Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 89 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ... 1 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ... 2 MỞ ĐẦU ... 4 </b>
<b>Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN VÀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP. ... 11 </b>
1.1. Tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện 11
1.1.3. Khái niệm và ý nghĩa nguyên nhân, điều kiện tội cố ý gây thương tích do
1.1.4. Khái niệm và ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người
1.2. Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>Chương 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP ... 32 </b>
<b>Chương 3. THỰC TRẠNG, PHÒNG NGỪA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP. ... 55 </b>
3.1. Thực trạng phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên
3.2. Dự báo tình hình và nguyên nhân, điều kiện tội phạm cố ý gây thương tích do
3.3. Một số giải pháp phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho nước ta 68
3.3.1. Giải pháp phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành
3.3.2. Giải pháp phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành
3.4. Một số đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp 73
3.4.1. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả định hướng tâm lý và gia đình đối với
3.4.2. Đề xuất giải pháp nâng cao giáo dục của nhà trường đối với người chưa thành
3.4.3. Đề xuất giải pháp nâng cao hệ thống pháp lý trong phòng chống tội giết người
3.4.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa nguyên nhân xuất phát từ nạn nhân của tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện <small>79 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 82
<b>KẾT LUẬN ... 83 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>2 </small>
<b>DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU </b>
<b>1. Danh mục các bảng số liệu đã sử dụng cho phần nội dung bài: </b>
Bảng 1.1. Người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích ở giai đoạn đã bị KHỞI TỐ từ năm 2018 – 2022: trang 21
Bảng 1.2. Người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích ở giai đoạn đã bị TRUY TỐ từ năm 2018 – 2022: trang 22
Bảng 1.3. Cơ cấu tình hình tội theo tiêu chí địa bàn thực hiện hành vi phạm tội: trang 24 Bảng 1.4. Động thái của tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp theo cách so sánh định gốc trong giai đoạn 2018 - 2022: trang 29
<b>2. Danh mục các biểu đồ đã sử dụng cho phần nội dung bài: </b>
Biểu đồ 1.1. Cơ cấu tình hình tội phạm theo tội cụ thể: trang 24
Biểu đồ 1.2. Cơ cấu tình hình tội phạm theo giới tính của người phạm tội: trang 26 Biểu đồ 1.3. Cơ cấu tình hình tội phạm theo trình độ học vấn của người phạm tội: trang 26
Biểu đồ 1.4. Cơ cấu tình hình tội phạm theo mức độ nghiêm trọng: trang 27
Biểu đồ 1.5. Số nạn nhân tử vong từ năm 2018 đến 2022 của tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bản tỉnh Đồng Tháp: trang 28
Biểu đồ 1.6. Diễn biến về tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn từ năm 2018 – 2022: trang 29 Biểu đồ 2.1. Khảo sát đối tượng người dưới 18 tuổi cùng sinh sống: trang 33
Biểu đồ 2.2. Khảo sát số người ở Đồng Tháp đồng ý với việc gia đình ổn định, hạnh phúc là điều cần thiết cho trẻ: trang 34
Biểu đồ 2.3. Khảo sát các lý do được cho là khiến trẻ có các hành vi tiêu cực: trang 36 Biểu đồ 2.4. Khảo sát về cách thể hiện sự quan tâm, yêu thương của gia đình đối với trẻ: trang 37
Biểu đồ 2.5. Khảo sát lượng thời gian trò chuyện giữa người chưa thành niên với gia đình: trang 38
Biểu đồ 2.6. Khảo sát về việc người chưa thành niên lựa chọn tâm sự với ai: trang 38 Biểu đồ 2.7. Khảo sát mức độ chia sẻ với gia đình của người chưa thành niên ở tỉnh Đồng Tháp: trang 39
Biểu đồ 2.8. Khảo sát mức độ chia sẻ với bạn bè của người chưa thành niên ở tỉnh Đồng Tháp: trang 39
Biểu đồ 2.9. Khảo sát đánh giá tầm quan trọng của môn Giáo dục kinh tế và pháp luật/GDCD: trang 41
Biểu đồ 2.10. Khảo sát về mong muốn lựa chọn môn Giáo dục kinh tế và pháp luật để học trong chương trình THPT: trang 42
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Biểu đồ 2.11. Khảo sát lý do chọn môn Giáo dục kinh tế và pháp luật để học: trang 42 Biểu đồ 2.12. Khảo sát người chưa thành niên đã bao giờ chứng kiến những cuộc mâu thuẫn dẫn đến việc đánh nhau hoặc có nguy cơ đánh nhau hay chưa: trang 44
Biểu đồ 2.13. Khảo sát về lý do của những mâu thuẫn giữa các bạn học sinh: trang 45 Biểu đồ 2.14. Số người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích tái phạm hoặc có tiền án từ năm 2018 – 2022: trang 48
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ trẻ em khơng hồn thành cấp học theo vùng miền: trang 66 Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ trẻ em khơng hồn thành cấp học theo khu vực: trang 66
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>4 </small>
<b>MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Con người, một thực thể tự nhiên và xã hội được xác định là vốn quý nhất của xã hội. Xã hội-xã hội chủ nghĩa luôn luôn coi con người là đối tượng hàng đầu mà Nhà nước và Pháp luật có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ. Trong việc bảo vệ con người thì
<b>trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho họ. Theo Hiến pháp năm 2013 tại Điều 20 </b>
<i>quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân </i>
<i><b>phẩm.”. Và trong BLHS hiện hành về phần tội phạm sau chương 13 quy định về các </b></i>
tội xâm phạm An ninh Quốc gia là chương 14 quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Điều đó có thể cho thấy rằng Nhà nước ta rất coi trọng việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe và quyền con người.
Thế nhưng, thực tiễn trong những năm qua tình hình xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người ở nước ta diễn ra rất nghiêm trọng và phức tạp. Tội phạm cố ý gây thương tích trong thời gian gần đây có chiều hướng gia tăng. Với một xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng được thỏa mãn nhiều mặt hơn thì căn cứ vào tháp nhu cầu của Maslow, con người ta sẽ đòi hỏi những thứ cao hơn chất lượng sống hiện tại. Tâm lý của con người sẽ chẳng bao giờ cho rằng những cái hiện tại mình đang có là đủ, họ ln tìm tịi những điều mới lạ hơn. Chính vì lẽ đó cũng đã tạo ra nhiều hệ lụy xấu ảnh hưởng đến tâm lý con người và đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và ngày càng trẻ hóa trong xã hội chúng ta.
Đấu tranh phịng chống tội phạm cố ý gây thương tích ở Việt Nam là một vấn đề hết sức cấp bách hiện nay, cũng như trong suốt thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nó là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ trật tự an ninh xã hội, bảo vệ an tồn tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm cho người dân. Nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bởi lẽ đó là một trong những biện pháp tích cực góp phần thực hiện đường lối chính sách pháp luật của nhà nước ta về nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội, củng cố lịng tin nhân dân. Đồng thời khơi phục kỷ cương pháp luật, khơi gợi tính tự giác tơn trọng pháp luật, tơn trọng tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của con người. Hiệu quả của cuộc đấu tranh này cần được phát huy trên cả hai mặt, tích cực phòng ngừa và chủ động điều tra khám phá, trong đó cơng tác phịng ngừa ln ln xác định là nhiệm vụ chính của cuộc đấu tranh.
Việc tìm ra nguyên nhân, điều kiện của tội cố ý gây thương tích là việc cấp thiết khơng chỉ cho riêng cơ quan chức năng có thẩm quyền mà cịn cho tồn xã hội. Nhận thấy được tầm quan trọng trong việc tìm ra gốc rễ vấn đề tỷ lệ tội phạm gia tăng không ngừng ở tội cố ý gây thương tích nên nhóm nghiên cứu khoa học quyết định thực hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân điều kiện dẫn đến tội cố ý gây thương tích từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phục vụ cho cơng tác phịng chống tội phạm của các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu khoa học chọn địa điểm nghiên cứu là tỉnh Đồng Tháp vì hiện nay Đồng Tháp đang khơng ngừng chuyển mình đổi mới. Với đường biên giới dài 48,7 km giáp nước bạn Campuchia, Đồng Tháp có đến có 07 cửa khẩu, trong đó có 02 cửa khẩu quốc tế là Thường Phước (huyện Hồng Ngự) và Dinh Bà (huyện Tân Hồng) đang tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng và mời gọi đầu tư. Ngồi ra, Đồng Tháp cịn có đất phù sa màu mỡ, thuận lợi để phát triển cả nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ du lịch miền Tây. Thế nhưng, đứng trước những lợi ích của sự đổi mới thì vẫn cịn những thách thức kèm theo. Tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sức khỏe con người nói riêng ở tỉnh Đồng Tháp nhất là tội cố ý gây thương tích đang ngày càng diễn biến phức tạp, càng gia tăng và xảy ra với quy mô lớn hơn, gây hậu quả, bức xúc cho quần chúng nhân dân. Theo thống kê của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Đồng
<i><b>Tháp trong 05 năm (Từ năm 2018 – 2022), trên địa bàn đã xảy ra 237 vụ phạm tội về cố </b></i>
<b>ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện, chiếm 44,38% các tội phạm về trật tự an toàn xã hội do người chưa thành niên thực hiện, trong đó đã có 08 người chết </b>
do hành vi cố ý gây thương tích. Năm 2022, số vụ tội phạm cố ý gây thương tích do
<b>người chưa thành niên thực hiện là 56 vụ - 136 đối tượng, điều này cũng gióng lên hồi </b>
chng cảnh báo về tình hình cấp bách của tội danh cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
Đề tài về tội cố ý gây thương tích khơng phải q mới mẻ, tuy nhiên việc đi nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội danh này thì vẫn cịn được bỏ ngỏ.
