Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Bài giảng công pháp quốc tế el17 Đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 79 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ LUẬT QUỐC TẾ

I. KHÁI NIỆM 1. Định nghĩa

Mỗi quốc gia đều tồn tại một hệ thống pháp luật riêng biệt có nhiệm vụ điều chỉnh tồn bộ các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi quốc gia. Tuy nhiên, không phải tất cả các quan hệ xã hội chỉ đóng khung trong phạm vi biên giới quốc gia. Chính vì vậy, các quốc gia phải duy trì các mối quan hệ qua lại với nhau, đây là loại hình quan hệ rất đa dạng cả về hình thức lẫn nội dung. Quá trình phát triển các loại hình quan hệ này là kết quả tất yếu khách quan của các quy luật phát triển xã hội.

Dựa trên cơ sở hình thành, duy trì và phát triển quan hệ giữa các quốc gia, đã từ lâu nhu cầu xây dựng và thông qua các quy phạm cụ thể điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong đời sống quốc tế đã trở nên vô cùng cấp thiết. Các quy phạm được hình thành trên cơ sở nền tảng là các quan hệ liên quốc gia và đồng thời phản ánh lại các quan hệ này chính là quy phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế hiện đại, mặc dù không thể phủ nhận vai trị quan trọng và có tính quyết định của các quốc gia, nhưng các chủ thể khác như các tổ chức quốc tế liên chính phủ hay các dân tộc đấu tranh giành độc lập cũng ngày càng thể hiện vai trò, vị thế quan trọng trong đời sống quốc tế. Mối quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể này cũng được cũng được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp lý quốc tế Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, có thể định nghĩa về luật quốc tế như

<i>sau: Luật quốc tế hiện đại là hệ thống pháp luật độc lập bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế trong các lĩnh vực của đời sống quốc tế. </i>

2. Chức năng của luật quốc tế

Các chức năng của Luật quốc tế có thể thay đổi theo thời gian và do sự tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội... Lịch sử hình thành và phát triển luật quốc tế đã khẳng định thực tế hiển nhiên này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Xuất phát từ thực tiễn quan hệ quốc tế hiện nay, Luật quốc tế có những nhiệm vụ cơ bản như: duy trì hồ bình và an ninh quốc tế; đảm bảo sự chung sống hồ bình giữa các quốc gia và các dân tộc; đảm bảo sự phát triển tiến bộ của các quan hệ xã hội trên phạm vi toàn cầu; thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc tế, qua đó góp phần nâng cao mức sống và xoá bỏ dần sự cách biệt về mọi mặt giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quan trọng có tầm chiến lược này, Luật quốc tế phải thực hiện 2 chức năng cơ bản là điều chỉnh các quan hệ đối ngoại của các chủ thể Luật quốc tế và tác động tích cực lên các quan hệ đối nội của các chủ thể nêu trên.

3. Quy phạm pháp luật quốc tế

<i>a. Khái niệm </i>

Quy phạm pháp luật quốc tế thường được xác định là các quy tắc xử sự được xây dựng hoặc thừa nhận có hiệu lực pháp luật đối với các chủ thể luật quốc tế trong quá trình tham gia vào sinh hoạt quốc tế. Về nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế được các chủ thể luật quốc tế thoả thuận xây dựng nên, vì vậy chúng chỉ có hiệu lực đối với các bên hữu quan. Bên cạnh các quy phạm có tính phổ cập giành cho tất cả các chủ thể (thường là các quy phạm quốc tế đa phương tồn cầu), cịn tồn tại các quy phạm có tính chất khu vực, chỉ có hiệu lực đối với một nhóm quốc gia (như quy định về thương mại quốc tế của Liên minh Châu âu chỉ có hiệu lực đối với 27 quốc gia thành viên) hoặc các điều ước song phương chỉ có giá trị hiệu lực đối với 2 chủ thể hữu quan.

<i>b. Phân loại quy phạm luật quốc tế </i>

Việc phân loại quy phạm pháp luật quốc tế được thực hiện dựa trên các tiêu chí khác nhau.

Thứ nhất, căn cứ vào tiêu chí phạm vi hiệu lực pháp luật

Quy phạm luật quốc tế được chia làm: Quy phạm phổ cập, đây là loại quy phạm có hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các quốc gia, thường loại quy phạm này là quy phạm tập quán quốc tế. Nhóm quy phạm thứ hai là loại quy phạm có tính khu vực, có hiệu lực chỉ đối với một số quốc gia có mối quan hệ gần gũi về địa lý, về ý thức hệ và chế độ xã hội, hay

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

cùng chung quyền lợi và lợi ích. Nhóm quy phạm thứ 3 là các quy phạm song phương chỉ có hiệu lực đối với hai chủ thể luật quốc tế đã ký kết các điều ước quốc tế song phương, loại quy phạm này thường tồn tại trong các điều ước quốc tế song phương về thương mại, văn hoá, lãnh sự, tương trợ tư pháp, dẫn độ...

Thứ hai, căn cứ vào tiêu chí mức độ hiệu lực

Quy phạm luật quốc tế được chia làm quy phạm mệnh lệnh có hiệu lực chung (quy phạm jus cogen) và quy phạm tuỳ nghi. Quy phạm Jus cogens là quy phạm đặc biệt của Luật quốc tế, có hiệu lực cao hơn quy phạm tuỳ nghi, loại hình quy phạm này có hiệu lực tuyệt đối, các quốc gia khơng có quyền hủy bỏ quy phạm này trong mối quan hệ giữa chúng. Quy phạm Jus cogens chỉ có thể bị thay đổi hoặc loại bỏ trên cơ sở thoả thuận của các chủ thể luật quốc tế, bởi vì chúng thể hiện quyền lợi của toàn thể cộng đồng quốc tế. Khác với quy phạm jus congens, quy phạm tuỳ nghi mặc dù cũng là quy phạm luật quốc tế, có hiệu lực ràng buộc đối với các chủ thể luật quốc tế, nhưng trong quá trình áp dụng các quy phạm tuỳ nghi, các chủ thể có liên quan của luật quốc tế có thể thay đổi nội dung để sử dụng nhưng với điều kiện sự thay đổi nội dung không được trái với các quy phạm jus cogens và không được gây thiệt hại cho các chủ thể khác của luật quốc tế.

