Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Đấu Tranh Chống Đánh Bắt Cá Trái Phép, Không Thông Báo Và Không Theo Quy Định (Iuu) Nghiên Cứu So Sánh Pháp Luật Nước Ngoài Và Kinh Nghiệm Cho Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 127 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BẢNG GIẢI THÍCH TỪ VIẾT TẮT </b>

BFAR Cục Nghề cá - Nguồn lợi Thủy sản Philippines Bộ NN-PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

CCAMLR Ủy ban Bảo tồn Tài nguyên Sinh vật Biển Nam Cực CCRF Bộ quy tắc ứng xử về đánh bắt thủy sản có trách

nhiệm năm 1995

CFP Chính sách nghề cá chung của Liên minh Châu Âu

DC-MARE Tổng vụ Các vấn đề Biển và Thủy sản trực thuộc Uỷ ban Châu Âu

FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc FMA Khu vực quản lý nghề cá Philippines

IPAO-IUU

Chương trình hành động quốc tế về ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hoạt động khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định

Khai thác thủy sản IUU <sup>Khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không thông báo và </sup>không theo quy định

MCS Hệ thống giám sát, kiểm tra, kiểm soát Thái Lan MFARD Bộ Thủy sản và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản Sri

Lanka

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

NAQDA Cơ quan Phát triển Nuôi trồng Thủy sản Quốc gia Sri Lanka

NFARMC Hội đồng Quản lý Nghề cá - Nguồn lợi Thủy sản Philippines

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế PSMA

Hiệp định về các biện pháp của quốc gia có cảng trong việc ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU

SDG Mục tiêu Phát triển Bền vững Sri Lanka

VASEP Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>LỜI NÓI ĐẦU ...1CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐÁNH BẮT CÁ BẤT HỢP PHÁP, KHÔNG THÔNG BÁO VÀ KHÔNG THEO QUY ĐỊNH (IUU) ...81.1. Khái quát về hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) ...8</b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm IUU theo một số văn bản quốc tế. ...81.1.2. Khái niệm IUU theo pháp luật Việt Nam ...11</b></i>

<b>1.2. Ý nghĩa về hoạt động chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và khơng theo quy định (IUU) ...121.3. Lịch sử hình thành quy chế pháp lý chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) ...141.4. Nội dung về đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) trong một số văn kiện pháp luật quốc tế ...18</b>

<i><b>1.4.1. Nội dung về phòng, chống IUU trong một số văn kiện pháp luật quốc tế 181.4.2. Nội dung IUU theo quy định của một số thỏa thuận quốc tế, khu vực ...30</b></i>

<i>1.4.3. Ý kiến tư vấn và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế liên quan đến </i>

<i><b>IUU ...33</b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...36CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI ĐÁNH BẮT CÁ BẤT HỢP PHÁP, KHÔNG THÔNG BÁO VÀ KHÔNG THEO QUY ĐỊNH (IUU) CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRÊN THẾ GIỚI ...38</b>

<b>2.1. Pháp luật về đấu tranh chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Liên minh Châu Âu (EU) ...38</b>

<i>2.1.1. Quy định của EU chống IUU đối với các quốc gia trong EU</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>2.2.2. Vấn đề chống IUU được đặt ra trong hệ thống pháp luật Thái Lan ...482.2.3. Vấn đề thực thi pháp luật về chống IUU tại Thái Lan ...52</b></i>

<b>2.3. Pháp luật về đấu tranh chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Philippines ...55</b>

<i><b>2.3.1. Sơ lược về tình hình đấu tranh chống lại IUU tại Philippines ...552.3.2. Biện pháp khắc phục thẻ vàng của Philippines ...59</b></i>

<i>2.3.3. Phương hướng phát triển thủy sản bền vững sau khi gỡ thẻ vàng của </i>

<i><b>Philippines ...64</b></i>

<b>2.4. Pháp luật về đấu tranh chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Sri Lanka ...65</b>

<i><b>2.4.1. Tổng quan về tình hình IUU tại Sri Lanka ...65</b></i>

<i>2.4.2. Lệnh cấm nhập khẩu cá - “thẻ đỏ” của Liên minh Châu Âu đối với Sri </i>

<i><b>Lanka ...662.4.3. Kinh nghiệm khắc phục “thẻ đỏ” của Sri Lanka ...71</b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...78CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ĐÁNH BẮT CÁ BẤT HỢP PHÁP, KHÔNG THÔNG BÁO VÀ KHÔNG THEO QUY ĐỊNH (IUU) TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN. ...803.1. Thực trạng đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam. ...80</b>

<i>3.1.1. Tổng quan về quy định chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo </i>

<i><b>và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam. ...80</b></i>

<i>3.1.2. Bất cập trong pháp luật về chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông </i>

<i><b>báo và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam. ...89</b></i>

<b>3.2. Kiến nghị giải pháp đấu tranh chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam ...98</b>

<i>3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý về đấu tranh chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, </i>

<i><b>không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam. ...98</b></i>

<i>3.2.2. Hoàn thiện thực thi pháp luật về đấu tranh chống lại đánh bắt cá bất hợp </i>

<i><b>pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam. ... 104</b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ... 113KẾT LUẬN CHUNG... 114</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Ngành thủy sản Việt Nam bị Ủy ban châu (EC) cảnh báo "thẻ vàng" từ ngày 23/10/2017 với lý do: Việt Nam đã không làm đủ các yêu cầu để chống lại việc đánh bắt cá bất hợp pháp, thiếu chế tài và các biện pháp để ngăn chặn việc tàu cá Việt Nam đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng biển của các quốc gia láng giềng, bao gồm các quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương. Trong suốt 5 năm qua, Việt Nam đã không ngừng đưa ra các giải pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật như tham gia Hiệp định thực thi các điều khoản của UNCLOS 1982 về bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa (UNFSA) vào ngày 17/01/2019; đang trong quá trình xem xét để tham gia Chương trình hành động quốc tế về ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hoạt động khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IPOA-IUU), ban hành Luật Thủy sản năm 2017, Nghị định số 26/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản 2017… đã tạo khung pháp lý đủ rộng để thực thi và hợp tác cùng các nước trong khu vực, các tổ chức nghề cá khu vực đấu tranh phòng chống IUU; kịp thời, giúp Việt Nam chủ động tránh “thẻ đỏ” IUU, nâng cao năng suất khai thác và xuất khẩu các sản phẩm thủy sản khai thác có nguồn gốc, phát triển nền thủy sản Việt Nam một cách bền vững,.. tuy nhiên vẫn chưa đạt được những kết quả tốt nhất, đỉnh điểm là khi Việt Nam bị cảnh báo từ “thẻ vàng” sang “thẻ đỏ”. Đặc biệt, sắp tới đây Việt Nam sẽ đón tiếp Đồn thanh tra DR.Mare; đây là một sự kiện vô cùng quan trọng: EC xem xét gỡ bỏ "thẻ vàng” sau gần 5 năm hoặc áp dụng biện pháp nghiêm ngặt hơn đối với thủy sản khai thác của Việt Nam. Do đó cần phải nhanh chóng đưa ra những giải pháp thiết thực hơn đối với nghề đánh bắt cá

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>

<i><b>Về tài liệu trong nước </b></i>

<i><b>Phạm Thị Thu Hồng (2012), “Quyền đánh cá trong công ước của Liên Hợp </b></i>

<i><b>Quốc về Luật biển 1982”, Khóa luận tốt nghiệp: Tác giải tập trung nghiên cứu những </b></i>

vấn đề lý luận chung về nguyên tắc tự do biển cả và sự tác động của nó đối với việc hình thành nên Luật biển quốc tế hiện đại và những quy định mới về quyền đánh cá trong Công ước Luật biển 1982; đồng thời tìm hiểu các quy định về quyền đánh cá theo quy định của pháp luật Việt Nam, thực trạng, các định hướng phát triển ngành khai thác thủy sản Việt Nam và những thách thức hiện nay mà ngư dân Việt Nam đang phải đối mặt.

<i><b>Nguyễn Hồng Thao (2018), “Luật Thủy sản năm 2017 và việc đấu tranh </b></i>

<i><b>phòng chống đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU)”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Bài viết được tác giả nêu ra các lý luận về </b></i>

việc đấu tranh phòng chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định theo pháp luật quốc tế, gồm các định nghĩa, văn bản quốc tế và thực trạng của một số quốc gia, chỉ ra nguyên nhân của việc đánh bắt cá vi phạm IUU của Việt Nam. Đồng thời bài viết còn chỉ ra những nội dung của Luật thủy sản 2017 bao gồm biện pháp quản lý và nâng cao trách nhiệm của người dân.

<i><b>Nguyễn Khắc Vượt (2021), “Chống khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không </b></i>

<i><b>báo cáo và không theo quy định – Kinh nghiệm của Philippines và Thái Lan”, Tạp </b></i>

chí Nghiên cứu Lập pháp: Khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (Illegal, Unreported and Unregulated Fishing - IUU) là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng tới việc khai thác bền vững nguồn tài nguyên sinh vật, an ninh lương thực, kinh tế biển, quản trị biển, đồng thời nó cũng là ngun nhân chính phá vỡ sự đa dạng sinh học biển trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, IUU là vấn đề đang được cả nước quan tâm, nhất là kể từ khi bị Ủy ban châu Âu cảnh cáo “thẻ vàng” đối với ngành thuỷ sản. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích kinh nghiệm phịng, chống IUU của Philippines và Thái Lan và rút ra một số kiến nghị nhằm góp phần tháo gỡ “thẻ vàng” cho ngành thuỷ sản Việt Nam.

<i><b>Nguyễn Thị Hồng Yến (2020), “Khái niệm IUU – IUU trong một số văn bản </b></i>

<i><b>pháp lý quốc tế – Thực tiễn một số quốc gia và khu vực: EU, Indonesia và Mỹ – </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

3

<i><b>Liên hệ với Việt Nam”: Tác giả đã đưa ra những lý luận cơ bản từ khái niệm IUU - </b></i>

đánh bắt cá bất hợp pháp, không được báo cáo và khơng được kiểm sốt trong pháp luật quốc tế. Từ đó, tác giả nghiên cứu mở rộng khái niệm đánh bắt cá IUU trong một số văn kiện pháp luật quốc tế như UNCLOS 1982, Hiệp định thúc đẩy tuân thủ các biện pháp quốc tế về bảo tồn và quản lý thực hiện bởi tàu cá tại vùng biển quốc tế của FAO năm 1993, Hiệp định về biện pháp của các quốc gia có cảng nhằm phịng ngừa, ngăn chặn và xố bỏ IUU của FAO. Để cụ thể hóa các quy định trong các văn bản pháp lý trên, tác giả chỉ ra thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng, chống IUU của một số quốc gia và khu vực trên thế giới.

<i><b>Nguyễn Văn Sơn (2021), “Đẩy mạnh các biện pháp chống khai thác thủy </b></i>

<i><b>sản bất hợp pháp, không báo cáo và khơng theo quy định, góp phần duy trì trật tự, an tồn, phát triển kinh tế biển”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân: Từ bối cảnh hiện </b></i>

tại, tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh việc chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và khơng theo quy định, góp phần duy trì trật tự, an toàn, phát triển kinh tế biển. Phát huy vai trò nòng cốt trong thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã và đang đẩy mạnh triển khai thực hiện các biện pháp chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, khơng báo cáo và khơng theo quy định, góp phần thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển. Việc khắc phục những khó khăn đối với ngành thủy sản hiện nay không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức nào cả mà tất cả các cơ quan, tổ chức liên quan phải cùng nhau thực hiện, trước hết là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.

<i><b>Hoàng Hải Bắc (2017), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thủy </b></i>

<i><b>sản Việt Nam trên thị trường EU từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới”, Luận án tiến sĩ, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam: Luận án này đề </b></i>

cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh của mặt hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường EU. Tác giả đã đưa ra những cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thủy sản xuất khẩu, trong đó có các quy định liên quan đến IUU. Từ đó tác giả đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng thủy sản Việt Nam trong thị trường EU nói riêng đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề chung nhất để giải quyết những khó khăn trong ngành thủy sản.

<i><b>Ban Tuyên giáo Trung ương (2020), “Tài liệu tuyên truyền về công tác chống </b></i>

<i><b>khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định của Việt Nam thời gian qua”: Bài viết đã đưa ra những cơ sở lý luận về quy định chống khai </b></i>

thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định theo quy định của Uỷ

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

4

ban Châu Âu (EC), từ đó chỉ rõ thực trạng hiện nay của ngành thủy sản Việt Nam, đồng thời phân tích những hệ lụy từ thẻ vàng của EC. Trong tài liệu trên, tác giả không chỉ nói về một số thành quả trong cơng tác chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định của Việt Nam thời gian qua mà cịn định hướng cơng tác thơng tin, tun truyền nhằm khắc phục được những khó khăn mà ngành thủy sản đang phải vượt qua trong bối cảnh hiện nay với những quy định của

<i><b>IUU. </b></i>

<i><b>Hà Ngọc Hoàng và Nguyễn Thị Thu Trang (2019), “Hoạt động đánh bắt cá </b></i>

<i><b>và an ninh trên các vùng biển chồng lấn giới hạn Việt Nam và các nước trong khu vực”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp: Giữa Việt Nam và một số quốc gia hình thành </b></i>

những chồng lấn về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và phát sinh tranh chấp về các yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền. Nhiều vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các nước đang chờ được phân định như vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia, vùng nước lịch sử thuộc chế độ nội thủy chung của hai nước Việt Nam và Campuchia, ... Nhằm thu hẹp và tiến đến giải quyết tranh chấp, cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982 các quốc gia tạm thời gác tranh chấp hướng tới những lợi ích về tài nguyên nhằm phát triển kinh tế. Bài viết trình bày khung pháp lý về nghề cá tại các vùng biển đang có tranh chấp theo Cơng ước về Luật Biển năm 1982; thực trạng đánh bắt cá tại các vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và các nước, đề ra những giải pháp cho các quốc gia có vùng biển chồng lấn nhằm mục đích khai thác hiệu quả tài nguyên cá.

