ông Nguyễn Phạm Hùng cho biết thêm về độ tuổi này: “Tâm sinh lý lứa tuổi thanh thiếu </i>

<i>niên phát triển chưa hồn thiện, dễ bị lơi kéo, dụ dỗ, kích động tham gia nhiều việc làm sai trái, dễ nảy sinh phạm tội và vi phạm pháp luật”</i><small>14</small>. Trong năm 2022, Cơng an Thành phố Hồ Chí Minh cho biết trong số hơn 3.700 vụ phạm tội về trật tự an tồn xã hội, có đến 11,8% tội giết người ở độ tuổi dưới 18<small>15</small>. Con số đáng báo động này cho thấy số người chưa thành niên phạm tội chiếm tỷ lệ tương đối cao trong xã hội ngày nay, có nguy cơ gia tăng nếu khơng có chính sách phịng ngừa phù hợp. Vậy nên, cần phải đề ra những nội dung giáo dục học vấn - văn hóa hiệu quả để phịng ngừa người chưa thành niên khỏi tội giết người.

Giáo dục học vấn - văn hóa cho người chưa thành niên là quá trình bồi dưỡng, hướng dẫn họ về giá trị văn hóa và nguồn kiến thức mới. Người thành niên sẽ được giáo dục tại nhà trường dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo từ đội ngũ giáo viên đã được đào tạo về trình độ chun mơn. Tại mơi trường này, họ được cung cấp một nền tảng vững chắc trong việc tiếp cận và nâng cao hiểu biết về kỹ năng, tư duy, thái độ để điều chỉnh ý thức và hành vi trong cuộc sống. Người thành niên thơng qua những kiến thức đã tích lũy biết phân biệt phải trái, đúng sai, giảm thiểu suy nghĩ tiêu cực dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội không mong muốn. Nội dung giáo dục học vấn - văn hóa cho người chưa thành niên gồm:

<i>Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục bậc phổ thông trung học, trau dồi kỹ năng cần thiết ngăn ngừa hành vi phạm tội. </i>

Học vấn là nền tảng vững chắc hình thành thái độ, hành vi của con người. Một phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp đến từ gia đình, nhà trường giúp định hướng đúng sự phát triển về tư duy, nhận thức của một đứa trẻ. Từ đó, họ có thể nhận thức đúng sai, thấu hiểu hậu quả của hành động, lựa chọn hành vi tích cực trong mọi tình

<small> </small>

<small>14 Tố Tâm, “Ngăn chặn trẻ vị thành niên phạm tội: Cần nhiều giải pháp đồng bộ”, </small>

<small>bo-3049801/index.htm] (truy cập ngày 23/7/2023). </small>

<small>[ Hà Khánh, “Giám đốc công an TP.HCM: Gần 12% tội phạm giết người ở độ tuổi dưới 18”, </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

huống. Do đó, cần đẩy mạnh công tác giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, tạo điều kiện thuận lợi nhất để trẻ em được đến trường học tập.

Nội dung giáo dục cần đề cao giá trị của cuộc sống, tính mạng và sức khỏe của con người. Thơng qua việc giáo dục về giá trị quyền được sống của lồi người trong xã hội, họ sẽ tơn trọng, trân quý sự sống của mình và của mọi người. Bởi lẽ, mỗi người chỉ được sống một lần trong đời và họ cần biết trân quý điều đó. Con người từ đó biết đồng cảm, thấu hiểu hồn cảnh của đối phương, trở thành một người rộng lượng, bao dung đúng thời điểm. Đồng thời, khuyến khích người trẻ cách giải quyết xung đột và mâu thuẫn bằng cách thấu hiểu và lắng nghe mọi người xung quanh, tránh dùng bạo lực để giải quyết vấn đề. Bạo lực là khởi nguồn gây ra những kết quả ngoài ý muốn, khơng đáng có, để lại hậu quả nguy hiểm về vật chất lẫn tinh thần, thậm chí là mạng sống nếu hành vi bạo lực vượt quá kiểm soát. Một người không dùng bạo lực để giải quyết xung đột, mâu thuẫn thể hiện được thái độ trân quý sức khỏe, tính mạng của đối phương trong con người họ.