<i><b>Tóm lại từ những phân tích trên, đề tài nghiên cứu về “Nguyên nhân và điều kiện </b></i>
<i><b>dẫn đến việc cố gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và một số giải pháp” nhằm giảm thiểu tình hình tội phạm là cực kỳ cấp </b></i>
thiết. Đây có thể là đòn bẩy để giúp các cơ quan chức năng khác dựa theo để giảm thiểu tỷ lệ tội phạm ở khu vực mình quản lý.
<b>2. Tình hình nghiên cứu hiện nay</b>
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã khái qt được tình hình nghiên cứu đề tài như sau:
<i>Luận án “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm CYGTT hoặc GTH cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa” của </i>
tác giả Nguyễn Hữu Cầu đã xây dựng khá đầy đủ những đặc điểm tội phạm học của tội CYGTT hoặc GTH cho sức khỏe của người khác, đánh giá đúng tình hình tội phạm,
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Luận văn "Đấu tranh phòng chống các tội CYGTT trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và Đồng Nai" của tác giả Phạm Thanh Vân đã phân tích tình hình tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và Đồng Nai; lý giải được nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm; phân tích những điểm thành công cũng như hạn chế của thực trạng hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm CYGTT trên địa bàn hai tỉnh nghiên cứu. Tuy nhiên, luận văn chủ yếu khai thác ở khía cạnh tội phạm học, do đó khơng đi vào phân tích kỹ các quy định của pháp luật, những giải pháp được đề xuất cũng chỉ tác động vào các khía cạnh của đời sống xã hội mà khơng mang tính hồn thiện quy định của pháp luật.
Bài viết "Bàn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác tại điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017", Nguyễn Văn Dũng, 2018, Toà án nhân dân, Toà án Nhân dân Tối cao, 2018, Số 1, tr. 19-26. Trong bài viết này, tác giả chủ yếu đi sâu phân tích về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại BLHS hiện hành. Tác giả chưa đi sâu phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
<i>Với đề tài Tội cố gây thương tích do người chưa thành niên và một số giải pháp, </i>
đã được nhiều luật gia, tác giả khai thác. Tuy nhiên, qua các tài liệu mà nhóm tác giả tìm được thì chưa có đề tài nào đánh sâu vào nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện. Do đó, những nghiên cứu này chưa đi vào gốc rễ vấn đề để có thể đưa ra đúng giải pháp cần thiết cho tình hình xã hội hiện tại. Thế nhưng, các nghiên cứu được nhóm tác giả thống kê đã phần nào đặt nền móng cho việc tiếp tục khai thác, nghiên cứu nhằm đưa ra được giải pháp tốt nhất giải quyết vấn đề đang tồn đọng trong xã hội hiện nay, cụ thể là tình hình tội phạm của tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>3. Điểm mới của đề tài</b>
Điểm mới của đề tài được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ và hệ thống các tài liệu, quy định liên quan đến nguyên nhân, điều kiện về tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện.
- Nghiên cứu, phân tích những số liệu, bài khảo sát thực tế từ 237 vụ án theo số liệu thống kê do cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Đồng Tháp để rút ra được nguyên nhân, điều kiện dẫn đến người chưa thành niên cố ý gây thương tích ở tỉnh Đồng Tháp.
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp để làm giảm thiểu, phịng ngừa tình trạng người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
<b>4. Phạm vi nghiên cứu</b>
Nhóm nghiên cứu khi thực hiện đề tài này đã tiến hành các cơng việc như phân tích, đánh giá các tài liệu nghiên cứu, các văn bản pháp luật có liên quan đến tội phạm cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại tỉnh Đồng Tháp năm 2018 đến năm 2022. Từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá về nguyên nhân, điều kiện của việc cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại khu vực tỉnh Đồng Tháp.
Từ những công việc đó, nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp kiến nghị đối với thực trạng của tội cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên của tỉnh Đồng Tháp.
<b>5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>
Mục đích lớn nhất của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những nguyên nhân, điều kiện của tội cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại tỉnh Đồng Tháp nhằm cung cấp những giải pháp kiến nghị hữu ích và có giá trị thực tiễn cao.
Để đạt được mục đích trên, cơng trình sẽ có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận sát với đề tài để từ đó làm nền tảng vững chắc cho những nội dung nghiên cứu thực tiễn và đưa ra giải pháp;
- Tiến hành nghiên cứu tình hình thực tiễn thơng qua số liệu thu thập được nhằm để nhận xét, đánh giá mức độ, tính báo động và nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại tỉnh Đồng Tháp;
- Tiến hành khảo sát thực tiễn các nhóm đối tượng tại tỉnh Đồng Tháp khác nhau như sinh viên chuyên ngành luật, người dân, các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật,…nhằm đánh giá nhận thức của các đối tượng khảo sát về tội cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại địa bàn tỉnh mình và thu thập một số giải pháp tham khảo; - Tiến hành tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn để làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tội cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại tỉnh Đồng Tháp;
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>8 </small>
- Tổng hợp cơ sở lý luận, các ý kiến khảo sát để đánh giá nhận thức của các đối tượng nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và chọn lọc những giải pháp tham khảo hữu ích.
<b>6. Phương pháp nghiên cứu</b>
Trong đề tài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã tiếp cận bằng cách đi từ những
<i>nghiên cứu cơ sở lý luận (tìm hiểu các quy định pháp luật, giáo trình của trường ĐH Luật Hà Nội, ĐH Luật TPHCM... cũng như các tài liệu tham khảo) đến nghiên cứu thực tiễn (thu thập các số liệu, thực hiện bài khảo sát dành cho các nhóm đối tượng khác nhau). Sau đó vận dụng để đưa ra những kiến nghị phù hợp, hoàn thiện nhằm nâng cao </i>
các quy định, điều luật cũng như giải pháp về tội cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên tại tỉnh Đồng Tháp. Xuyên suốt quá trình nghiên cứu nhóm sẽ áp dụng cả hai phương pháp là phương pháp luận và phương pháp xử lý số liệu
<b>Phương pháp luận: </b>
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về phịng ngừa tội phạm; các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm và yếu tố nạn nhân của tội phạm, lý thuyết nạn nhân tác động trước.
<b>Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: </b>
Khi nghiên cứu tội cố ý gây thương tích ở độ tuổi chưa thành niên, phương pháp nghiên cứu cụ thể được nhóm ưu tiên áp dụng, nhằm đưa ra những lập luận mang tính xác đáng và căn cứ khoa học thực tiễn cho đề tài nghiên cứu. Nhóm đã sử dụng phương pháp khảo sát và phương pháp phỏng vấn để thu thập dữ liệu thông tin sơ cấp hoặc thứ cấp chủ yếu là thu thập các thơng tin liên quan đến đề tài như tình hình xã hội, thực trạng liên quan đến tội cố ý gây thương tích, động thái của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước thực trạng đó. Từ đó, kết hợp với các phương pháp như phương pháp điều tra, phương pháp phân tích tổng hợp kinh nghiệm và kiến thức pháp luật có được để lý giải nguyên nhân, rút ra những quan điểm của nhóm nghiên cứu. Sau đó lại tiếp tục quan sát để kiểm định sự chính xác và trung thực của quan điểm, cứ như vậy cho đến khi hoàn thành bài nghiên cứu.
<b>7. Ý nghĩa và giá trị ứng dụng của đề tài </b>
Trước tiên, có thể thấy Đồng Tháp là một tỉnh có điều kiện địa lý rất đặc biệt, có đường biên giới dài khoảng 50,675 km, sơng ngịi kênh rạch và tuyến lộ nơng thơn rất chằng chịt, có nhiều cửa khẩu quốc tế. Tình hình đó làm cho việc đi lại khó khăn hơn, đồng thời giao thơng giữa các khu vực biên giới và cửa khẩu nơi mà tội phạm dễ hoạt động và ẩn náu; đặc biệt là trong bối cảnh mở cửa, thu hút đầu tư, thơng thống trong xuất nhập cảnh như hiện nay, sẽ gây nhiều cản trở trong việc kiểm sốt tình hình nhập,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">xuất cảnh và phòng ngừa tội phạm có yếu tố nước ngồi, tội phạm hoạt động ở khu vực biên giới. Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có nguy cơ ngày càng tăng về tính chất nguy hiểm, mức độ thiệt hại con người, tài sản do các vụ phạm tội này gây ra sẽ ngày càng nghiêm trọng. Ngoài ra, Đồng Tháp là một tỉnh đa phần diện tích là các vùng nơng thơn cùng với đó số học sinh, sinh viên bỏ học về vùng này ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp, đây là hiện tượng đáng lo ngại; dự báo trong thời gian tới, tội phạm cố ý gây thương tích ở người chưa thành niên sẽ gia tăng với nhiều diễn biến khó lường.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Nguyên nhân và điều kiện của tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và một số giải pháp” nhằm tìm hiểu một cách tồn diện các yếu tố dẫn đến tình trạng người chưa thành niên phạm tội; xây dựng và hình thành các biện pháp can thiệp có mục tiêu nhằm giải quyết tận gốc nguyên nhân dẫn đến tình trạng người chưa thành niên phạm tội, cuối cùng là thiết lập một mơi trường an tồn hơn cho cộng đồng, tạo ra nhiều phương án hỗ trợ hơn cho người chưa thành niên. Đề tài này giúp nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện hơn và mở rộng hiểu biết về các yếu tố phức tạp dẫn đến hành vi phạm tội, chẳng hạn như điều kiện kinh tế xã hội, trình độ học vấn, yếu tố gia đình và các yếu tố cá nhân của người chưa thành niên. Cơng trình nghiên cứu này có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo để giúp cung cấp thông tin cho các nghiên cứu khoa học trong tương lai và để giúp các nhà hoạch định chính sách và các tổ chức cộng đồng xây dựng các chính sách và chiến lược để ngăn chặn tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên cả nước nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
Chương 02: Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
Chương 03: Thực trạng phòng ngừa và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
<b>9. Tóm tắt đề tài: </b>
Đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và một số giải pháp” của nhóm tác giả tập
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>10 </small>
trung vào ba vấn đề chính: một là giải thích và đưa ra lý luận chung về tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp; hai là nghiên cứu và tìm hiểu các nguyên nhân, điều kiện khách quan, chủ quan của tội phạm trên; thứ ba là căn cứ thực trạng dự báo tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, từ đó nhóm đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm trên và kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam nói chung, Đồng Tháp nói riêng từ các giải pháp có hiệu quả của một số nước phát triển trên thế giới. Ngoài ra, cơ sở pháp lý mà nhóm có sử dụng để nghiên cứu về hệ thống pháp lý chủ yếu là các Điều khoản được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><b>Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN VÀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC </b>
<b>HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP. </b>
<b>1.1. Tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện1.1.1. Khái quát về tội cố ý gây thương tích</b>
Trong phạm vi pháp luật hình sự Việt Nam, hành vi cố ý sử dụng bạo lực gây ra thương tích đối với thân thể của người khác có thể cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc một số tội khác được quy định trong BLHS hiện hành. Tội cố ý gây thương tích là một trong những tội phạm xảy ra phổ biến trong đời sống và BLHS hiện hành đã có nhiều sửa đổi, bổ sung đối với tội danh này nhằm đáp ứng yêu cầu trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm hiện nay. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích bao gồm: mặt khách quan, mặt chủ quan, mặt khách thể và mặt chủ thể.