<i><b>Về tài liệu nước ngoài </b></i>

<i><b>Robert S. Pomeroy & To Van Phuong (2022), “Combating Illegal, </b></i>

<i><b>Unreported and Unregulated (IUU) Fishing and Removing Yellow Card From European Commission (EC): Vietnam's Determined Actions”, Bài báo: Các hoạt </b></i>

động đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định đã tác động tiêu cực đến nghề cá Việt Nam. Do đó, Ủy ban Châu Âu đã đưa ra cảnh báo thẻ vàng vào tháng 10 năm 2017. Bài báo này xem xét cách Việt Nam phản ứng với các khuyến nghị của EC để giải quyết thẻ vàng. Phân tích sử dụng kết hợp giữa phân tích tài liệu và phương pháp thảo luận nhóm trực tuyến. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để ngăn chặn đánh bắt IUU và xóa thẻ vàng, nhưng kết quả vẫn chưa đủ để xóa thẻ vàng. Tuy nhiên, thẻ vàng đã mang lại những tín hiệu tích cực cho quản lý thủy sản Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để ngành thủy sản biển quốc gia và cộng đồng ngư dân có trách nhiệm hơn trong khai thác thủy sản.

<i><b>Mary Ann Palma (2006), “Analysis of the adequacy of the Philippine legal, </b></i>

<i><b>policy, and institutional framework to combat illegal, unreported, and unregulated </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

5

<i><b>fishing”, Luận án Tiến sĩ Luật học: Luận án này xem xét sự đầy đủ của khuôn khổ </b></i>

pháp lý, chính sách và thể chế của Philippines để chống đánh bắt IUU. Nó phân tích định nghĩa về đánh bắt IUU được cung cấp theo IPOA-IUU và đánh giá cách thức áp dụng định nghĩa đó trong bối cảnh của Philippines. Các biện pháp được áp dụng trong các công cụ nghề cá quốc tế để giải quyết vấn đề cũng được xem xét. Từ phân tích, ba bộ tiêu chí được xây dựng để đo lường mức độ đầy đủ của khuôn khổ Philippines về chống đánh bắt IUU. Bộ tiêu chí đầu tiên liên quan đến việc áp dụng các biện pháp của Quốc gia treo cờ và ven biển; thứ hai liên quan đến việc áp dụng các biện pháp liên quan đến cảng và thị trường; trong khi thứ ba liên quan đến việc áp dụng các trách nhiệm của "tất cả các Quốc gia". Kết luận rằng do không đáp ứng hầu hết các tiêu chí được thiết lập theo các cơng cụ nghề cá quốc tế, Philippines cho rằng khung pháp lý, chính sách và thể chế của mình khơng đủ để giải quyết vấn đề đánh bắt IUU. Các lĩnh vực thiếu sót chính liên quan đến định nghĩa của Philippines về đánh bắt IUU, các biện pháp được Nhà nước áp dụng để giải quyết vấn đề, và khung thể chế tương ứng để quản lý nghề cá. Luận án cũng đưa ra các lựa chọn cụ thể cho các cải cách lập pháp và chính sách nhằm giải quyết các lỗ hổng trong khuôn khổ quốc gia hiện tại nhằm ngăn chặn, răn đe và loại bỏ khai thác IUU ở Philippines một cách hiệu quả.

<i><b>Mercedes Rosello (2021), “IUU Fishing as a Flag State Accountability </b></i>

<i><b>Paradigm Between Effectiveness and Legitimacy”, Báo cáo khoa học: Báo cáo này </b></i>

được chuẩn bị cho Dự án DevFish II của Cơ quan Diễn đàn Nghề cá Quần đảo Thái Bình ADương. Kinh phí cho dự án này và việc chuẩn bị báo cáo do Liên minh Châu Âu cung cấp. Báo cáo này được chuẩn bị bởi Duncan Souter, Carl Harris, Richard Banks, John Pearce và Tim Davies, thay mặt cho MRAG Châu á Thái Bình Dương. Quan điểm thể hiện ở đây là quan điểm của các tác giả chứ không nhất thiết phản ánh quan điểm của EU hay FFA.

<i><b>Davor Vidas và 33 đồng tác giả (2010), “Law, Technology and Science for </b></i>

<i><b>Oceans in Globalisation: IUU Fishing, Oil Pollution, Bioprospecting, Outer Continental Shelf, Davor Vidas”, Sách chuyên khảo: Sự liên kết giữa Pháp luật, khoa </b></i>

học và công nghệ trong công cuộc phát triển và khai thác đại dương. Đó đã trở thành một vấn đề tất yếu trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, khi mà sự tăng trưởng khai thác biển này chưa từng có trước đây và với tốc độ chóng mặt, thế giới của chúng ta cần phải liên kết với nhau.

<i><b>Bernd Cordes và California Environmental (2015), “The Packard </b></i>

<i><b>Foundation, Illegal, Unreported and Unregulated (IUU) Fishing: A White Paper, Bernd Cordes & California Environment Associates 2015”, Báo cáo Chính phủ: </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

6

Bản báo cáo này mơ tả tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp, khơng được kiểm sốt và khơng được báo cáo, những nỗ lực hiện tại của cộng đồng để giúp giảm thiểu nó và các cơ hội tiềm năng để Quỹ Packard trở nên nhiều hơn. Bài báo được soạn thảo từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2015 bởi Bernd Cordes và California Environmental. Các cộng sự, sau sự kết hợp giữa nghiên cứu tại bàn và một số cuộc phỏng vấn chọn lọc.

<i><b>Kinanti Kusumawardani Taufik (2017), “IUU Fishing as Transnational </b></i>

<i><b>Organized Crime’ Discourse: A Policy Argumentation Analysis”, Báo cáo Hội thảo: </b></i>

Tài liệu cung cấp thông tin về đề xuất của Indonesia nhằm đưa vấn đề đánh bắt IUU trở thành một vấn đề tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia xoay quanh tiền đề rằng một khuôn khổ tội phạm/an ninh sẽ tạo ra sự chú ý cần thiết để thúc đẩy cam kết và các biện pháp cụ thể của các quốc gia, cũng như cũng như tăng cường hợp tác quốc tế chặt chẽ hơn. Vẫn còn là câu hỏi liệu một cách tiếp cận như vậy là khả thi hoặc hiệu quả. Việc nghiên cứu tài liệu sẽ phần nào cho biết thêm về biện pháp xử lý việc chống đánh bắt cá bất hợp pháp.

Food and Agriculture Organization of the United Nations (2001),

<i><b>“International Plan of Action to prevent, deter and eliminate illegal, unreported and unregulated fishing”, báo cáo: Bài viết phân tích rõ mục tiêu của IPOA và các </b></i>

nguyên tắc và việc thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, ngăn chặn và loại bỏ khai thác IUU. Các biện pháp này tập trung vào tất cả các trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của Quốc gia treo cờ, các biện pháp của Quốc gia ven biển, các biện pháp của Quốc gia có cảng, các biện pháp liên quan đến thị trường được thống nhất quốc tế, nghiên cứu và khu vực các tổ chức quản lý nghề cá. Yêu cầu đặc biệt của việc phát triển các quốc gia sau đó được xem xét, theo sau là các yêu cầu báo cáo và vai trị của FAO.

<b>3. Mục đích nghiên cứu </b>

Nhóm tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Đấu tranh chống lại đánh bắt cá trái phép, không thông báo và không theo quy định (IUU): Nghiên cứu so sánh pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam” mục tiêu nhằm tiếp nhận xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế và định hướng hoàn thiện khung pháp lý về việc đánh bắt cá tại Việt Nam liên quan đến phòng chống IUU đảm bảo đúng nguyên tắc Pacta Sunt Servanda; ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá, ngư dân Việt Nam vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài và không để tái diễn ở các năm tiếp theo, hướng đến việc gỡ cảnh báo “thẻ vàng” của EC ,cải thiện đời sống sinh kế của người dân vùng ven biển.

<b>4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu </b>

Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về chống đánh bắt cá trái phép, không thông

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

7

báo và không theo quy định (IUU Fishing) và quá trình thực thi pháp luật.

Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về chống đánh bắt cá trái phép, không thông báo và không theo quy định (IUU Fishing) ở Việt Nam, Thái Lan, Sri Lanka, Philippines và Liên minh châu Âu (EU).

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

Ở đề tài này, nhóm tác giả đã vận dụng rất nhiều các phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung, cụ thể như sau:

Phương pháp liệt kê được nhóm tác giả sử dụng nhiều để nêu các nội dung trong phần cơ sở lý luận nhằm xây dựng nên cơ sở khoa học lý thuyết vững chắc cho đề tài.

Phương pháp so sánh luật học được sử dụng trong đề tài để phân tích những sự khác biệt giữa pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, từ đó đối chiếu, so sánh, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý nhằm củng cố và làm chặt chẽ hơn những quy định trong vấn đề này ở Việt Nam.

Phương pháp phân tích - tổng kết kinh nghiệm được sử dụng để xem xét và đúc kết các thành quả từ những nghiên cứu của các đề tài trước và thực tiễn trong quá khứ.

Phương pháp phân tích số liệu, nhóm tác giả sử dụng những thơng tin có sẵn từ các trang báo chính thống, tạp chí … ở trong và ngồi nước, nhằm đưa ra những nhận xét chung nhất về các vấn đề liên quan.

Chương 3. Thực trạng đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

8

<b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐÁNH BẮT CÁ BẤT HỢP PHÁP, KHÔNG THÔNG BÁO VÀ KHÔNG THEO QUY ĐỊNH (IUU) </b>

<b>1.1. Khái quát về hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo </b>

<i><b>và không theo quy định (IUU) </b></i>

Trong nhiều năm trở lại đây, đánh bắt cá bất hợp pháp, không được báo cáo, không theo quy định (illegal, unreported and unregulated fishing – viết tắt là IUU) được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết. Đây không phải là vấn đề mới phát sinh mà đã tồn tại từ lâu trong quá trình các quốc gia khai thác và sử dụng biển. Tuy nhiên IUU vẫn luôn là một thách thức lớn đối với các quốc gia ven biển trong việc thi hành chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đã được pháp luật quốc tế thừa nhận. Đánh bắt cá IUU là những hành vi đánh cá của tàu thuyền bao gồm cả tàu thuyền nước ngoài và tàu thuyền treo cờ của quốc gia ven biển mà chưa có sự cho phép hoặc đã cho phép nhưng vi phạm các quy định về đánh bắt cá của quốc gia ven biển. Hành vi này đã đi ngược lại với các nỗ lực nhằm bảo tồn và quản lý nguồn cá tại tất cả các vùng biển chỉ với mục đích đem lại lợi nhuận lớn hơn so với việc đánh bắt tuân theo các quy định về đánh bắt thủy sản bền vững.

<i><b>1.1.1. Khái niệm IUU theo một số văn bản quốc tế. </b></i>

Năm 2001, Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (viết tắt là FAO) đã đề cập đến khái niệm IUU trong tài liệu Chương trình hành động quốc tế để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU (viết tắt là IPOA-IUU) là những hoạt động đánh cá của tàu thuyền (bao gồm cả tàu thuyền nước ngoài và tàu thuyền của quốc gia ven biển) mà chưa có sự cho phép hoặc đã cho phép nhưng vi phạm các quy định về đánh cá<small>1</small>. Theo Mục II, đoạn 3 của IPOA-IUU, IUU được hợp thành bởi ba nhóm hành vi là đánh cả bất hợp pháp (Illegal Fishing), đánh cá không được báo cáo (Unreported Fishing) và đánh bắt cá không theo quy định (Unregulated Fishing)<small>2</small>, và ở tài liệu này cũng chỉ rõ và phân tích cụ thể ba nhóm hành vi như sau:

<i>“Đánh bắt cá bất hợp pháp – Illegal fishing”: Là những hành vi được thực </i>

hiện bởi tàu quốc gia hoặc tàu nước ngoài trong vùng biển thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia mà khơng có sự cho phép của quốc gia hoặc trái với pháp luật và quy định của quốc gia; hoặc được thực hiện bởi tàu treo cờ của các quốc gia là thành viên

<i>của một tổ chức quản lý nghề cá khu vực (Regional fisheries management organization – RFMOs) nhưng đã có hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo </i>

<small> </small>

<small>1</small><i><small> Ban Tuyên giao trung ương (2020), Tài liệu về công tác chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo </small></i>

<i><small>cáo và không theo quy định của Việt Nam thời gian qua, Hà Nội, tr. 2. </small></i>

<small>2 Nguyễn Thị Hồng Yến, Mai Ngân Hà, “Đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và biện pháp hạn chế thương mại của Liên minh châu Âu”, truy cập ngày 24/5/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

9

tồn đã được tổ chức đó thơng qua và có giá trị ràng buộc các quốc gia, hoặc các quy định có liên quan có thể áp dụng của pháp luật quốc tế; hoặc được thực hiện bởi tàu vi phạm pháp luật quốc gia hoặc các nghĩa vụ quốc tế, bao gồm cả những cam kết của quốc gia hợp tác với RFMOs có liên quan. Có thể thấy tính chất bất hợp pháp của hoạt động đánh bắt cá là do vi phạm quy định pháp lý của pháp luật quốc gia, hoặc và luật quốc tế nói chung hay của RFMOs mà quốc gia mà tàu mang cờ là thành viên<small>3</small>. Hành vi đánh cá bất hợp pháp có thể xảy ra tại vùng biển thuộc chủ quyền hoặc thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển hoặc trong vùng biển thuộc thẩm quyền quản lý của RFMOs, bao gồm vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia thành viên tổ chức và một phần vùng biển quốc tế, tiếp liền các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Ngoài ra, hoạt động đánh cá bất hợp pháp của tàu thuyền nước ngoài trong vùng biển của một quốc gia ven biển có thể bao gồm<small>4</small>:

<i>Thứ nhất, đánh cá khơng có giấy phép. Trong trường hợp này, tàu cá nước </i>

ngồi tham gia gia đình bắt thủy sản trong vùng biển thuộc chủ quyền hoặc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển nhưng khơng có giấy phép đánh bắt do quốc gia đó cấp.

