Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.39 KB, 110 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>
<b>THUỘC NHĨM NGÀNH: KHOA HỌC CƠ BẢN </b>
<b>Họ và tên tác giả Mã số sinh viên Năm </b>
Trưởng nhóm: Trần Thị Kim Thoa
<b>Mã số cơng trình: ………</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>
<b>THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC CƠ BẢN </b>
<b>Họ và tên tác giả Mã số sinh viên Năm </b>
Trưởng nhóm: Trần Thị Kim Thoa
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>
4G, 5G Công nghệ truyền thông không dây thứ tư, thứ năm generation, fifth-generation)
(fourth-APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Pacific Economic Cooperation)
(Asia-ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South East Asian Nations)
ASEAN/AIPA Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN (The ASEAN Parliamentary Assembly)
Inter-ASEM Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (The Asia-Europe Meeting) CLMV Hội nghị cấp cao CLMV (Hội nghị cấp cao Campuchia - Lào -
Myanmar - Việt Nam)
Cookie poisoning Một quá trình mà một người không hợp pháp (unauthorized) thay đổi nội dung trong tập tin cookie của người dùng.
CPI Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index)
CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership)
EVFTA Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh Châu Âu EU FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
FED Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System) FTA Hiệp định thương mại tự do (Free trade agreement) GDP Tổng sản phẩm nội địa (Gross domestic product) GEPU Chỉ số bất ổn chính sách kinh tế tồn cầu
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) I-O Cấu trúc liên ngành Input - output
IPA Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (Investment Protection Agreement) KH&CN Khoa học và công nghệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">M&A Mua bán và sáp nhập (Mergers and Acquisitions)
ODA Hỗ trợ Phát triển Chính thức (Official Development Assistance) PMI Viện Quản lý Dự án (Project Management Institute)
QR code Mã phản hồi nhanh (Quick response code)
RCEP Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership)
SCMP Tờ Bưu điện Hoa nam Buổi sáng (South China Morning Post) SQL Injection Một kỹ thuật lợi dụng những lỗ hổng về câu truy vấn của các
VEFTA Sàn thương mại điện tử doanh nghiệp Việt Nam – EU
VIDEM Viện Khoa học quản trị doanh nghiệp và kinh tế số Việt Nam VKFTA Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VietNam -
Korea Free Trade Agreement)
WHO Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)
XSS Dạng tấn công mà hacker chèn trực tiếp các mã độc vào cơ sở dữ liệu của website
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>
<b>MỤC LỤC </b>
<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1 </b>
<b>1. Tính cấp thiết của đề tài ... 1 </b>
<b>2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu ... 2 </b>
<b>3. Mục tiêu của đề tài ... 4 </b>
<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu ... 5 </b>
4.1. Cách tiếp cận ... 5
4.2. Phương pháp nghiên cứu ... 5
<b>5. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu ... 7 </b>
<b>6. Bố cục đề tài ... 7 </b>
<b>CHƯƠNG 1 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT QUỐC TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH CỦA THỜI ĐẠI ĐỂ PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ SAU ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN NAY... 8 </b>
<b>1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế ... 8 </b>
1.1.1. Cơ sở lý luận ... 8
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ... 13
<b>1.2. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế ... 20 </b>
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế ... 20
1.2.2. Vai trị của đoàn kết quốc tế ... 21
1.2.3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức ... 23
1.2.4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế ... 27
<b>1.3. Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại để phục hồi và phát triển nền kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay ... 30 </b>
1.3.1. Ý nghĩa trong việc phục hồi nền kinh tế ... 31
1.3.2. Ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế ... 33
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ... 35 </b>
<b>CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT QUỐC TẾ TRONG VIỆC KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH THỜI ĐẠI ĐỂ PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ SAU ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN NAY ... 36 </b>
<b>2.1. Khái quát tình hình kinh tế từ sau đại dịch Covid-19 đến nay ... 36 </b>
2.1.1. Khái quát chung về nền kinh tế trên thế giới sau đại dịch ... 36
2.1.2. Bối cảnh kinh tế ở Việt Nam ... 41
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">2.1.3. Thời cơ và thách thức của nước ta... 47
<b>2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế vào các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ... 50 </b>
2.2.1. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phục hồi nền kinh tế ... 50
2.2.2. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát nền kinh tế ... 60
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 76 </b>
<b>CHƯƠNG 3 – MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ ĐỐI CỚI VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT QUỐC TẾ TRONG VIỆC KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH THỜI ĐẠI ĐỂ PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ SAU ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN NAY ... 77 </b>
<b>3.1. Một số đánh giá đối với việc vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để phục hồi và phát triển nền kinh tế ở việt nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay ... 77 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và kiến quốc thành công. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là một trong những quan điểm về phương pháp tập hợp, tổ chức, huấn luyện, sử dụng lực lượng cách mạng tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Mặc dù điều kiện trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, song tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về đồn kết quốc tế nói riêng vẫn có ý nghĩa lớn lao. Bằng những minh chứng lịch sử chúng ta có thể thấy việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bước đi đúng đắn xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó đã để lại một bài học vơ cùng quý giá cho quá trình hình thành và phát triển của đất nước ta cho đến thời điểm hiện nay.
Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta là phấn đấu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; kinh tế phát triển nhanh, năng động, vững vàng. Xa hơn thế nữa là hướng đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Mà muốn xây dựng nền kinh tế phát triển vững mạnh phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế. Vì vậy, nước ta cần phát huy nội lực, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, phát triển lực lượng doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng mạnh mẽ hơn, bên cạnh đó việc huy động sức mạnh tổng hợp của thế giới, nâng cao hiệu quả và lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại cũng là một trong những yếu tố quan trọng.
Trong giai đoạn đất nước đang có những bước biến chuyển nhanh chóng và phức tạp như hiện nay, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, khó khăn, thách thức và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì thế địi hỏi phải rút kết ra những bài học trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để việc vận dụng mang lại hiệu quả cao nhất để có thể đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra. Sự tranh thủ sức mạnh thời đại, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế giúp nước ta huy động tối đa động lực thúc đẩy công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 xuất hiện và kéo dài đã tác động rất lớn đến các hoạt động thương mại và đầu tư của các nước trên thế giới. Giãn cách xã hội ở nhiều quốc gia gây ra suy giảm giá trị xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, kèm theo đó là thu nhập giảm, tiêu dùng giảm và hoạt động xuất, nhập khẩu bị đình trệ. Cấu trúc sản xuất tồn cầu mang
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">tính tập trung cao độ, một số trung tâm lớn trên thế giới cung ứng đầu vào, đóng vai trị quan trọng trong chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… chịu tác động nặng nề từ đại dịch Covid-19. Kết quả là cung, cầu hàng hóa trên phạm vi tồn cầu cũng ngưng trệ và khối lượng thương mại hàng hóa thế giới sụt giảm đáng kể. Việt Nam có độ mở cửa của nền kinh tế khá lớn và có vị trí địa lý giáp với Trung Quốc nên dịch bệnh sẽ ảnh hưởng toàn diện đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt Nam, tới tâm lý người dân và hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại, du lịch, qua đó tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Để ứng phó và khắc phục những ảnh hưởng của đại dịch đến nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng thì cần có sự phối hợp, giúp đỡ, đoàn kết lẫn nhau giữa các quốc gia để có thể phục hồi và ổn định phát triển kinh tế; từ đó, vai trị của đồn kết quốc tế càng được nâng cao.
Nhận thấy tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, cũng như muốn đúc kết ra những bài học kinh nghiệm trong
<i>tương lai, nhóm tác giả đã chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phục hồi và phát triển kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay” để nghiên cứu. </i>
<b>2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu </b>
Qua tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm tác giả đã được tiếp cận khá nhiều tài liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh, tiêu biểu có thể kể đến:
<i>Nguyễn Dy Niên (2008), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc </i>
gia. Thơng qua những phân tích và hệ thống hố những nội dung chủ yếu của tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, tác giả đã cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh ln thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế, tạo nên sức mạnh giữa các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tài liệu này giới hạn vào những vấn đề mang tính thực tiễn cấp thiết, nhằm phục vụ cho việc triển khai thắng lợi đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta và trong bối cảnh tình hình quốc tế.
<i>Đặng Xuân Kỳ và các tác giả khác (2016), Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb. </i>
Chính trị quốc gia Sự Thật, Tập 1. Tài liệu này nói chung là tồn bộ những sự kiện có ý nghĩa trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sưu tầm được, qua chọn lọc, xác minh, bao quát các lĩnh vực như: Trước tác, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, những hoạt động và những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống riêng của Người. Mỗi sự kiện có nhiều tầng ý nghĩa, từ ý nghĩa về lịch sử cho đến ý nghĩa của nó đối với thời đại hiện nay.
<i>Hà Thị Hương (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế và sự vận dụng </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>trong quan hệ đối ngoại của Đảng ta hiện nay, Trường Đại học Tây Bắc. Tài liệu này </i>
khái quát lại những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế, làm nổi bật những quan điểm chiến lược về đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh; phân tích sự vận dụng tư tưởng đó trong quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
<i>Phan Ngọc Liên, Trịnh Vương Hồng (2000), Hồ Chí Minh - người chiến sĩ cách mạng quốc tế, Nxb. Công an Nhân dân. Trong cuộc đời hoạt động vĩ đại hơn nửa thế kỷ </i>
của mình, Hồ Chí Minh đã đặt chân tới nhiều xứ sở của hầu khắp năm châu bốn biển, đã viết nhiều về các nước từ Châu Á, Châu Âu qua Châu Phi và tới Châu Mỹ, đã tham gia hoạt động trong nhiều tổ chức quốc tế lớn, có quan hệ rộng rãi từ những người lao động bình thường đến các nhà hoạt động lớn về chính trị và văn hố. Chính người đã đưa cách mạng Việt Nam ra ánh sáng nhờ lịng u nước chân chính với tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung của Bác trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thông qua những giá trị mà sách mang lại, nhóm tác giả nhận thấy những giá trị và ý nghĩa to lớn của Người đã mang lại cho đất nước cũng như biết được sự vận dụng tài tình của Người trong cách kết hợp những phong trào quốc tế với cách mạng dân tộc.
<i>Mạch Quang Thắng, Bùi Đình Phong, Chu Đức Tính (2014), UNESCO với sự tơn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb. </i>
Chính trị quốc gia Sự thật. Với sự thừa nhận của những nhà chính trị lỗi lạc từ bản thân lịch sử với một con người đã đóng góp lớn lao cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc - người chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh, nhóm tác giả nhận thấy những sự thừa nhận ấy chính là tiền đề để khai thác và triển khai trong đề tài nghiên cứu. Chính những lời nhận định này về Người là nền tảng, kim chỉ nam cho những lý luận đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh nói chung và sự nghiệp cách mạng dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế nói riêng.