Một trong những nguyên nhân gây nên tội giết người ở chỗ con người không thể khống chế được cảm xúc của bản thân, dẫn đến việc sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề. Vậy để giải quyết tình trạng này, con người cần học được cách kiểm soát cảm xúc của bản thân hiệu quả. Một khi cơn nóng giận lên đến đỉnh điểm, sự tức giận bùng phát khiến họ phải hành động tiêu cực để thốt khỏi cơn thịnh nộ đó. Điều đó đã gây nên một hậu quả khơng mong muốn. Do đó, việc giáo dục từ sớm tính kiên nhẫn, kiềm chế cảm xúc của bản thân là cần thiết trong mọi trường hợp, đặc biệt là những cảm xúc tiêu cực. Điều này giúp con người có thể điều khiển được cảm xúc của mình ở một mức độ vừa phải, khơng q kích động, tránh được hành vi sử dụng bạo lực để giải quyết xung đột.

<i>Hai là, giáo dục kết hợp lý thuyết và thực hành. </i>

Việc tham gia các hoạt động xã hội góp phần tích cực giúp định hình nhân cách và giáo dục tư duy của người chưa thành niên. Khi tham gia vào các câu lạc bộ, tổ chức tình nguyện hoặc các cộng đồng nhân ái vừa có thể trau dồi kiến thức, kỹ năng vừa phát triển năng lực của bản thân. Điều này giúp người trẻ xây dựng sự tự tin, tạo dựng được mạng lưới xã hội tích cực. Gia đình, nhà trường và xã hội cần khuyến khích con cái cũng như học sinh tham gia bằng cách khích lệ, ủng hộ, động viên tinh thần. Ngồi ra, nhà nước cần hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức các hoạt động xã hội bằng cách cung cấp nguồn lực, thiết bị và tài trợ cần thiết khác. Tích cực tham gia hoạt động xã hội khơng chỉ giúp nâng cao học vấn - văn hóa mà cịn góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp, ý nghĩa với những giá trị tích cực được lan tỏa trong cộng đồng. Từ đó, người chưa thành niên được trau dồi thêm những nhận thức đúng đắn trong suy nghĩ, hành vi, giúp tránh xa những tư tưởng trái pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Để thực hiện tốt nội dung giáo dục học vấn - văn hóa đối với người chưa thành niên, cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá trình giáo dục con người kể từ khi còn ở độ tuổi thanh thiếu niên. Bên cạnh việc truyền đạt những kiến thức phổ thông, cần đưa thêm những kiến thức pháp luật vào các chương trình giảng dạy để nâng cao ý thức pháp luật của các em. Điều đó giúp người trẻ tiếp cận sớm với pháp luật, nắm rõ những hệ lụy mà hành vi phạm tội gây ra ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó giúp ngăn chặn những tư tưởng, hành vi tiêu cực nhằm phòng ngừa tội giết người.

<i><b>Giáo dục học vấn - văn hóa đối với người thành niên </b></i>

Giáo dục người thành niên là giai đoạn phát triển nâng cao của quá trình giáo dục con người từ độ tuổi chưa thành niên. Giai đoạn này giúp phát triển toàn diện về kiến thức, kỹ năng, giá trị nhân văn trong mỗi con người. Người thành niên vẫn cần được cung cấp những thông tin, kiến thức về giáo dục nói chung và về tội giết người nói riêng. Bằng cách hiểu rõ hơn tầm quan trọng của sự sống, hậu quả của hành vi bạo lực, ý thức về tình huống có thể dẫn đến tội giết người giúp người thành niên có thể phịng tránh nó. Bởi lẽ, nhận thức về thái độ, hành vi của đối tượng này đã được hình thành đến một giai đoạn nhất định, họ cần được bồi đắp thêm nhiều giá trị để duy trì, phát triển nhận thức cá nhân mới tích cực trong mình. Mối quan hệ của những con người này trở nên nhiều hơn, ngày càng xuất hiện nhiều mối lo ngại, những suy nghĩ lệch lạc xuất hiện khiến họ rơi vào trạng thái tiêu cực, dẫn đến hành vi phạm tội.