Thứ ba, căn cứ vào tiêu chí hình thức tồn tại, quy phạm luật quốc tế được phân chia thành quy phạm điều ước quốc tế và quy phạm tập quán quốc tế (quy phạm thành văn ; quy phạm bất thành văn).

4. Các đặc trưng của luật quốc tế

<i>a. Chủ thể của luật quốc tế </i>

Hiện nay, lý luận cũng như thực tiễn quốc tế đều thừa nhận rằng, chủ thể của luật quốc tế gồm: các quốc gia độc lập, có chủ quyền; các tổ chức quốc tế liên chính phủ; các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết. Vai trị, vị trí của mỗi chủ thể trong hệ thống chủ thể cũng như trong quan hệ quốc tế có sự khác nhau nhất định.

<i>b. Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế </i>

Luật quốc tế có đối tượng điều chỉnh rất rộng. Các quan hệ xã hội phát sinh trong đời

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

sống quốc tế giữa các chủ thể của luật quốc tế đều thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế. Về tính chất, các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế phải là quan hệ có tính chất liên quốc gia. Về nội dung, các quan hệ liên quốc gia này thuộc tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...Sự mở rộng đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế như hiện nay chính là hệ quả tất yếu của xu thế quốc tế hoá nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.

<i>c. Xây dựng luật quốc tế </i>

Về nguyên tắc, tất cả các chủ thể Luật quốc tế đều có quyền tham gia bình đẳng, độc lập, tự nguyện, vào trong quá trình xây dựng luật quốc tế (điều ước quốc tế và tập quán quốc tế). Sự đồng ý của các chủ thể này chính là cơ sở làm phát sinh hiệu lực ràng buộc của quy phạm luật quốc tế trong mối quan hệ qc tế. Khía cạnh tích cực của cách thức xây dựng luật quốc tế là ở chỗ nếu lợi ích cơ bản của các bên liên quan đã được dung hoà, các quy phạm pháp luật quốc tế ra đời thì tính khả thi của chúng cũng được đảm bảo tối đa.

<i>d. Cưỡng chế trong luật quốc tế </i>

Trong luật quốc tế hoàn toàn khơng có bộ máy cưỡng chế tập trung mặc dù vẫn tồn tại các biện pháp cưỡng chế. Nhưng trong các trường hợp cần thiết, khi lợi ích hợp pháp của chủ thể luật quốc tế bị xâm hại thì biện pháp cưỡng chế thơng qua hình thức riêng lẻ hoặc tập thể vẫn được tiến hành nhằm chấm dứt hành vi vi phạm, buộc bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại đã gây ra. Có thể phân loại các biện pháp cưỡng chế thành các nhóm sau đây: Biện pháp chính trị; Biện pháp kinh tế; Biện pháp quân sự . Có thể thấy, dù sử dụng biện pháp cưỡng chế nào thì chủ thể thực hiện cũng chính là chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là bên bị hại. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, hiệu quả của cơ chế thực hiện các biện pháp cưỡng chế của luật quốc tế còn rất hạn chế.

II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT QUỐC TẾ

Lịch sử hình thành và phát triển luật quốc tế cũng như khoa học luật quốc tế ln có quan hệ chặt chẽ và là một bộ phận của lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước và pháp luật nói chung. Những đặc trưng của từng giai đoạn lịch sử, những biến động trong đời

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

sống xã hội quốc tế luôn tác động trực tiếp và dẫn đến những thay đổi nhất định trong luật quốc tế. Chính vì vậy, luật quốc tế trong từng thời kỳ đều mang đậm những dấu ấn và phản ánh đặc thù về kinh tế, xã hội...của chính thời kỳ đó.

Có thể phân kỳ lịch sử phát triển của luật quốc tế như sau: - Luật quốc tế thời kỳ chiếm hữu nô lệ;

- Luật quốc tế thời kỳ phong kiến; - Luật quốc tế thời kỳ tư bản; - Luật quốc tế hiện đại.

III. NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. Khái niệm

Nguồn của pháp luật là một khái niệm rộng, có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong khoa học luật quốc tế, hiểu theo nghĩa pháp lý (nghĩa hẹp), nguồn của luật quốc tế được xác định là những hình thức chứa đựng, ghi nhận các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế. Đây là những hình thức thể hiện ý chí của các quốc gia hoặc của các chủ thể khác của luật quốc tế.

Một trong những cơ sở pháp lý thường được viện dẫn khi đề cập đến nguồn của luật quốc tế là khoản 1 điều 38 Quy chế tồ án cơng lý của Liên hợp quốc.

2. Các loại nguồn của luật quốc tế

<i>a. Điều ước quốc tế </i>

Điều ước quốc tế là nguồn cơ bản, quan trọng nhất của luật quốc tế. Theo Điều 2 Công

<i>ước Viên về luật điều ước quốc tế năm 1969, điều ước quốc tế là thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được luật quốc tế điều chỉnh, khơng phụ thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất, hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó. </i>

Tuy nhiên, khơng phải bất kỳ điều ước quốc tế nào cũng là nguồn của luật quốc tế. Một điều ước quốc tế muốn có hiệu lực pháp luật ràng buộc các chủ thể tham gia kí kết và là nguồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

của luật quốc tế phải đáp ứng các điều kiện nhất định.

<i>b. Tập quán quốc tế </i>

Tập quán quốc tế là các quy tắc xử sự chung (thực tiễn xử sự) được hình thành trong thực tiễn đời sống quốc tế và được các quốc gia và các chủ thể khác của luật thừa nhận rộng rãi là các quy phạm có tính chất pháp lý bắt buộc (quy phạm luật quốc tế) đối với các chủ thể khi tham gia vào các lĩnh vực của đời sống quốc tế.

Trong quan hệ quốc tế, tập quán quốc tế là nguồn luật truyền thống của luật quốc tế. Thơng qua nội dung định nghĩa, ta có thể thấy một tập quán quốc tế chỉ xuất hiện khi tích hợp đủ 2 điều kiện sau:

Thứ nhất là sự hiện diện của thực tiễn xử sự chung, thống nhất của các chủ thể luật quốc tế trong các trường hợp cụ thể của đời sống quốc tế (yếu tố khách quan).