<i>Lê Văn Yên (2008), Hồ Chí Minh với chiến lược đồn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia. Bài viết phân tích tư tưởng của Hồ Chí </i>
Minh về đồn kết quốc tế. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết khẳng định Hồ Chí Minh là người chiến sĩ quốc tế kiên cường, Người đã gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, cống hiến cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, đặt nền tảng vững chắc cho tình đoàn kết, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc. Thơng qua bài viết, nhóm tác giả nhận thấy bài viết thể hiện khá rõ khái niệm cũng như tinh thần của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế, còn áp dụng các cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ cũng như trong việc hợp tác quốc tế với các nước Đông Dương. Tài liệu khá đầy đủ, cụ thể, rõ ràng về việc vận dụng tư tưởng vào cuộc sống, thể hiện rõ ràng tư tưởng, khách quan, logic, mang giá trị tham khảo cao cho nhóm tác giả.
Vũ Thị Kim Yến (2021), “Sự hình thành tư tưởng đồn kết quốc tế trong q trình
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Báo Quân đội Nhân dân. Bài báo nhấn </i>
mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết quốc tế. Người chủ trương tăng cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, giúp bạn là tự giúp mình. Vì thế, với tình hình thực tại của xã hội và đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới.
Hà Huy Thơng (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế, một trong
<i>những di sản vô giá hiện nay”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài báo đã dẫn </i>
chứng những sự kiện lịch sử cụ thể để làm rõ đồn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện qua những nội dung sau: Đoàn kết trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và đồn kết trong đại gia đình các nước xã hội chủ nghĩa anh em; đoàn kết đặc biệt giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia; tình đồn kết giữa Việt Nam với nhân dân tiến bộ thế giới. Đồng thời cũng nêu lên những giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế mang lại cho đất nước ta từ xưa đến nay và cơ sở lý luận trọng yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại, mở rộng quan hệ quốc tế trong thời kỳ mới. Thơng qua bài báo nhóm tác giả nhìn nhận được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một trong những di sản vơ giá, từ đó nhằm vận dụng vào bài nghiên cứu của mình để có thể chứng minh thuyết phục hơn, kế thừa và phát huy những hướng đi đúng đắn, vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay.
<b>3. Mục tiêu của đề tài </b>
<i>Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phục hồi và phát triển nền kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay”, nhóm tác giả tập trung </i>
nghiên cứu những nội dung sau:
<i>Một là, phân tích sự tồn tại, phát triển của các nguyên tắc đại đoàn kết nói chung </i>
hay đồn kết quốc tế nói riêng trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước trên nền tảng nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc vận dụng để kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trên nhiều lĩnh vực và phương diện khác nhau như kinh tế, chính trị, an ninh quốc phịng, đời sống xã hội, giáo dục, y tế, an sinh xã hội,… phân tích về cơng cuộc phục hồi hay phát triển nền kinh tế của Việt Nam, cần có sự kết hợp giữa sức mạnh của dân tộc cùng với sức mạnh, sự phát triển nhanh chóng của thời đại để khai thác được những tiềm năng kinh tế vốn có. Mà nền móng để kết hợp hai nguồn sức mạnh trên chính là đồn kết quốc tế, nhất là khi nước ta và toàn thế giới
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">vừa trải qua thời kỳ khủng hoảng do đại dịch Covid-19.
<i>Hai là, làm rõ được thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc </i>
tế trong công cuộc phục hồi và phát triển nền kinh tế Việt Nam nhất là giai đoạn sau đại Covid-19. Có thể thấy, tình hình kinh tế đang có sự biến động mạnh với nhiều thời cơ và thách thức. Thông quan phân tích những ảnh hưởng của việc hợp tác quốc tế của nước ta với các nước trên thế giới, nhóm tác giả đi sâu tìm ra mối quan hệ then chốt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết quốc tế với cơng cuộc xây dựng, ổn định phục hồi nền kinh tế sau đại dịch. Đây là sự kết hợp nhịp nhàng với hơi thở của thời đại nhằm tận dụng mọi nguồn lực để phục hồi và phát triển nền kinh tế Việt Nam.
<i>Ba là, từ những cơ sở lý luận và thực tiễn phân tích đưa ra được cái nhìn tổng quan, </i>
tồn diện về các vấn đề. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm từ cơng tác bình ổn nền kinh tế của nhà nước trong những ngày tháng phịng chống dịch bệnh trên cơ sở đó vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết quốc tế. Bằng việc đánh giá ưu nhược điểm của các vấn đề, nhóm tác giả đưa ra những đề xuất kiện nghị phù hợp, nhằm về các phương án được đề ra, bổ sung thêm nhiều kiến nghị mới nhằm khắc phục bất cập cịn tồn tại trong cơng cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
<i>Bốn là, nhóm tác giả mong rằng, sau khi đề tài này được thơng qua, có thể trở </i>
thành một nguồn tài liệu tham khảo đáng tin cậy làm tiền đề cho các cơng trình nghiên cứu khác sau này.
<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu </b>
<i><b>4.1. Cách tiếp cận </b></i>
<i>Việc nghiên cứu đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để phục hồi và phát triển kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid- 19 đến nay’’ nhóm tác giả chủ yếu dựa trên các cơng </i>
trình nghiên cứu khoa học, luận án của các tiến sĩ, thạc sĩ nghiên cứu các đề tài đoàn kết dân tộc nói chung và đồn kết quốc tế nói riêng liên quan mật thiết đến tư tưởng Hồ Chí Minh và hoạt động của Người. Đặc biệt là “Hồ Chí Minh Tồn tập’’, “Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử’’,… Bên cạnh đó cịn kết hợp với các bài báo, các bài luận phân tích, các bài nghiên cứu từ diễn đàn học thuật từ nhiều tác giả hàng đầu về chủ đề đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh toàn dân và sức mạnh thời đại. Từ đó chắt lọc, đúc kết những thơng tin cần thiết và phù hợp nhất với đề tài để tiến hành nghiên cứu.
<i><b>4.2. Phương pháp nghiên cứu </b></i>
<i>Phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết: Nhóm tác giả sử dụng phương pháp </i>
này nhằm tổng hợp các vấn đề lý luận về đoàn kết quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thơng qua việc tìm kiếm, thu thập tài liệu, các nội dung lý luận khác nhau, nhóm tác giả sẽ phân tích, lập luận, tách chúng ra từng bộ phận riêng lẻ để tìm hiểu chuyên sâu về đối tượng cần nghiên cứu. Từ đó, tổng hợp những kết quả đã phân tích tạo thành một hệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">thống lý thuyết đầy đủ và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương I.
<i>Phương pháp luận duy vật lịch sử: Nhóm sử dụng phương pháp này chủ yếu trong </i>
chương I, nhằm mục đích nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội dẫn đến việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự thay thế các hình thái kinh tế – xã hội thấp đến trình độ cao hơn. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp này nhằm đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của đối tượng nghiên cứu, để phát hiện ra bản chất và quy luật của đối tượng. Qua đó, nhóm tác giả tập trung khai thác các vấn đề đoàn kết quốc tế và sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại biểu hiện qua chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước. Từ đó làm rõ được ý nghĩa và tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế.
<i>Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm: Nhóm tác giả nghiên cứu, xem xét </i>
những thành quả thực tiễn trong quá khứ về các vấn đề được giải quyết liên quan đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước ở Việt Nam, nghiên cứu hướng đi để rút ra kết luận cho thực tiễn và khoa học. Phương pháp này nhóm tác giải sử dụng xuyên suốt cả đề tài nhằm tăng tính mạch lạc,...
<i>Phương pháp tư duy, suy luận logic: Từ kết quả điều tra, khảo sát, qua quá trình </i>
phân tích về đối tượng, cần kết hợp tư duy, nhìn nhận vấn đề và hệ thống vấn đề một cách khoa học để tìm ra các phương án phù hợp nhất để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Từ việc thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra, nhóm nghiên cứu tóm lại vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế để vận dụng sâu sắc nhất tư tưởng này vào đề tài nghiên cứu.
<i>Phương pháp so sánh: Nhóm tác giả sử dụng phương pháp này vừa tập trung </i>
nghiên cứu, xem xét những thành quả thực tiễn trong quá khứ về kết quả của quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế vừa tổng hợp, so sánh tìm ra được mối quan hệ then chốt của đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế ở Việt Nam và của các quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó đánh giá ưu – nhược điểm từ đó có thể đưa ra những đánh giá khách quan nhất vấn đề cần nghiên cứu.
<i>Phương pháp luận duy vật biện chứng: Nhằm thấy được sự hình thành, phát triển, </i>
chuyển hóa khơng ngừng của nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong tiến trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong nội dung về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong việc xây dựng và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả sẽ chỉ ra những tư
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế được vận dụng sẽ có trạng thái vừa tách rời, vừa có mối ràng buộc, tương hỗ lẫn nhau. Đồng thời, nhóm sẽ kế thừa những nội dung có giá trị và loại bỏ những yếu tố khơng cịn phù hợp trong tiến trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế của những tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
<b>5. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu </b>
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế. Nhóm tác giả tập trung vào 3 nội dung chính sau đây: (i) Những nội dung lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; (ii) Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong phục hồi và phát triển nền kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch; (iii) Đưa ra những đánh giá và kiến nghị về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta giai đoạn hội nhập quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài xoay quanh tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế dưới nền tảng lý luận của Triết học Mác - Lênin và vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phục hồi và phát triển kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng sẽ tìm hiểu những vấn đề và các bài nghiên cứu liên quan để đánh giá độ hiệu quả của việc thực thi quan điểm này trong thực tế.
- Chương 2: Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phục hồi và phát triển kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay;
- Chương 3: Một số đánh giá và kiến nghị khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để phục hồi và phát triển kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><b>CHƯƠNG 1 </b>
<b>TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH CỦA THỜI ĐẠI ĐỂ PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ </b>
<b>SAU ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN NAY </b>
<b>1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế </b>
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và phát triển từng bước từng ngày đến nay đã trải qua gần một thế kỷ và giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi là đó là Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn, mà cốt lõi đó là tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, nhờ sự đồng lịng quyết tâm thực hiện được chính sách sáng suốt đó mà chúng ta đã được các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới đồng tình ủng hộ và những thắng lợi ấy cũng đã góp phần tăng cường thêm sức mạnh đoàn kết quốc tế của các lực lượng cách mạng trên thế giới. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng về đồn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, các thời kỳ phát triển của Đảng ta và cách mạng thế giới. Từ đó, đồn kết quốc tế thực sự đã trở thành đường lối chiến lược cách mạng của Hồ Chí Minh, và Đảng Cộng sản Việt Nam.