<i>Thứ nhất, về mặt khách quan thì mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện </i>
ra bên ngoài của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; những dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,...
● Hành vi khách quan:
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích biểu hiện dưới hình thức hành động phạm tội, là hành vi tác động đến thân thể của người khác một cách trái pháp luật nhằm gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nhất định. Biểu hiện của những hành vi này rất đa dạng, có thể sử dụng cơng cụ, phương tiện như dao, mác, gậy, gộc hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện như dùng tay chân đấm, đá,...
● Hậu quả:
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Hậu quả của tội cố ý gây thương tích là thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe. Trong đó, thương tích là những dấu vết vết thương để lại trên cơ thể người như vết rách, vết bầm,... còn tổn hại cho sức khỏe thể hiện qua sự rối loạn hoặc suy giảm về chức năng hoạt động của các bộ phận trong cơ thể mà không để lại những vết thương trên cơ thể, ví dụ như sự rối loạn hệ tiêu hóa, sự suy giảm thính giác,... Vì tội cố ý gây thương tích có cấu thành tội phạm vật chất nên hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là dấu hiệu pháp lý bắt buộc. Để hành vi cố ý gây thương tích bị truy cứu TNHS thì hành vi đó phải gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể theo đúng quy định của luật.
● Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:
Trong cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nên mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả cũng là dấu hiệu bắt buộc. Một người chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu hậu quả đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><small>12 </small>
do chính hành vi phạm tội của mình gây ra. Căn cứ vào lý luận mối quan hệ nhân quả thì hành vi cố ý gây thương tích phải xảy ra trước về mặt thời gian và chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe cho người khác, đồng thời hậu quả thương tích đã xảy ra cho nạn nhân chính là sự hiện thực hố khả năng trên, chính là kết quả trực tiếp do hành vi vi phạm gây ra.
<i>Thứ hai, về mặt chủ quan thì mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ và </i>
mục đích, trong đó, lỗi là yếu tố bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong cấu thành của tội cố ý gây thương tích, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy khơng mong muốn nhưng có ý thức chấp nhận, để mặc hậu quả xảy ra.
<i>Thứ ba, về mặt khách thể thì khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được </i>
luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại đến. Hành vi cấu thành tội cố ý gây thương tích chính là hành vi cố ý gây thương tích đối với người khác. Hành vi này xâm hại đến sức khỏe của người khác, do đó, khách thể trực tiếp của tội cố ý gây thương tích chính là sức khỏe của con người. Đối tượng tác động của của tội cố ý gây thương tích là thân thể con người. Thông qua việc tác động vào thân thể của con người, hành vi phạm tội xâm phạm, gây thiệt hại cho sức khỏe của người đó.
<i>Thứ tư, về mặt chủ thể thì đối với tội cố ý gây thương tích chủ thể của tội phạm </i>
này là người đã có lỗi trong việc cố ý thực hiện hành vi đánh người gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe người khác, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm
<b>hình sự. Theo Điều 12 BLHS hiện hành, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản </b>
<b>3, 4 và khoản 5 điều này (tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng). 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội</b>
<b>1.1.2.1. Khái niệm về người chưa thành niên </b>
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tiêu chí quan trọng để phân biệt thanh niên,
<b>người thành niên, người chưa thành niên chính là độ tuổi. Theo Khoản 1 Điều 21 BLDS </b>
<i><b>hiện hành có quy định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Dựa </b></i>
trên cơ sở phân tích về tâm lý của người chưa thành niên, có thể thấy người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tinh thần, bị hạn chế về nhận thức cũng như kinh nghiệm và kỹ năng sống, dễ bị kích động, lơi kéo vào các hoạt động mang cảm giác mạnh, phiêu lưu, mạo hiểm, manh động dẫn đến vi phạm pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">luật. Vì vậy, việc bảo vệ nhóm người chưa thành niên – những mầm non tương lai của đất nước luôn được Nhà nước và toàn xã hội đặt lên hàng đầu. Điều đó thể hiện rõ nét qua việc Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cũng nêu rõ về việc phải có sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý đối với trẻ em nói riêng và người chưa thành niên nói chung: “Trẻ em do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Tại<b> Điều 1 của Công ước này cũng </b>
<i>đã ghi nhận “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Điều đó cho </i>
thấy rằng pháp luật của mỗi quốc gia sẽ có quy định cụ thể riêng về độ tuổi của người chưa thành niên sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, văn hố, truyền thống của quốc gia đó. Ví dụ tại Hoa Kỳ thì phần lớn pháp luật các bang sẽ quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên ở một số bang quy định con số nhỏ
<b>hơn. Hay theo pháp luật Trung Quốc có quy định tại Điều 2 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên CHNDTH, người chưa thành niên là những cơng dân dưới 18 tuổi. </b>Trong khi đó theo pháp luật Nhật Bản, người chưa thành niên lại là người dưới 20 tuổi. Nhìn chung, khái niệm người chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam so với các quốc gia trên thế giới vẫn có sự tương đồng, khi đều có xu hướng chung là quy định độ tuổi dưới 18. Theo
<b>Điều 90 BLHS hiện hành khẳng định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội </b>
phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội - nghĩa là đối với người chưa thành niên phạm tội (thể hiện trong chương XII, từ điều 90 đến điều 107) và theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái
<b>với quy định của Chương này. Tuy nhiên, tại Điều 90, Điều 92 Luật XLVPHC hiện </b>
<b>hành Việt Nam lại có những quy định xử lý vi phạm hành chính đối với những đối </b>
tượng từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự. Từ đó, có thể định nghĩa người chưa thành niên là những người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
<b>1.1.2.2. Người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự. </b>
Người chưa thành niên phạm tội được hiểu là người dưới 18 tuổi thực hiện các hành vi vi phạm các quy định pháp luật Việt Nam trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính… cụ thể với đối tượng nghiên cứu lần này là người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Luật hình sự Việt Nam quy định hai mức tuổi khác nhau để truy cứu trách nhiệm
<b>hình sự đối với người chưa thành niên tại Điều 12 BLHS hiện hành gồm: người từ đủ </b>
16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>14 </small>
phạm mà Bộ luật này có quy định khác và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e khoản 2 điều 12 Luật này. Từ đó, ta rút ra kết luận, người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích sẽ bị xử lý theo quy định của BLHS tuỳ theo mức độ vi phạm và căn cứ vào độ tuổi của họ (từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi).
<b>1.1.3. Khái niệm và ý nghĩa nguyên nhân, điều kiện tội cố ý gây thương tích do người chưa thành người chưa thành niên thực hiện</b>
<b>1.1.3.1. Khái niệm nguyên nhân, điều kiện tội cố ý gây thương tích do người chưa thành người chưa thành niên thực hiện </b>
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng của tội phạm học. Vấn đề này luôn được quan tâm hàng đầu sau khi xác định được tình hình tội phạm, đây là tiền đề để giúp xác định phương hướng, giải pháp cho diễn biến của tình hình tội phạm. Trước hết, ta cần biết những lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm:
<i>Thứ nhất, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì hai phạm trù nguyên nhân và điều kiện là hoàn toàn khác nhau. Nguyên nhân là sự tác động là sự tác động lẫn nhau giữa </i>
các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định. Còn điều kiện là tổng hợp những hiện tượng khơng phụ thuộc vào ngun nhân nhưng có tác dụng đối với việc sinh ra kết quả. Nếu nói tình hình tội phạm là kết quả thì ngun nhân chính là những sự vật, hiện tượng trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm, điều kiện chỉ là những yếu tố đảm bảo cho tình hình tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, do thực tế đấu tranh và phịng ngừa tội phạm ln địi hỏi phải loại trừ cả nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm, cho nên việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ln đặt trong mối liên kết mật thiết với nhau.