Thứ hai là niềm tin pháp lý của các chủ thể luật quốc tế rằng: các quy tắc xử sự như vậy là bắt buộc phải tuân thủ trong một hoàn cảnh xác định. Điều này thể hiện sự thừa nhận chung của các chủ thể luật quốc tế đối với các quy tắc xử sự chung là các quy phạm có tính pháp lý bắt buộc (yếu tố chủ quan).

Tuy nhiên, để một tập quán quốc tế được coi là hợp pháp và là nguồn của luật quốc tế hiện đại thì nội dung của tập quán quốc tế đó hồn tồn phù hợp với các ngun tắc cơ bản của luật quốc tế.

<i>c. Các nguyên tắc pháp luật chung </i>

Đây là loại nguồn luật thường được sử dụng trong trường hợp khơng có điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế tương ứng để điều chỉnh, giải quyết một quan hệ, sự kiện, vấn đề quốc tế. Loại hình nguồn này của luật quốc tế có vai trị quan trọng nhất định trong đời sống xã hội quốc tế. Theo khoa học luật quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung được hiểu là các nguyên tắc pháp luật được tất cả các hệ thống pháp luật cùng thừa nhận và áp dụng chúng để điều chỉnh các mối quan hệ pháp lý thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của mình. Như vậy, luật quốc tế cũng như luật quốc gia đều thừa nhận và sử dụng các nguyên tắc pháp luật chung để điều chỉnh các mối quan hệ pháp lý tương ứng của chúng. Ngoài ra, các nguyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tắc pháp luật chung phải đạt tới mức phổ cập cao nhất, phải được luật pháp và thực tiễn của tất cả các nước trên thế giới thừa nhận.

3. Các phương tiện bổ trợ nguồn luật quốc tế

Đặc trưng cơ bản của các phương tiện bổ trợ này là khơng có hiệu lực pháp luật quốc tế giống như nguồn điều ước và tập quán quốc tế.Tác động và ảnh hưởng của các phương tiện bổ trợ nguồn được thể hiện ở khía cạnh góp phần xác định quy phạm luật quốc tế, hoặc là tiền đề để hình thành quy phạm luật quốc tế, hay giải thích làm rõ nội dung pháp lý của quy phạm luật quốc tế. Phương tiện bổ trợ nguồn luật quốc tế bao gồm:

- Các phán quyết của toà án quốc tế - Các học thuyết về luật quốc tế

- Các nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ - Các hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia

IV. CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT QUỐC TẾ VÀ LUẬT QUỐC GIA

1. Mối quan hệ giữa luật quốc tế với luật quốc gia

Quan điểm của khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa khẳng định luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật riêng biệt, độc lập với nhau, nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, tác động ảnh hưởng qua lại trong quá trình xây dựng và áp dụng. Tính tất yếu của sự tồn tại mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế với luật quốc gia xuất phát từ những cơ sở sau:

- Quốc gia vừa là chủ thể xây dựng chính sách đối nội cũng như đối ngoại của mình, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện các chính sách này trong cuộc sống;

- Quốc gia vừa là chủ thể xây dựng và thực thi, tuân thủ luật trong nước cũng như luật quốc tế trong q trình thực hiện chính sách đối nội cũng như chính sách đối ngoại;

- Trong q trình tham gia quan hệ quốc tế, các quốc gia với tư cách là chủ thể chủ yếu và cơ bản của luật quốc tế, bắt buộc phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc tận tâm thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hiện các cam kết quốc tế (nguyên tắc Pacta sunt servanda).

Nội dung pháp lý của mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc gia với luật quốc tế bao gồm:

+ Luật quốc gia có tác động và ảnh hưởng quyết định tới sự hình thành và phát triển của luật quốc tế.

+ Luật quốc tế có tác động và ảnh hưởng ngược trở lại đối với luật quốc gia, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật của quốc gia, nhất là hệ thống pháp luật của các nước đang phát triển.

2. Giải quyết xung đột giữa luật quốc tế và luật quốc gia

Do nhiều nguyên nhân, sự xung đột giữa các quy phạm pháp luật có thể xuất hiện ngay trong khuôn khổ của hệ thống pháp luật quốc gia cũng như giữa các quy phạm của luật quốc tế và các quy phạm của luật quốc gia.

Trừ một số điều ước quốc tế có quy định, mỗi quốc gia đều có quyền tự do lựa chọn các phương thức phù hợp để áp dụng luật quốc tế tại các quốc gia. Trên cơ sở chủ quyền, quốc gia quyết định nguyên tắc áp dụng pháp luật và cách thức hạn chế cũng như loại bỏ hiện tượng xung đột giữa các quy phạm của 2 hệ thống pháp luật này. Nguyên tắc hiệu lực ưu tiên của quy phạm luật quốc tế so với các quy phạm tương ứng của luật quốc gia được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Quy định và thực tiễn áp dụng luật quốc tế nói trên hồn tồn phù hợp với nguyên tắc Pacta Sunt Servanda. Luật quốc tế không chấp nhận hành động viện dẫn pháp luật quốc gia để biện minh cho việc không thực hiện pháp luật quốc tế. Xuất phát từ lợi ích về kinh tế, chính trị.., trên cơ sở tự nguyện bình đẳng, các chủ thể tham gia xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế. Chính vì vậy, họ đều phải có nghĩa vụ thực thi, tuân thủ pháp luật quốc tế. Để có thể hạn chế cũng như giải quyết hiệu quả tình trạng xung đột giữa luật quốc gia và luật quốc tế, ngồi việc khơng ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trái với các cam kết quốc tế mà quốc gia là thành viên, trong quá trình thực thi pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế, quốc gia cần có sự điều chỉnh kịp thời hiện tượng xung đột này bằng cách thực hiện những sửa đổi, bổ sung

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hoặc hủy bỏ những quy định khơng tương thích của trong luật quốc gia. V. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ

1. Định nghĩa

Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại được xác định là các quy phạm được công nhận chung trong khuôn khổ cộng đồng quốc tế, vì vậy chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự vận hành bình thường cũng như giải quyết có hiệu quả các vấn đề quốc tế. Khẳng định này đã được ghi nhận trong phán quyết của Tịa án cơng lý quốc tế vào năm 1974 giải quyết vụ tranh chấp về đường biên giới trong vịnh Men giữa Hoa Kỳ và Canada. Trong phán quyết đã chỉ rõ: các từ “nguyên tắc và quy phạm” cùng thể hiện nội dung một lý tưởng, vì thế “các nguyên tắc” được xác định là các nguyên tắc pháp luật và nó bao gồm cả các quy phạm luật quốc tế và việc sử dụng thuật ngữ “các nguyên tắc” đã hoàn

Cịn tính từ “cơ bản” xác định các ngun tắc của luật quốc tế chung đang đề cập ở đây là cơ sở của toàn bộ hệ thống luật quốc tế, nhằm phân biệt các ngành luật cụ thể của luật quốc tế (các ngành luật này cũng có nguyên tắc riêng của mình).