Theo nhóm tác giả, người thành niên cần được giáo dục học vấn - văn hóa với những nội dung sau:

<i>Một là, trau dồi kỹ năng giải quyết xung đột. </i>

Ở độ tuổi này, các mối quan hệ không ngừng gia tăng, do đó việc xảy ra xung đột là khơng thể tránh khỏi. Do đó, người thành niên cần phải có kỹ năng giải quyết xung đột. Kỹ năng này giúp họ xử lý mâu thuẫn, xung đột một cách hiệu quả, hịa bình và tơn trọng, tránh bạo lực dẫn tới hành vi giết người không mong muốn. Bằng cách giữ bình tĩnh và điều khiển cảm xúc của bản thân, họ cần tập trung lắng nghe quan điểm, cảm xúc của đối phương, từ đó đặt mình vào vị trí của người khác để giải quyết mâu thuẫn. Kỹ năng này giúp họ phát triển sự tự tin, sẵn lòng hòa giải cũng như nhận được sự tôn trọng từ mọi người xung quanh. Các mối quan hệ tích cực được hình thành, đem lại một mơi trường hịa bình xung quanh họ.

<i>Hai là, nhận thức rõ về hậu quả của hành vi bạo lực dẫn đến tội giết người. </i>

Bạo lực có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về tâm lý và tinh thần. Người tham

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

thần. Về hậu quả pháp lý, người phạm tội giết người có thể đối mặt với án phạt nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Để lại hệ lụy nặng nề cho gia đình của nạn nhân và cả người phạm tội. Sự mất mát, đau đớn kéo dài làm tổn thương các mối quan hệ, sự đoàn kết trong xã hội khiến con người phải sợ hãi và lo lắng về chính mơi trường sống xung quanh mình. Khi được nhận thức đầy đủ về hậu quả của hành vi bạo lực, con người sẽ hiểu rõ về hành vi, hậu quả hành động mình sắp thực hiện. Từ đó khuyến khích mỗi cá nhân chủ động xây dựng ý thức tôn trọng giá trị đạo đức, pháp luật, tránh thực hiện hành vi bạo lực góp phần phịng ngừa tội giết người đang hoành hành trong xã hội hiện nay.

<i>Ba là, khuyến khích tạo mối quan hệ tích cực. </i>

Một phần nguyên nhân dẫn đến tội giết người là từ những mâu thuẫn giữa các mối quan hệ xung quanh với nhau tạo nên. Do đó, việc gây dựng các mối quan hệ tích cực và hịa thuận với người khác sẽ góp phần xây dựng một mơi trường sống lành mạnh, đồn kết và tích cực. Tạo mối quan hệ tích cực ở đây khơng đồng nghĩa với việc khơng có mâu thuẫn. Nhưng con người cần phải giải quyết mâu thuẫn bằng các kỹ năng xã hội như kỹ năng giải quyết xung đột, đàm phán và lắng nghe. Điều này giúp họ xử lý mâu thuẫn và khó khăn một cách hịa bình, tơn trọng người khác. Từ đó, mối quan hệ khơng cịn hiềm khích khiến đối phương trở nên thấu hiểu, cảm thông cho nhau.