<i>Thứ hai, ta cần phân biệt nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung với nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể nói riêng. Hai khái niệm này hồn tồn </i>
khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Cái chung là cái bộ phận bởi vì nó chỉ là những thuộc tính của cái riêng nhưng nó sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung là những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Vì vậy, khơng có cái chung thì khơng nhận biết được cái riêng. Chẳng hạn, nếu nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể mà tách rời nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm thì vơ hình trung chúng ta đã tách rời hành vi phạm tội của người đó với bản chất động cơ thúc đẩy tạo ra hành vi đó. Ngược lại nếu nghiên cứu
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mà tách rời với nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể thì chúng ta đã bỏ qua cái cơ sở, cái tế bào mà trên đó các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực nghiên cứu được sinh ra và biến đổi.
Chính vì vậy khi nghiên cứu bất kỳ một cơng trình tội phạm học nào cũng khơng được tách rời giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm với nguyên nhân điều kiện của tội phạm cụ thể.
+ "Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là tổng thể (hệ thống) các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình."[84,tr84]
+ "Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể là những nhân tố xã hội thuộc về cá nhân và những tình huống, mơi trường bên ngồi trong sự tương tác lẫn nhau của chúng quyết định sự hình thành động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm".<small>1</small>
Trên cơ sở khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, chúng ta có thể rút ra nguyên nhân và điều kiện của tội cố ý gây thương tích do người
<i>chưa thành niên thực hiện như sau: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của mơi trường sống bên ngồi với các yếu tố tâm - sinh lý thay đổi, những suy nghĩ lệch lạc, chưa được hoàn thiện bên trong cá nhân của những người ở độ tuổi chưa thành niên cùng với điều kiện, hoàn cảnh nhất thời thuận lợi đã dẫn đến việc thực hiện một hành vi (hành động hoặc khơng hành động) mà luật hình sự quy định cấu thành tội cố ý gây thương tích”. </i>
Dựa trên cơ sở khái niệm này, bài nghiên cứu đi sâu nghiên cứu, phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
<b>1.1.3.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện </b>
Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp là cơ sở để xây dựng, triển khai và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên của tỉnh Đồng Tháp được thực hiện một cách có hiệu quả và khoa học.
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong tội phạm học. Thông qua nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện sẽ tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, nhận thức các đối tượng nghiên cứu khác của tội phạm học và
<small> </small>
<small>1</small><i><small> Nguyễn Hữu Cầu (2002), “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa” (Luận án tiến sĩ, </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>16 </small>
đề ra các biện pháp phòng ngừa đạt hiệu quả cao về mặt kinh tế và xã hội. Mục đích cuối cùng của Tội phạm học nói chung là làm giảm đến mức thấp nhất số lượng tội phạm xảy ra trong xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an tồn xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng về lý luận thực tế và lưu ý đến đối tượng phạm tội thực hiện tội phạm này:
<i>Thứ nhất, việc nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố </i>
ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện góp phần nhận thức sâu sắc hơn, rõ nét hơn về tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở tỉnh Đồng Tháp nói riêng và Việt Nam nói chung, góp phần hồn thiện hệ thống lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện.
Thông qua việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp sẽ góp phần làm rõ thực trạng, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện và dự báo xu hướng của tình hình tội phạm này trong thời gian tới. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện còn giúp ta hiểu rõ hơn các yếu tố thuộc nhân thân người phạm tội, cơ chế của hành vi phạm tội và nạn nhân của tội phạm trong tội phạm học, xem xét, nhìn nhận những yếu tố này trong sự tác động qua lại với các yếu tố khác thuộc môi trường sống và hồn cảnh làm phát sinh tình hình tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện.
<i>Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương </i>
tích do người chưa thành niên thực hiện là cơ sở để các cơ quan chức năng có thẩm quyền của tỉnh Đồng Tháp có thể đề ra các giải pháp làm hạn chế các mâu thuẫn xã hội, loại trừ được các nguyên nhân điều kiện làm phát sinh tội phạm này trên địa bàn tỉnh.
<i>Thứ ba, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cố ý gây thương tích </i>
do người chưa thành niên thực hiện ở tỉnh Đồng Tháp sẽ góp phần cung cấp những thơng tin hữu ích cho các ngành khoa học xã hội, kể cả khoa học điều tra, xử lý tội phạm và quản lý, tâm lý học tội phạm, giáo dục người phạm tội trở thành người hữu ích cho xã hội.
<b>1.1.4. Khái niệm và ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện</b>
<b>1.1.4.1. Khái niệm của phòng ngừa tội phạm tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Tùy vào từng cách hiểu cũng như nhận thức của mỗi cá nhân, tổ chức mà họ đưa ra những định nghĩa, quan điểm khác nhau về khái niệm phòng ngừa tội phạm. Về cơ bản, khái niệm phòng ngừa tội phạm hiện nay được hiểu theo hai nghĩa, đó là theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
<i>Theo nghĩa rộng “Phòng ngừa tội phạm tức là không để cho tội phạm xảy ra và gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu các hình phạt nghiêm khắc của pháp luật và nếu tội phạm có xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý để đảm bảo cho tội phạm khơng thể tránh khỏi hình phạt, giáo dục và cải tạo người phạm tội trở thành những công dân có ích cho xã hội…</i><small>2</small>”. Có thể thấy theo nghĩa rộng thì khái niệm phịng ngừa khơng chỉ bao gồm việc triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc phạm tội mà cịn bao gồm cơng tác đấu tranh chống tội phạm tức là tìm cách ngăn chặn, khắc phục và xử lý tội phạm cụ thể đã xảy ra.
Cịn theo nghĩa hẹp thì theo PGS - TS Đỗ Ngọc Quang phòng ngừa tội phạm là "
<i>Phịng ngừa khơng để cho tội phạm xảy ra, khơng để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong cơng tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội </i><small>3</small>"
<i>Ở đây, chúng tôi đồng tình với khái niệm “phịng ngừa tội phạm” theo nghĩa hẹp. </i>
Nếu xét khái niệm phòng ngừa theo nghĩa rộng nó khơng cịn thể hiện đúng nghĩa của
<i>từ “phịng ngừa tội phạm”. Vì phịng ngừa tội phạm có nghĩa là không để cho tội phạm </i>
phát sinh hay phát triển, gồm các hoạt động dự báo, mô tả, tìm hiểu tất cả những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và từ đó tìm cách để triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện đó. Trong trường hợp này, cụ thể là tìm hiểu những nguyên nhân khách quan hay chủ quan nào dẫn đến hành vi phạm tội cố ý gây thương tích của người chưa thành niên và tìm cách xóa bỏ ngun nhân gây ảnh hưởng đó trước khi hành vi phạm tội xảy ra.
Cịn về đấu tranh chống tội phạm thì nó gồm các hoạt động như: phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án hình sự. Đó là những hoạt động có đối tượng là tội phạm đã xảy ra. Tức là khi một người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích có hành vi phạm tội đã diễn ra và giờ thì ở đây chúng ta sẽ tìm cách khắc phục những hậu quả hành vi trên gây ra cũng như tiến hành một loạt các hành vi tố tụng nhằm mục đích răn đe, giáo dục và giúp họ sửa chữa những sai lầm. Đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm là hai loại hoạt động có nội dung riêng. Hai hoạt động trên về
<small> </small>
<small>2</small><i><small> Lê Thế Tiệm (1994), Tội phạm ở Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, đề tài KX04-14, Nxb Công </small></i>
<small>an nhân dân, Hà Nội, tr.179, 79, 80, 23, 76, 77. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><small>18 </small>
cơ bản đều có cùng mục đích nhằm góp phần ngăn chặn tiến tới thủ tiêu tình hình tội phạm trong tương lai và nhằm xây dựng môi trường lành mạnh và hướng con người tới những hành vi tích cực, nhưng hai loại hoạt động này khơng đồng nhất với nhau.
Qua đó, có thể định nghĩa rằng phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện là tổng hợp những biện pháp, cách thức do cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong cộng đồng tiến hành, phù hợp với đối tượng là người chưa thành niên nhằm nhanh chóng phát hiện, hạn chế, khắc phục và loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện, hành vi tiêu cực dẫn đến phát sinh tội phạm cố ý gây thương tích ở lứa tuổi trên.
<b>1.1.4.2. Ý nghĩa của phịng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện </b>
Phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nhiều lý do. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến phúc lợi và sự an toàn của các người dân trong tỉnh mà cịn có ý nghĩa rộng lớn hơn đối với tồn xã hội. Bằng cách giải quyết và phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện, tỉnh Đồng Tháp có thể tạo nên một môi trường lành mạnh cho người chưa thành niên phát triển, đảm bảo việc bảo vệ người dân của mình, thúc đẩy cảm giác an tồn và đóng góp vào sự phát triển và tiến bộ chung của cộng đồng.
<i>Đối với Đảng, Nhà nước thì những người trẻ tuổi này là những người chủ tương </i>
lai của đất nước, động lực giúp cho xã hội phát triển, nếu như tỷ lệ tội phạm ở độ tuổi này càng tăng thì đây là nguy cơ đối với sự phát triển của đất nước, của xã hội. Ở khía cạnh xã hội, tầm ảnh hưởng của gia đình, nhà trường và toàn xã hội được đề cao. Việc nhận thức đúng đắn về các biện pháp phòng ngừa sẽ giúp họ nhận biết được các điều kiện môi trường xung quanh nào ảnh hưởng tới người chưa thành niên, giúp loại bỏ những yếu tố thúc đẩy và duy trì tội phạm; tăng cường sự quan tâm, bảo vệ, giáo dục đối với người chưa thành niên, qua đó giảm bớt đi những hành vi tâm lý tiêu cực hoặc các vấn đề về ứng xử, hành vi chống đối và hành vi gây hấn ở độ tuổi trên. Việc phân tích và đưa ra các biện phịng ngừa trên tạo điều kiện và mơi trường tích cực và tự do cho việc hình thành lối sống, nhân cách, thái độ, ứng xử của người chưa thành niên; mở ra một tương lai, cơ hội cho họ; giúp họ phát triển đầy đủ và toàn diện và giảm tỷ lệ tội phạm cố ý gây thương tích ở độ tuổi này. Từ đó, xã hội mới phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, tạo tiền đề để phát triển những khía cạnh khác.