Trong Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của luật quốc tế đã chỉ rõ: “Việc tận tâm tuân thủ các nguyên tắc luật quốc tế về quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia và sự tận tâm thực hiện các nghĩa vụ của các quốc gia theo Hiến chương Liên hợp quốc có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc duy trì hịa bình và an ninh quốc tế, cũng như đạt được các mục tiêu khác của Liên hợp quốc”. Dựa trên cơ sở lý luận nêu trên, khoa học luật quốc

<i>tế đã khẳng định: Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những tư tưởng pháp lý – chính trị mang tính chỉ đạo và bao trùm, có hiệu lực bắt buộc chung (jus cogens) đối với mọi chủ thể luật quốc tế và trong tất cả các quan hệ pháp lý quốc tế. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản </i>

của luật quốc tế hiện đại được ghi nhận tại Hiến chương Liên hợp quốc. Tuyên bố về các nguyên tắc luật quốc tế về quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1970 ghi nhận 7 nguyên tắc cơ bản

<small> 1 I.C.J Reports … 1984 P 288-290 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

2.Các đặc trưng của hệ thống các nguyên tắc cơ bản + Tính bắt buộc chung.

+ Tính phổ cập và bao trùm

+ Quan hệ biện chứng, tác động và ảnh hưởng qua lại giữa các nguyên tắc 3. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế

<i>a. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia </i>

Chủ quyền chính là cơ sở khách quan vì đảm bảo bình đẳng pháp luật các quốc gia cần phải có chủ quyền và muốn có chủ quyền các quốc gia phải được bình đẳng trước pháp luật. Mối quan hệ ràng buộc giữa chủ quyền và bình đẳng pháp luật đã cấu thành nên bản chất của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia với tính chất là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Nội dung của nguyên tắc bao gồm: Các quốc gia có nghĩa vụ tơn trọng chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác; các quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa của mình; các quốc gia đều bình đẳng với nhau về pháp lý, không phụ thuộc vào sự khác biệt về chính trị, kinh tế và xã hội…

Mặc dù chủ quyền là thuộc tính chính trị pháp lý quan trọng và gắn liền với quốc gia, nhưng trong quan hệ quốc tế hiện đại thì chủ quyền quốc gia trong một số lĩnh vực của đời sống quốc tế như: kinh tế, tài chính … đang có xu hướng thu hẹp lại cùng với tiến trình quốc tế hóa nhiều mặt của sinh hoạt quốc tế.

<i>b. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực </i>

Nguyên tắc này được xuất hiện vào thế kỷ 20, tiền đề của nó chính là quy định nghiêm cấm chiến tranh xâm lược mà quá trình hình thành được khởi đầu sau Đại chiến thế giới lần I. Nguyên tắc này có nội dung: Nghiêm cấm chiến tranh xâm lược, các quốc gia xâm lược và các cá nhân lãnh đạo quốc gia xâm lược sẽ bị trừng phạt theo luật quốc tế; nghiêm cấm bất kỳ hành vi sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực kể cả gián tiếp hay trực tiếp chống lại quốc gia khác; nghiêm cấm việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nhằm

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

mục đích vi phạm đường biên giới quốc tế hiện hành hoặc để giải quyết tranh chấp quốc tế; nghiêm cấm mọi hành vi trấn áp có sử dụng vũ lực quân sự, như: bao vây, phong tỏa…

Tuy nhiên, trong một số trường hợp xác định, luật quốc tế thừa nhận quyền sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

<i>c. Ngun tắc hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế </i>

Nguyên tắc này được hình thành trong luật quốc tế vào thế kỷ 20 và có quan hệ chặt chẽ mật thiết, không thể tách rời với nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc giải quyết hịa bình các tranh chấp quốc tế có nội dung pháp lý như sau: Các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế có nghĩa vụ giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh trong quan hệ quốc tế bằng các biện pháp hịa bình, khơng phụ thuộc vào mức độ, tính chất hoặc phạm vi tranh chấp quốc tế đang hiện hữu; các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế tham dự vào tranh chấp có quyền tự do lựa chọn cho mình các biện pháp giải quyết hịa bình các tranh chấp quốc tế đã được ghi nhận trong luật quốc tế

<i>d. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác </i>

Nguyên tắc cơ bản này của luật quốc tế có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Nguyên tắc không can thiệp vào cơng việc nội bộ của quốc gia khác có nội dung: Nghiêm cấm hành vi can thiệp vũ trang và các hành vi can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại một quốc gia độc lập, có chủ quyền; nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật … nhằm cưỡng bức quốc gia khác phụ thuộc vào mình; nghiêm cấm việc tổ chức, khuyến khích và trợ giúp các hoạt động vũ trang nhằm khủng bố hoặc lật đổ chế độ của quốc gia khác; nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ đang diễn ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia khác…

<i>đ. Nguyên tắc hợp tác quốc tế </i>

Đây là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế phản ánh quá trình phát triển mạnh mẽ và rộng rãi các quan hệ kinh tế và các loại hình quan hệ quốc tế khác trong kỷ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

nguyên hiện đại. Sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia nhằm mục đích đảm bảo hịa bình và an ninh quốc tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về phát triển giữa các quốc gia trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, mơi trường … là nhu cầu cấp thiết của mỗi quốc gia cũng như của toàn bộ cộng đồng quốc tế. Nội dung của nguyên tắc này dược xác định như sau: Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác quốc tế với nhau trong các lĩnh vực của đời sống quốc tế, nhằm mục đích duy trì hịa bình và an ninh quốc tế, cũng như thúc đẩy tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn cầu; các quốc gia phải hợp tác chặt chẽ với nhau trong mọi vấn đề như: kinh tế, văn hóa, xã hội …