<i><b>1.1.1. Cơ sở lý luận </b></i>
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta<small>1</small>. Khái niệm trên đã thể hiện rõ nội hàm và cơ sở hình thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin là giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh cịn bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Là một phần trong hệ thống lý luận chung, đại đoàn kết dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết quốc tế cũng được hình thành từ những cơ sở:
<i><b>Một là, truyền thống văn hóa Việt Nam </b></i>
Đúc kết từ những hoạt động đấu tranh của thế hệ cha ông ta, công cuộc dựng nước <small>1</small><i><small> Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Tr. </small></i>
<small>88. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">và giữ nước của dân tộc, cũng như khát khao nhận được sự ủng hộ của nhân dân cùng chung tay chống lại những luận điệu sai trái của kẻ thù, từ đó ơng cha ta đã khơng ngừng nâng cao ngọn cờ chính nghĩa trong các cuộc đấu tranh ở trong nước và được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới. Nguyễn Trãi là một trong những anh hùng dân tộc
<i>tiêu biểu nhận thấy phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người’’, nên có thể “lấy yếu chống mạnh’’, “lấy ít địch nhiều’’, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn’’, “lấy chí nhân thay cường bạo’’. Ơng khẳng định rõ đường lối của nước Đại Việt sau khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh: “Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước; Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh; Sửa hịa hiếu cho hai nước; Tắt mn đời chiến tranh’’</i><small>2</small>. Tiêu biểu cho chiến thuật vừa đánh vừa đàm có thể kể đến là những chính sách từ xa xưa đã thể hiện sâu sắc văn hóa ứng xử
<i>nhân văn, nghệ thuật ngoại giao “kiên quyết, kiên trì’’, “biết người, biết ta’’, “biết thời, biết thế’’, “cương nhu kết hợp’’, “tiến lúc mạnh, thoái lúc yếu’’, “khoan hịa, linh hoạt’’ </i>
của cha ơng ta trong lịch sử.
Đồn kết quốc tế Việt Nam ln hướng đến vì sự phát triển phồn vinh của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các hoạt động ngoại giao với các anh em trên thế giới không chỉ phục vụ mục đích chính trị, quân sự, đấu tranh giữ vững độc lập, tự chủ của dân tộc, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ đất nước, bảo toàn thể diện quốc gia, kiến tạo hịa bình cho dân tộc, mà cịn góp phần mở rộng các mối quan hệ giao lưu thương mại, tiếp nhận những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại. Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng cao tinh thần hợp tác quốc tế ở Việt Nam, nâng tầm bản sắc ngoại giao Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng cho tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam, là ngọn hải đăng và kim chỉ nam để Đảng ta dẫn dắt Cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, đồng thời đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc, hội nhập toàn diện, sâu rộng trong thời kỳ đổi mới, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để phục vụ phát triển đất nước trong bối cảnh thế giới bất ổn và biến động không ngừng. Để thực hiện được sứ mệnh đó, ngoại giao đã và đang phát huy những giá trị truyền thống và hiện đại của bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, hết lịng, hết sức đóng góp cho sự phát triển và trường tồn của dân tộc<small>3</small>.
<i><b>Hai là, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa nhân loại ở cả phương Đông và phương Tây </b></i>
Tinh hoa văn hóa nhân loại là những kiến thức, kinh nghiệm, bản sắc văn hóa tốt đẹp mà toàn bộ nhân loại đã cùng nhau tạo dựng và gìn giữ qua hàng nghìn năm tiến hóa và phát triển. Tinh hoa văn hóa nhân loại là một phạm trù rất rộng và mang nhiều ý <small>2</small><i><small> Hồng Khơi (2001), Nguyễn Trãi tồn tập, Nxb. Văn hóa thơng tin, Tr. 160. </small></i>
<small>3</small><i><small> Trần Chí Trung (2021), “Bản sắc ngoại giao Việt Nam: Một vài suy ngẫm nhìn từ lịch sử dân tộc”, Tạp chí Cộng </small></i>
<i><small>sản, truy cập tại </small></i>
<small> truy cập ngày 17/3/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">nghĩa nghĩa sâu xa. Đối với Hồ Chí Minh, tinh hoa văn hóa nhân loại là những tư tưởng văn minh tiến bộ, cái hay, cái lạ của cả Phương Đông và Phương Tây được tiếp thu một cách có chọn lọc, là hình thức học tập chủ động giúp Người chắt lọc những gì tinh túy nhất nhằm tìm ra con đường phù hợp nhất cho dân tộc của mình thốt khỏi ách nơ lệ.
<i>Chính Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: “Văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hố Đơng phương và Tây phương chung đúc lại’’</i><small>4</small><i>. Và Người đã nhắc nhở các nhà văn hố Việt Nam: “Tây phương hay Đơng phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và nay, trau dồi cho văn hố Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”. Mặt khác, Người cũng căn dặn: “Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà khơng trả, nghĩa là phải biết học tập một cách sáng tạo để có những đóng góp xứng đáng vào kho tàng văn hố của nhân loại’’</i><small>5</small><i>. Đó là ngun tắc phương pháp luận nhất quán của Hồ Chí Minh trên con </i>
đường tiếp biến các giá trị văn hố của lồi người. Hồ Chí Minh được thừa nhận là biểu tượng sáng ngời của sự tích hợp văn hố Đơng – Tây. Trước hết, đó là kết quả của một đời không ngừng học tập và vận dụng sáng tạo các giá trị văn hóa, với bản lĩnh của mình, Người đã phát huy tốt bản sắc của văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu và biến hóa những giá trị của lồi người, làm phong phú vốn văn hố của mình mà vẫn giữ được tinh thần thuần túy Việt Nam<small>6</small>.
Năm 1911, Hồ Chí Minh đã quyết định sang Pháp để tìm con đường cứu nước mới cho Việt Nam. Người tiếp thu văn hóa phương Tây, đặc biệt, Người đánh giá cao những thành tựu to lớn mà cách mạng tư sản đem lại cho nhân loại trên con đường của tự do dân chủ và văn hóa. Người quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Gần một phần ba thế kỷ bôn ba nước ngồi, trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam vì mục đích khơng chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà cịn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp cách mạng của các dân tộc khác trên thế giới. Ngoài ra, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cho nên dân tộc Việt Nam là một thành viên của cộng
<small>4</small><i><small> Nguyễn Ngọc Quyến, Sự phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Triết học số 11/2004. </small></i>
<small>5</small><i><small> Song Thành, “Con đường tiếp biến văn hoá nhân loại của Hồ Chí Minh - giá trị và bài học”, Báo điện tử Đảng </small></i>
<i><small>Cộng sản Việt Nam, truy cập tại </small></i>
<small> truy cập ngày 20/03/2022. </small>
<small>minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/con-duong-tiep-bien-van-hoa-nhan-loai-cua-ho-chi-minh-gia-tri-va-bai-hoc-6</small><i><small> Trần Thị Kim Thoa (Chủ nhiệm) (2022), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong đấu </small></i>
<i><small>tranh chống dịch Covid-19 ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật </small></i>
<small>Tp. Hồ Chí Minh, Tr. 15. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">đồng nhân loại, chính vậy phải học tập từ thế giới nhân loại để tự mình phát triển, chứ khơng đóng cửa, khơng hẹp hịi, khơng co cụm mình lại. Vì thế, Người có tư tưởng hội nhập từ rất sớm, đây cũng là chủ đích của sự kết hợp Đơng – Tây. Cách mạng Việt Nam phải có sự giúp đỡ của thế giới mới thành công<small>7</small>.
<i><b>Ba là, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết quốc tế vơ sản </b></i>
<i>Bài học “đồn kết” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói nhiều, viết nhiều, trong đó lời dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. được </i>
Người nói tại Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II, ngày 25 tháng 4
<i>năm 1961. Tại hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Năm 1951, cuộc kháng chiến của chúng ta tuy gặp những điều kiện cực kỳ gay go, nhưng trong cuộc Đại hội hợp nhất Việt Minh - Liên Việt, tôi có nói: Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Những thắng lợi chúng ta giành được trong mấy năm qua chứng thực điều đó. Ngày nay, đồng bào miền Bắc thì hăng hái thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng bào miền Nam ruột thịt thì anh dũng phấn đấu giành dân chủ tự do, vậy để kết luận, tôi xin phép nhắc lại: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”<small>8</small>. Đó chính là kết quả từ sự tổng kết thực tiễn trong quá </i>
trình tìm hiểu và lãnh đạo cách mạng, từ tiếp thu những tinh hoa trong kho tàng lý luận cách mạng vô sản thế giới. Người đã kế thừa tư tưởng về đoàn kết, phương châm chỉ đạo chiến lược hành động cách mạng của C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lê-nin.
<i>Khẩu hiệu “Vơ sản tồn thế giới liên hiệp lại”, do C.Mác và Ph. Ăng-ghen nêu </i>
lên trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848 chính là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu và hình thành luận thuyết cách mạng. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã bóc trần bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư và phát hiện ra quy luật vận động, phát triển và tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Các ông là những người đầu tiên đã nhận rõ sứ mệnh lịch sử cao cả của giai cấp công nhân là người lãnh đạo quần chúng làm cách mạng vơ sản, xóa bỏ nguồn gốc áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong lúc chủ nghĩa tư bản đang phát triển ở giai đoạn
<i>“cực thịnh”, giai cấp cơng nhân bị bóc lột đến cùng cực thì cách mạng vơ sản chỉ có thể </i>
thành cơng một khi giai cấp vô sản ở tất cả các nước phải đồng tâm, hiệp lực một lòng, liên hiệp lại với nhau. Các ơng cũng đã dự đốn cách mạng vơ sản có thể đồng thời
<i>thành cơng ở nhiều nước. Bởi vậy, khẩu hiệu nổi tiếng “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã được C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu lên như một lời kết luận trong Tuyên ngôn của </i>
Đảng Cộng sản.