<i>Đối với kinh tế ở Đồng Tháp, việc phòng ngừa giúp các cơ quan chức năng cũng </i>
như cộng đồng dân cư ở Đồng Tháp khơng phải mất đi những chi phí không cần thiết để giải quyết và khắc phục các hậu quả. Thiệt hại của tội cố ý gây thương tích trước hết là về thân thể, sức khỏe, tính mạng của một con người, sau cùng là tinh thần của người
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">bị phạm tội và người thân của họ. Đối với người bị phạm tội, khi tỷ lệ thương tật bị gây ra bởi hành vi xâm phạm càng cao thì sức khỏe của họ sẽ càng khó khơi phục như ban đầu, kéo theo nhiều hệ lụy trong cuộc sống. Nếu họ là trụ cột hoặc lao động trong gia đình thì khi thương tật cao thì họ khơng đi làm được hoặc mất khả năng lao động thì việc đó trở thành gánh nặng về kinh tế với gia đình họ. Nếu càng nhiều trường hợp như trên thì nó sẽ trở thành nỗi lo và gánh nặng cho toàn xã hội và đồng nghĩa nhà nước sẽ trích ra nhiều chi phí, ngân sách để khắc phục các hậu quả, thiệt hại trên. Mặt khác tỷ lệ phạm tội gia tăng cũng sẽ kéo theo việc chi ngân sách nhà nước dành cho các hoạt động điều tra, xét xử, trong việc khắc phục hậu quả của tội phạm gây ra cho xã hội, trong công tác cải tạo, giáo dục và thi hành án đối với người phạm tội. Không những vậy, tỷ lệ tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ngày càng tăng tác động không tốt đối với du lịch và đầu tư trong tỉnh Đồng Tháp. Khi một địa điểm được đánh giá là khơng an tồn, tình hình an ninh trật tự bất ổn hoặc có tỷ lệ tội phạm cao, khách du lịch và nhà đầu tư ít có khả năng đến thăm hoặc thành lập doanh nghiệp ở khu vực đó. Điều này có thể dẫn đến giảm doanh thu du lịch và giảm cơ hội việc làm cho người dân địa phương. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể do dự khi đầu tư vào một khu vực có tỷ lệ tội phạm cao, dẫn đến tăng trưởng kinh tế bị đình trệ.
<i>Đối với cơng tác quản lý ở Đồng Tháp, Đồng Tháp là một tỉnh có đường biên giới </i>
hơn 50km giáp với một số tỉnh của Campuchia vì điều kiện địa lý đặc biệt đó nên tiềm ẩn rất nhiều mối lo ngại về an ninh trật tự, đặc biệt là vấn đề về vi phạm pháp luật do người chưa thành niên gây ra, cụ thể hơn là về tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện có thể tác động tiêu cực đến sự ổn định của cộng đồng, dẫn đến sợ hãi, ngờ vực và phá vỡ sự gắn kết xã hội. Vì thế, các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Tháp cần triển khai các biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể và phù hợp nhằm có thể kiểm sốt tốt hơn được tình hình tội phạm cố ý gây thương tích. Cần phải đưa ra các giải pháp tổng thể để hạn chế những thiếu sót trong cơ chế quản lý về các mặt, giúp cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác. Thơng qua các biện pháp phịng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện, tỉnh Đồng Tháp có thể tạo ra một môi trường mà người dân cảm thấy an toàn và yên tâm, thúc đẩy sự tin tưởng và đồn kết trong nhân dân. Từ đó, đưa ra những giải pháp mang tính chủ động, tích cực hơn và hiệu quả hơn trong cơng tác đấu tranh phịng ngừa tội phạm của các cơ quan nhà nước, ban ngành đồn thể có liên quan.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Trong việc nghiên cứu và phân tích tình hình tội phạm của tội cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra, thì vấn đề cần được quan tâm là phải nắm được tổng số vụ tội phạm cố ý gây thương tích đã xảy ra trong thực tế và số người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích. Trên thực tế, chỉ có số tội phạm rõ mới là số liệu mà hiện nay chúng ta mới nắm và thống kê được. Còn lại một phần của tình hình tội phạm chưa được thống kê, chưa được phát giác hoặc tố cáo, đó chính là phần tội phạm ẩn.
Tội phạm rõ, hay còn gọi là tội phạm hiện, là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý theo thủ tục hình sự. Trên thực tế, số tội phạm rõ này được xác định qua thống kê của cơ quan chức năng<small>4</small>.Tội phạm rõ khơng chỉ bao gồm những tội phạm bị Tịa án tuyên có tội bằng bản án có hiệu lực mà còn bao gồm số tội phạm, số người phạm tội tồn tại cả trong giai đoạn khởi tố hoặc giai đoạn truy tố hoặc giai đoạn xét xử hoặc trong các trường hợp đình chỉ vì một vài lý do như theo yêu cầu của bị hại hay do bị cáo chết… Theo đó, tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở đây là tội phạm rõ vì số lượng người phạm tội, tội phạm đã được phát hiện, xử lý thể hiện qua thống kê hình sự bởi các cơ quan chức năng.
Đối ngược lại với tội phạm rõ thì Tội phạm ẩn có thể là những tội phạm chưa bị cơ quan chức năng phát hiện hoặc đã bị cơ quan chức năng phát hiện nhưng không bị xử lý hoặc tội phạm đã bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý nhưng không được thống kê.<small>5</small> Tội phạm ẩn là một phần rất quan trọng trong tình hình tội phạm. Nếu chỉ xét đến mỗi tội phạm rõ thì như vậy sẽ khơng phản ánh đúng tình hình tội phạm thực tế để mà từ đó đưa ra được các biện pháp, giải pháp phòng ngừa tội phạm. Về cơ bản, giữa tội phạm ẩn và tội phạm rõ có mối quan hệ liên kết rất chặt chẽ nhưng có chiều hướng nghịch đảo. Vì nếu tỷ lệ tội phạm rõ càng lớn thì tỷ lệ tội phạm ẩn càng thấp và ngược lại. Nhưng cần phải lưu ý rằng tỷ lệ tội phạm ẩn vì tính chất của nó là ẩn, khơng rõ ràng nên số liệu thống kê về tội phạm ẩn của tội cố ý gây thương tích khó tiếp cận, khan hiếm, không thể hiện được số lượng tội phạm trên thực tế.Theo số liệu thống kê hình sự của Cơng an tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn 5 năm từ năm 2018 đến năm 2022 thì số lượng
<small> </small>
<small>4</small><i><small> Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh và các tác giả khác (2015), Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Luật </small></i>
<small>Thành phố Hồ Chí Minh, NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr.135 5 Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh và các tác giả khác, tlđd (4), tr.135 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích trong địa bàn tỉnh được thống kê như sau:
<b>Năm Số vụ án </b>
<b>Số bị can </b>
<b>là 237 vụ. Trung bình mỗi năm số vụ án đã bị khởi tố là 47 vụ. Nhìn chung số vụ án </b>
trong 5 năm trở lại đây có xu hướng tăng từ năm 2018 đến năm 2022 tăng từ 42 vụ án
<b>lên 56 vụ tăng 14 vụ án tương ứng với tăng 25% so với năm 2022 và so sánh hai năm gần nhất là năm 2021 có 40 vụ đến năm 2022 lên tới 56 vụ tăng 16 vụ ứng với tăng </b>
<b>28,57% so với năm 2022. Ngoài ra năm 2021 số vụ án có xu hướng giảm, nguyên nhân </b>
là do khoảng thời gian này là tình hình dịch bệnh COVID-19 đang đạt đỉnh cao cả nước nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng đều thực hiện giãn cách xã hội đóng cửa nên các
<b>vụ xung đột khó có thể xảy ra. Trong đó, các vụ án do nam giới thực hiện chiếm 94,51% trên tổng số, các vụ án do nữ giới thực hiện chiếm 3,15% trên tổng số và tập trung cao ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi với khoảng 80,63% trên tổng số vụ án, qua đó có </b>
thể thấy tội phạm cố ý gây thương tích ở người chưa thành niên tập trung ở nam giới. Chúng ta có thể thấy ở độ tuổi này các thanh thiếu niên có sự thay đổi về mặt tâm lý, một phần vì ở độ tuổi này họ có xu hướng đánh giá quá cao khả năng của bản thân khi chuẩn bị rời khỏi cha mẹ họ dễ bị kích động, lơi kéo tham gia vào việc làm sai trái, vi phạm pháp luật. Đặc biệt,theo số liệu thống kê thì trình độ học vấn của người chưa thành niên phạm tội thường tập trung chủ yếu ở trung học cơ sở và bậc trung học phổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b>Số bị can </b>
<b>Giới tính <sup>Nhóm </sup><sub>tuổi </sub>Dân tộc Trình độ văn hố </b>
<b>m Nữ 14 </b>
<b>- 16 </b>
<b>16 - 18 </b>
<b>Kinh </b>
<b>Khác </b>
<b>Không học </b>
<b>Tiểu học </b>
<b>THCS </b>
<b>THPT </b>
<b>độ văn hóa từ năm 2018 đến năm 2022 thì tổng số vụ án là 217 vụ, tổng số bị can là 364 </b>
bị can, có xu hướng tăng qua mỗi năm, vào năm 2021 tuy rằng dịch bệnh COVID-19
<b>diễn biến khắp nơi và phải thực hiện cách ly xã hội nhưng vẫn có đến 55 bị can, đồng </b>
thời vào năm 2022 khi dịch bệnh cơ bản đã được kiểm sốt và việc giãn cách đã khơng cịn diễn ra thì số lượng bị can lên đến một con số đáng báo động, gần gấp đôi so với