Giáo dục học vấn - văn hóa cho người thành niên giúp xây dựng một xã hội an toàn, lành mạnh, con người trở thành những cơng dân có ý thức đạo đức, trách nhiệm hơn trong việc xây dựng sự phát triển bền vững và hạnh phúc của cộng đồng. Đây là nội dung đầu tiên của biện pháp giáo dục nhằm phòng ngừa tội giết người tác động vào nhận thức, suy nghĩ con người. Giúp người dân nhận thức rõ về giá trị cuộc sống, tầm quan trọng của hịa bình, thúc đẩy họ hành động và đóng góp vào xã hội một cách tích cực. Nhờ đó, xã hội trở nên an tồn, hịa bình và phát triển bền vững.

<i><b>2.1.2. Giáo dục đạo đức và ý thức pháp luật * Giáo dục về đạo đức </b></i>

Benjamin Franklin từng nói: “Khơng bao giờ có một người thực sự vĩ đại mà lại

<i>không phải là một người thực sự đạo đức”. Đạo đức là một thước đo quan trọng để đánh </i>

giá một con người. Có đạo đức là một điều quý giá. Song không phải ai cũng biết sử dụng đạo đức như thế nào cho có ý nghĩa, đơi chúng ta qn lấy những giá trị đạo đức tốt đẹp soi đường cho những hành động của mình, mà lại quyết định thực hiện việc gì đó phạm pháp như cướp của, giết người chỉ vì những suy nghĩ trong lúc nóng giận. Vậy khi ta đề cập đến các biện pháp phòng ngừa tội phạm giết người bằng biện pháp giáo dục về mặt đạo đức đồng nghĩa với việc ta đang đề ra các cách thức nhằm tác động vào ý chí và lý trí của chủ thể. Từ đó làm thay đổi thái độ tâm lý của một người đối với một

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

hành vi được cho là nguy hiểm cho xã hội - hành vi giết người. Từ đó, mỗi cá nhân sẽ nhận thức được rằng việc tước đi mạng sống của người khác là một hành động khơng có đạo đức và bị xã hội lên án gay gắt. Và khi nhận đã thức rõ được tội ác đó vi phạm nghiêm trọng như thế nào về mặt đạo đức sẽ giúp họ giảm bớt đi suy nghĩ phạm tội.

<i><b>Vậy, để đề ra những phương pháp phù hợp ta phải hiểu thế nào là giáo dục đạo đức. </b></i>

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Dựa vào các nguyên tắc, quy định, chuẩn mực của xã hội nhằm định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội, hướng con người đi tới cái thiện, cái tốt, cái đúng, gạt bỏ cái ác, cái xấu, cái sai. Nói cách khác, thơng qua các giá trị đạo đức, con người sẽ tự giác điều chỉnh hành vi của mình để phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người cũng như sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Nói một cách ngắn gọn, đạo đức là các phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn mà xã hội đã đặt ra thông qua nhiều năm rút kết, là những chuẩn mực mà con người cần phải tn theo để có thể sống hịa nhập với cộng đồng. Theo một số nghiên cứu thì đạo đức được cấu thành bởi các yếu tố: ý thức đạo đức, tình cảm, niềm tin đạo đức và hành vi đạo đức<small>16</small>.

Từ đó ta có thể rút ra được: “giáo dục đạo đức” là quá trình chủ thể tiến hành các biện pháp giáo dục nhằm tác động một cách có chủ đích, có tổ chức và kế hoạch cụ thể. Với mục tiêu chung là giáo dục về ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức cho đối tượng cần được giáo dục. Đây được coi là một cách thức tác động bên ngoài chủ thể nhưng lại ảnh hưởng đến mặt chủ quan của đối tượng được tác động. Từ đó hình thành nên những phẩm chất, hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Nội dung giáo dục đạo đức trong phòng ngừa tội giết người bằng biện pháp giáo dục hướng con người đến những hành vi đúng với chuẩn mực đạo đức, không trái với pháp luật. Đây được coi là một trong những biện pháp khắc phục sự kém hiểu biết về chuẩn mực đạo đức trong một bộ phận dân cư kéo dài từ nhiều năm nay. Đây được coi là một trong những biện pháp tiên phong trong cơng tác phịng ngừa tội phạm giết người tại các tỉnh thành phía Nam. Vì khu vực này là nơi là nơi diễn ra sự phát triển của các khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu đô thị. Trong số năm thành phố có nhiều khu cơng nghiệp, khu chế xuất nhất cả nước thì có đến bốn tỉnh thành nằm trong khu kinh tế phía Nam<small>17</small>, chính thực trạng đó dẫn đến việc di dời dân cư, đa số người dân đều đổ dồn đến các khu vực trung tâm phía Nam để mưu sinh. Hình thành nên các khu ổ chuột, tạm bợ tập trung dân tứ xứ. Thơng thường các khu vực càng có mức đơ thị hóa <small> </small>