<i>e. Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết </i>

Xét từ góc độ lịch sử, nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết ra đời vào giai đoạn nổ ra các cuộc cách mạng tư sản ở các quốc gia châu Âu. Tuy nhiên, chỉ sau khi cuộc cách mạng vô sản tháng 10 Nga năm 1917 thắng lợi, nước Nga Xô viết ra đời đã đưa ra nguyên tắc này với nội dung cụ thể có tính bao trùm hơn. Về bản chất, nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết nhằm chống lại chủ nghĩa đế quốc, thực dân với hệ thống áp bức và nô dịch của các nước đế quốc. Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết có nọi dung bao gồm: Các dân tộc đều có quyền tự do quyết định chế độ chính trị, kinh tế văn hóa và xã hội của dân tộc mình mà khơng có sự can thiệp bất kỳ nào từ bên ngoài; các quốc gia có nghĩa vụ tơn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc thực hiện quyền dân tộc tự quyết của mình: khơng được có các hành vi tước đoạt hoặc cản trở quyền tự quyết của các dân tộc cũng như các quyền tự do và độc lập của họ; quyền của các dân tộc thuộc địa tiến hành đấu tranh vũ trang để giành độc lập dân tộc…

<i>g. Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (Nguyên tắc pacta sunt servanda). </i>

Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế là một trong các nguyên tắc cơ bản, truyền thống và được hình thành sớm nhất trong luật quốc tế, từ khi xuất hiện nhà nước và nguyên tắc này tồn tại dưới hình thức tập qn quốc tế. Ngun tắc này có nội dung pháp lý như sau: Các chủ thể luật quốc tế phải tận tâm và thiện chí thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà mình đã cam kết thực thi và tuân thủ, không được viện dẫn bất kỳ lý do gì để lẩn tránh nghĩa vụ này; các chủ thể luật quốc tế không được phép chấp nhận các nghĩa vụ phát

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

sinh từ các cam kết có nội dung trái với các cam kết hiện hữu đối với quốc gia thứ 3 trong quan hệ quốc tế; nghiêm cấm việc đơn phương chấm dứt hoặc xem xét lại các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ các cam kết pháp lý quốc tế, trừ các trường hợp được luật quốc tế cho phép.

Nội dung pháp lý của nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế bị giới hạn về hiệu lực bởi một số ngoại lệ

<i>Chúc Anh/Chị học tập tốt! </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

BÀI 2: CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ

I. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ 1. Định nghĩa

<i>Chủ thể luật quốc tế được xác định là những thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có quyền, nghĩa vụ pháp lý và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi do chính chủ thể thực hiện</i><sup>1</sup>.

Khơng phải bất kỳ thực thể nào cũng có tư cách chủ thể luật quốc tế, được quyền tham gia vào các quan hệ quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của hệ thống luật pháp quốc tế. Các điều kiện pháp lý và thực tế sau đây chính là căn cứ xác định tư cách chủ thể luật quốc tế:

+ Có năng lực tham gia vào các quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh + Thể hiện ý chí độc lập của mình khi tham gia các loại quan hệ quốc tế này + Có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của luật quốc tế

+ Có đủ năng lực gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi gây thiệt hại của họ trong quan hệ quốc tế

2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế

Quyền năng chủ thể luật quốc tế được cấu thành từ năng lực pháp luật quốc tế và năng lực hành vi pháp luật quốc tế. Năng lực pháp luật quốc tế là tổng thể các quyền và nghĩa vụ, cũng như trách nhiệm pháp lý quốc tế của chủ thể luật quốc tế khi tham gia vào quan hệ quốc tế với các chủ thể khác như: quyền ký kết các điều ước quốc tế, quyền trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, quyền tham gia xây dựng luật quốc tế, nghĩa vụ tôn trọng các cam kết quốc tế, nghĩa vụ giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế … Còn năng lực hành vi pháp luật quốc tế là năng lực mà chủ thể luật quốc tế bằng các hành vi của mình thụ hưởng các quyền, gánh vác các nghĩa vụ pháp lý quốc tế cũng như trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hoạt động của mình trong quan hệ quốc tế.

<small> </small>

<small>1 Giáo trình Luật quốc tế - NXB CAND năm 2009 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Phạm vi, mức độ và nội dung quyền năng chủ thể luật quốc tế của mỗi loại chủ thể là khác nhau thể hiện sự phù hợp với vai trị, vị trí cũng như ý nghĩa của từng loại chủ thể trong hệ thống luật quốc tế và tổng thể các quan hệ pháp lý quốc tế.

3. Phân loại chủ thể luật quốc tế

Dựa trên cơ sở tiêu chí quyền năng chủ thể luật quốc tế, đã từ lâu trong khoa học luật quốc tế đã có sự thống nhất phân loại chủ thể của hệ thống luật pháp quốc tế với các đặc thù riêng của từng loại chủ thể. Cụ thể chủ thể luật quốc tế được chia thành quốc gia, tổ chức quốc tế, dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và chủ thể đặc biệt

II. QUỐC GIA – CHỦ THỂ CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. Định nghĩa

Sự hình thành của các quốc gia và cùng với đó là sự xuất hiện các quan hệ liên quốc gia chính là nền tảng, là cơ sở dẫn đến sự ra đời và phát triển của luật quốc tế. Chính vì vậy, quốc gia ln được coi là chủ thể cơ bản và quan trọng nhất của luật quốc tế. Theo Công ước Liên Mỹ về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được ký kết tại Montevideo (Uruguay) vào năm 1993, quốc gia với tư cách là chủ thể luật quốc tế cần phải có các dấu hiệu sau: Dân cư thường xuyên (công dân sở tại và người nước ngồi); Lãnh thổ xác định; Chính phủ; Khả năng tham gia vào các quan hệ với các quốc gia khác

2. Chủ quyền quốc gia

Từ góc độ luật quốc tế, quốc gia là thực thể có chủ quyền. Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý của quốc gia, là dấu hiệu cần thiết và quan trọng để phân biệt quốc gia với các chủ thể khác của luật quốc tế. Theo khoa học luật quốc tế, chủ quyền quốc gia chính là quyền lực tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập ở ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia, nghĩa là trong quan hệ quốc tế.