<i>Thứ hai, đánh cá sai quy định của giấy phép đánh bắt hoặc quy định của quốc </i>

gia ven biển về hoạt động đánh bắt thủy sản: Trong trường hợp này, tàu thuyền nước ngoài đã được quốc gia ven biển cấp giấy phép đánh bắt nhưng việc đánh bắt không tuân thủ các quy định của quốc gia đó, ví dụ như đánh bắt quá mức được quy định trong giấy phép đánh bắt bằng các phương thức bị cấm như sử dụng thuốc nổ hoặc thuốc độc, lưới mắt cá nhỏ và các dụng cụ đánh bắt thủy sản không phù hợp khác.

<i>Thứ ba, đánh cá tại vùng biển không được phép đánh bắt. Trong trường hợp </i>

này, quốc gia ven biển không cho phép một số khu vực trong các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia đó nhưng tàu cá nước ngồi vẫn thực hiện các hoạt động đánh bắt thủy sản, bất chấp lệnh cấm của quốc gia ven biển"<small>5</small>.

<i>“Đánh cá không được báo cáo - Unreported Fishing”: Là những hành vi được </i>

thực hiện trong khu vực thuộc thẩm quyền của RFMO nhưng không được báo cáo hoặc đã được báo cáo nhưng không đúng với thủ tục báo cáo của tổ chức; hoặc được thực hiện tại một số quốc gia nhưng chưa được báo cáo, hoặc đã được báo cáo sai,

<small> </small>

<small>3</small><i><small> Nguyễn Thị Hồng Yến (chủ nhiệm đề tài) (2019), Đánh cá bất hợp pháp, không được báo cáo, không được </small></i>

<i><small>kiểm soát (IUU Fishing) và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, </small></i>

<small>Trương Đại học Luật Hà Nội, tr. 9. </small>

<small>4 Nguyễn Thị Hồng Yến (chủ nhiệm đề tài) (2019), tlđd(3), tr. 9. </small>

<small>5 Nguyễn Hồng Thao (2018), “Luật Thủy sản năm 2017 và việc đấu tranh phòng chống đánh bắt bất hợp pháp, </small>

<i><small>không báo cáo, không theo quy định (IUU)”, Tạp chí Nghiễn cứu lập pháp, số 3+4 (355+356)/2018, tr. 56. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

10

cho cơ quan có thẩm quyền quốc gia có liên quan, trái với luật pháp và quy định quốc gia<small>6</small>. Tàu cá sử dụng hai nhật ký khai thác: một nhật ký khai thác chính thức để đưa ra khi có u cầu kiểm tra và một nhật ký khai thác "bí mật" chỉ dành cho chủ tàu.

<i>“Đánh cả không theo quy định – Unregulated fishing”: Là những hành vi xảy </i>

ra trong khu vực do vùng biển của một tổ chức quản lý nghề cá khu vực bởi các tàu thuyền khơng có quốc tịch hoặc mang cờ của một quốc gia không phải thành viên của tổ chức quản lý nghề cá đó hoặc được thực hiện khơng phù hợp với các biện pháp về bảo tồn và quản lý tài nguyên của tổ chức nghề cá đó; hoặc đánh bắt thủy sản trong các vùng biển hoặc tại các ngư trường khơng có các quy định về biện pháp bảo tồn và quản lý tài nguyên phù hợp. Đồng thời, việc đánh bắt này được thực hiện trái với các nghĩa vụ của các quốc gia về bảo tồn tài nguyên sinh vật biển theo luật quốc tế.

<i>FAO lưu ý rằng một số các hoạt động unregulated fishing không vi phạm pháp luật </i>

quốc tế và cũng không cần thiết áp dụng các biện pháp theo khuyến nghị trong văn kiện này<small>7</small>.

Như vậy, rõ ràng IUU là một rào cản lớn trong việc quản lý nghề có một cách hiệu quả ở hầu hết các quốc gia có biển. Khó có thể định lượng quy mơ chính xác của IUU. Tuy nhiên trên thực tế có những bằng chứng cho thấy có ít nhất 20% sản lượng khai thác tự nhiên (11 - 26 triệu tấn cá)<small>8</small> là khai thác bất hợp pháp hoặc không báo cáo, hàng năm gây tổn thất tài chính 10-20 tỷ USD. Những nước đang phát triển bị ảnh hưởng rất lớn bởi khai thác bất hợp pháp vì những nước này còn hạn chế trong các phương pháp để bảo vệ tài nguyên ven bờ. Khai thác IUU làm suy yếu các biện pháp quốc gia và quốc tế bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên sinh vật biển và dẫn đến cạn kiệt tài nguyên, làm phương hại đến những nỗ lực quản lý nghề cả trên cơ sở hợp lý và bảo tồn đa dạng sinh học biển, dẫn đến sự sụp đổ của ngành thủy sản quy mô nhỏ, vi phạm tiêu chuẩn lao động và làm méo mó hình thái kinh tế thị trường. Cùng với đó, mặc dù đề cập đến khái niệm IUU với ba nhóm hành vi như trên nhưng các quy định của FAO không nhằm tách biệt độc lập từng nhóm hành vi này mà ln đặt nó trong tổng thể chung để điều chỉnh một cách đầy đủ các hoạt động khai thác đánh cá trên biển.

Khái niệm IUU của FAO cũng được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế khác ở cấp độ khu vực như của Liên minh châu Âu, đặc biệt là Quy định của Hội

<small> </small>

<small>6 Nguyễn Thị Hồng Yến, Mai Ngân Hà, “Đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và biện pháp hạn chế thương mại của Liên minh châu Âu”, truy cập ngày 24/5/2023. </small>

<small>7</small><i><small> Food and Agriculture Organization of the United Nations (2001), International Plan of Action to prevent, </small></i>

<i><small>deter and eliminate illegal, unreported and unregulated fishing, Rome, tr. 3. </small></i>

<small>8 Ban Tuyên giao trung ương (2020), tlđd (1), tr. 3. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

11

đồng châu Âu số 1005/2008 ngày 29/9/2008 thiết lập Hệ thống quản lý về ngăn ngừa và xóa bỏ các hoạt động IUU với nội dung tương tự.

<i><b>1.1.2. Khái niệm IUU theo pháp luật Việt Nam </b></i>

Năm 2012, Tổng cục trưởng về các vấn đề Biển và Nghề cá của Ủy ban Châu Âu (DC-MARE) đã bắt đầu làm việc với Tổng cục Thủy sản Việt Nam nhằm đưa ra các khuyến nghị để cải thiện thể chế, tăng cường kiểm tra và giám sát, nhằm đạt được sự phát triển bền vững của nghề cá và kiểm soát hiệu quả IUU<small>9</small>.

Tuy nhiên, tại thời điểm này, Việt Nam chưa có đủ chế tài cần thiết để ngăn chặn hoạt động IUU, cũng như chưa có những hành động cần thiết để ngăn chặn tàu cá và ngư dân Việt Nam tham gia hoạt động IUU trên vùng biển của các nước khác. Sau đợt kiểm tra thường niên, tháng 5/2017, Ủy ban châu Âu tiếp tục khuyến nghị Việt Nam cần thực hiện hết 5 khuyến nghị trên vào cuối tháng 9/2017, nếu không Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ nhận thẻ vàng từ Ủy ban châu Âu. 5 tháng sau, ngày 23/10/2017, Ủy ban châu Âu (EC) ra thơng cáo báo chí cho biết do Việt Nam không thực hiện đầy đủ các biện pháp nên EU quyết định phạt thẻ vàng đối với thủy sản Việt Nam, đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn. Và để hủy bỏ thẻ vàng, Việt Nam cần thực hiện 09 khuyến nghị được đưa ra đối với khai thác IUU. Kể từ đây, “cuộc chiến” chống IUU của Việt Nam chính thức bắt đầu. Luật Thủy sản Việt Nam đã thực hiện hàng loạt sửa đổi, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm quản lý và phát triển nghề cá có trách nhiệm, bền vững.

Quy định của Điều 60 Luật Thuỷ sản 2017 gồm 14 hành vi được coi là khai thác IUU tương tự với quy định của EU. Mặc dù định nghĩa bao gồm các trường hợp được gộp chung vào nhưng đã có đủ ba nhóm khai thác bất hợp pháp, khai thác khơng báo báo và khai thác không theo quy định theo IPOA - FAO. Bên cạnh đó là quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp quốc tế của tổ chức, người và phương tiện Việt Nam khai thác thuỷ sản nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi sinh vật biển trong các vùng biển đảo và loài cá di cư theo quy định của các tổ chức nghề cá khu vực và UNCLOS 1982, việc phối hợp điều tra và xử lý hành vi khai thác IUU trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam theo quy định của Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Sau đó, Nghị định 26/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản năm 2017 đưa ra khái niệm chung về IUU tại khoản 13, 14, 15 Điều 3, bao gồm ba thành tố giống như trong IPOA - FAO: (i) khai thác thuỷ sản bất hợp pháp; (ii) khai thác thuỷ sản không báo cáo và (iii) khai thác thuỷ sản không theo quy định.

<small> </small>

<small>9 Ban Tuyên giáo Trung ương (2020), tlđd (1), tr. 9. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

12

Điều này giúp cho định nghĩa về IUU trong pháp luật Việt Nam trở thành danh sách mở, một hành động dù không thuộc vào 1 trong 14 trường hợp cụ thể của Luật Thủy sản năm 2017 mà có những dấu hiệu đáp ứng khái niệm trong Nghị định 26/2019/NĐ-CP vẫn bị coi là đánh bắt IUU. Có thể thấy, Luật mới có xu hướng mở rộng phạm vi của khái niệm IUU, từ đó mở rộng thẩm quyền quản lý và phòng chống IUU của các cơ quan chức năng Việt Nam, là minh chứng cho các nỗ lực tích cực hơn của Việt Nam trong việc ngăn chặn IUU<small>10</small>.

<b>1.2. Ý nghĩa về hoạt động chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) </b>

Hoạt động đánh bắt cá đem lại nguồn thu nhập khổng lồ cho nền kinh tế của các nước, điển hình là Việt Nam với đường bờ biển dài, vùng biển rộng, nguồn lợi hải sản trong vùng biển nước ta có độ phong phú cao. Ngồi cá biển là nguồn lợi chính cịn có nhiều đặc sản khác có giá trị kinh tế, như: tơm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Chỉ tính riêng cá biển, có hơn 2.000 lồi khác nhau đã được phát hiện, trong đó khoảng 100 lồi có giá trị kinh tế; có 15 bãi cá lớn, phân bố chủ yếu ở vùng ven bờ. Theo các số liệu thống kê, trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn/năm, trữ lượng cá có thể đánh bắt hằng năm khoảng 2,3 triệu tấn<small>11</small>. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), lĩnh vực thủy sản đã trở thành ngôi sao sáng khi lần đầu sau 20 năm, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 8 tháng đạt kỷ lục 7,557 tỷ USD tỷ USD, tăng 35,5% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị xuất khẩu cá tra và tôm chiếm 65% và sản phẩm hải sản khai thác từ biển chiếm 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu…<small>12</small>, ngoài ra, thuỷ sản nước ta còn xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Với những lợi ích kinh tế do đánh bắt thủy, hải sản mang lại đã đưa ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế trọng tâm của một số nước.

Tuy nhiên, các hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định đã và đang gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến ngành kinh tế này. Việc đưa ra các biện pháp ngăn ngừa IUU sẽ mang đến những cải thiện tích cực, góp phần thay đổi các vấn nạn về đánh bắt cá trái phép đang diễn ra và đưa nền kinh tế này đi lên theo chiều hướng tốt đẹp hơn và tạo ra những ý nghĩa tích cực.