<small>16 “Công chức và đạo đức công vụ”, chuc/361/cong-chuc-va-dao-duc-cong-vu.html] (truy cập ngày 07/8/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

[ cao thì tệ nạn xã hội, cụ thể hơn là giết người để giải quyết mâu thuẫn sẽ [ nhiều.

Giáo dục đạo đức nên tập trung vào từng mảng yếu tố cấu thành nên đạo đức, đó là giáo dục về tri thức đạo đức, giáo dục về tình cảm đạo đức và giáo dục về lý tưởng đạo đức.

<i>Giáo dục về tri thức đạo đức </i>

Tri thức được định nghĩa là hiểu biết mà ta tích lũy được trong quá trình phát triển bản thân. Vậy tri thức về đạo đức là những kinh nghiệm, bài học đạo đức mà con người có được trong q trình hịa nhập với cộng đồng. Khi sống chung trong một quần thể, con người nhận biết được hành vi nào là đúng, hành vi nào là trái với đạo đức. Đồng thời họ hiểu rằng nếu thực hiện những hành vi trái với “luân thường đạo lý” sẽ bị xã hội lên án. Khi thực hiện các biện pháp giáo dục tri thức về đạo đức để phòng ngừa tội phạm giết người, đối tượng tác động đầu tiên sẽ là nhóm người chưa thành niên. Vì tri thức của nhóm đối tượng này về đạo đức chưa được tích luỹ đầy đủ dẫn đến việc thực hiện hành vi sai lệch so với chuẩn mực của xã hội. Biện pháp được đưa ra chủ yếu thông qua con đường dạy và học giữa nhà trường - học sinh, gia đình - con cái, người lớn - trẻ nhỏ vì thường những đứa trẻ sẽ hình thành suy nghĩ, tư tưởng thơng qua những hành động và lời nói của người lớn. Việc giáo dục về tri thức nói chung hay tri thức đạo đức nói riêng, là một q trình tích lũy lâu dài đối với mọi cá nhân, đặc biệt là với đối nhóm đối tượng là học sinh cấp 1 và cấp 2. Vì đây là giai đoạn nền tảng, là môi trường bắt nguồn cho sự phát triển về nhân cách và hành vi của con người. Ở giai đoạn này, con người được cung cấp nguồn kiến thức về giá trị đạo đức, từ đó phân biệt hành vi trái với đạo đức xã hội. Để làm được điều đó, các thành viên trong gia đình cần phải có lối cư xử đúng mực, phù hợp nhằm hình thành nhận thức đúng đắn trong mỗi đứa trẻ.

<i>Giáo dục về tình cảm đạo đức </i>

Việc áp dụng biện pháp giáo dục tình cảm đạo đức cho mỗi cá nhân chính là tác động vào thái độ của họ về tình yêu thương con người. Nếu như tri thức đạo đức là hình thái biểu hiện ý thức đạo đức ở mặt lý tính thì tình cảm đạo đức được biểu hiện ở cấp độ cảm tính. Sự nhận thức và biểu hiện thái độ của chủ thể đối với sự quý giá của tính mạng con người được thực hiện thông qua cảm xúc. Cùng đặt mọi người vào một tình huống giữa việc lựa chọn giết người để cướp đoạt tài sản, thì một số cá nhân cho rằng đó là một hành vi rất bình thường trong xã hội có nhiều tệ nạn như hiện nay. Ngược lại, một số cá nhân khác thì lại lên án và phê phán hành vi đó.