Quốc gia với tư cách là chủ thể chủ yếu và quan trọng nhất của luật quốc tế, vì thế có quyền năng chủ thể đầy đủ và toàn diện nhất. Thuộc về các quyền cơ bản của quốc gia là quyền được bình đẳng về chủ quyền, quyền được độc lập, quyền thực hiện quyền lực tối cao đối với lãnh thổ, quyền tự vệ cá nhân hoặc tập thể … Còn nghĩa vụ cơ bản của

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

quốc gia trong quan hệ quốc tế bao gồm: tôn trọng chủ quyền của các nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia khác, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, bảo vệ hịa bình và duy trì an ninh quốc tế, phát triển hợp tác kinh tế quốc tế, bảo vệ quyền con người, bảo vệ môi trường …

Xuất phát từ vị thế, tiềm lực và khả năng của mỗi quốc gia, quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế cụ thể của mỗi nước trong quan hệ quốc tế có thể hồn tồn khơng như nhau, nhưng các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các nước là hồn tồn bình đẳng và khơng bị chi phối bởi sự khác biệt về dân cư, lãnh thổ hay hình thức tổ chức nhà nước …

3. Công nhận quốc gia

<i>a. Khái niệm </i>

<i>Theo khoa học luật quốc tế, công nhận quốc gia là hành vi chính trị - pháp lý của một quốc gia chính thức khẳng định sự tồn tại của một quốc gia mới trong đời sống quốc tế, đồng thời thể hiện mong muốn thiết lập quan hệ hợp tác với quốc gia được công nhận trong các lĩnh vực. </i>

Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, đối tượng của sự công nhận rất đa dạng, như cơng nhận quốc gia, cơng nhận chính phủ mới, công nhận dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết, công nhận bên tham chiến....Trong hành vi cơng nhận, động cơ chính trị có tác động và ảnh hưởng quan trọng tới quyết định công nhận của quốc gia. Trong nhiều trường hợp, các quốc gia sử dụng vấn đề công nhận như là một công cụ trong đường lối đối ngoại của mình nhằm đạt được những mục đích nhất định như gây sức ép về chính trị, kinh tế và ngoại giao hoặc thể hiện quan điểm chính trị - pháp lý của mình đối với quốc gia là đối tượng của sự công nhận...Cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề công nhận quốc gia vẫn chưa được pháp điển hoá trong luật quốc tế, thậm chí cịn chưa được thể hiện bằng các quy phạm cụ thể của luật quốc tế. Từ thực tiễn của hoạt động cơng nhận, có thể khẳng định cơng nhận quốc tế chỉ được nhìn nhận như là quyền của bên công nhận chứ không phải là nghĩa vụ. Tuy nhiên, các quốc gia cũng cần sử dụng quyền này một cách thiện chí, vì việc cơng nhận hoặc không công nhận quốc gia mới hình thành luôn làm phát sinh những hệ qủa pháp lý nhất định cho quốc gia hữu quan trong quan hệ quốc tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>b. Các thể loại cơng nhận quốc tế </i>

Căn cứ vào tính chất pháp lý cũng như mức độ phổ biến của các trường hợp cơng nhận, có thể phân định cơng nhận quốc tế thành các thể loại sau đây:

- Công nhận quốc gia

Công nhận quốc gia là loại hình cơng nhận quan trọng nhất và khá phổ biến trong quan hệ quốc tế. Thể loại công nhận này được đặt ra khi có quốc gia mới được thành lập do kết quả của những hoạt động như: hợp nhất hai hay nhiều quốc gia độc lập (Liên xô cũ trước đây và CHLB Đức năm 1990); giải thể (Cộng hoà Sec, Liên bang Nga....); cách mạng giải phóng dân tộc (Việt Nam dân chủ cộng hồ 9.1945...)...

Quốc gia cơng nhận có thể đưa ra tuyên bố công nhận một cách rõ ràng, công khai (công nhận minh thị) hoặc mặc nhiên thừa nhận quốc gia mới (công nhận mặc thị). Hành vi cơng nhận hồn tồn khơng tạo ra nghĩa vụ thiết lập quan hệ ngoại giao giữa bên công nhận và bên được công nhận, cũng như không tạo ra tư cách chủ thể cho quốc gia mới trong quan hệ quốc tế. Ngoài việc khẳng định sự tồn tại của quốc gia đó trong thực tiễn quan hệ quốc tế (học thuyết tuyên bố), sự công nhận này chính là cơ sở để các bên hữu quan thiết lập quan hệ hợp tác nhiều mặt phụ thuộc vào từng trường hợp cơng nhận cụ thể.

Dưới góc độ luật quốc tế, tư cách chủ thể luật quốc tế của quốc gia hoàn tồn khơng phụ thuộc vào hành vi cơng nhận của các quốc gia khác. Ngay cả khi chưa được công nhận, quốc gia với đầy đủ các yếu tố cấu thành vẫn đương nhiên là chủ thể luật quốc tế với tất cả quyền năng chủ thể của quốc gia - chủ thể cơ bản và phổ biến của luật quốc tế.

Mặc dù quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia mới được công nhận không phụ thuộc vào sự công nhận của cộng đồng quốc tế, nhưng nếu không được công nhận hoặc chỉ được số ít các quốc gia cơng nhận thì quốc gia mới - đối tượng của hành vi công nhận sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong q trình hội nhập với thế giới.