<b>năm 2021 đó là 102 bị can. Cịn xem xét theo từng tiêu chí thì trong tổng số 364 bị can có 355 bị can là nam chiếm 97,5% và 09 bị can là nữ chiếm 2,5%. Số bị can tập trung cao ở giới tính nam và đa số là ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi với khoảng 78%. </b>
Có thể thấy rằng ngun nhân chủ yếu là do người có giới tính nam thường có tính cách mạnh mẽ, quyết đốn và khả năng kiềm chế hành vi cũng như tính kiên nhẫn thấp hơn người có giới tính nữ. Đồng thời, ở lứa tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là độ tuổi mà các đặc điểm tâm sinh lý đang trong q trình phát triển, hồn thiện về thể chất và tinh thần nên phần lớn, họ khó làm chủ được bản thân nên cũng dễ bị các thành phần xấu lơi kéo, kích động làm những việc sai trái, vi phạm pháp luật. Đặc biệt, theo số liệu thống
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">kê thì trình độ văn hoá của người chưa thành niên phạm tội tập trung cao ở bậc THCS,
<b>cụ thể là có 204 bị can, chiếm khoảng 56%, chiếm hơn một nửa tổng số bị can chưa </b>
thành niên phạm tội cố ý gây thương tích. Có thể thấy, trình độ văn hố THCS khơng phải là một mức độ trình độ kém so với tình hình chung của một tỉnh cịn chưa phát triển đồng đều như là Đồng Tháp. Trong khi số lượng bị can không đi học và số lượng bị can có trình độ văn hố là bậc tiểu học cịn thấp hơn so với số lượng bị can có trình độ văn hố ở bậc THPT. Như vậy, có thể nhận định rằng khơng phải trình độ văn hố càng cao thì nguy cơ phạm tội càng thấp và ngược lại. Điều này là bởi vì ngày nay, người trẻ có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều mơi trường khác nhau từ rất sớm chứ không chỉ là mơi trường nhà trường, ví dụ như mạng xã hội, đi làm thêm để có tiền tiêu vặt,… Trong khi xã hội ngày càng phức tạp, nhiều cám dỗ như rượu, bia, ma t, các chất kích thích thì việc người trẻ càng giao du với quá nhiều người nhưng chưa đủ trưởng thành để tránh xa những thứ tiêu cực đó thì việc bị dụ dỗ, lơi kéo là dễ dàng xảy ra. Và cũng từ những điều đó, các mâu thuẫn, xích mích phát sinh và gây ra những hậu quả không thể lường trước được. Như vậy, phần lớn bị can khơng có trình độ văn hố quá thấp, bởi vì số lượng bị can tập trung cao ở trình độ THCS và THPT.
<b>1.2.2. Cơ cấu về tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện </b>
<b>Nhóm nghiên cứu đã thống kê, phân tích 237 vụ án hình sự về tội phạm do người </b>
dưới 18 tuổi thực hiện trong phạm vi các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn từ năm 2018 đến 2022. Theo đó, tình hình tội phạm trong giai đoạn này được thể hiện qua các loại hình cơ cấu, cụ thể như sau:
<b>1.2.2.1. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội </b>
Căn cứ vào số liệu được cung cấp, địa bàn thực hiện hành vi phạm tội của tội phạm có sự dàn trải trên tồn khu vực tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, số vụ phạm tội tại các thành phố và các huyện phát triển như huyện Tháp Mười, huyện Lấp Vị có số lượng cao hơn so với số vụ vi phạm tại các đơn vị hành chính khác trực thuộc tỉnh Đồng Tháp. Điều này là dễ hiểu vì những thành phố lớn, những huyện phát triển thường tập trung nhiều địa điểm ăn uống, vui chơi, giải trí nên sẽ kích thích trí tị mị, khám phá của giới trẻ đặc biệt là những người dưới 18 tuổi. Ở những độ tuổi này họ thường khá rảnh rỗi và dễ bốc đồng nên dễ dẫn đến việc khi đi đến một địa điểm vui chơi dễ sinh sự với người khác, hay gây xích mích, mâu thuẫn dẫn đến bước cuối cùng là hẹn nhau dùng vũ lực để giải quyết vấn đề.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>24 </small>
<b>Địa bàn phạm tội </b>
<b>TP Cao Lãnh </b>
<b>TP Sa Đéc </b>
<b>TP Hồng Ngự </b>
<b>H Cao Lãnh </b>
<b>H Châu Thành </b>
<b>H Hồng Ngự </b>
<b>Địa bàn phạm tội </b>
<b>H Lai Vung </b>
<b>H Lấp Vị </b>
<b>H Tam Nơng </b>
<b>H Tân Hồng </b>
<b>H Thanh Bình </b>
<b>H Tháp Mười </b>
<i>Bảng 1.3. Cơ cấu tình hình tội theo tiêu chí địa bàn thực hiện hành vi phạm tội </i>
<b>1.2.2.2. Cơ cấu theo tội phạm cụ thể </b>
<i>Biểu đồ 1.1. Cơ cấu tình hình tội phạm theo tội cụ thể </i>
Theo thống kê của Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an tỉnh Đồng Tháp, trong giai đoạn 2018 – 2022 thì người dưới 18 tuổi phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp thường cấu thành các tội cơ bản sau: tội trộm, cướp giật tài sản; tội cố ý gây thương tích và tội giết người. Ở đây, hai tội chiếm tỷ lệ cao nhất là tội trộm, cướp giật tài sản; tội cố ý gây thương tích
<b>với tỷ lệ phần trăm xê xích nhau chỉ 10% là 54% và 44%, thấp nhất là giết người chỉ chiếm tỷ lệ 02%. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ có sự chênh lệch khá lớn giữa tội cao </b>
nhất và thấp nhất, nguyên nhân vì mức độ nghiêm trọng của từng tối khác nhau. Tuy
<b>nhiên ở đây, tập trung vào tội cố ý gây thương tích tuy chỉ chiếm 44% tức nằm giữa </b>
mức cao nhất và thấp nhất nhưng ta có thể nhận thấy được mức độ của tội phạm này ngày càng tăng cao và sắp bằng với tội phạm ở khu vực nào cũng gặp phải đó là trộm, cướp giật tài sản. Ở đây, ta xét về mức độ nghiêm trọng của từng tội thì cao nhất của tội cố ý gây thương tích là để lại hậu quả 2 người thiệt mạng và cao nhất của tội trộm, cướp
<small>Cố ý gây thương tíchGiết người</small>
<small>Trộm, cướp giật</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">giật tài sản chỉ dừng ở mức thiệt hại về vật chất vậy nên hình phạt áp dụng cũng sẽ nhẹ hơn nhiều so với hình phạt của tội cố ý gây thương tích. Vì vậy, tỷ lệ tội cố ý gây thương tích đang ngày càng gia tăng là một điều rất đáng báo động vì mức độ nguy hiểm và hậu quả khôn lường từ hành vi cố ý gây thương tích mạng lại cho xã hội là cực kỳ xấu và cần phải có biện pháp khắc chế. Từ q trình phân tích này, tạo cơ sở để đánh giá hiệu quả phòng người tội phạm ở chương 3.
<b>1.2.2.3. Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội: </b>
Dưới góc độ tội phạm học, nhân thân của người phạm tội được hiểu là nhân thân người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự coi là tội phạm<small>6</small>. Phân tích số liệu thống kê, có thể thấy một số đặc điểm về nhân thân của người phạm tội dưới 18 tuổi phạm tội cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp như sau:
<small> </small>
<small>6</small><i><small> Lê Thị Sơn và các tác giả khác (2022), Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Công an </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><small>26 </small>
<i>Biểu đồ 1.2. Cơ cấu tình hình tội phạm theo giới tính của người phạm tội </i>
<b>b) Theo trình độ học vấn: </b>
<i>Biểu đồ 1.3. Cơ cấu tình hình tội phạm theo trình độ học vấn của người phạm tội </i>
<b>Qua thống kê, tỷ lệ bị cáo không biết chữ hoặc có trình độ học vấn 0/12 chiếm </b>
<b>2,91%, tội phạm cấp tiểu học chiếm 15,01%, cấp trung học phổ thông chiếm 25,42% </b>
<b>và tỷ lệ tội phạm cấp trung học cơ sở chiếm tỷ lệ đông nhất 56,66%. Tỷ lệ tội phạm này </b>
đang gióng lên hồi chuông cảnh báo các bậc cha mẹ, các cơ quan nhà nước có liên quan cần quan tâm hơn về giáo dục con cái và phát triển giáo dục cho con em từ nhỏ cho đến lớn. Nguyên nhân chính của những đứa trẻ bỏ học, ăn chơi lêu lỏng hiện nay một phần lớn là do ba mẹ không quan tâm, nhà trường không để ý nên khiến đứa trẻ đó ngày càng sa sút, quên lãng chuyện học hành mà tham gia vào những thú vui, những cạm bẫy ngồi xã hội. Từ đó khơng những làm giảm mức độ dân trí của địa phương mà cịn gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của địa phương và hơn hết là tương lai của những đứa trẻ đó. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế, không thể kết luận rằng trình độ văn hóa thấp sẽ
<small>KHÔNG HỌCTIỂU HỌCTHCSTHPT</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">dẫn đến nhiều tội phạm của tội cố ý gây thương tích. Ở đây, số lượng bị can có trình độ văn hóa cao hơn nhiều so với số bị can có trình độ ở mức không đi học và tiểu học. Từ căn cứ trên, có thể nhận định rằng khơng phải trình độ văn hố càng cao thì nguy cơ phạm tội càng thấp và ngược lại. Vậy nên, khi xây dựng phương án phịng ngừa ta khơng thể nào chỉ đưa ra một trường hợp mà phải xét trên toàn diện vấn đề.