<i>Thứ nhất, bảo vệ hệ sinh thái, tài nguyên biển. Hành vi IUU làm giảm khả </i>

năng bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản của các quốc gia, đồng thời vi phạm các quy tắc về bảo vệ môi trường biển và các nguồn tài nguyên khỏi các tác động có hại

<small> </small>

<small>10 Nguyễn Thị Hồng Yến (chủ nhiệm đề tài) (2019), tlđd (3), tr. 66. </small>

<small>11Hoàng Văn Khải, “Phát triển kinh tế biển Việt Nam - Tiềm năng và thách thức”, te/phat-trien-kinh-te-bien-viet-nam-tiem-nang-va-thach-thuc-37566.html, truy cập ngày 01/02/2023 </small>

<small> Bảo Ngọc, "Xuất khẩu thủy sản sẽ thiết lập kỷ lục mới”, hop/xuat-nhap-khau/xuat-khau-thuy-san-se-thiet-lap-ky-luc-moi-25711.html, truy cập ngày 1/2/2023 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

của hoạt động đánh bắt cá như quản lý nguồn tài nguyên, hạn chế đánh bắt nguồn cá con, đánh bắt cá xa bờ, … IUU tác động đến môi trường, hệ sinh thái biển rất nghiêm trọng khi việc đánh cá không phù hợp với biện pháp về bảo tồn và quản lý tài nguyên nghề cá. Như việc sử dụng thuốc nổ để đánh bắt cá gây ra việc cá chết một cách bừa bãi, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số lồi. Ví dụ như một vụ nổ có thể giết cả rạn san hơ trong khu vực, tiêu diệt cấu trúc rạn và phá hủy nơi cư trú của một số loài cá và các loài động vật khác có khả năng bảo vệ một rạn san hô khỏe mạnh. Về mặt sinh học, các rạn san hơ đều có cấu trúc liên kết với nhau. Cá con sinh ra trong một rạn san hô sẽ theo dịng nước đi đến một rạn san hơ khác để sinh sống. Mất đi một rạn san hô đồng nghĩa với việc mất đi một nguồn cá con<small>13</small>. Việc chống IUU sẽ thắt chặt, ngăn ngừa các hành vi đánh bắt cá như vậy xảy ra nhờ vào các quy định được ban hành. Trong Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của tổ chức FAO năm 1995 tại mục 6 có quy định rõ về việc bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển.

<i>Thứ hai, bảo vệ quyền lợi kinh tế của các quốc gia. Việc nguồn tài nguyên </i>

biển của các nước bị khai thác trái phép sẽ dẫn đến việc mất đi một phần nguồn lợi kinh tế đến từ ngành đánh bắt thủy sản. Trong cuộc thảo luận tại Hội nghị Thượng đỉnh Hàng hải Quốc tế năm 2022, các chuyên gia cho biết các nước Nigeria và các quốc gia châu Phi khác mất hàng tỷ đô la hàng năm do nạn đánh bắt cá trộm đến từ tàu thuyền nước ngoài<small>14</small>. Ngoài ra, khi các quốc gia bị đánh “thẻ vàng” từ EU do các hoạt động khai thác IUU sẽ ảnh hưởng đến vị thế và quyền lợi của ngành thủy sản quốc gia trên trường quốc tế. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU trong hai năm 2017-2019 đã giảm hơn 183 triệu USD, tương đương giảm 12%, xuất khẩu hải sản giảm trên 10% kể từ sau khi EC đưa ra cảnh báo thẻ vàng vào năm 2017. Đà giảm này tiếp tục kéo dài trong năm 2020, do tác động kép bởi dịch COVID-19, thẻ vàng IUU và Brexit. Năm 2020, xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu Âu chỉ đạt 959 triệu USD, giảm 5,7% so với năm 2019. Từ năm 2019, EU tụt hai bậc xuống vị trí thứ tư trong các thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam<small>15</small>. Áp dụng các biện pháp chống IUU sẽ giúp các quốc gia chủ động khắc phục được những sai phạm trong đánh bắt cá, từ đó hướng đến một nguồn thu nhập lớn hơn từ việc khai thác.

<i>Thứ ba, đảm bảo việc thực thi quyền tài phán của các quốc gia trên biển. Các </i>

<small>15 Linh Chi, “Ngành thủy sản có thể thiệt hại nửa tỷ đơ mỗi năm nếu bị thẻ đỏ IUU”, thuy-san-co-the-thiet-hai-nua-ti-do-moi-nam-neu-bi-the-do-iuu, truy cập ngày 05/02/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

hành vi khai thác IUU có thể làm xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tài phán của một quốc gia đối với vùng biển của họ. Hành vi IUU phá vỡ trật tự pháp lý quốc tế và các quốc gia liên quan đến quyền đánh bắt cá và khai thác trong các vùng biển, đặc biệt là tại khu vực đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển. Hiện nay, Việt Nam đang có những mâu thuẫn tranh chấp chủ quyền trên biển với các quốc gia khác. Để thực thi yêu sách và cụ thể hóa tuyên bố về chủ quyền của quốc gia đối với các vùng biển, nhất là các vùng biển xa bờ, ngư dân đóng một vai trị vô cùng quan trọng. Các hoạt động khai thác, đánh bắt của ngư dân Việt Nam trên các vùng biển chính là minh chứng cho hoạt động thực thi yêu sách và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương, đảm bảo việc thực hiện các quyền của quốc gia đối với vùng biển của mình. Nếu vì hải sản xuất khẩu không được, ngư dân sẽ không vươn khơi đánh bắt nữa, sẽ tác động không tốt tới chiến lược của quốc gia trong vấn đề thực thi chính sách về biển<small>16</small>.

<b>1.3. Lịch sử hình thành quy chế pháp lý chống lại đánh bắt cá bất hợp </b>

<i><b>pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) </b></i>

Khuôn khổ pháp lý quốc tế về quản lý khai thác đánh cá đã phát triển đáng kể từ khi Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) được thông qua vào năm 1982. UNCLOS là một cơng cụ pháp lý mang tính bước ngoặt khi tạo dựng cơ sở pháp lý quốc tế cho việc bảo vệ và khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật, phi sinh vật biển và đại dương; đồng thời cũng là điểm khởi đầu cho các thỏa thuận quốc tế mang tính ràng buộc hoặc tự nguyện liên quan đến bảo tồn tài nguyên sinh vật biển. Trên thực tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 khơng có những quy định trực tiếp về IUU, việc điều chỉnh hoạt động này chủ yếu được giải thích thông qua các quy định về quyền khai thác tài nguyên sinh vật của quốc gia ven biển.

Tiếp đó, sự ra đời của Hiệp định thúc đẩy tuân thủ các biện pháp quốc tế về bảo tồn và quản lý thực hiện bởi tàu cá tại vùng biển quốc tế của FAO năm 1993 đã hướng đến trách nhiệm của quốc gia tàu mang cờ cũng như thúc đẩy việc trao đổi thông tin về các hoạt động nghề cá tại vùng biển quốc tế. Hiệp định này được các quốc gia thành viên của FAO thông qua vào ngày 24/11/1993 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 24/4/2003<small>17</small>. Trong văn kiện này, các thành viên của Hiệp định đã thống nhất thông qua một loạt các nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện để quản lý và

<small> </small>

<small>16 Lê Khắc Đại, “Những tác động của thẻ vàng IUU đối với Việt Nam và một số kiến nghị giải pháp để gỡ thẻ vàng IUU đối với ngành Thủy sản Việt Nam”, truy cập ngày 05/02/2023. </small>

<small>17 “Agreement to Promote Compliance with International Conservation and Management Measures by Fishing Vessels on the High Seas”, truy cập ngày 12/3/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

15

giảm thiểu IUU như: các quốc gia thành viên phải cấp phép cho việc đánh bắt thủy sản tại vùng biển quốc tế của tàu cá mang tàu quốc gia mình; phải có khả năng thực hiện hiệu quả trách nhiệm của mình theo Hiệp định; đảm bảo tàu cá mang cờ quốc gia mình phải có lịch trình hàng hải khi đánh bắt thủy sản tại vùng biển quốc tế; phải có quy định đối với việc cấp phép cho tàu mang cờ và giấy phép sẽ hết hiệu lực nếu như tàu cá không đáp ứng đủ điều kiện khai thác thủy sản bền vững tại vùng biển quốc tế…<small>18</small> Thỏa thuận này hướng đến trách nhiệm của quốc gia tàu mang cờ cũng như thúc đẩy việc trao đổi thông tin về các hoạt động nghề cá tại vùng biển quốc tế. Đồng thời, thoả thuận cũng lưu ý trách nhiệm đặc biệt của các quốc gia tàu treo cờ để đảm bảo rằng tàu treo cờ của quốc gia chỉ đánh bắt trên biển quốc tế nếu như có sự cho phép và các quốc gia phải thực hiện có hiệu quả trách nhiệm của mình để tàu treo cờ của quốc gia tuân thủ các biện pháp quản lý và bảo tồn quốc tế được quy định. Thỏa thuận tuân thủ 1993 cũng có các quy định nhằm ngăn ngừa các tàu cá lẩn tránh sự điều chỉnh bằng việc treo cờ của quốc gia khác do quốc gia mà tàu treo cờ ban đầu không thể hoặc không sẵn sàng thực thi các biện pháp quản lý và bảo tồn quốc tế các nguồn lợi thuỷ sản.

Hai năm sau khi thông qua Thỏa thuận tuân thủ 1993, trên cơ sở Nghị quyết số 4/95 ngày 31/10/1995, FAO đã đưa ra Bộ quy tắc ứng xử về đánh bắt thủy sản có trách nhiệm năm 1995 (viết tắt là Bộ quy tắc 1995 - CCRF). Là một cơng cụ mang tính đột phá, độc đáo và tự nguyện, Bộ quy tắc ứng xử của FAO năm 1995 có lẽ là cơng cụ nghề cá tồn cầu được trích dẫn nhiều nhất, nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi trên thế giới sau Công ước Liên hợp quốc năm 1982. Mục đích của Bộ quy tắc ứng xử năm 1995 của FAO là thiết lập các tiêu chuẩn hành vi quốc tế đối với các thực hành có trách nhiệm nhằm đảm bảo việc bảo tồn, quản lý và phát triển hiệu quả các nguồn lợi thủy sản sống, với sự tơn trọng thích đáng đối với hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Các tiêu chuẩn này có thể được thực hiện ở cấp độ quốc gia, tiểu khu vực và khu vực nhằm thúc đẩy các hành vi có trách nhiệm trong lĩnh vực khai thác đánh bắt thuỷ sản<small>19</small>.

Để hoàn thiện các quy định về bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển, Hiệp định thực thi các điều khoản của UNCLOS về bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa cũng đã được Liên hợp quốc thơng qua ngày 4/9/1995 và có hiệu lực ngày 11/12/2001 (viết tắt là Hiệp định thực thi 1995 - UN Fish Stocks

<small> </small>

<small>18 Tlđd (17). </small>

<small>19 FAO, “Code of Conduct for Responsible Fisheries”, framework/code-of-conduct-for-responsible-fisheries/en/, truy cập ngày 12/3/2023 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Agreement - UNFSA)”<small>20</small>. Hiệp định này đặt ra nhiều nghĩa vụ liên quan đến bảo tồn và tài nguyên sinh vật trên biển cả, gồm cả nghĩa vụ về nội dung và cả thể chế. Các nghĩa vụ này vừa thúc đẩy các quốc gia thành viên phát triển nghề cá bền vững, nhưng lại cũng có tác động hạn chế việc hưởng quyền tự do đánh bắt cá trên biển cả trong ngắn hạn<small>21</small>.

Việc sử dụng thuật ngữ “đánh bắt cá bất hợp pháp, khơng báo cáo và khơng được kiểm sốt” được thực hiện đầu tiên bởi Ủy ban Bảo tồn Tài nguyên Sinh vật Biển Nam Cực (CCAMLR) trong một báo cáo năm 1997 ghi nhận việc đánh bắt cá trái phép diễn ra trong Vùng đặc quyền kinh tế của Nam Đại Dương<small>22</small>. Năm 1999, khi áp lực gia tăng đối với một phản ứng toàn diện với việc đánh bắt cá bất hợp pháp, FAO đã cam kết phát triển một chiến lược toàn cầu mà đỉnh điểm là 2 năm sau đó Chương trình hành động quốc tế để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hoạt động đánh cả bất hợp pháp. không báo cáo và khơng được kiểm sốt (IPOA-IUU) đã được COFT thơng qua vào ngày 2/3/2001. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận khái niệm và nội hàm của IUU một cách đầy đủ và tồn diện nhất, theo đó, IUU fishing gồm 3 nhóm hành vi “đánh bắt bất hợp pháp”, “đánh bắt không báo cáo” và “đánh bắt không theo quy định”<small>23</small>. Tuy chỉ là một văn kiện có tính chất tự nguyện nhưng IPOA-IUU là cơng cụ quốc tế cụ thể đầu tiên được thông qua để chống đánh bắt IUU<small>24</small>. IPOA-IUU đã xác định, mọi chủ thể của pháp luật về nghề cá quốc tế gồm, quốc gia tàu mang cờ, quốc gia ven biển, quốc gia có cảng, quốc gia là thị trường tiêu thụ và các tổ chức nghề cá khu vực - RFMO, đều phải có trách nhiệm trong việc phịng, chống đánh bắt IUU. Việc thực hiện IPOA-IUU hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chính trị của các quốc gia. Tuy nhiên, do được thông qua trong khuôn khổ của CCRF năm 1995, văn kiện nghề cá toàn cầu được phổ biến rộng rãi nhất nên IPOA-IUU có ảnh hưởng rất tích cực trong q trình xem xét, đánh giá các biện pháp thực thi pháp luật của

<small> </small>

<small>20 “The United Agreement for the Implementation of the Provisions of the United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982 relating to the Conservation and M Management of Straddling Fish </small>

<small> truy cập ngày 15/3/2023 </small>

<small>21 Trần Hữu Duy Minh, “Tác động của việc tham gia hiệp định về đàn cá di cư đến việc ảnh hưởng quyền tự </small>

<small> truy cập ngày 15/3/2023. </small>

<small>22 Mercedes Rosello, “IUU Fishing as a Flag State Accountability Paradigm”, cập ngày 15/3/2023 </small>

<small>23 “Hội thảo khoa học quốc tế: Khai thác thủy sản bền vững, có trách nhiệm”, thao-khoa-hoc-quoc-te-khai-thac-thuy-san-ben-vung-co-trach-nhiem-post643802.html,truy cập ngày 15/3/2023 </small>

<small> Edeson, W. The International Plan of Action on Illegal Unreported and Unregulated Fishing: The Legal </small></i>

<i><small>Context of a Non-Legally Binding Instrument. Mar. Coast. Law J, 2001, tr. 603–623. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

17 quốc gia ven biển đối với hành vi IUU<small>25</small>.