Có thể nói nhờ tình cảm đạo đức, con người không chỉ biết nhận thức, đánh giá các hiện tượng đạo đức diễn ra trước mắt mà còn đi kèm với đó là nhu cầu được thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

hiện các hành vi đúng với chuẩn mực của xã hội. Đây là căn cứ để xác định tình cảm đạo đức khơng chỉ đơn giản là biểu hiện trạng thái cảm xúc mà nó cịn là nguồn động lực để thực hiện các hành vi đạo đức. Khi đó, các biện pháp giáo dục xung quanh tình cảm về đạo đức sẽ mặc nhiên tác động đến việc chủ thể lựa chọn là có hay khơng thực hiện hành vi giết người.

Có rất nhiều cách thức khác nhau để phát triển tình cảm đạo đức đến đối tượng cần tác động. Tuy nhiên, trên bình diện giáo dục thì quá trình này phải được thực hiện thường xuyên, liên tục sao cho tình cảm đạo đức sẽ có vai trị to lớn đối với việc nhân đạo hóa cách nhìn nhận về hành vi phạm tội trong nhận thức của chủ thể. Để thực hiện tốt việc đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong việc điều chỉnh tình cảm đạo đức của trẻ vị thành niên. Chẳng hạn đối với nhóm đối tượng là học sinh, ngồi những tiết học giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo viên nên linh hoạt hơn trong việc sưu tầm những mẩu chuyện ngắn để các em dễ hình dung hơn. Chẳng hạn có thể mượn những mẩu chuyện trong chương trình “Quà tặng cuộc sống”, “Bóng mát tâm hồn”… để thơng qua đó giáo dục các em về tình yêu thương giữa con người với con người, về những lý tưởng đạo đức tốt đẹp. Về phía các cấp có thẩm quyền tại địa phương như Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam phường, Đoàn phường nên kết hợp tổ chức với các đơn vị giáo dục về tâm lý để tổ chức những buổi tọa đàm tại khu vực. Hoạt động này nên thí điểm trước đối với nhóm đối tượng là thanh thiếu niên. Mục đích là hướng tình cảm đạo đức của các em theo chiều hướng tích cực với suy nghĩ về tính mạng con người là đáng giá và cần được bảo vệ. Bên cạnh đó, cần theo dõi, kịp thời phát hiện những trường hợp có dấu hiệu về tình cảm đạo đức lệch lạc, xem nhẹ những cá thể sống. Điển hình là thái độ “dửng dưng” trước những cái chết của các loài động vật, từ đó kịp thời điều trị và bồi dưỡng lại cho các em.

<i>Giáo dục về lý tưởng đạo đức </i>

Đây là một trong những biện pháp về giáo dục phòng chống tội phạm được Trung ương đề cao bằng việc thông qua Chỉ thị số 42- CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương về “Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030” và đã được Ban thường vụ tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành chương trình cụ thể<small>18</small>. Đối với các tỉnh thành khu vực phía Nam cũng có một số tỉnh thành thực hiện Chỉ thị trên, như tại tỉnh Đồng Nai, Ban bí thư đã đưa ra chương trình 5 năm thực hiện Chỉ thị số 42<small>19</small>. Khi tham khảo chương <small> </small>

<small>18 Thanh Vũ, “Tăng cường công tác giáo dục lý tưởng cách mạnh, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”, [ (truy cập ngày 17/7/2023). </small>

<small>19 Thanh Tuấn, “Tiền Giang: Qua 5 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí </small>

</div>

×