<b>1.2.2.4. Cơ cấu theo thiệt hại về tình hình tội phạm giết người do người chưa thành niên thực hiện: </b>
Thiệt hại của tình hình tội phạm là những thiệt hại mà tình hình tội phạm gây ra cho xã hội, bao gồm những thiệt hại về vật chất, thiệt hại về thể chất và thiệt hại phi vật chất. Những thiệt hại này gây ra cho khách thể của tội phạm được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Tính chất và mức độ của thiệt hại được xác định bởi tính chất và mức độ biến đổi của các đối tượng tác động của tội phạm. Vì vậy thì tuỳ theo tội phạm phát sinh mà tính nghiêm trọng của thiệt hại kéo theo đó cũng biến thiên theo.
<i>Biểu đồ 1.4. Cơ cấu tình hình tội phạm theo mức độ nghiêm trọng </i>
Qua số liệu thống kê thì có thể thấy cơ cấu tình hình người chưa thành niên phạm tội cố ý gây thương tích tại tỉnh Đồng Tháp có xu hướng tăng qua các năm ở cả bốn loại tội phạm: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Riêng ở năm 2021 có sự giảm xuống so với các năm là do thời điểm này tình hình dịch bệnh COVID-19 trong cả nước đang rất nghiêm trọng, nhà nước thực hiện biện pháp giãn cách xã hội, dẫn đến tỷ lệ tội phạm tại địa bàn Đồng Tháp cũng giảm đi phần nào. Mức độ nguy hiểm của các tội phạm trải dài ở cả 4 loại tội phạm qua từng năm, trong đó tội phạm ít nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao nhất và thấp nhất là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là điều rất đáng báo động vì tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><small>28 </small>
loại tội phạm vô cùng nguy hiểm, để lại rất nhiều thiệt hại cho nạn nhân và gia đình nạn nhân, nhưng từ năm 2018 đến năm 2022 thì tỉnh Đồng Tháp đều có ghi nhận về loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng này, đỉnh điểm là ở năm 2022 với 4 tội phạm, gấp đôi so với số loại tội phạm này ở hầu hết các năm trước đó.
<i>Biểu đồ 1.5. Số nạn nhân tử vong từ năm 2018 đến 2022 của tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bản tỉnh Đồng Tháp </i>
Để đánh giá về mức độ và tính chất của hậu quả thiệt hại về sức khỏe mà các tội phạm này gây ra, BLHS hiện hành sử dụng tỷ lệ tổn thương cơ thể được giám định bởi cơ quan có thẩm quyền và kết luận theo cơ chế phần trăm. Theo đó, phần trăm tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại càng lớn thì mức độ và tính chất của hành vi phạm tội càng nghiêm trọng và hình phạt dành cho người phạm tội càng nặng hơn. Phần trăm tỷ lệ tổn thương cơ thể và mức hình phạt tương ứng của tội cố ý gây thương tích đã được
<b>nhà làm luật quy định rất rõ ràng, chi tiết tại Điều 134 BLHS hiện hành. Mức hình phạt </b>
thấp nhất đối với tội trên là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
<b>tháng đến 03 năm được quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS hiện hành và cao nhất là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân theo Khoản 6 Điều 134 BLHS </b>
<b>hiện hành. Nhìn vào mức phạt cao nhất của tội, ta có thể thấy được hành vi của tội là </b>
vơ cùng nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến nạn nhân và cộng đồng. Các tỷ lệ tổn thương cơ thể được luật quy định gồm dưới 11%, từ 11% đến 30%, từ 31% đến 60%, 61% trở lên, làm chết người. Trong đó nguy hiểm nhất chính là hành vi làm chết người. Theo thống kê về số lượng người chết do tội cố ý gây thương tích gây nên tại địa bàn tỉnh Đồng Tháp có xu hướng tăng, cho thấy tội phạm tại địa bàn từ năm 2018 đến 2022 khơng chỉ tính chất cơn đồ ngày càng tăng mà cịn có tính tổ chức và đã để lại thiệt hại
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">đáng kể cho xã hội. Điều này gióng lên hồi chng cảnh báo về hành vi ngày càng ngông cuồng của tội phạm này.
<b>1.2.3. Động thái về tình hình tội phạm giết người do người chưa thành niên thực hiện </b>
Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm là sự vận động thay đổi của thực trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian nhất định (một năm, năm năm, mười năm). Cụ thể sau đây là thông số phản thực trạng, cơ cấu của tội phạm cố gây thương tích do người chưa thành niên gây ra trong một khoảng thời gian là 05 năm ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn từ năm 2018-2022. Nhóm sử dụng phương pháp định gốc tính theo năm, lấy năm 2018 làm năm gốc và kết quả được thể hiện như sau:
<i> Biểu đồ 1.6. Diễn biến về tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn từ năm 2018 - 2022 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>30 </small>
Từ bảng số liệu 1.4 và biểu đồ 1.6, ta có thể thấy rằng tổng số vụ án cố ý gây thương tích diễn ra trong 05 năm từ năm 2018-2022 ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp là 237 vụ án và tổng số bị can trong giai đoạn trên là 413 bị can. Trung bình mỗi năm thì số vụ án cố ý gây thương tích do người chưa thành niên ở tỉnh Đồng Tháp phạm tội diễn ra là 47 vụ/năm tương ứng với trung bình số bị can là 83 người/năm.
Diễn biến của số vụ án và số bị can của tội cố ý gây thương tích trong 05 năm qua ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp có xu hướng chuyển biến theo hình chữ N. Cụ thể từ năm 2018-2020, thì số vụ án tăng dần từ 42 vụ đến 52 vụ nhưng đến năm 2021 thì giảm xuống 40 vụ và đến năm 2022 thì đột ngột tăng lên 56 vụ. Tương tự như vậy, số lượng bị can cũng tăng từ năm 2018-2020, sau đó cũng đột ngột giảm vào năm 2021 và tăng trở lại vào năm 2022, cụ thể là từ 2018-2020 số lượng bị can tăng từ 64 người đến 80 người. Đến năm 2021 thì lại giảm xuống 58 người và sang năm 2022 thì tăng lên 136 người. Năm có số vụ án và số bị can cao nhất với năm có số vụ án và số bị can thấp nhất lại nằm liền kề nhau cho thấy rằng trong hai năm này có một vài sự biến động, sự kiện xảy ra cũng như những thay đổi trong bối cảnh xã hội, chính trị,... diễn ra tại Việt Nam nói chung, địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
Dựa vào bảng 1.4, có thể thấy số vụ án cũng như số bị can đều có chiều hướng tăng trong 5 năm qua. Theo quan sát, số lượng bị can của các năm đều cao hơn số vụ án diễn ra, cụ thể như vào năm 2022 thì 56 vụ án tương ứng 136 bị can, con số bị can cao hơn xấp xỉ 2,5 lần số vụ án. Lý giải ở đây khi xảy ra mâu thuẫn tranh chấp giữa người chưa thành niên họ có xu hướng giải quyết bằng cách gọi một nhóm người là “anh em chí cốt” mang vũ khí, nhân lực đến hỗ trợ nhau, để không bị đối phương áp bức. Cho nên, khi tội phạm xảy ra thì khơng tránh được việc nhóm người trên có liên quan một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nói cách khác, tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện ở địa bàn tỉnh Đồng Tháp thường có chiều hướng phạm tội có tổ chức hơn là đơn lẻ.
Chính nhờ vào động thái của tình hình tội phạm giúp các cơ quan chức năng có cái nhìn khái qt về thực trạng, cơ cấu của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian để đánh giá xu hướng biến động, đưa ra các chiến lược, kế hoạch phòng chống tội phạm hiệu quả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1</b>
Chương 1 cho chúng ta cái nhìn tổng quan về hai vấn đề đó là vấn đề lý luận về tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện và tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Trong đó, đối với các vấn đề lý luận về tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện nhóm nghiên cứu đã nêu ra lần lượt là khái quát về tội cố ý gây thương tích; khái niệm người chưa thành niên phạm tội; khái niệm nguyên nhân, điều kiện tội cố ý gây thương tích do người chưa thành người chưa thành niên thực hiện khái niệm và ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện.