<small>7</small><i><small> Vũ Kim Yến (2021), “Nguyễn Ái Quốc và hành trình tiếp thu tư tưởng, văn hóa phương tây”, Báo điện tử Quân </small></i>
<i><small>đội nhân dân, truy cập tại </small></i>
<small> truy cập ngày 17/3/2023. </small>
<small>8</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 10, Tr. 349, 350. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><i>Khẩu hiệu “Vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại”, do </i>
V.I.Lê-nin khởi xướng khi cách mạng giải phóng dân tộc chống lại ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một bộ phận không tách rời của cách mạng vô sản thế giới. Có thể nói, cống hiến to lớn về học thuyết cách mạng vô sản của V.I.Lê-nin là đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành yêu cầu cấp bách của các dân tộc bị áp bức. V.I.Lê-nin đã nghiên cứu hết sức sâu sắc các đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Người đã phát hiện ra quy luật phát triển không đều của hệ thống chủ nghĩa đế quốc. Với quy luật đó, Người đưa ra luận điểm hồn tồn mới, cách mạng vơ sản có thể giành được thắng lợi ở một số nước, thậm chí có thể ở nước tập trung những mâu thuẫn, là nơi xung yếu nhất của dây chuyền đế quốc chủ nghĩa. Rõ ràng, V.I.Lê-nin đã vận dụng và phát triển
<i>chủ nghĩa Mác một cách đúng đắn, V.I.Lê-nin đã phát hiện rằng khơng chỉ “vơ sản tồn thế giới liên hiệp lại” mà mở rộng hơn, cụ thể hơn, Người kêu gọi “vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại”. Từ học thuyết đúng đắn đó, V.I.Lê-nin đã </i>
xây dựng, ni dưỡng lực lượng cách mạng và đã trực tiếp lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại thành công rực rỡ, xây dựng nên Nhà nước Công - Nông đầu tiên trên thế giới, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nhân loại - kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thống nhất với các nhà kinh điển Mác- Lênin. Tháng 1/1923 Hồ Chí Minh đã viết: truyền đơn cổ động , hơ hào mọi người mua
<i>báo Người Le Paria. Sau khi nêu rõ mục đích của tờ báo, truyền đơn viết: “tất cả mọi người hãy đứng lên quanh lá cờ đỏ để chinh phục thế giới”… “lao động tất cả các nước đồn kết lại”. </i>
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu rất sâu sắc, tỉ mỉ các học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tìm hiểu các cuộc cách mạng ở nhiều châu lục, nhiều nước khác nhau (Mỹ, Anh, Đức, Pháp… và đặc biệt là cuộc cách mạng ở nước Nga). Năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh được xuất bản lần đầu tiên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Đây là tài liệu huấn luyện chính trị nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và phương pháp cách mạng cho các cán bộ cách mạng Việt Nam, Người
<i>viết rất ngắn gọn và vơ cùng xúc tích rằng “Cách mệnh Nga đối với cách mệnh An Nam như thế nào?”, Người tự hỏi và khẳng định: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Trước khi đưa ra luận điểm của mình, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ năm 1924 Nguyễn Ái Quốc đã lập luận rất rõ rằng “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><i>thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời kỳ mình khơng thể có được”. </i>
<i>“Đồn kết…” khơng chỉ là một khẩu hiệu mà còn là một luận thuyết cách mạng </i>
sáng tạo. Trong bài nói tại buổi khai mạc Đại hội thống nhất Việt minh - Liên Việt ngày
<i>03-3-1951, Bác đã xúc động và nói rằng “Một người đã cùng các vị đấu tranh trong bấy nhiêu năm cho khối đại đồn kết tồn dân. Hơm nay, trơng thấy rừng cây đại đồn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó có cái tương lai “trường xn bất lão. Vì vậy cho nên lịng tôi sung sướng vô cùng”. </i>
Xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam và tổng kết các cuộc cách mạng thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển và vận dụng vô cùng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện một nước châu Á lạc hậu, chưa có tên trên bản đồ thế giới, vạch ra đường lối cách mạng Việt Nam cực kỳ chuẩn xác để giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức đô hộ của thực dân, đế quốc. Đường lối và phương pháp cách mạng này không chỉ có ý nghĩa trong cách mạng giải phóng dân tộc, mà cịn có giá trị vĩnh cửu cho mọi giai đoạn, mọi cuộc cách mạng, kể cả sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay<small>9</small>.
<i><b>1.1.2. Cơ sở thực tiễn </b></i>
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành từ các cơ sở khác nhau, bên cạnh những cơ sở mang tính chất lý luận thì cơ sở thực tiễn cũng có một vai trị vơ cùng quan trọng. Nếu cơ sở lý luận mang tính nịng cốt, định hướng cho việc hình thành tư tưởng thì cơ sở thực tiễn chính là động lực, là cơ sở đánh giá và hoàn thiện những vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế. Những cơ sở ấy bao gồm:
<i><b>Một là, phong trào cách mạng Việt Nam </b></i>
Sau một thời gian dài kháng chiến không chống thực dân Pháp không ngừng nghỉ, trải qua bối cảnh lịch sử ấy chúng ta đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm quý
<i>giá. Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ đã ra “Thơng cáo về chính sách đối ngoại” khẳng định mục tiêu phấn đấu cho “nền độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn” mà tư </i>
tưởng cơ bản là thân thiện và hợp tác với tất cả các nước, từ các nước Đồng minh, các nước láng giềng, các dân tộc đang đấu tranh giải phóng cho đến nhân dân Pháp, kể cả kiều dân Pháp đều được bảo đảm sinh mệnh và tài sản nếu họ tơn trọng chủ quyền của Việt Nam. Tình đồn kết quốc tế cao cả theo Người còn được thể hiện đậm nét trong mối tình đồn kết keo sơn gắn bó, đặc biệt giữa ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia. Ba nước trên bán đảo Đơng Dương có đồn kết chặt chẽ thì mới đánh thắng kẻ thù xâm
<i>lược, Người khẳng định: “Sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân ba nước Việt Nam, </i>
<small>9</small><i><small> Bùi Ngọc Thanh (2010), “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng tạo lý luận cách mạng”, Tạp chí của Ban Tuyên </small></i>
<i><small>giáo trung ương, </small></i>
<small>truy cập ngày 17/3/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><i>Campuchia và Lào đoàn kết chặt chẽ nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”<small>10</small></i>.
<i>Tiếp đó, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cũng nhận định rằng: “Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tương quan lực lượng cụ thể ở Việt Nam và ở Đông - Nam Á. Sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong trào độc lập dân tộc, phong trào hịa bình, dân chủ trên thế giới cũng như những mâu thuẫn sâu sắc trong hàng ngũ bọn đế quốc không cho phép Mỹ tùy ý mở rộng chiến tranh với bất cứ quy mơ nào”. Vì vậy, </i>
Mỹ sẽ buộc phải chấp nhận đàm phán theo ý định của ta nếu như chúng ta có một cách đánh đúng đắn.
Thấu hiểu được nhận thức đó, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nêu cao tinh thần độc lập tự chủ kết hợp với đoàn kết quốc tế trong cả đường lối kháng chiến và đàm phán khi thời cơ chín muồi. Muốn đồn kết quốc tế thì phải có độc lập tự chủ và chỉ khi có đồn kết quốc tế mới kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ. Chính vì vậy có thể nói rằng hai nội dung này có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau và cũng là quan điểm chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt toàn bộ cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris kể từ lúc mở đầu cho đến khi kết thúc.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 13 diễn ra vào tháng 1 năm 1967 quyết định mở mặt trận ngoại giao mới nhằm tố cáo mạnh mẽ hơn nữa tội ác đế quốc Mỹ, vạch trần những thủ đoạn hịa bình giả hiệu; đề cao lập trường chính nghĩa của cách mạng; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ. Nghị quyết
<i>Hội nghị nêu rõ: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” <small>11</small></i>.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đồn kết quốc tế cao đẹp cịn được thể hiện đậm nét ở tình đồn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Ngay trong những năm đầu kháng chiến ác liệt, Người cùng với Trung ương Đảng tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân Pháp. Người cũng viết nhiều bức thư, gửi những lời nhắn nhủ đến nhân dân Mỹ để làm rõ tính chất xâm lược của đội quân viễn chinh Mỹ, nêu bật tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược. Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu phục trái tim nhân dân thế giới, đi vào lòng người, tạo nên sức mạnh tinh thần <small>10</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 12, Tr. 09. </small></i>
<small>11</small><i><small> Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 28, Tr. 174. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">ủng hộ Việt Nam. Tổng kết thành quả của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
<i>“Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay” </i><small>1213</small>.
<i><b>Hai là, phong trào cách mạng thế giới </b></i>
Người đồng cảm với nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ trong lúc phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng một cách mạnh mẽ trong cả nước từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Trong quá trình kháng chiến chống Pháp, bằng tinh thần yêu nước nồng nàn cùng với ý chí quyết thắng và căm thù giặc Pháp sôi
<b>sục đã tạo động lực thúc đẩy các cuộc nổi dậy đầy mạnh mẽ. Nhưng thật đáng tiếc rằng </b>
khi đó đất nước ta chưa có một đường lối chiến lược rõ ràng vì thế các phong trào kháng chiến chống Pháp trước sau đều bị thất bại. Các phong trào dựa trên lý luận dân chủ tư sản như phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập
<b>tắt. Đứng trước những thất bại liên tục, không có lối thốt, nước ta lâm vào tình cảnh </b>
trơ mắt nhìn nước mất, nhà tan, chứng kiến các tầng lớp nhân dân trong xã hội bị phân hóa sâu sắc, kinh tế bị bóc lột nặng nề, áp bức về chính trị, ngu dân về giáo dục, đầu độc về văn hóa dẫn đến tha hóa về con người, chịu sự đọa đày trong nạn đói và bệnh tật. Giai cấp cần lao cũng khơng thốt khỏi số phận nô lệ đầy áp bức, ngay cả quyền sống
<b>của con người cũng bị chà đạp nặng nề. Thực dân Pháp đã ra sức khai thác các nguồn </b>
tài nguyên và bóc lột của cải, sức lao động của nhân dân ta bất chấp mọi thủ đoạn tàn bạo, nhẫn tâm để làm giàu cho đất nước của họ. Xã hội Việt Nam lúc này từ một nước
<b>phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. </b>
Người ý thức được sự cần thiết và đoàn kết những người bị áp bức. Người đã rút ra kết luận quan trọng: Ở đâu bọn đế quốc cũng dã man, tàn bạo, ở đâu giai cấp công nhân, những người lao động cũng bị áp bức, bóc lột nặng nề, để sau đó khơng lâu trong
<i>bài “Đồn kết giai cấp” (1924), Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản”</i><small>14</small>. Kết luận trên mang tầm ý nghĩa to lớn, đây được xem là khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đồn kết với những người lao động cùng khổ, những người lao động cùng bị áp bức bất cơng trên thế giới.