Dấu mốc quan trọng tiếp theo trong sự phát triển các quy định của pháp luật quốc tế về IUU chính là sự ra đời của Hiệp định về các biện pháp của quốc gia có cảng trong việc ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU (PSMA). Đây là thỏa thuận quốc tế đầu tiên mang tính ràng buộc về mặt pháp lý hướng mục tiêu cụ thể vào hành vi IUU. Hiệp định này được thông qua tại Hội nghị lần thứ 36 của FAO tại Rome vào năm 2009 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 05/6/2016. Hiệp định về các biện pháp của quốc gia có cảng là thỏa thuận quốc tế ràng buộc đầu tiên nhắm mục tiêu cụ thể vào hoạt động khai thác IUU. Mục tiêu chính của nó là loại bỏ hoạt động đánh bắt IUU bằng cách ngăn chặn các tàu tham gia khai thác IUU sử dụng cảng và cập bến sản lượng khai thác của họ. Theo cách này, Hiệp định làm giảm động cơ khuyến khích các tàu này tiếp tục hoạt động đồng thời ngăn chặn các sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ khai thác IUU tiếp cận thị trường quốc gia và quốc tế. Việc thực hiện hiệu quả Hiệp định cuối cùng sẽ góp phần vào việc bảo tồn lâu dài và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên sinh vật biển và các hệ sinh thái biển. Các quy định của PSMA áp dụng cho các tàu đánh cá muốn vào một cảng được chỉ định của một quốc gia khác với quốc gia mà họ treo cờ. Để thực hiện mục tiêu, Hiệp định đề xuất các quốc gia thành viên có cảng áp dụng các quy định của Hiệp định một cách có hiệu quả đối với tàu cá nước ngồi cập cảng hoặc đang neo đậu tại cảng nước mình, góp phần thống nhất các biện pháp của quốc gia có cảng, đồng thời tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế và ngăn ngừa các sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ IUU xâm nhập thị trường nội địa và thị trường quốc tế<small>26</small>. Bên cạnh đó, Hiệp định khuyến khích các quốc gia (kể cả quốc gia khơng phải thành viên) nội luật hố các quy định của Hiệp định trong pháp luật nước mình. Hiệp định này cũng quy định trách nhiệm của các tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMOs) trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực về phòng, chống IUU.

Ngoài các văn kiện toàn cầu trên đây, các quy định về IUU cũng được đề cập trong các văn kiện của một số thiết chế quốc tế khác như Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO), Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và một số tổ chức nghề cá khu vực khác... Tuy nhiên, các quy định về IUU trong văn kiện của các thiết chế này chỉ quy định về một số vấn đề của IUU, về cơ bản, cũng tương tự như các quy định trong các văn kiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

18

của Liên Hợp Quốc và FAO chứ chưa có sự phát triển mới về nội dung.

Nhìn chung, qua các giai đoạn trên, quy định của pháp luật quốc tế về phịng, chống IUU ngày càng được phát triển và hồn thiện kể từ sau khi UNCLOS được ký kết. Bên cạnh các điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc đối với các quốc gia, hành vi IUU còn được đề cập trong các văn kiện chính trị, các khuyến nghị, hướng dẫn của các quốc gia cũng như các thiết chế quốc tế. Sự phát triển của các quy định pháp luật quốc tế về IUU gắn liền với thực tiễn triển khai hoạt động của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc, FAO và các tổ chức nghề cá khu vực như Uỷ ban bảo tồn sinh thái biển Nam cực... Sự kết hợp của các thỏa thuận (kể cả thỏa thuận ràng buộc về pháp lý cũng như các thoả thuận mang tính khuyến nghị) đã tạo ra một khn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động đánh cá ở cả cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia. Để giải quyết triệt để vấn đề khai thác này đòi hỏi các quốc gia có sự kết hợp đa dạng các biện pháp khác nhau, trong đó bao gồm cả việc sử dụng hiệu quả các công cụ pháp lý quốc tế và quốc gia; xây dựng và củng cố năng lực thực thi quyền tài phán của các quốc gia ven biển; đẩy mạnh hoạt động hợp tác, đối thoại quốc tế giữa các nước…để tìm ra nhiều biện pháp chung.

<b>1.4. Nội dung về đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) trong một số văn kiện pháp luật quốc tế </b>

Trong quá trình hình thành, phát triển và bổ sung của khái niệm IUU, nội dung về đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định được thể hiện trong các văn kiện quốc tế, và được cụ thể hóa hơn tại các thỏa thuận mang tính khu vực. Thêm vào đó, với ý nghĩa là chất liệu để xây dựng pháp luật, các ý kiến tư vấn và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế liên quan đến IUU đã được phát triển nội dung này ở nhiều khía cạnh khác nhau. Theo đó, lần lượt nội dung về đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định sẽ được làm rõ tại văn kiện pháp luật quốc tế, một số thỏa thuận quốc tế, khu vực và ý kiến tư vấn và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế liên quan đến IUU.

<i><b>1.4.1. Nội dung về phòng, chống IUU trong một số văn kiện pháp luật quốc tế </b></i>

Các điều ước quốc tế, văn kiện quốc tế được các quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn được coi là một loại nguồn nội dung của pháp luật hiện đại mà sau khi ký kết hoặc phê chuẩn, các quốc gia thành viên phải thực thi nội luật hóa để tương thích với các điều, khoản mà mình đã cam kết, bảo đảm cho các cam kết quốc tế được thực hiện trên thực tế. Chính việc xác định vị trí, vai trò quan trọng của nguồn luật thành văn này, đặc biệt đối với vấn đề IUU, khi xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến các vùng biển, hoạt động hàng hải và đánh bắt cá, các quốc gia thành viên phải dựa

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) </i>

Là văn kiện pháp lý quốc tế toàn cầu quan trọng thứ hai sau Hiến chương Liên Hợp Quốc do các quốc gia xây dựng sau Chiến tranh thế giới thứ 2 và được đông đảo các quốc gia tham gia, Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) tạo nên một khung pháp lý toàn diện về biển và đại dương, bao quát được tất cả những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương thế giới bao gồm an ninh, bảo vệ, nuôi trồng, khai thác tài nguyên, giao thông liên lạc, nghiên cứu khoa học, công nghệ… đối với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia cũng như đối với các vùng biển nằm ngoài phạm vi thuộc quyền tài phán quốc gia.

Ngay tại Lời nói đầu của UNCLOS, các quốc gia đã khẳng định mong muốn “giải quyết mọi vấn đề liên quan đến luật biển” và “thiết lập một trật tự pháp lý trên biển”. Công ước thể hiện sự cố gắng lớn của cộng đồng quốc tế để điều chỉnh tất cả các khía cạnh liên quan đến biển, tài nguyên biển và việc sử dụng biển, tạo nên một trật tự thế giới mới cho việc quản lý và sử dụng biển. UNCLOS có ý nghĩa lịch sử đối với cả nhân loại, đánh dấu cột mốc quan trọng trong việc sử dụng đại dương một cách trật tự và bền vững. Một trong các nội dung quan trọng được quy định để thực thi hóa ý nghĩa lịch sử trên chính là việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và phi sinh vật. Với sự ra đời của Công ước, cộng đồng quốc tế đã có nhận thức sâu sắc hơn về những hoạt động đánh bắt, khai thác bất hợp pháp khi trái với các quy định của Công ước.

Tuy nhiên trên thực tế, Cơng ước này khơng có những quy định trực tiếp về

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

20

các hành vi IUU mà chỉ xác định nhiệm vụ cơ bản của các quốc gia là cùng hợp tác trong việc bảo tồn và quản lý các nguồn lợi thủy sản nói chung. Việc điều chỉnh hoạt động này chủ yếu được giải thích thông qua các quy định về quyền khai thác tài nguyên sinh vật của quốc gia ven biển. UNCLOS đã chỉ rõ quyền của các quốc gia ven biển đối với vùng biển thông qua việc phân chia thành các khu vực. Theo đó tại nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các quốc gia ven biển có chủ quyền và quyền chủ quyền đối với các vùng biển này. Ở đây các quốc gia có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nguồn tài nguyên cá, là một trong những nội dung của chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển. Với mỗi vùng biển khác biệt, UNCLOS đã tạo ra những khung pháp lý chuyên biệt cho từng vùng nhằm tối ưu hóa quyền lợi của các quốc gia ven biển, đồng thời xây dựng một hành lang pháp lý vững chắc để bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật biển, đặc biệt là cá.

Đầu tiên, quy định liên quan đến khai thác, quản lý, bảo tồn nguồn tài nguyên cá tại nội thủy và lãnh hải thuộc thẩm quyền của quốc gia ven biển, nguyên nhân cốt lõi xuất phát từ chủ quyền của các quốc gia này. Tàu thuyền nước ngồi được quyền “đi qua khơng gây hại” trong lãnh hải của quốc gia ven biển và không được tiến hành một số hoạt động làm phương hại đến hịa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, trong đó có đánh bắt hải sản<small>27</small>. Đồng thời, quốc gia ven biển có thể ban hành các quy định về bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt; giữ gìn mơi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường<small>28</small>. Theo quy định của UNCLOS, do nội thủy và lãnh hải là những vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, chính vì vậy, hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên sinh vật biển trong các vùng biển này sẽ thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, hoạt động đánh bắt của tàu thuyền nước ngoài chỉ được coi là hợp pháp khi có sự chấp thuận của quốc gia ven biển.

Thứ hai, tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, quy chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ khai thác tài nguyên sinh vật biển được xây dựng khá cụ thể. Bởi lẽ, tài nguyên sinh vật nói chung và tài nguyên cá nói riêng tại vùng đặc quyền kinh tế đa dạng và phong phú. Cho nên, UNCLOS rất tập trung xây dựng quy chế pháp lý cụ thể trong bảo tồn, khai thác, quản lý tài nguyên sinh vật biển. UNCLOS đề cập nhiều đến quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển tại vùng đặc quyền kinh tế (tổng cộng 20 Điều, từ Điều 55 đến Điều 75). Vấn đề khai thác tài nguyên cá chủ yếu

<small> </small>

<small>27 Điều 19 UNCLOS 1982. </small>

<small>28 Điều 21 UNCLOS 1982. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

21

được đề cập đến trong quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, cụ thể là vùng đặc quyền kinh tế. Theo đó, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật tại vùng biển này. Nguồn tài nguyên cá theo quy định tại Điều 56 UNCLOS 1982 là nguồn tài nguyên sinh vật mà các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với, thông qua một số nội dung sau:

(i) Bảo tồn nguồn tài nguyên sinh vật (Điều 61): UNCLOS quy định quốc gia ven biển phải xác định nguồn lợi thủy sản và tổng khối lượng có thể đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Đồng thời, quốc gia ven biển cũng phải thực hiện các biện pháp bảo tồn và quản lý phù hợp, trên cơ sở các thông tin và kết quả nghiên cứu khoa học để đảm bảo là tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khơng bị khai thác một cách quá mức. Quốc gia ven biển có quyền ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình. Các quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải đảm bảo việc bảo tồn, quản lý hợp lý để các tài nguyên sinh vật đang sinh sống trong vùng đặc quyền kinh tế của họ được duy trì và không bị đe dọa bởi sự đánh bắt quá mức thơng qua việc thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình tránh bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới hợp tác với nhau nhằm bảo tồn và quản lý các tài nguyên sống. Không chỉ các quốc gia ven biển mà các quốc gia khác đều có quyền và nghĩa vụ trong việc bảo tồn các loài sinh vật biển cụ thể như các loài cá di cư xa, các loài thú có vú ở biển, các đàn cá vào sơng sinh sản, các loài cá ra biển sinh sản, các loài định cư…

(ii) Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật (Điều 62): Quốc gia ven biển xác định mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền kinh tế mà không phương hại đến việc bảo tồn tài nguyên sinh vật. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt. Trong trường hợp quốc gia ven biển khơng có khả năng khai thác toàn bộ khối lượng đánh bắt được phép nêu trên, theo Điều 62(2) của UNCLOS, quốc gia ven biển sẽ, thông qua thỏa thuận, cho phép các quốc gia khác khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt nếu như quốc gia ven biển khơng có khả năng khai thác tồn bộ khối lượng cho phép này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

22

Quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và các thể thức, điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia ven biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Cơng ước và đặc biệt có thể đề cập các vấn đề sau đây: Giấy phép khai thác; chủng loại cho phép đánh bắt; số lượng đánh bắt trong một khoảng thời gian nhất định; mùa vụ và các khu vực đánh bắt; kiểu, cỡ và số lượng các phương tiện đánh bắt, tàu thuyền đánh bắt; ấn định tuổi, cỡ cá và các sinh vật khác có thể được đánh bắt; các thơng tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và thơng báo vị trí của các tàu thuyền;…Quốc gia ven biển cũng có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác trong việc bảo tồn các đàn cá lưỡng cư (Điều 63), các loài cá di cư xa (Điều 64), các lồi động vật có vú (Điều 65), các đàn cá vào sông sinh sản (Điều 66), và các đàn cá ra biển sinh sản (Điều 67).