- Cơng nhận chính phủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Công nhận trong quan hệ quốc tế thường được hiểu là công nhận quốc gia mới hình thành. Tuy nhiên, trong thực tiễn, hành vi cơng nhận cịn được thực hiện hướng tới đối tượng khác, đó là chính phủ mới được thành lập tại một quốc gia theo con đường vi

cơng nhận chính phủ mới khơng phải là cơng nhận một chủ thể mới của luật quốc tế mà chỉ là công nhận người đại diện hợp pháp cho một quốc gia trên trường quốc tế.

c. Các hình thức và phương pháp cơng nhận

Các hình thức cơng nhận được coi là cơng cụ để xác định mức độ và hệ quả pháp lý phát sinh từ hành vi công nhận. Xuất phát từ thực tiễn quan hệ quốc tế về vấn đề này, khoa học luật quốc tế đã xác lập ba hình thức công nhận sau đây:

- Công nhận de Jure (công nhận pháp lý)

Đây là hình thức cơng nhận chính thức, ở mức độ cao nhất (công nhận pháp lý) và được sử dụng tương đối phổ biến trong sinh hoạt quốc tế. Công nhận de jure thường dẫn đến các hệ quả pháp lý quan trọng: từ khả năng thiết lập quan hệ ngoại giao và lãnh sự cho đến công nhận hệ thống pháp luật và áp dụng luật của quốc gia được công nhận, cũng như thi hành án quyết của tòa án quốc gia này đưa ra. Bằng hình thức cơng nhận de jure, quốc gia công nhận mong muốn thiết lập quan hệ hợp tác và phát triển toàn diện đối với quốc gia được công nhận.

- Công nhận de facto (công nhận thực tế)

Đây cũng là hình thức cơng nhận chính thức, nhưng mức độ và phạm vi cơng nhận khơng tồn diện, cịn bị hạn chế so với cơng nhận de jure. Hình thức cơng nhận de facto là cơng nhận trên thực tế, là kiểu cơng nhận trong q trình tiến đến cơng nhận de jure. Hình thức cơng nhận này cũng làm phát sinh các hệ quả pháp lý nhất định, nhưng ở phạm vi hẹp hơn như: công nhận de facto chỉ có thể dẫn đến thiết lập quan hệ lãnh sự giữa 2 quốc gia hữu quan (quốc gia công nhận và quốc gia được công nhận). Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, hình thức công nhận này thường được các quốc gia sử dụng khi bên <small> </small>

<small>2 Chính phủ lên cầm quyền do kết quả của nội chiến, đảo chính quân sự. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

cơng nhận cịn có những quan ngại nhất định về đường lối, chính sách đối nội hoặc đối ngoại của bên được công nhận, nhưng vì quyền lợi và lợi ích của mình bên công nhận không thể thờ ơ trước thực tế, do vậy họ chọn hình thức cơng nhận de facto là đảm bảo nhất trong bối cảnh quốc tế cực kỳ “nhạy cảm” đối với họ.

- Công nhận ad hoc (cơng nhận vụ việc)

Đây là hình thức cơng nhận khơng chính thức và được các quốc gia sử dụng khi giữa các bên hữu quan chưa công nhận nhau ở hình thức de jure hoặc de facto, nhưng giữa họ lại phát sinh các vấn đề quan trọng và cấp thiết cần giải quyết thông qua đàm phán và thương lượng. Chính vì vậy, cơng nhận ad hoc thường được áp dụng nhằm tiến hành các cuộc thương lượng với quốc gia hoặc chính phủ chưa được cơng nhận chính thức để giải quyết các vấn đề phát sinh.

Các phương pháp công nhận được coi là phương thức để thực hiện các hình thức cơng nhận nêu trên. Trong quan hệ quốc tế, có hai phương pháp công nhận là công nhận minh thị và công nhận mặc thị

Trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế, hình thức công nhận de jure và công nhận de facto đều có thể được thực hiện bằng một trong hai phương pháp công nhận nêu trên. Tuy nhiên, phương pháp công nhận minh thị thường được áp dụng cho hình thức cơng nhận de jure, cịn công nhận de facto lại thường được tiến hành bằng phương pháp cơng nhận mặc thị. Ngồi ra, các nước có thể thực hiện hành vi cơng nhận quốc gia mới theo cách riêng lẻ, độc lập dựa trên cơ sở chủ quyền của mình hoặc cơng nhận tập thể cùng với quốc gia khác trong khuôn khổ một điều ước quốc tế đa phương. Ví dụ Liên minh Châu âu đã công nhận các quốc gia mới thành lập sau sự tan rã của Cộng hòa liên bang Nam tư vào thập niên 90 của thế kỷ trước.

<i>d. Hệ quả pháp lý của sự công nhận trong quan hệ quốc tế </i>

Mặc dù công nhận không tạo ra chủ thể mới, không tạo ra quyền năng chủ thể của quốc gia được công nhận với những hệ quả pháp lý của nó. Tuy nhiên, xuất phát từ góc độ thực tiễn, hành vi công nhận sẽ làm phát sinh một loạt các quan hệ pháp lý quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào trong quan hệ quốc tế cũng mong muốn có được chúng trong quá

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

trình tham gia vào sinh hoạt quốc tế. Cịn ngược lại, nếu khơng được cơng nhận từ phía các quốc gia khác thì quốc gia mới sẽ khó có thể tham gia đầy đủ vào đời sống quốc tế và đương nhiên sẽ không thể nhận được các hệ quả tích cực sau đây:

Thứ nhất, giải quyết triệt để quy chế pháp lý của bên được công nhận, tạo ra những điều kiện thuận lợi để các bên hữu quan thiết lập các quan hệ nhiều mặt với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế, phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của các bên có liên quan.

Thứ hai, ký kết các điều ước quốc tế song phương giữa bên công nhận và bên được công nhận thể hiện sự thống nhất ý chí, nguyện vọng về các quyền và nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ điều ước quốc tế là hệ quả pháp lý tiếp theo của hành vi công nhận

Thứ ba, tạo điều kiện và hồn cảnh thuận lợi cho quốc gia được cơng nhận tham gia dễ dàng vào các hội nghị quốc tế và các tổ chức quốc tế phổ cập.

Thứ tư, tạo ra các hệ quả pháp lý khác trong thực tế giữa hai bên hữu quan, chẳng hạn tạo điều kiện thuận lợi cho quốc gia mới (hoặc chính phủ mới) khả năng thực tế để bảo về quyền miễn trừ quốc gia và miễn trừ tư pháp đối với tài sản của nước mình trên lãnh thổ của quốc gia công nhận, đồng thời tạo ra những cơ sở pháp lý ổn định nhằm tạo dựng hợp pháp việc quốc gia công nhận cho phép thực hiện án quyết của quốc gia được công nhận trên lãnh thổ quốc gia cơng nhận, sau khi quốc gia đó thơng qua thủ tục công nhận hiệu lực thi hành của các án quyết này.