<small>12</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 10, Tr. 197. </small></i>
<small>13 Dương Minh Huệ (2020), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết, ủng hộ quốc tế trong công cuộc đổi </small>
<i><small>mới hiện nay”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập tại </small></i>
<small> truy cập ngày 17/3/2023. </small>
<small>minh/nghien-cuu-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-ung-ho-quoc-te-14</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 1, Tr. 287. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Những vấn đề về đoàn kết với các dân tộc thuộc địa được Nguyễn Ái Quốc phát biểu trong hầu hết các buổi mít tinh, thảo luận. Nguyễn Ái Quốc đã từng nói rằng:
<i>“Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đồn kết với các dân tộc thuộc địa. Nhưng đó lại là vấn đề mà tôi quan tâm hơn hết” </i><small>15</small>. Sau khi được biết Quốc tế thứ ba đoàn kết với các dân tộc thuộc địa và được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin thì con đường cứu nước đúng đắn được tìm thấy. Bởi lẽ Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc tháo gỡ trọn vẹn nút thắt về vấn đề mà anh luôn quan tâm là vấn đề về dân tộc và thuộc địa được đặt trong mối quan hệ quốc tế, chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Người
<i>nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản”</i><small>16</small>.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ II Quốc tế cộng sản có nội dung mà Nguyễn Ái
<i>Quốc vô cùng tâm đắc là “21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế cộng sản”. Đảng nào muốn </i>
gia nhập Quốc tế ba đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn đế quốc nước mình trong các thuộc địa, ủng hộ trên thực tế mọi phong trào giải phóng ở thuộc địa. Tại Đại hội lần thứ XVII Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc phát biểu lên án chế độ thống trị tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương, Người yêu cầu Đảng phải đoàn kết, ủng hộ cách mạng thuộc địa, phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Người rất quan tâm đến việc Đảng phải đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Khi đại hội biểu quyết, Người bỏ phiếu biểu quyết tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia vào quá trình thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại biểu của các dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập đội tiên phong của giai cấp công nhân ở một nước đế quốc lớn đang áp bức các dân tộc thuộc địa. Qua đó Nguyễn Ái Quốc đã giương cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế, từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở rộng thành đồn kết với giai cấp vơ sản chính quốc và giai cấp vô sản thế giới<small>17</small>.
Trong suốt hành trình bơn ba khắp nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức
<i>được một bài học rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đơng, đó là sự biệt lập. Không giống như các dân tộc phương Tây, các dân tộc phương Đơng khơng có những quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn tồn khơng biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”</i><small>18</small>. Người
<small>15</small><i><small> Lê Văn Yên (2002), Một số tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc, </small></i>
<small>Nxb. Thanh niên, Hà Nội, Tr. 27. </small>
<small>16</small><i><small> Lê Văn Yên (2002), Tlđd (15), Tr. 28. </small></i>
<small>17</small><i><small> Lê Văn Yên (2002), Tlđd (15), Tr. 29-30. </small></i>
<small>18</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 1, Tr. 263. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">đã chỉ ra rằng các nước thuộc địa muốn được giải phóng khỏi sự áp bức bóc lột thì phải đồn kết với nhau tạo nên sức mạnh để chống lại kẻ thù chung. Khi được Đảng cộng
<i>sản Pháp ủng hộ, Nguyễn Ái Quốc đã vận động thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa” - </i>
một tổ chức đoàn kết các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa được Nguyễn Ái Quốc nêu như sau:
<i>“Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”” </i><small>19</small>. Sự ra đời của tờ báo Le Paria là một trong những dấu ấn đặc sắc nhất của quá trình hoạt động của Hội. Tại đây những tội ác tàn bạo, sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với các thuộc địa được lên án gay gắt, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin để vực dậy tinh thần đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, lan tỏa sức mạnh cổ vũ, đoàn kết các dân tộc thuộc địa và đồn kết các giai cấp vơ sản chính quốc tiến theo con đường cách mạng vô sản.
Nguyễn Ái Quốc thật sự là một người có tầm nhìn xa trơng rộng và tầm nhìn chiến lược đáng khâm phục. Người đã lên kế hoạch một cách chu đáo là chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức để chờ đón sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần đưa phong trào cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Bằng những hoạt động cụ thể của mình, Nguyễn Ái Quốc đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối đối với cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bên cạnh đó Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, đào tạo cán bộ, thực hiện liên hiệp các dân tộc bị áp bức và thúc đẩy sự phát triển phong trào cộng sản ở châu Á. Cũng nhờ vào việc nắm vững quan điểm dân tộc và quốc tế, trong Cương lĩnh, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong việc kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để thành lập Đảng. Bởi vì, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thì giai cấp cơng nhân và đội tiên phong của nó đã mang bản chất quốc tế trong sáng, nhưng trước hết phải tự quyết về vận mệnh của dân
<i>tộc mình, “trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”</i><small>20</small> thì mới có điều kiện ủng hộ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các dân tộc khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chủ trường rằng thân thiện và hợp tác với tất cả các nước, từ các nước Đồng minh, các nước láng giềng, các dân tộc đang đấu tranh giải phóng cho đến tất cả nhân dân Pháp, kể cả kiều dân Pháp đều được bảo đảm tính mạng và tài sản, nếu họ tơn trọng chủ quyền của nước Việt Nam ta. Đến năm 1947, Chủ tịch
<i>Hồ Chí Minh lại tiếp tục khẳng định phương châm đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn </i>
<small>19</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 2, Tr. 128. </small></i>
<small>20</small><i><small> C.Mác-Ph Ăngghen (1980), Tuyển tập, Nxb. Sự Thật, tập 1, Tr. 565. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><i>với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”</i><small>21</small>. Người nhấn mạnh:
<i>“Mục đích của ta lúc này là tự do, độc lập. Là bạn của ta trong giai đoạn này tất cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích ấy, cùng ta chung một ý chí ấy” <small>22</small></i>.
Từ đó có thể thấy, từ chiến lược đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta từng bước hịa vào dịng chảy của cách mạng thế giới, ln gắn liền với nhiều phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đánh giá và nhìn nhận lại kết quả
<i>của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt được mọi khó khăn, đưa giai cấp cơng nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”<small>23</small></i>. Mặt khác, tư tưởng Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ, chính đồn kết quốc tế khơng chỉ diễn ra một chiều, giành được lợi ích cho mình mà cịn đóng góp vào việc xây dựng nền hịa bình, tiến bộ
<i>của thế giới. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của mình, mà cịn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hịa bình trên thế giới”<small>24</small></i>. Cho đến những năm gần đây, mặc dù quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới và tình hình Việt Nam đã có những thay đổi căn bản, nhất định; song những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế vẫn cịn ngun giá trị, mang ý nghĩa chiến lược và tiếp tục được quán triệt và áp dụng vào mọi chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam ta, tạo ra một nền tảng vững chắc cho nước ta tích cực, chủ động hơn trên con đường hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả.
Như vậy, có thể hiểu rằng đồn kết quốc tế, trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng sản, tiếp đến là đồn kết giai cấp cơng nhân quốc tế, rồi mới đến đoàn kết các nước chủ nghĩa xã hội để lật đổ áp bức bóc lột của đế quốc tư bản. Đây là nhân tố cốt cán, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành độc lột cho các nước thuộc địa, với
<i>phạm vi rộng lớn là trên toàn thế giới. Người đã từng nhấn mạnh: “Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta, sẽ thuộc về chủ nghĩa xã hội. Nếu như tất cả các nước anh em và các đảng anh em đoàn kết chặt chẽ với nhau“ . Với tinh thần ấy, Người tiếp tục khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa và sự đồn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả các nước có </i>
<small>21</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 5, Tr. 256. </small></i>
<small>22</small><i><small> Văn kiện Đảng toàn tập (1945 - 1947) (2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 8, Tr. 437. </small></i>
<small>23</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 12, Tr. 417. </small></i>
<small>24</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 14, Tr. 533. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><i>Hai là, xác định rõ mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc của cách mạng Việt Nam khi </i>
liên minh với phong trào cách mạng thế giới; giữa quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế của cách mạng Việt Nam; sự thống nhất biện chứng của các mối quan hệ đó.
<i>Ba là, xác định rõ mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là mối quan hệ có tác động qua lại, trong đó, cách mạng thuộc địa sẽ khơng “thụ động ngồi chờ” cách mạng chính quốc. </i>
Theo Hồ Chí Minh, các đảng cộng sản cũng như cơng nhân quốc tế phải được tăng cường giáo dục về chủ nghĩa Mác-Lênin, phải kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm và lệch lạc của chủ nghĩa tư sản. Ngồi ra cịn phải đồn kết, thống nhất và gắn bó với nhau như anh em một nhà. Người luôn coi thắng lợi của các đảng anh em láng giềng là thắng lợi của chính Việt Nam. Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vấn đề giáo dục cho cán bộ, đảng viên cũng như nhân dân và quân nhân phải biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ của các Đảng cộng sản, các nước chủ nghĩa xã hội và lực lượng công nhân quốc tế đối với sự nghiệp Cách mạng của Việt Nam. Người đã chỉ rõ, nhờ có Cách mạng Tháng Mười dẫn đường, có nhân dân Liên Xơ đánh phát xít Nhật, vì vậy Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam mới thành công.
Người đã thay mặt nhân dân Việt Nam cám ơn sự giúp đỡ cao quý này ở đại hội Đảng Cộng sản và công nhân của nhiều nước, ở nhiều hội nghị quan trọng trong nước
<i>và quốc tế. Tại Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III, Người nhấn mạnh: “Thắng lợi của cách mạng Việt Nam còn là do nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xơ và Trung Quốc, đã hết lịng giúp đỡ. Nhân dịp này, chúng ta nhiệt liệt tỏ lòng biết ơn các nước xã hội chủ nghĩa anh em đứng đầu là Liên Xô vĩ đại. Chúng ta cũng thành thực tỏ lòng biết ơn đối với các đảng anh em khác, nhất là Đảng Cộng sản Pháp, đã tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta”<small>26</small>. </i>
<small>25</small><i><small> Hà Huy Thông (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế, một trong những di sản vô giá hiện nay”, </small></i>
<i><small>Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập tại </small></i>
<small> truy cập ngày 06/02/2023. </small>
<small>ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-quoc-te-mot-trong-26</small><i><small> Hà Huy Thông (2015), Tlđd (25). </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><b>1.2. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế </b>
<i><b>1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế </b></i>
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đồn kết trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và đoàn kết trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đoàn kết quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng như thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi
<i>toàn thế giới. Người khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa và sự đồn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”</i><small>27</small>.
Nhằm đạt được thắng lợi cuối cùng ấy, Người yêu cầu cách mạng vô sản thế giới, các đảng cộng sản và cơng nhân quốc tế phải đồn kết thống nhất, gắn bó mật thiết như
<i>anh em một nhà. Người luôn tâm niệm rằng: “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Bốn phương vô sản đều là anh em”. Muốn làm được như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng </i>
sản và công nhân quốc tế phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa Sơ vanh, giáo điều,… Cùng với quan điểm về đồn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh cịn chủ trương đồn kết với tất cả các dân tộc, các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hịa bình trên thế giới.