(iii) Thi hành các luật và quy định của quốc gia ven biển (Điều 73): Để bảo vệ các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với tài nguyên cá, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Cơng ước trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế<small>29</small>. Thực tiễn cho thấy, để bảo vệ các quyền chủ quyền đã được UNCLOS thừa nhận, khi xuất hiện những hành vi vi phạm về quyền khai thác tài nguyên sinh vật nói chung trong đặc quyền kinh tế, các quốc gia ven biển đã từng sử dụng các biện pháp có tính cứng rắn hơn như tịch thu tàu thuyền hoặc thậm chí là sử dụng vũ lực. Tuy nhiên trong khi áp dụng các biện pháp chế tài đối với những hành vi vi phạm quyền khai thác, quản lý tài nguyên sinh vật của quốc gia ven biển trong đặc quyền kinh tế, UNCLOS cũng đã đặt ra hạn chế nhất định, khơng được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác, và khơng bao gồm một hình phạt thân thể nào khác<small>30</small>. Thực tiễn cho thấy, mặc dù có quan điểm ủng hộ việc hình sự hóa IUU và coi đây là một dạng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia để đưa vào phạm vi điều chỉnh của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (TOC), tuy nhiên do mâu thuẫn trực tiếp đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, đồng thời trái với nguyên tắc được quy định tại khoản 3 Điều 73 UNCLOS 1982, trừ khi đây được xem là thỏa thuận theo ngoại lệ của quy định này. Chính vì thế, các quốc gia vẫn đang khuyến khích sử dụng các biện pháp hành chính hoặc/và biện pháp dân sự thay vì hình sự hóa IUU.

<small> </small>

<small>29 khoản 1 Điều 73 UNCLOS 1982. </small>

<small>30 khoản 3 Điều 73 UNCLOS 1982. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

23

Theo UNCLOS, quốc gia ven biển thực hiện sự kiểm soát với hoạt động đánh bắt của tàu thuyền nước ngồi nhưng có tính đến tất cả các yếu tố thích đáng, trong đó có tầm quan trọng của các tài nguyên sinh vật thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc gia khác của nước mình. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt, có ưu tiên cho các quốc gia khơng có biển hoặc các quốc gia có bất lợi về mặt địa lý<small>31</small>. Ngồi ra, đối với các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền về kinh tế, UNCLOS đã quy định khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo Cơng ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và không mâu thuẫn các quy tắc khác của pháp luật quốc tế. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia ven biển.

Thứ ba, bên cạnh các quy định về đánh cá trong các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia, UNCLOS còn quy định về hoạt động đánh cá trên vùng biển quốc tế. Ở khu vực này, tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền tự do biển cả với các nội dung bao gồm cả quyền tự do đánh cá<small>32</small>. Nguyên tắc hợp tác với nhau trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển cả chỉ rõ các quốc gia có cơng dân khai thác tài ngun sinh vật khác nhau ở trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật giống nhau, thương lượng với nhau để có những biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn các tài ngun đó. Nhằm mục đích đó, nếu cần, các nước này hợp tác để lập ra các tổ chức đánh bắt nghề cá khu vực hoặc tiểu vùng<small>33</small>. Khi quy định khối lượng cho phép đánh bắt và thi hành các biện pháp khác để bảo tồn các tài nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải<small>34</small>:

Dựa trên những số liệu đáng tin cậy, quan tâm đến việc khơi phục hay duy trì các đàn cá, những loài cá khai thác ở mức độ đảm bảo năng suất ổn định tối đa, có chú ý tới những yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng và có tính đến những phương pháp đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn cá và đến tất cả mọi quy phạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Từ khi khung pháp lý về hoạt động đánh bắt cá UNCLOS 1982 ra đời, hoạt động tự do đánh bắt cá trước đây đã dần dần đặt vào khuôn khổ, giới hạn. Các quy định của UNCLOS 1982 đã tạo ra sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong hoạt động đánh bắt, khai thác và hoạt động bảo tồn, quản lý các tài nguyên sinh vật biển khi đặt dưới sự phân chia thành vùng biển thuộc chủ quyền, vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán, biển quốc tế. Tuy nhiên, bất cập trong những quy định của UNCLOS là tính tương đối, chưa được cụ thể, chi tiết, thậm chí có những lỗ hổng pháp lý mà Công ước này chưa bao hàm được hết. Thiếu sót tiêu biểu tại Điều 63 và Điều 64 khi chưa đề cập đến việc quản lý đối với đàn cá di cư xa, chưa đưa ra được cách thức hợp tác giữa các quốc gia để bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật trên biển cả dẫn đến tính trạng sản lượng các loài cá ngày càng suy giảm do chịu tác động của IUU. Đồng thời, liên quan đến khai thác cá trong UNCLOS chỉ mới xác định trách nhiệm của các quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế, cịn đối với biển cả cũng như có chế quản lý vùng biển này như thế nào chưa được đề cập cụ thể. Xuất phát từ đặc điểm của nguồn lợi thủy sản nói chung và nguồn lợi sinh vật biển nói riêng là tính động, có thể di chuyển và sinh sống ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia này hoặc quốc gia khác, thậm chí di cư ra biển quốc tế, vấn đề đặt ra là vẫn chưa có quy định về các lồi cá nằm trong cả vùng đặc quyền kinh tế và vùng biển cả. Do đó, để quản lý, khai thác có hiệu quả thì vấn đề đặt ra là phải quản lý nguồn lợi thủy sản bao trùm hết quá trình vận động của nó mà yếu tố dịng chảy, thức ăn, điều kiện tự nhiên quyết định chứ không phải do những đường biên giới biển, đường phân chia vùng biển quốc gia, quốc tế phân định. Điều này đòi hỏi cần tiếp tục bổ sung các văn kiện quốc tế khác ở cấp độ toàn cầu để quy định cụ thể các vấn đề nêu trên.

Tóm lại, UNCLOS là khuôn khổ pháp lý thúc đẩy hợp tác ứng phó với các thách trên biển, hướng đến bảo tồn và sử dụng bền vững biển và các nguồn tài nguyên biển nhằm hướng tới quản lý và bảo tồn biển và đại dương và các nguồn lợi biển một cách bền vững, phù hợp với các tiêu chí của Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển (SDG14) thuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

25 Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc.

<i>Hiệp định thúc đẩy việc tuân thủ các biện pháp quốc tế về bảo tồn và quản lý </i>

<i><b>thực hiện bởi tàu cá tại vùng biển quốc tế của FAO năm 1993 </b></i>

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (Food and Agriculture Organization of the United Nations, viết tắt là FAO) được thành lập ngày 16 tháng 10 năm 1945 tại Canada với vai trị là một cơ quan chun mơn của Liên Hiệp Quốc (United Nations, viết tắt là UN), cơ quan này hoạt động như là một trung tâm thu thập và phân tích các thơng tin, tư vấn về kiến thức, kinh nghiệm để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, lương thực và dinh dưỡng trên phạm vi toàn cầu. Tại phiên họp lần thứ 27 vào năm 1993, Hội nghị FAO thông qua Hiệp định thúc đẩy việc tuân thủ các biện pháp quốc tế về bảo tồn và quản lý thực hiện bởi tàu cá tại vùng biển quốc tế, sau đây gọi tắt là Hiệp định tuân thủ của FAO năm 1993. Sau khi được quốc gia thứ 25 phê chuẩn trở thành thành viên chính thức cũng đồng nghĩa với Hiệp định sẽ có hiệu lực<small>35</small>, Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày 24/04/2003 đối với tất cả các tàu cá đã từng hoặc có ý định đánh bắt trong vùng biển cả<small>36</small>.

Nội dung về phòng, chống khai thác IUU được thể hiện qua các quy định cụ thể trách nhiệm của các quốc gia có tàu mang cờ quốc tịch khi hoạt động đánh bắt cá trong biển cả. Hiệp định này quy định những nghĩa vụ chính của các quốc gia có tàu mang cờ quốc tịch<small>37</small> gồm có: sử dụng các biện pháp để đảm bảo rằng các tàu có mang quốc tịch của quốc gia mình khơng tham gia vào bất cứ hoạt động nào làm tổn hại đến hiệu quả của các biện pháp bảo tồn và quản lý quốc tế; sẽ bị tước giấy phép hoạt động nếu một tàu cá đã được đăng ký tại một quốc gia khác và vi phạm các biện pháp bảo tồn và quản lý quốc tế, một tàu như vậy chỉ có thể được cấp phép bởi một bên của thỏa thuận để sử dụng với mục đích đánh cá tại vùng biển cả nếu thời hạn đình chỉ được đặt ra bởi bên kia đã kết thúc; và giấy phép đối với tàu cá đó để được đánh cá ở biển cả không được rút lại bởi phía bên kia trong vịng 3 năm trước đó; mỗi quốc gia thành viên của Hiệp định lưu giữ các số liệu chi tiết về tàu cá đại diện cho mình và được phép đánh bắt cá trong vùng biển cả; mỗi quốc gia thành viên của Hiệp định cung cấp cho FAO các thông tin chi tiết về các tàu cá. Theo định kỳ, FAO chuyển tải các thông tin này đến các quốc gia thành viên khác của Hiệp định.

Bên cạnh đó, Hiệp định tuân thủ FAO 1993 cũng có những quy định để phịng, chống việc tàu đánh cá nước ngoài đăng ký quốc tịch mới nhằm trốn tránh việc tuân thủ, thực hiện các biện pháp bảo tồn và quản lý nguồn tài nguyên sinh vật biển.

<small> </small>

<small>35 Điều 11 Hiệp định tuân thủ của FAO 1993 </small>

<small>36 Khoản 1 Điều 2 Hiệp định tuân thủ của FAO 1993 </small>

<small>37 Điều 3 Hiệp định tuân thủ của FAO 1993 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Những quy định về một số loài cá đặc thù đã được đưa vào UNCLOS 1982 tuy nhiên lại chưa có quy định cụ thể để sử dụng bền vững và bảo tồn dài hạn các loại cá này, đặc biệt là các loài cá sống trong cả vùng đặc quyền kinh tế và vùng biển cả theo Điều 63 và những loài cá di cư xa theo Điều 64 UNCLOS. Vì đây là những lồi cá đem lại giá trị kinh tế cao nên thường nằm trong diện bị ảnh hưởng bởi hoạt động IUU. Hơn nữa, UNCLOS cũng chỉ dừng lại ở việc quy định quốc gia ven biển và quốc gia khác sẽ thỏa thuận, hợp tác với nhau về các biện pháp cần thiết để bảo tồn và khai thác tối ưu các loài cá này chứ chưa cụ thể sự hợp tác này sẽ như thế nào. Mà việc khai thác hai loài cá này thường dẫn đến xung đột, tranh chấp giữa các quốc gia ven biển và quốc gia đánh bắt xa bờ. Các quốc gia ven biển thì khẳng định mình có quyền cơ bản đối với hai lồi cá này vì chúng sinh sống ở vùng đặc quyền kinh tế của mình; Tuy nhiên, các quốc gia đánh bắt xa bờ thì cho rằng quyền tự do đánh cá ở biển cả với hai loài này khi chúng di cư khỏi vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.

Chính vì vậy, Hiệp định thực thi các điều khoản của UNCLOS về bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa của Liên hợp quốc năm 1995 (UNFSA) đã cụ thể hóa các quy định này của UNCLOS. Mục tiêu của UNFSA là bảo đảm việc bảo tồn dài hạn và sử dụng bền vững đàn cá lưỡng cư và di cư xa thông qua việc thực hiện hiệu quả những điều khoản có liên quan của UNCLOS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

27

Hiệp định UNFSA 1995 có hiệu lực vào ngày 11 tháng 12 năm 2001, gồm 13 phần, 50 điều và 2 phụ lục. Hiệp định áp dụng cho việc bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa nằm ngoài vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, cụ thể hóa các điều 63, 64 và 119 của UNCLOS 1982. Ngoài ra, UNFSA 1995 đưa ra một số nguyên tắc về môi trường như đa dạng sinh học và tính bền vững; quy định các biện pháp để quản lý nghề cá: phát triển công cụ và kỹ thuật đánh bắt cá có chọn lọc và an tồn cho mơi trường; tăng cường chức năng của các tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMOs) trong quá trình hợp tác...Tuy nhiên, UNFSA cũng nêu rõ có thể áp dụng cho việc quản lý và bảo tồn các đàn cá nói trên trong vùng thuộc quyền tài phán quốc gia trong một số trường hợp (Điều 3). Ngoài ra, trên cơ sở nhận thức đầy đủ nhu cầu đặc thù và lợi ích của các quốc gia đang phát triển, UNFSA quy định về hình thức hợp tác với các quốc gia đang phát triển thơng qua các tổ chức tồn cầu và khu vực. Đặc biệt, Hiệp định quy định về việc trợ giúp các quốc gia đang phát triển trong việc thực hiện Hiệp định, tập huấn và xây dựng năng lực ở phạm vi địa phương, phát triển và cấp vốn cho các chương trình, tiếp cận cơng nghệ và thiết bị… không loại trừ cả việc trợ giúp kinh phí gắn liền với thủ tục giải quyết tranh chấp với sự có mặt của các quốc gia đang phát triển.

UNFSA là một nỗ lực lớn của cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết những vướng mắc, hạn chế của UNCLOS liên quan đến bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật trên vùng biển quốc tế, đặc biệt liên quan đến đàn cá lưỡng cư và di cư xa. Các điều khoản của Hiệp định 1995 đã góp phần hồn thiện hơn các quy định của pháp luật quốc tế về quản lý khai thác đánh cá so với các điều khoản của UNCLOS.