Ngồi ra, về tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp nhóm nghiên cứu đã có những đánh giá, phân tích và so sánh các số liệu do cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Đồng Tháp cung cấp mà nhóm nghiên cứu đã có những số liệu phản ánh thực trạng tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên thực hiện từ đó có những đánh giá, nhận xét thơng qua 04 yếu tố: Thực trạng, cơ cấu, động thái là những phần đã được trình bày và phân tích cụ thể. Ngoài ra, đi kèm với số liệu do cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Đồng Tháp cung cấp giúp xác định được phạm vi đề tài và hướng giải quyết đề tài nghiên cứu. Dựa vào việc phân tích, đánh giá những thực trạng được nêu qua số liệu là căn cứ để nhóm nghiên cứu triển khai, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa, gốc rễ, để trả lời cho câu hỏi “Vì sao họ phạm tội?” ở chương 2.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>32 </small>
<b>Chương 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA </b>
<b>BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP2.1. Nguyên nhân và điều kiện từ gia đình </b>
Phần lớn cuộc đời của một đứa trẻ từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành sẽ ln xuất hiện hình bóng của gia đình bên cạnh. Gia đình được xem là nhân tố cốt yếu ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và tâm lý của trẻ. Vốn dĩ khi sinh ra những đứa trẻ như là một tờ giấy trắng, gia đình chính là người tơ vẽ, thêm sắc màu lên tờ giấy trắng ấy, chính những sắc màu ấy hình thành lên những bức tranh tính cách của một đứa trẻ. Trẻ em thường sẽ học hỏi từ những người thân cận với mình như ba mẹ, ông bà, anh chị em của chúng; chúng sẽ quan sát những hành động của người lớn, sau đó sẽ bắt chước và tương tác giống như vậy. Ví dụ muốn một đứa trẻ nói được từ “mẹ” thì chúng ta phải thực hành trước, lặp đi lặp lại từ ấy trước mặt trẻ để trẻ học theo. Gia đình giúp trẻ tìm hiểu, nhận thức về thế giới xung quanh. Một đứa trẻ có thể nhận biết được cái nào là xấu, cái nào là tốt hoặc cái nào là nguy hiểm đều phải dựa vào việc gia đình hướng dẫn và dạy bảo thì mới biết được. Gia đình nắm một vai trị quan trọng trong việc hình thành nhân cách, niềm tin, giá trị và thái độ của chúng đối với cuộc sống. Mơi trường gia đình cung cấp những bài học, những trải nghiệm đầu tiên cho trẻ em và nó có tác động đáng kể đến sự phát triển tâm lý của chúng. Một trong những lý thuyết nổi bật nhất về cách gia đình ảnh hưởng đến tính cách và tâm lý của trẻ em là Thuyết Gắn Bó của nhà tâm lý học người Anh John Bowlby (1950). Theo lý thuyết này, chất lượng của sự gắn bó giữa một đứa trẻ và những người chăm sóc chính của chúng có thể có tác động sâu sắc đến sự phát triển cảm xúc của đứa trẻ. Những đứa trẻ có sự gắn bó an tồn có xu hướng tự tin, độc lập và hịa đồng hơn, trong khi những đứa trẻ có sự gắn bó khơng an tồn có thể phải vật lộn với sự lo lắng, lịng tự trọng thấp và khó hình thành các mối quan hệ. Vì vậy, do thời gian tiếp xúc cùng với sự tác động, ảnh hưởng của mình mà yếu tố gia đình được xem như là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc người chưa thành niên phạm tội nói chung và ở tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><i>Biểu đồ 2.1. Khảo sát đối tượng người dưới 18 tuổi cùng sinh sống </i>
Theo như biểu đồ 2.1 thì phần lớn người chưa thành niên ở tỉnh Đồng Tháp sống cùng với ba và mẹ, cụ thể tỉ lệ này chiếm 80%. Điều đó cho thấy rằng cha mẹ là những người có ảnh hưởng rất lớn đến người chưa thành niên vì đa phần người mà họ tiếp xúc nhiều nhất chính là cha mẹ của mình. Cha mẹ của người chưa thành niên có vai trọng rất quan trọng trong việc hình thành thái độ, tính cách của họ. Cha mẹ là người có trách nhiệm đảm bảo rằng con cái của mình nhận được một nền giáo dục tốt, mơi trường an tồn, tích cực và lành mạnh. Sự hiện diện của cả cha và mẹ đều quan trọng như nhau trong quá trình phát triển của người chưa thành niên. Đối với người chưa thành niên, việc có cha mẹ bên cạnh đóng góp vào sự phát triển tình cảm của họ bằng cách mang lại cảm giác an toàn và ổn định vào sự phát triển về cảm xúc, nhận thức, xã hội và thể chất của con cái theo nhiều cách khác nhau hướng dẫn cần thiết cho sự phát triển lành mạnh về nhiều mặt cho họ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">đề về sức khỏe tinh thần<i><small>7</small>, </i>cũng như khó khăn trong việc giao tiếp xã hội và các mối quan hệ cao hơn so với những đứa trẻ có đầy đủ cha mẹ. Điển hình một nghiên cứu được cơng bố trên Tạp chí Hơn nhân và Gia đình<i><small>8</small> cho thấy những đứa trẻ lớn lên khơng có </i>
cha có nhiều khả năng bị trầm cảm và lo lắng, cũng như tham gia vào các hành vi phạm pháp như lạm dụng chất kích thích và hoạt động tội phạm. Khơng chỉ riêng về người cha, sự vắng mặt của mẹ cũng sẽ dễ khiến trẻ gặp các vấn đề về tâm lý và hành vi như sự gắn bó, thiếu đồng cảm, dễ bị kích động…
Những đổ vỡ trong chính hơn nhân của cha mẹ cũng tác động đáng kể đến cuộc sống của trẻ vì nó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu vắng tình thương của cha/mẹ. Trẻ trải qua hàng loạt những cảm xúc tiêu cực như buồn bã, tức giận, bối rối, lo lắng,… khi từ một gia đình đủ đầy có cha và mẹ bên cạnh thì bây giờ chỉ có thể nhận tình thương từ một người hoặc là khơng ai cả. Bởi vì khi ly hơn con trẻ phải xa rời cha/mẹ nên khơng có điều gì đảm bảo rằng trẻ sẽ nhận được tình yêu thương đầy đủ từ cả hai. Điều này khiến cảm xúc của trẻ dần trở nên mất cân bằng, mong manh hơn, nhạy cảm hơn, có những đứa trẻ chọn cách giải tỏa cảm xúc bằng những hành vi bạo lực như trút giận lên người khác. Ngoài ra, trước khi đến bước ly hôn, cha mẹ của người chưa thành niên đa phần xuất hiện rất nhiều cuộc cãi vã, đây là tiền đề cho những suy nghĩ, tâm lý lệch lạc và hành động tiêu cực của những đứa trẻ trong những gia đình khơng trọn vẹn vì phải luôn tiếp nhận những thơng tin, tình cảm tiêu cực, buồn bã. Những thái độ, hành vi tiêu cực như trên sẽ góp phần vào việc trẻ rơi vào con đường phạm tội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>36 </small>
<i>Biểu đồ 2.3. Khảo sát các lý do được cho là khiến trẻ có các hành vi tiêu cực </i>
Theo như khảo sát của nhóm có rất nhiều lý do để khiến trẻ trở nên hung hăng, quậy phá và phản nghịch và trong đó lý do gia đình có cha/mẹ bạo hành con trẻ, nghiện ngập hoặc vô tâm chiếm phần lớn lựa chọn của người khảo sát, cụ thể là 70 lựa chọn. Bởi vậy, có thể nói dù trẻ có sống trong một gia đình có đầy đủ cha mẹ thì vẫn có rất nhiều yếu tố khác xuất phát từ trong chính gia đình dẫn đến những hành vi tiêu cực của trẻ, trong đó cha mẹ bạo hành hoặc vô tâm hoặc phạm tội hoặc giáo dục không đúng cách được xem là nguyên nhân được mọi người nghĩ đến nhiều nhất. Như đã đề cập ở trên, thì gia đình là những người có ảnh hưởng đến tâm lý cũng như nhân cách của một đứa trẻ và họ được xem là tấm gương để noi theo. Việc sống trong môi trường bạo lực không chỉ gây tổn thương về mặt thể xác mà còn gây ra những vết thương về mặt tinh thần rất lớn. Những đứa trẻ sống trong môi trường như vậy nó sẽ nghĩ rằng cách giải quyết tốt nhất chính là bằng con đường bạo lực. Chúng xem đây là hành vi bình thường, khơng gì sai trái và có thể chấp nhận được vì chính những người xung quanh trong gia đình cũng có hành vi tương tự. Cũng như vậy việc sống trong một môi trường tồn tại những tệ nạn xã hội hay phạm tội có thể ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống niềm tin, giá trị, nhân cách của trẻ. Điều này dẫn đến sự lệch lạc trong nhận thức, khiến chúng xem thường pháp luật, tăng khả năng tham gia vào các hoạt động phạm pháp hoặc tội phạm sau này trong cuộc sống.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><i>Biểu đồ 2.4. Khảo sát về cách thể hiện sự quan tâm, yêu thương của gia đình đối với trẻ </i>
Khảo sát của nhóm cũng cho thấy được nhiều gia đình ở Đồng Tháp thể hiện tình yêu thương, quan tâm đời sống tinh thần của trẻ bằng việc lắng nghe, trò chuyện tâm sự cùng trẻ. Việc cùng trò chuyện, lắng nghe trẻ giãi bày cũng là cách giáo dục, hướng dẫn và làm tăng sự tương tác giữa gia đình và trẻ. Ngay cả những người thành niên được khảo sát có đến 70% người chưa thành niên lựa chọn việc sống trong một gia đình khơng q đầy đủ vật chất nhưng họ lại được quan tâm, chia sẻ cùng với gia đình. Những đứa trẻ lớn lên trong một gia đình ổn định, được yêu thương, quan tâm sẻ chia thường có kết quả sức khỏe tâm thần tốt hơn những đứa trẻ khơng có. Tuy vậy, theo khảo sát của nhóm thì đa số phụ huynh dành thời gian trong tuần để tâm sự với trẻ là 1-2 buổi/tuần và mỗi buổi trò chuyện chỉ kéo dài 1-2 tiếng. Mặc dù phụ huynh thấy được tầm quan trọng trong việc chia sẻ với con trẻ nhưng trên thực tế thì thời gian họ dành ra khơng q nhiều thời gian. Có rất nhiều lý do như gia đình q bận rộn với việc kiếm tiền hoặc có vài gia đình nghĩ rằng chỉ cần lo cho nó đầy đủ về vật chất là được còn về kiến thức cũng như đạo đức sẽ do trường lớp dạy, nhưng họ lại qn rằng con mình vẫn cần phải có gia đình bên cạnh quan tâm, hướng dẫn và kèm cặp. Từ đó, sự tương tác, gắn bó giữa gia đình và con trẻ ngày càng suy giảm.
</div>