Trước và sau khi tun bố độc lập, trên cương vị người đứng đầu Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi điện, thư đến nguyên thủ các nước như Tổng thống Truman ( Hoa Kỳ), Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa) và Nguyên soái Stalin (Liên Xô) bày tỏ quan điểm ngoại giao, mở rộng quan hệ với các nước, nhất là các cường quốc để tranh thủ công nhận địa vị pháp lý của nước Việt Nam độc lập, qua đó xác lập vị thế chủ nhà trong việc giao tiếp với các thế lực bên ngoài, bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa non trẻ vừa mới được thành lập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đồn kết quốc tế cao đẹp cịn được thể hiện đậm nét ở tình đồn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Ngay trong những năm đầu kháng chiến ác liệt, Người cùng với Trung ương Đảng tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân Pháp. Người cũng viết nhiều bức thư, gửi những lời nhắn nhủ đến nhân dân Mỹ để làm rõ tính chất xâm lược của đội quân viễn chinh Mỹ, nêu bật tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược. Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh
<small>27</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 10, Tr. 198 -199. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">đã thu phục trái tim nhân dân thế giới, đi vào lòng người, tạo nên sức mạnh tinh thần ủng hộ Việt Nam. Tổng kết thành quả của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
<i>“Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay” </i><small>28</small>.
<i><b>1.2.2. Vai trị của đồn kết quốc tế </b></i>
<i>Trước hết, đoàn kết quốc tế trong tư tưởng của Hồ Chí Minh có vai trị quan trọng </i>
xuyên suốt quá trình xây dựng cũng như thực hiện kế hoạch cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng và giải phóng thuộc địa nói chung. Một trong hai vai trò quan trọng chủ yếu của đoàn kết quốc tế là thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của thực hiện đoàn kết quốc tế là để tập hợp lực lượng bên ngồi, tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Từ đó, kết hợp với sức mạnh của chính dân tộc mình và sức mạnh của cách mạng thời đại đổi mới, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nền tảng cho thành công của công cuộc cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồn kết quốc tế cịn là nguồn lực quan trọng, tăng cường sức mạnh cho sự nghiệp cách mạng trong nước, giúp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng vì độc lập dân tộc, nền hịa bình, ổn định, phát triển và sự bình đẳng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới<small>29</small>. Cũng tương tự với quan điểm về xây dựng khối đại đồn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ lực lượng đoàn kết quốc tế rất phong phú và mạnh mẽ. Đó là liên minh giữa các đất nước, giữa các dân tộc, các cá nhân cùng hướng chung về một mục tiêu là giải phóng, là hịa bình, là dân chủ, là bình đẳng. Tận dụng thời điểm đổi mới và chuyển mình của thời đại, Người đã nắm bắt được những cơ hội mà một xã hội mới, thời đại mới đem đến để củng cố tinh thần đoàn kết của anh em khắp năm châu bốn bể. Từ đó mới hoạch định được đường lối hữu ích và sáng suốt cho con đường cách mạng Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc nhất định phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giải phóng dân tộc Việt Nam, giải phóng chế độ thực dân trên thế giới, quá độ lên
<i>chủ nghĩa xã hội: “Có sức mạnh cả nước một lịng có sự ủng hộ của nhân dân thế giới </i>
<small>28</small><i><small> Hồ Chí Minh (2011), Tlđd (8), tập 12, Tr. 417 </small></i>
<small>29</small><i><small> Khuất Việt Hùng (2021), “Đoàn kết và dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Trang tin điện tử Ban quản lý lăng </small></i>
<i><small>Chủ tịch Hồ Chí Minh, truy cập tại </small></i>
<small>chi-minh/10403-doan-ket-va-dan-chu-theo-tu-tuong-ho-chi-minh.html#:~:text=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20cho%20r%E1%BA%B1ng%2C%20%C4%91o%C3%A0n%20k%E1%BA%BFt,v%E1%BB%B1c%20v%C3%A0%20tr%C3%AAn%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi, truy cập ngày 07/02/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><i>chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng’’</i><small>30</small>.
<i>Thứ hai, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế chính là “Thực hiện đồn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại’’. Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa </i>
quốc tế vô sản, tức là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam gắn với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ trên thế giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Nếu tinh thần u nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa Sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng, bá quyền. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến sự đổ vỡ của một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung<small>31</small>. Thực hiện đoàn kết quốc tế khơng chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà cịn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Nhờ vào việc kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhờ vào sự sáng suốt trong việc tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế, kịp thời huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại mới, Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng của Việt Nam tiến đến thành cơng tồn vẹn. Thực hiện đồn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vơ sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi vì chúng ta đấu tranh giải phóng, trước là giải phóng cho chính đất nước mình, sau là giải phóng cho các đất nước anh em có cùng cảnh ngộ, cùng nhau hướng về một mục tiêu cao cả là xây dựng thời đại hịa bình, độc lập, dân chủ, chủ nghĩa xã hội.
Vai trị của đồn kết quốc tế trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đã cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của tinh thần đoàn kết. Đoàn kết dân tộc, đoàn kết anh em, đoàn kết xã hội, đoàn kết để cùng bài trừ những tiêu cực, đoàn kết để cùng phát triển, đoàn kết để
<i>cùng bình đẳng và tự do. Người khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn đối với chúng tơi’’</i><small>32</small>, chính vì thế mà cách mạng Việt Nam đã được chèo lái, được ủng hộ, và cuối cùng là đi đến thành
<b>công. </b>
<small>30</small><i><small> Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Tr. 76. </small></i>
<small>31</small><i><small> Nguyễn Lê (2007), “Chủ nghĩa quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước”, Cổng thông tin điện tử Phú Thọ, truy </small></i>
<small>cập tại truy cập ngày 07/02/2023. </small>
<small>32</small><i><small> Khuất Việt Hùng (2021), Tlđd (29). </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><i><b>1.2.3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức Về các lực lượng </b></i>
Lực lượng đồn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hịa bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của các nước đang xâm lược Việt Nam.
<i>Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới, thực tiễn lịch sử cho thấy, </i>
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, Việt nam ta chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi nhờ tồn dân ln đồn kết một lịng; đồng thời, khơng thể tách rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hịa bình trên tồn thế giới. Vì vậy, với phong trào cộng sản và công nhân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến đồn kết giữa các Đảng Cộng sản anh em trên toàn thế giới trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong hịa bình xây dựng đất nước, một mặt Người nhấn mạnh việc nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng Người luôn luôn kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới<small>33</small>.
Chủ trương đồn kết giai cấp vơ sản các nước, đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trị của giai cấp vơ sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động tồn thế giới, trên cơ sở đó ngay từ rất sớm Người đã luôn chăm lo xây dựng khối đồn kết chiến đấu của vơ sản ở chính quốc, Người cũng là người Việt
<i>Nam đầu tiên đã cụ thể hố khẩu hiệu của Lênin: “Vơ sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!” và đưa khẩu hiệu này vào thực tiễn cách mạng. Người đi đến kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, và cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi. Đó là tình hữu ái vơ sản”</i><small>34</small>. Vì vậy Người nhấn mạnh sự hợp tác toàn diện trong phe xã hội chủ nghĩa, xem việc củng cố đồn kết nhất trí trong phe và tăng cường sức mạnh vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố quyết định để ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, thúc đẩy sự tiến bộ và củng cố độc lập dân tộc của các nước vừa thoát khỏi chủ nghĩa thực dân.
<small>33</small><i><small> Lê Ngọc Huệ (2021), “Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế”, Học viện Lục quân, truy cập </small></i>
<small>tại minh/tu-tuong-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-doan-ket-quoc-te2.html, truy cập ngày 06/02/2023. </small>
<small> Hồ Chí Minh, Tlđd (8), tập 1, Tr. 266. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và bộ đội phải biết ơn chân thành và sâu sắc về sự giúp đỡ to lớn của các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Người còn chỉ rõ, để phát huy sức mạnh thời đại, Việt Nam cần phải tiến hành tốt nhiều nội dung, biện pháp, trong đó cần đặc biệt chú ý xây dựng tình đồn kết và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân tiến bộ thế giới<small>35</small>.
<i>Với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Người đã phát hiện ra </i>
âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc,... nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, tại các diễn đàn quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cảnh báo về sự bất đồng, chia rẽ trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, không chỉ làm suy giảm sức mạnh cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, mà cịn chia rẽ sâu sắc khối đồn kết, thống nhất của các lực lượng dân chủ, yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới; tạo điều kiện để các loại kẻ thù của cách mạng gây chiến tranh xâm lược, phá hoại mơi trường hịa bình thế giới.
Và để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản chính quốc như hai cái cánh của cách mạng thời đại, Người đã kiến nghị Ban Phương Đông
<i>Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước tới nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh Phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” và đề nghị Quốc tế Cộng sản bằng mọi cách phải “làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản Phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”</i><small>36</small>. Trong Quốc tế III, Người kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, yêu cầu Quốc tế III cần có những biện pháp cụ thể đẩy mạnh hoạt động giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc, cùng với đó Người đã thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (1925), ra báo Người cùng khổ để đoàn kết, tập hợp lực lượng thành liên minh chiến đấu quốc tế chống kẻ thù chung.
<i>Với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hịa bình, dân chủ, tự do và cơng lý, Hồ Chí Minh ln đánh giá cao tinh thần đồn kết, giúp đỡ của nhân dân tiến </i>
bộ thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hịa bình, tự do, cơng lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Theo Người, được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới thì cơng cuộc kháng chiến và kiến quốc của Việt <small>35</small><i><small> Hà Huy Thông (2015), Tlđd (25). </small></i>
<small>36</small><i><small> Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tlđd (30), Tr. 78. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Nam nhất định thắng lợi vẻ vang, muốn cho cách mạng thành cơng thì phải kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam phát huy tốt hai mặt này, sẽ làm cho lực nhỏ hóa lớn, lực yếu hóa mạnh, sẽ tạo ra thế bao vây rộng khắp áp đảo kẻ thù. Người còn chỉ rõ, để phát huy sức mạnh thời đại, Việt Nam cần phải tiến hành tốt nhiều nội dung, biện pháp, trong đó cần đặc biệt chú ý xây dựng tình đồn kết và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân tiến bộ thế giới.