Tuy nhiên, Hiệp định vẫn chưa đưa ra một hướng giải quyết thỏa đáng cho các loài cá di cư xa.

<i>Thứ nhất, UNFSA không thiết lập được một hệ thống quản lý quốc tế có hiệu </i>

quả đối với các loài cá này.

<i>Thứ hai, trong khi nhấn mạnh nghĩa vụ hợp tác của tất cả các quốc gia trong </i>

việc bảo tồn các loài cá này trên biển cả, Hiệp định không quy định rõ ràng về việc thực hiện cụ thể nghĩa vụ này.

<i>Thứ ba, mặc dù UNFSA công nhận sự cần thiết phải đảm bảo sự nhất quán </i>

giữa các biện pháp bảo tồn trong vùng đặc quyền kinh tế và các biện pháp bảo tồn trên biển cả, vấn đề làm thế nào có thể đảm bảo được sự nhất quán này vẫn chưa được giải quyết. Hiệp định không quy định rõ là quốc gia ven biển hay quốc gia đánh cá trên biển cả có nghĩa vụ phải đảm bảo sự nhất quán này. Vào thời điểm này, chưa thể tiên đốn được Hiệp định có góp phần giải quyết các vấn đề liên quan đến các loài cá di cư hay khơng vì giá trị thực tiễn của Hiệp định phụ thuộc vào một số quốc gia, đặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

28

biệt là các quốc gia đánh cá tầm xa trên biển cả tham gia Hiệp định.

<i>Chương trình hành động quốc tế để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hoạt động </i>

<i><b>đánh cá bất hợp pháp, khơng báo cáo và khơng được kiểm sốt (IPOA-IUU) </b></i>

IPOA-IUU là một văn kiện mang tính tự nguyện áp dụng cho các quốc gia, các thực thể có liên quan và ngư dân, được xây dựng trong khuôn khổ pháp lý của Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của FAO 1995. IPOA-IUU được xác định mục tiêu và nguyên tắc thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU. Bên cạnh việc đưa ra giải thích về IUU, nội dung chính của IPOA-IUU đề cập đến những vấn đề sau:

Nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các bên: nguyên tắc tham gia và hợp tác; nguyên tắc thực hiện theo giai đoạn; nguyên tắc tiếp cận toàn diện và tích hợp nguyên tắc bảo tồn bền vững, nguyên tắc minh bạch và nguyên tắc không phân biệt đối xử.

Trách nhiệm của tất cả các quốc gia trong việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU, bao gồm: thực thi đầy đủ các nghĩa vụ được xác định trong các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên như UNCLOS 1982, Hiệp định thực thi 1995, Thỏa thuận tuân thủ 1993. Đối với các quốc gia khác, mặc dù chưa phải là thành viên, cũng không được tiến hành hành động mâu thuẫn với điều ước quốc tế; ban hành pháp luật quốc gia để giải quyết hiệu quả các khía cạnh của IUU; thực hiện các biện pháp quản lý và kiểm sốt một cách tồn diện và hiệu quả đối với tàu chuyền hoạt động đánh bắt trong tồn bộ q trình từ khi bắt đầu đến khi cập cảng và đích đến cuối cùng của sản phẩm đánh bắt; thực hiện các biện pháp kiểm soát tàu treo cờ quốc gia khi tiến hành hoạt động đánh bắt trên biển, trong đó bao gồm cả các biện pháp trừng phạt tàu tham gia hành vi IUU; hợp tác trực tiếp với quốc gia khác, và khi thích hợp thơng qua các tổ chức quản lý nghề cá khu vực, trong việc ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU. Sự hợp tác này có thể bao gồm: trao đổi thông tin dữ liệu; thu nhập, quản lý và xác minh thông tin dữ liệu; điều tra hành vi IUU; hợp tác, chuyển giao công nghệ…; xây dựng và triển khai thực hiện càng sớm các chương trình hành động quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu của IPOA-IUU. Các chương trình hành động này cũng nên tích hợp các hành động để thực hiện các sáng kiến được thông qua của các tổ chức quản lý nghề cá khu vực để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU. Quốc gia nên khuyến khích sự tham gia đầy đủ của tất cả các bên liên quan, bao gồm ngành công nghiệp, cộng đồng ngư dân và các tổ chức phi chính phủ vào việc thực hiện các chương trình hành động quốc gia; cơng khai chi tiết, đầy đủ hoạt động đánh bắt của tàu thuyền và các hành động mà quốc gia thực hiện để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU; không hỗ trợ về kinh tế, bao gồm trợ cấp cho các công ty, tàu cá hoặc cá nhân liên quan đến hành vi IUU;

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

29

Trách nhiệm của quốc gia cảng biển trong việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU, gồm: thông qua các hồ sơ tài liệu cần thiết xác định tàu nước ngoài đang xin cập cảng có tham gia hay hỗ trợ hoạt động hành vi IUU hay khơng, nếu có, quốc gia cảng biển không cho phép tàu cập cảng hoặc trung chuyển cá trong cảng của mình và thơng báo với quốc gia tàu treo cờ; quốc gia cảng biển phải đảm bảo các biện pháp mà quốc gia áp dụng phải phù hợp với pháp luật quốc tế và được thực hiện một cách công bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử; khi thực hiện quyền kiểm tra tàu cá của mình, quốc gia cảng biển cần thu nhập và gửi cho quốc gia tàu treo cờ, và khi thích hợp, cho tổ chức quản lý nghề cá khu vực các thông tin: quốc tịch, chi tiết nhận dạng tàu; ngư cụ đánh bắt; sản phẩm cá đã được đánh bắt (nguồn gốc, lồi, hình thức, số lượng) và các thông tin cần thiết khác; thông báo công khai danh sách các cảng mà tàu cá nước ngoài có thể cập cảng và phải đảm bảo rằng các cảng này đủ khả năng tiến hành các hoạt động kiểm tra cần thiết; trong quá trình kiểm tra, nếu thấy có cơ sở hợp lý để nghi ngờ rằng tàu đã tham gia hoặc hỗ trợ hành vi IUU, quốc gia cảng biển phải thông báo ngay cho quốc gia tàu treo cờ hoặc tổ chức quản lý nghề cá khu vực…

Trách nhiệm của quốc gia ven biển trong việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU: Khi thực hiện quyền chủ quyền trong việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển phù hợp UNCLOS, quốc gia ven biển phát triển khai các biện pháp nhằm ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU trong vùng đặc quyền kinh tế của mình…

Như vậy, IPOA-IUU trước hết tập trung vào trách nhiệm của tất cả các quốc gia, trong đó có trách nhiệm của quốc gia tàu treo cờ, quốc gia ven biển, quốc gia có cảng biển. Ngoài ra, IPOA-IUU còn đề cập đến các biện pháp liên quan đến thị trường, vấn đề nghiên cứu và các tổ chức quản lý nghề cá khu vực. Đối với các biện pháp liên quan đến thị trường, IPOA-IUU quy định các quốc gia nên thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn các sản phẩm cá có hành vi IUU được mua bán hoặc nhập khẩu vào lãnh thổ quốc gia mình; cải thiện tính minh bạch của thị trường để cho phép truy xuất nguồn gốc của cá hoặc sản phẩm cá; nâng cao nhận thức của các nhà nhập khẩu, chủ ngân hàng, công ty bảo hiểm, nhà cung cấp dịch vụ, người tiêu dùng...

<i>Hiệp định về biện pháp của các quốc gia có cảng nhằm phịng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ IUUF (PSMA) </i>

Hiệp định PSMA được thông qua tại Hội nghị lần thứ 36 của FAO tại Rome vào năm 2009 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 05/06/2016, từ sự nhận thức được vai trò quan trọng của các quốc gia có cảng trong áp dụng các biện pháp hiệu quả để thúc đẩy việc sử dụng bền vững và bảo tồn lâu dài của nguồn lợi thủy sản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

30

Mục tiêu chính của Hiệp định là khuyến khích các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp tại cảng nhằm phịng ngừa, ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn IUU. Để thực hiện mục tiêu này, Hiệp định đề xuất cách áp dụng hiệu quả đối với tàu cá nước ngoài cập cảng hoặc đang neo đậu tại cảng nước khác, góp phần thống nhất các biện pháp của quốc gia có cảng, đồng thời tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế và ngăn ngừa các sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ IUU xâm nhập thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định khuyến khích các quốc gia (kể cả khơng phải thành iên) nội luật hóa các quy định của hiệp định trong pháp luật nước mình. PSMA là một phần khơng thể thiếu trong nỗ lực toàn cầu nhằm đạt được sự phát triển nguồn lợi thuỷ sản một cách bền vững và giúp đảm bảo rằng các nước nhân được sự hỗ trợ cần thiết để phát triển cơ sở hạ tầng và chuyên môn tại các cảng nhằm ngăn chặn hoạt động đánh bắt bất hợp pháp. Điều này sẽ giúp đảm bảo sinh kế của các ngư dân tuân thủ pháp luật và bảo vệ an ninh lượng thực của cộng đồng ven biển và hơn thế nữa.

Bổ sung thêm các quy định so với các điều ước quốc tế liên quan, Hiệp định này cũng quy định trách nhiệm của các RFMO trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực về phòng chống IUU, Việc hợp tác khu vực sẽ hỗ trợ các quốc gia có cảng và các quốc gia thành viên của RFMO trong việc đảm bảo các quốc gia này có thể hưởng lợi từ thơng tin thu nhập được từ việc thực hiện các biện pháp tại cảng.

Như vậy, ở cấp độ toàn cầu, các thỏa thuận được ký kết đã cho thấy nỗ lực của các quốc gia, tổ chức quốc tế trong việc hình thành khn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động khai thác tài nguyên sinh vật biển, trong đó có ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ các hoạt động IUU. Mặc dù, hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý của một số thỏa thuận chưa cao, nội dung của một số thỏa thuận còn cần được tiếp tục hồn thiện nhưng khơng thể phủ nhận những tác động tích cực của các thỏa thuận tới nhận thức và hành xử của các quốc gia trong việc hợp tác để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ các hoạt động IUU hướng tới mục tiêu chung của toàn nhân loại là bảo tồn, quản lý nguồn tài nguyên sinh vật biển vì sự phát triển bền vững.

<i><b>1.4.2. Nội dung IUU theo quy định của một số thỏa thuận quốc tế, khu vực </b></i>

Vấn đề IUU được đặt ra trong các văn kiện quốc tế mang tầm vĩ mô, nhằm hướng đến mục tiêu chung, khái quát để tạo sự thống nhất trên khn khổ tồn cầu. Để đưa vào thi hành những mục tiêu ấy, ta cần cụ thể hóa trong khn khổ các thỏa thuận quốc tế, khu vực. Các cơ quan nghề cá khu vực (Regional Fishery Bodies - RFB), trong đó RFMO (regional fisheries management organisations) được thành lập trên cơ sở ấy. RFBs đóng vai trị quan trọng trong việc nâng cao nhận thức các quốc gia cũng như đảm bảo rằng các biện pháp bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

31

của khu vực bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho các biện pháp bảo tồn và quản lý đã được ghi nhận trong các thỏa thuận quốc tế ở cấp độ toàn cầu như UNCLOS, IPOA-IUU, PSMA…

RFB gồm một loạt các nhiệm vụ, khá đa dạng. Một số RFB chỉ chịu trách nhiệm tư vấn, đưa ra khuyến nghị hoặc thiết lập các cơ chế điều phối tự nguyện, trong khi đó một số khác có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp quản lý và bảo vệ biển có tính ràng buộc đối với các quốc gia thành viên. RFB đang nghiên cứu thuộc nhóm thứ hai của Tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMO). Trách nhiệm của RFMO có thể bao gồm việc thu thập, phân tích và trao đổi thông tin và dữ liệu; điều phối và quản lý nghề cá thông qua các cơ chế chung; thành lập một diễn đàn để trao đổi các khía cạnh chính trị và kỹ thuật; đưa ra các quyết định về bảo tồn, quản lý, phát triển và sử dụng có trách nhiệm các nguồn tài nguyên sinh vật biển. Nhận thức được vai trò của RFB trong việc thúc đẩy phát triển nghề cá bền vững và lâu dài, FAO đã cam kết: (i) cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và hành chính để cải thiện hiệu suất của RFB; (ii) thúc đẩy hợp tác và tham vấn giữa tất cả các RFB về các vấn đề cùng quan tâm;

Hiện nay, số lượng các cơ quan nghề cá khu vực đã lên tới hơn 50, trong đó liên quan đến đánh cá trên biển có gần 40 cơ quan như Uỷ ban quốc tế bảo tồn cá ngừ Đại Tây Dương (ICCAT), Uỷ ban nghề cá Đông Bắc Đại Tây Dương (NEAFC), Uỷ ban cá ngừ Ấn Độ Dương (IOTC), Uỷ ban bảo tồn tài nguyên sinh vật biển Nam cực (CCAMLR), Uỷ ban nghề cá Trung và Tây Thái Bình Dương (WCPFC)... Trên cơ sở sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên, đã có 13 cơ quan nghề cá khu vực đưa ra Danh sách tàu thuyền tham gia hoạt động IUU và công bố danh sách này trên website của tổ chức:

(1). Uỷ ban bảo tồn tài nguyên sinh vật biển Nam cực (CCAMLR) (2). Uỷ ban bảo tồn cá ngừ vây xanh phương Nam (CCSBT) (3). Uỷ ban nghề cá tổng hợp Địa Trung Hải (GFCM)

(4). Uỷ ban cá ngừ Ấn Độ Dương (IOTC) (5). Uỷ ban cá ngừ nhiệt đới Liên Mỹ (IATTC)

(6). Uỷ ban quốc tế bảo tồn cá ngừ Đại Tây Dương (ICCAT) (7). Uỷ ban nghề cá Đông Bắc Đại Tây Dương (NEAFC) (8). Uỷ ban nghề cá Bắc Thái Bình Dương (NPFC) (9). Tổ chức nghề cá Tây Bắc Đại Tây Dương (NAFO) (10). Tổ chức nghề cá Đông Nam Đại Tây Dương (SEAFO) (11). Uỷ ban hiệp định nghề cá Nam Ấn Độ Dương (SIOFA)

(12). Tổ chức quản lý nghề cá khu vực Nam Thái Bình Dương (SPRFMO) (13). Ủy ban nghề cá Trung và Tây Thái Bình Dương (WCPFC)

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

32

Nội dung về bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển nói chung và phòng chống IUU đã dần được ghi nhận tại nhiều thỏa thuận khu vực như Công ước bảo tồn và quản lý các loài cá di cư xa ở Trung và Tây Thái Bình Dương, Cơng ước bảo tồn tài nguyên sinh vật biển Nam Cực… Theo Công ước bảo tồn và quản lý các loài cá di cư xa ở Trung và Tây Thái Bình Dương, tàu cá sẽ bị coi là tham gia hoạt động IUU nếu như vi phạm một trong các điều kiện sau đây, gồm đánh bắt lồi cá khơng nằm trong danh mục được Công ước cho phép; tiến hành hoạt động đánh bắt trong vùng nước thuộc thẩm quyền của một quốc gia nhưng không được sự cho phép của quốc gia đó, hoặc trái với luật pháp của quốc gia; không ghi lại hoặc không báo cáo hoặc báo cáo sai hồ sơ đánh bắt; đánh cá với kích thước nhỏ hơn quy định; đánh cá vào mùa hạn chế đánh bắt; sử dụng công cụ đánh bắt bị cấm trung chuyển, tham gia đánh bắt chung, hỗ trợ hoặc cung cấp cho tàu cá trong Danh sách IUU; tàu không quốc tịch đánh bắt trong vùng nước thuộc quyền quản lý của Ủy ban nghề cá Trung và Tây Thái Bình Dương (WCPFC); tiến hành bất kỳ hoạt động đánh bắt nào khác trái với Công ước; tàu được điều khiển bởi chủ sở hữu của bất kỳ con tàu nào trong Danh sách IUU. Việc xác định hành vi của tàu là hành vi IUU theo Công ước về Bảo tồn và Quản lý các loài cá di cư dài ngày ở Tây và Trung Thái Bình Dương về cơ bản giống như các quy định của FAO, mặc dù có nhiều trường hợp tàu được điều hành bởi chủ sở hữu. của bất kỳ tàu nào trong Danh sách IUU. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những bất cập, do nguyên tắc chưa tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, minh bạch, không phân biệt đối xử khi áp dụng các biện pháp bảo tồn, quản lý tài nguyên sinh vật biển; việc mở rộng hành vi IUU đối với tàu cá không ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi IUU đơn giản vì tàu này bị ràng buộc với tàu IUU thông qua đồng sở hữu, không chỉ gây gánh nặng tài chính cho các cơng ty đánh cá mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế của các quốc gia tàu treo cờ, đặc biệt là các nước đang phát triển, các quốc gia có hạm đội nhỏ; Việc áp dụng tiêu chí “sở hữu” để xác định khai thác IUU có thể vơ tình khiến các chủ tàu tìm cách chuyển đổi quyền sở hữu nhanh chóng để tránh bị liệt vào danh sách IUU. Điều này có thể dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp bảo tồn và quản lý.

Tóm lại, trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế, cơ chế ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU đã dần được định hình rõ nét cả ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Các cơ chế toàn cầu và khu vực cũng xác lập nghĩa vụ của các quốc gia liên quan tới IUU. Đây là kết quả của sự nỗ lực hợp tác giữa các quốc gia hướng tới bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng cũng như lợi ích hợp pháp của quốc gia ven biển đối với các nguồn tài nguyên cá trong vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia cũng như trên các vùng biển quốc tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i>Thứ nhất, mức độ chịu trách nhiệm pháp lý của quốc gia tàu treo cờ đối với </i>

các hoạt động IUU của tàu treo cờ quốc gia là bao nhiêu? Theo Công ước MCA, điều kiện tối thiểu để tiếp cận và khai thác tài nguyên biển trong lãnh hải thuộc chủ quyền của cá quốc gia thành viên của SRFC khơng có quy định cụ thể về trách nhiệm của quốc gia tàu treo cờ, và do đó nó chỉ có thể xác định phạm vi trách nhiệm của quốc gia tàu treo cờ trên cơ sở các quy tắc chung của Luật Quốc tế. ITLOS đưa ra quan điểm trong vùng đặc quyền kinh tế, trách nhiệm chính trong việc thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế và loại bỏ hành vi IUU là thuộc về quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển có quyền thơng qua các luật và quy định cần thiết, bao gồm các thủ tục để bảo tồn và quản lý các tài nguyên sống trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Tuy nhiên, điều này khơng làm giảm nghĩa vụ của các quốc gia khác trong việc chống lại hành vi IUU, trách nhiệm của quốc gia tàu treo cờ phát sinh từ việc không tuân thủ các nghĩa vụ “kiểm tra đầy đủ” liên quan đến các hoạt động hành vi IUU được thực hiện bởi các tàu treo cờ của nó trong các vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia thành viên của SRFC.

<i>Thứ hai, các nghĩa vụ cần thực hiện của quốc gia tàu treo cờ trong trường hợp </i>

hoạt động IUU diễn ra trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác. ITLOS nêu rõ quốc gia ven biển có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa IUU; đồng thời có quyền áp dụng các luật và quy định cần thiết để bảo tồn và quản lý nguồn tài nguyên sinh vật biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Đối với quốc gia tàu

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

34

treo cờ, ITLOS khẳng định, quốc gia có nghĩa vụ đảm bảo rằng tàu treo cờ quốc gia không tiến hành hoạt động IUU hoặc liên quan tới IUU trong vùng đặc quyền kinh tế của các thành viên SRFC.

<i>Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc đảm bảo quản lý </i>

bền vững nguồn tài nguyên cá, đặc biệt là cá ngừ. Quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc đảm bảo quản lý bền vững nguồn tài nguyên cá bao gồm: ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được; dựa vào các số liệu khoa học đáng tin cậy nhất, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức; duy trì hoặc khơi phục trữ lượng cá ở mức có thể tạo ra năng suất bền vững tối đa; xem xét hiệu quả của các biện pháp đối với các loài cá liên quan và phụ thuộc; trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức tiểu khu vực hay khu vực, thỏa thuận về các biện pháp cần thiết nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá<small>39</small>. Trên cơ sở nghĩa vụ chung đã được UNCLOS quy định, ITLOS giải thích các nghĩa vụ của thành viên SRFC là hợp tác trực tiếp hoặc thông qua SRFC để đảm bảo bảo tồn và thúc đẩy mục tiêu sử dụng tối ưu các lồi cá, trong đó có cá ngừ. Nền tảng khoa học là quan trọng để xây dựng, áp dựng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn đánh bắt IUU.

<i>Thứ tư, nếu tàu thuyền đã được quốc gia tàu mang cờ hoặc tổ chức quốc tế cấp </i>

giấy phép khai thác thủy sản theo điều ước quốc tế thì quốc gia hoặc tổ chức quốc tế đó phải chịu trách nhiệm nếu tàu thuyền vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển. Vì vậy vấn đề là giới hạn ở các quốc gia và tổ chức quốc tế đã tham gia các thỏa thuận tiếp cận nghề cá với các bên tham gia Công ước MCA. ITLOS chỉ công nhận Liên minh Châu Âu (EU) là một cơ quan quốc tế khi được các quốc gia thành viên ủy quyền để bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên sinh vật biển. ITLOS cho rằng, trách nhiệm pháp lý của tổ chức quốc tế đối với hành vi vi phạm pháp luật quốc gia ven biển của tàu cá treo cờ quốc gia thành viên phụ thuộc vào thỏa thuận giữa tổ chức quốc tế với các quốc gia liên quan. Tổ chức quốc tế cũng có trách nhiệm đảm bảo rằng các tàu treo cờ quốc gia là thành viên tổ chức phải tuân thủ pháp luật và quy định của quốc gia ven biển là thành viên của SRFC và không tham gia vào hoạt động IUU.

Mặc dù không liên quan trực tiếp đến IUU, một số quyết định của Tòa án Cơng lý Quốc tế (ICJ) và Tịa án Luật Biển (ITLOS) cũng đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia đối với việc phát triển, quản lý và bảo tồn tài nguyên sinh vật biển nói chung. . ,

<small> </small>

<small>39 Điều 61 và Điều 63 UNCLOS 1982 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

35

hoặc hành vi liên quan đến IUU trong các trường hợp do khu vực tài phán xử lý. Tiêu biểu là Virginia G năm 2014, Panama đã đệ đơn kiện Guinea-Bissau trước ITLOS, cáo buộc rằng Guinea-Bissau đã bắt giữ trái phép một tàu chở dầu treo cờ Panama đang được tiếp nhiên liệu. Trong quyết định cuối cùng của mình, ITLOS cho biết, "Việc Panama bắt giữ một tàu treo cờ Guinea-Bissau không vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, vì nó đang 'tiếp tay' cho các hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp của nước này." Tàu nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của Guinea-Bissau. Nhưng theo ITLOS, việc tịch thu con tàu và toàn bộ số dầu trên tàu là quá cần thiết để xử phạt các tàu vi phạm theo Điều 73 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Chốt lại, IUU ảnh hưởng khơng ít đến lợi ích chung của cộng đồng quốc tế cũng như lợi ích riêng của quốc gia ven biển đối với các nguồn tài nguyên sinh vật thuộc vùng biển chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia, tương tự như trên biển quốc tế. Ở cấp độ toàn cầu, khu vực và cả ở mỗi quốc gia, dần dần đã định hình được cơ chế ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ IUU. Đồng thời, các nguồn “luật mềm” hoặc các quy định mang tính khuyến nghị cho phép các chủ thể có quyền thỏa thuận để lựa chọn cách giải quyết phù hợp, pháp luật quốc tế cịn chứa đựng các quy phạm có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể khi tham gia quản lý, khai thác, thông báo, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

36

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>

Với nội dung và phạm vi của Chương 1 là tổng quan về đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU) theo cách tiếp cận của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu và làm rõ các vấn đề sau:

<i>Thứ nhất, nghiên cứu khái niệm và ý nghĩa của IUU, theo pháp luật quốc tế </i>

thì khái niệm IUU được sử dụng rộng rãi nhất theo văn kiện của FAO trong Chương trình hành động quốc tế để ngăn ngừa, chấm dứt và loại bỏ hành vi IUU: gồm 3 hành vi là đánh bắt cá bất hợp pháp (Illegal Fishing), đánh bắt cá không thông báo (Unreported Fishing) và đánh bắt cá không theo quy định (Unregulated Fishing). Các hành động được cho là vi phạm của 3 nhóm hành vi này cũng được trình bày liệt kê trong văn kiện. Tại Nghị định 26/2019/NĐ - CP ngày 08/03/2019 cũng đưa ra bộ định nghĩa chung cho 03 hành vi cấu thành nên IUU Fishing giống như các tổ chức quốc tế trên toàn cầu, gồm các hành vi: (i) khai thác thuỷ sản bất hợp pháp; (ii) khai thác thuỷ sản không báo cáo và (iii) khai thác thuỷ sản không theo quy định lần lượt tại các khoản 13, 14, 15 của Nghị định này. Theo đó, việc chống đánh bắt cá IUU là một mục tiêu bền vững mà Việt Nam hướng tới sau khi ban hành Luật thủy sản 2017. Ngồi ra, nhóm tác giả cịn đề cập tới ý nghĩa về hoạt động chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định (IUU), trình bày được các lợi ích do việc đánh bắt cá mang lại là sự phát triển về kinh tế đất nước, hệ sinh thái trên toàn cầu và chủ quyền của quốc gia và những tác hại của IUU nên việc thực hiện các biện pháp ngăn ngừa việc đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định là cấp bách và quan trọng.

<i>Thứ hai, để hiểu rõ hơn về hoạt động chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, </i>

không thông báo và khơng theo quy định (IUU) nhóm đã đi tới tìm hiểu lịch sử hình thành hoạt động này. Theo đó, chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, khơng thông báo và không theo quy định đã được đặt nền móng sớm từ năm 1982 trong UNCLOS thơng qua các quy định về bảo tồn tài nguyên biển. Nối tiếp là các văn kiện, chương trình hợp tác quốc tế không ngừng được đưa ra mỗi năm và với sự tham gia của nhiều quốc gia, lần lượt các công ước, điều khoản về chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông báo và không theo quy định được đề cập nhiều hơn và có tính áp dụng rộng rãi trên thế giới trong ngành thủy sản để đảm bảo sự hiệu quả, phối hợp. Trong những năm trở lại đây, việc chống khai thác IUU luôn là vấn đề nổi trội của toàn cầu, đi bên cạnh các vấn đề về mơi trường, khí hậu,..địi hỏi sự hợp tác và đấu tranh của toàn nhân loại.

<i>Thứ ba, để làm rõ về vấn đề chống lại đánh bắt cá bất hợp pháp, không thông </i>

</div>

×