<i><b>Về hình thức tổ chức </b></i>
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính ngun tắc, địi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Dựa trên cơ sở quan hệ về địa lý – chính trị và tính chất chính trị – xã hội trong khu vực và trên thế giới cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ, tư tưởng đại đồn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận:
<i><b>Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ sự suy yếu của các dân </b></i>
tộc phương Đông trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân chính là do thiếu sự đồn kết quốc tế. Do đó, các dân tộc thuộc địa phải thiết lập và có khả năng thiết lập để tiêu diệt kẻ đang nơ dịch họ, chính là quan hệ với các dân tộc thuộc địa cùng khổ khác. Bên cạnh đó, Cách mạng Việt Nam cũng như phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khác cần quan hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng của giai
<i>cấp vô sản. Người cho rằng: “Các dân tộc ở đó khơng bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu khơng gắn bó với giai cấp vơ sản thế giới” và “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”</i><small>37</small>. Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa tại Paris (Pháp), thành viên chủ yếu là thanh niên, mục đích đồn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Đây chính là loại hình Quốc tế thanh niên thuộc địa theo quan điểm của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc bước đầu bắt tay thực hiện.
<i><b>Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (1925), trong những năm tháng nhân </b></i>
dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác
<i>nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc; thực hiện </i>
đồn kết với Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh. Người luôn coi thắng lợi của các Đảng anh em và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em là thắng lợi của chính đất nước mình, nhờ có sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em thì
<small>37</small><i><small> Hồ Chí Minh, Tlđd (8), tập 1, Tr. 295- 468. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">nhân dân Việt Nam mới lập được nhiều chiến công hiển hách trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đạt được thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Vận mệnh dân tộc Châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do đó, cùng với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, ngày 09/7/1925 tại Quảng Châu, Người đã cùng một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa khác lập ra Hội Liên
<i>hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Đại hội thành lập đã ra Tun ngơn nói rõ: “Những người tham gia hội nghị này có các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Việt Nam. Đây là sự mở màn biểu hiện cao nhất sự giác ngộ căn bản của các dân tộc bị áp bức ở phương đông chúng ta”. Tôn chỉ của Hội là liên lạc với các dân tộc bị áp bức để cùng làm cách mạng, đánh đổ đế quốc. Tuyên ngôn của Hội khẳng định: “Con đường thốt duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vơ sản tồn thế giới, áp dụng những phương pháp cách mạng để lật đổ về căn bản chủ nghĩa tư bản đế quốc cực kỳ hung ác”</i><small>38</small>.
<i><b>Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, đối với </b></i>
các dân tộc trên bán đảo Đơng Dương, đồn kết quốc tế cao đẹp được thể hiện sâu sắc ở mối tình đồn kết đặc biệt giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia vì cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Theo Hồ Chí Minh, ba nước trên bán đảo Đơng Dương phải đồn kết chặt chẽ thì mới tạo được sức mạnh đánh thắng kẻ thù, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và xây dựng cuộc sống phồn vinh cho nhân dân mỗi nước. Người chỉ rõ, sự đồn kết ấy có sức mạnh to lớn, đó là nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi của cách mạng mỗi nước cũng như thắng lợi của cách mạng ở cả Đơng Dương vì vậy trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước, tiến tới thành lập Đơng Dương độc lập đồng minh. Hồ Chí Minh đã chỉ đạo
<i><b>việc hình thành Mặt trận đồn kết Việt – Miên – Lào trong hai cuộc kháng chiến chống </b></i>
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi<small>39</small>. Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam<small>40</small>.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh ln đánh giá cao vai trị đấu tranh phản đối chiến tranh của nhân dân tiến bộ Mỹ, Người tìm mọi cách xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và lực lượng Đồng Minh chống <small>38</small><i><small> Trang thông tin điện tử Thư viện tỉnh Đồng Nai, “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp </small></i>
<i><small>%2Dd077eadb24d7&ID=15, truy cập ngày 25/7/2023. </small></i>
<small>39</small><i><small> Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tlđd (30), Tr.80. </small></i>
<small>40</small><i><small> Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tlđd (30), Tr.80. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">phát xít nhằm tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Người đã hoạt động ngoại giao không mệt mỏi để nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
<i><b>1.2.4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế </b></i>
Theo Hồ Chủ tịch, đoàn kết quốc tế là một kim chỉ nam, là bệ phóng cho sức mạnh to lớn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Để có thể phát huy tối đa sức mạnh to lớn đó, đồn kết quốc tế phải đảm bảo các nguyên tắc:
<i><b>Thứ nhất, đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình </b></i>
Muốn thực hiện được đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng
<i>sản và công nhân quốc tế thì đồn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và cơng nhân tồn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể lồi người” và thực hiện sự đồn kết đó phải đứng </i>
vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản:
<i>Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Người giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình. </i>
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đường lối của cách mạng Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc diễn ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng đều đi đến thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước. Qua nghiên cứu, khảo nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới, Người đi đến kết luận là các cuộc cách mạng
<i>đó đều “khơng đến nơi” bởi vì, đối với Người, giải phóng dân tộc phải gắn liền với tự </i>
do, ấm no và hạnh phúc thật sự cho nhân dân, giải phóng con người một cách triệt để. Và Người đã lựa chọn cách mạng Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo hệ tư tưởng Mác - Lênin vì Cách mạng Tháng Mười Nga đã giải phóng triệt để con
<i>người, là một cuộc cách mạng “đến nơi” một cách thật sự, mở ra một thời đại mới - thời </i>
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho tồn thể lồi người.
<i>“Có lý, có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><i>nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. “Có lý” là phải tuân thủ những </i>
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới, phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả những nguyên tắc này vào hoạt động
<i>thực tế của mỗi nước, mỗi Đảng, tránh giáo điều. “Có tình” là sự thơng cảm, tơn trọng </i>
lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung
<i>mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng Sô vanh, “nước lớn”, “đảng lớn”; khơng “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, cơng khai cơng kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về </i>
chính trị, kinh tế… gây sức ép với nhau. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi Đảng phải được tơn trọng, song lợi ích đó khơng được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của Đảng khác, của dân tộc khác<small>41</small>.
<i>Đối với các dân tộc trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tinh thần “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù chuốc ốn với một ai”. </i>
Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng cũng như các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện nhất qn quan điểm có tính ngun tắc: Dân tộc Việt Nam tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những ngun tắc đó. Người ln khẳng định, đặt lợi ích chính đáng của dân tộc lên trên hết, đồng thời phải tơn trọng lợi ích dân tộc chính đáng của các nước khác, nhất là của các nước láng giềng. Lợi ích chính đáng của dân tộc Việt Nam là hịa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân; lợi ích phát triển và phát huy ảnh hưởng. Cùng với đó, cần kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; độc lập tự chủ và đoàn kết, hợp
<i>tác quốc tế; “Thêm bạn bớt thù”, “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai”; “Mọi người u nước và tiến bộ là bạn của ta”. Người nêu rõ: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hịa bình”</i><small>42</small>.
<i>Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hịa bình trong cơng lý vì “Một nền hịa bình chân chính xây trên cơng bình và lý tưởng dân chủ”. </i>
Tư tưởng này bắt nguồn từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là ln giương cao ngọn cờ hòa <small>41</small><i><small> Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tlđd (30), Tr. 81. </small></i>
<small>42</small><i><small> Hồ Chí Minh, Tlđd (8), tập 10, Tr. 12. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><i>bình, đấu tranh cho hịa bình, một nền hịa bình thật sự cho tất cả các dân tộc “hồ bình trong độc lập, tự do” – một nền hịa bình chân chính xây trên cơng bình và lý tưởng dân </i>
chủ, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Người là một trong số ít lãnh tụ cách mạng nhận thức được sự chuyển biến của thời đại sẽ làm thay đổi quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi toàn cầu. Người coi đấu tranh thiết lập quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia, chống lại mọi sự áp đặt, thống trị bất công
<i>của các “nước lớn” cũng là sự hồn chỉnh của cơng cuộc giải phóng dân tộc. </i>
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam ln nêu cao ngọn cờ hịa bình, đưa ra nhiều sáng kiến hịa bình, đồng thời đẩy mạnh hoạt động ngoại giao làm cho dư luận thế giới thấy được thực chất của tình hình Việt Nam, bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân, đế quốc và luận điệu hịa bình giả dối của chúng, quan điểm hịa bình trong cơng lý của Người đã đóng góp tích cực vào việc củng cố tinh thần đoàn kết của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân Việt Nam và kêu gọi những người u chuộng hịa bình trên thế giới ủng hộ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc; đồng thời cũng đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, bảo vệ cơng lý, chống chiến tranh xâm lược.
<i><b>Thứ hai, đồn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường </b></i>
Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất qn trong tồn bộ hoạt động chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rất cụ thể và sâu sắc mối quan hệ biện chứng, sự gắn kết giữa độc lập, tự chủ với mở rộng và tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế; giữa tự lực, tự cường với hợp tác và phát triển.
Người đề cập rất rõ ràng, sinh động về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với đoàn kết, hợp tác quốc tế chính là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa sức
<i>mạnh nội sinh và sức mạnh ngoại sinh. Trong mối quan hệ biện chứng đó, “độc lập, tự chủ” ln giữ vai trị quyết định, là nền tảng vững chắc để đoàn kết quốc tế, tranh thủ </i>
sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới; sức mạnh nội sinh là nhân tố quyết định còn sức mạnh ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thơng qua sức mạnh nội sinh. Chính
<i>vì vậy, Hồ Chí Minh ln nêu cao khẩu hiệu: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”; “Một dân tộc khơng tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”<small>43</small>. </i>
<i>Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”</i><small>44</small><i>; “Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường” là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng </i>
<small>43</small><i><small> Hồ Chí Minh, Tlđd (8), tập 7, Tr. 445. </small></i>
<small>44</small><i><small> Hồ Chí Minh, Tlđd (8), tập 4, Tr. 147. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính để q trình mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa mang lại hiệu quả cao, bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc, hội nhập mà khơng hịa tan, độc lập nhưng khơng đóng cửa, biệt lập với hành trình phát triển của nhân loại. Người đặc biệt nhấn mạnh: Ta có mạnh thì họ mới
<i>chịu đếm xỉa đến. Do đó, cần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. "Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc”</i><small> 45</small>.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chính đáng, thực hiện các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện lợi ích của các dân tộc đan xen, chồng chéo. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần, mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu tranh kiên quyết và khôn khéo để thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia<small>46</small>.
<b>1.3. Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại để phục hồi và phát triển nền kinh tế ở Việt Nam từ sau đại dịch Covid-19 đến nay </b>
Tâm điểm của thế giới hiện nay là nỗ lực của các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc phục hồi và phát triển kinh tế trở lại. Ở trong nước, tình hình dịch bệnh đã ảnh hưởng cả ở trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến tất cả các khía cạnh của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Cùng với đó, những biến động của tình hình thế giới gần đây đã tác động không nhỏ tới nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế năm 2021 chỉ ở mức 2,58%, thấp nhất trong vịng 30 năm qua. Do đó, để trở lại đà quỹ đạo tăng trưởng, Việt Nam vừa cần thực hiện chương trình phục hồi kinh tế bền vững vừa đủ liều lượng, vừa trúng mục tiêu và với thể chế thực thi hiệu quả vừa cần đưa ra những chính sách ngoại giao phù hợp để phát triển nền kinh tế sau đại dịch. Việc vận <small>45 Trần Vi Dân (2021), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong tình hình hiện nay”, </small> <i><small>Tạp chí Đảng Cộng sản, </small></i> <small>truy cập tại truy cập ngày 06/02/2023. </small>
<small>46</small><i><small> Trần Vi Dân (2021), Tlđd (45). </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">dụng một cách hiệu quả các vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế đồng thời kết hợp với sức mạnh của thời đại sẽ tạo nên những ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc phục hồi và phát triển nền kinh tế, cụ thể:
<i><b>1.3.1. Ý nghĩa trong việc phục hồi nền kinh tế </b></i>
Tinh thần đồn kết khơng giới hạn trong nội bộ một dân tộc, một quốc gia, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đồn kết quốc tế. Thơng điệp về đồn kết quốc tế, thực hiện nguyên tắc tôn trọng và hợp tác quốc tế, thực hiện đường lối thêm bạn bớt thù luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một cách nhất quán, rõ ràng và xuyên suốt. Trong đối ngoại của Việt Nam, chúng ta đã có bài học lịch sử rất thành cơng, đó là đồn kết quốc tế trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Từ đó học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong bối cảnh từ khi đại dịch Covid-19 nổ ra đến nay
<i>ở chúng ta đã thúc đẩy “mục tiêu kép” vừa chống dịch vừa phục hồi, phát triển kinh tế </i>
thông qua việc tranh thủ và kết hợp giữa hai nguồn lực, bên trong và bên ngồi, đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại. Điều này càng trở nên cần thiết trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập sâu rộng và tồn diện với thế giới, địi hỏi khả năng thích ứng, chủ động trong việc thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu trên cơ sở kết hợp các nguồn lực, tạo sức mạnh cộng hưởng. Hoạch định chiến lược đối ngoại rất quan trọng, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia và nâng cao vị thế Việt Nam trên chính trường quốc tế. Dưới sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trong năm 2022, chúng ta đã thể hiện sự chủ động, nhạy bén trong việc nhanh chóng chuyển trọng tâm từ ngoại giao vaccine sang ngoại giao kinh tế phục vụ phục hồi và phát triển đất nước. Theo đó, cơng tác ngoại giao kinh tế đã được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành cũng như của tất cả 94 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Đảng ta đã phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Nhà nước đã tham mưu, trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030, tạo xung lực mới để các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương triển khai hiệu quả hơn công tác này, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Ngành ngoại giao cùng với các ngành tiếp tục đóng góp vào nỗ lực làm sâu sắc thêm quan hệ của Việt Nam với các nước, đặc biệt quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư thông qua các diễn đàn hợp tác quốc tế như ASEAN, APEC,… nhằm đóng góp hiệu quả vào duy trì hịa bình và ổn định khu vực, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và tài chính làm địn bẩy thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng bao trùm, hướng tới phát triển bền vững, đồng thời ưu tiên củng cố năng lực y tế khu vực, nhất là trong nghiên cứu, phát triển và sản xuất vaccine.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Theo các chuyên gia kinh tế, nhìn rộng ra những thách thức từ đại dịch Covid-19, thế giới hiện còn đối mặt với những đại dịch mới như: Đậu mùa khỉ và những tác động của suy thối kinh tế tồn cầu, lạm phát gia tăng và biến đổi khí hậu… Những yếu tố này đang và dự báo tiếp tục tác động đến nền kinh tế tồn cầu nói chung và chuỗi cung ứng hàng hóa nói riêng. Hơn nữa, chuỗi cung ứng toàn cầu sau thời kỳ dịch bệnh cho thấy vai trò của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, vai trò của Tổ chức thương mại thế giới WTO và Asean,… quá trình cung ứng hàng hố tồn cầu trở nên ngày càng tinh vi hơn, muốn có được nguồn đầu tư cần có sự nỗ lực của các Chính phủ, doanh nghiệp trong giảm rủi ro trong chuỗi cung ứng, song điều này cần làm thường xuyên, bên cạnh đó, sự hợp tác với nhau trong chuỗi cung ứng để giải quyết những rủi ro trong tương lai, tạo lòng tin của các tập đồn nước ngồi, giúp họ khơng ngại ngần đầu tư vào khu vực APEC đóng vai trị hết sức quan trọng.
Bên cạnh các thách thức, Covid-19 cũng mang đến những cơ hội cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo ông Trịnh Minh Anh, Covid-19 đã tạo động lực mới để xây dựng một mạng lưới sản xuất linh hoạt hơn, đẩy nhanh xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng. Liên quan đến cơ hội trong đại dịch, bà Victoria Kwakwa – Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới từng nhận định: Đại dịch cũng khuyến khích doanh nghiệp trong nước áp dụng công nghệ mới và nâng cấp mơ hình kinh doanh, Covid-19 cũng đẩy nhanh xu hướng số hố. điển hình như việc phong tỏa người lao động có thể khuyến khích doanh nghiệp tự động hố một số khâu nhất định, khuyến khích số hoá và sử dụng các nền tảng trực tuyến. Những biện pháp hạn chế đi lại khuyến khích bán hàng trực tuyến và thúc đẩy thương mại điện tử, cho phép doanh nghiệp đưa hàng hóa và dịch vụ đến với người tiêu dùng mới. Chuyển đổi số đã diễn ra trước đại dịch, nhưng hiện đang được đẩy nhanh để giúp doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với điều kiện bình thường.
Tác động của đại dịch Covid-19 trước mắt sẽ ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và các nền kinh tế, nhưng nếu nhìn một cách tích cực hơn, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp và cơ quan quản lý có cách tiếp cận mới trong duy trì chuỗi cung ứng toàn cầu.
Từ chủ trương lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước tháng 9/2022, ngành ngoại giao và hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngồi đã tích cực đồng hành, tìm kiếm mọi cơ hội, đẩy mạnh kết nối, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư và mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, nhất là mở rộng các thị trường tiềm năng, khai thông các thị trường mới. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Nguyễn Chí Dũng, trong bối cảnh hiện nay, mặc dù có những khó khăn, thách thức
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">nhưng nhiều tập đoàn, doanh nghiệp quốc tế đã và đang tìm kiếm các địa điểm đầu tư nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Trong đó, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là điểm đến đầu tư hấp dẫn và an tồn. Lý giải điều này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng Việt Nam đang có một số điểm thuận lợi trong môi trường đầu tư, đơn cử như: Kinh tế chính trị xã hội của Việt Nam ổn định, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao khi thực hiện thành cơng mục tiêu kép vừa phịng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế. Đáng chú ý, trong giai đoạn khó khăn nhất của dịch bệnh Covid-19 trong năm 2020 - 2021, Việt Nam vẫn là một trong số ít nền kinh tế tăng trưởng dương, kinh tế vĩ mơ được duy trì ổn định, lạm phát kiểm soát ở mức thấp.. Cùng với các tín hiệu khả quan nêu trên, vị trí của Việt Nam trên hàng loạt các bảng xếp hạng đã có những bước tiến đáng kể, nhiều tổ chức, chuyên gia uy tín quốc tế đánh giá cao kết quả và triển vọng phát triển kinh tế, nâng hạng tín nhiệm và dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam. Chỉ số phục hồi Covid-19 của Nikkei xếp Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới,
<i>tổ chức như Moody's và S&P đều xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam ở mức “ổn định” và “tích cực”. Thêm vào đó, nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội nhập kinh </i>
tế quốc tế sâu rộng, vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phát huy sự chủ động, nhạy bén trong công tác nghiên cứu, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ trên cơ sở bám sát nhu cầu trong nước và các trọng tâm của Chính phủ. Bộ đã có nhiều báo cáo có chất lượng về tình hình kinh tế thế giới và các vấn đề đang nổi lên có tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế đất nước, từ đó tham mưu, kiến nghị chính sách phù hợp của Việt Nam.
Chúng ta có thể khẳng định, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cũng như sức mạnh trong
<i>nước với sức mạnh quốc tế, chúng ta đã tiếp nối tinh thần quyết liệt của “chiến dịch” </i>
ngoại giao vaccine trong năm 2021, đến năm 2022, trên cơ sở thích ứng nhạy bén, linh hoạt, mềm dẻo, Đảng, Nhà nước và các cơ quan đại diện ở nước ngoài đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành triển khai công tác ngoại giao kinh tế với tinh thần chủ động, sáng tạo, với trách nhiệm cao nhất trước nhân dân, thực sự phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc thu hút nguồn lực bên ngồi để khơi phục lại nền kinh tế nước ta sau đại dịch thế kỷ<small>47</small>.
<i><b>1.3.2. Ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế </b></i>
Trong thời kỳ đổi mới phát triển khơng ngừng hiện nay, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn <small>47</small><i><small> BNG (2023), “Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế để thích ứng với tình hình mới”, Báo Điện tử Chính phủ, truy cập </small></i>
<small>tại 102230110094846149.htm, truy cập ngày 07/02/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">mới yêu cầu mới nặng nề phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Cùng với nhận thức về tồn cầu hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trở thành kim chỉ nam cho hoạt động quốc tế và ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta, tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả; khơng ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hồn thiện hệ thống phịng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn<small>48</small>.
<i>Tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến mới, phức tạp. Trật tự “nhất siêu đa cường” vẫn tồn tại, nhưng trật tự “đa cực linh hoạt” đang định hình ngày càng rõ </i>
nét, với những liên kết đan xen, đa tầng. Các nước đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ quốc tế. Xu hướng đề cao sự tương đồng lợi ích đóng vai trị chi phối; tính đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế đan xen, chuyển hóa linh hoạt. Vì vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại để khơi dậy và phát huy hiệu quả sức mạnh nội lực trên cơ sở củng cố khối đại đoàn kết dân tộc lấy xuất phát điểm từ lợi ích quốc gia dân tộc nhưng vẫn vì lợi ích chung của các quốc gia dân tộc trên thế giới, trên từng lĩnh vực cụ thể đặc biệt là phát triển kinh tế.
<small>48 Nguyễn Phú Trọng (2021), “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại </small>
<i><small>hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, truy cập tại </small></i>
<small> truy cập ngày 17/3/2023. </small>
</div>