4. Kế thừa quốc gia trong luật quốc tế

<i>a. Khái niệm </i>

<i>Theo khoa học luật quốc tế, kế thừa trong luật quốc tế được hiểu là sự thay thế quốc gia này bằng quốc gia khác trong việc gánh vác trách nhiệm trong quan hệ quốc tế của vùng lãnh thổ tương ứng, đồng thời thực hiện các quyền và nghĩa vụ tồn tại tới thời điểm này. </i>

Trong việc thực hiện kế thừa theo luật quốc tế, xuất hiện mối quan hệ quốc tế với 2 bên tham gia: quốc gia để lại kế thừa là quốc gia hoàn toàn hoặc một phần được thay thế bởi chủ thể mới gánh vác trách nhiệm trong quan hệ quốc tế, còn bên thứ hai là quốc

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

gia được quyền kế thừa, đây là quốc gia sẽ gánh vác trách nhiệm trong quan hệ quốc tế cho quốc gia để lại kế thừa vào thời điểm chuyển giao kế thừa. Theo khoa học luật quốc tế, thuật ngữ “thời điểm kế thừa” xác định cụ thể ngày quốc gia để lại quyền thừa kế chính thức được thay thế bằng quốc gia kế thừa trong việc gánh vác các trách nhiệm pháp lý nêu trên.

Từ góc độ pháp luật cũng như thực tiễn, quan hệ kế thừa cần được điều chỉnh tương đối đa dạng, cụ thể quyền kế thừa của quốc gia bao trùm lên các điều ước quốc tế, các tài sản của quốc gia, tài liệu lưu trữ, công nợ quốc gia, lãnh thổ và biên giới quốc gia, quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế.... Đây là những đối tượng của quan hệ kế thừa đã được ghi nhận trong luật quốc tế, trong đó kế thừa điều ước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì đa số các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của quốc gia liên quan đến các đối tượng thừa kế khác như lãnh thổ, biên giới quốc gia, tài sản và công nợ quốc gia … đều được quy định trong các điều ước quốc tế hữu quan. Phụ thuộc vào từng trường hợp kế thừa cụ thể mà mức độ quan tâm giải quyết với từng đối tượng kế thừa có sự khác nhau nhất định. Trong thực tiễn quốc tế, kế thừa được đặt ra trong các trường hợp sau đây:

- Kế thừa do kết quả của cách mạng xã hội, như nước Nga xô viết kế thừa nước Nga sa hoàng sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917…

- Kế thừa do kết quả của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, như Việt Nam dân chủ cộng hòa kế thừa Cộng hoà Pháp đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.

- Kế thừa do phân chia hoặc sáp nhập quốc gia, ví dụ: Tiệp Khắc phân chia thành Sec và Xlovakia, hay Cộng hòa dân chủ Đức sáp nhập với Cộng hòa liên bang Đức …

- Kế thừa do có sự thay đổi một bộ phận lãnh thổ. Như Hồng Kong, Macao được chuyển giao lại cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa…

<i>b . Nguồn luật điều chỉnh quan hệ kế thừa </i>

- Điều ước quốc tế

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Quan trọng và được quan tâm nhất là điều ước quốc tế giữa các chủ thể hữu quan về giải quyết các vấn đề kế thừa phát sinh giữa chúng. Điển hình là hai cơng ước quốc tế về kế thừa quốc gia, đó là Công ước Viên về kế thừa điều ước quốc tế năm 1978 và Công ước Viên về kế thừa tài sản, tài liệu lưu trữ và công nợ quốc gia năm 1983 đã được soạn thảo và thông qua.

- Tập quán quốc tế và các nguồn khác

Tập quán quốc tế là nguồn quan trọng của định chế kế thừa, chúng có vai trị và vị trí được đánh giá ngang bằng với các điều ước quốc tế chuyên biệt về kế thừa được ký kết giữa các quốc gia hữu quan. Trong thời điểm hiện tại, vị trí và vai trò này của tập quán quốc tế vẫn được duy trì khi quá trình pháp điển hóa đã được tiến hành, nhưng kết quả khơng được như mong muốn của cộng đồng quốc tế. Nhiều quốc gia không tham gia hai công ước quốc tế về kế thừa do trong nội dung pháp lý của chúng có những quy định

Ngồi ra, các phán quyết, các quyết định của cơ quan quốc tế có thẩm quyền cũng như thực tiễn quốc tế có vai trị quan trọng không nhỏ trong giải quyết kế thừa quốc gia. Đồng thời trong một số trường hợp, xác định các văn bản pháp lý và các văn bản khác của quốc gia cũng thể hiện ảnh hưởng nhất định trong quá trình giải quyết các vấn đề pháp lý của kế thừa.

<i>c. Thực tiễn giải quyết trong các trường hợp kế thừa </i>

- Kế thừa quốc gia do kết quả của cách mạng xã hội

Theo quan điểm của một số học giả luật quốc tế, các quy định về kế thừa cũng được áp dụng trong trường hợp xuất hiện sự thay đổi cơ bản về nền tảng chính trị - xã hội của quốc gia, ví dụ: Nước Nga xơ viết thay thế Nga Sa hoàng năm 1917 sau cách mạng tháng 10 Nga, hay CHND Trung hoa thay thế cho Trung quốc cũ (Trung hoa dân quốc) vào năm 1949, hoặc nước Cuba XHCN đã thay thế nước Cuba với chế độ độc tài vào năm 1959....

<small> 3 Luật quốc tế - MGIMO – Matx cơ va 2007 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Trong các trường hợp xuất hiện quốc gia mới này, quốc gia kế thừa thường giải quyết kế thừa điều ước quốc tế dựa trên cơ sở tự do lựa chọn. Nghĩa là phụ thuộc vào nội dung của các điều ước mà quốc gia quyết định có kế thừa hay khơng. Cụ thể như, nước Pháp sau cuộc cách mạng tư sản năm 1789 đã tuyên bố không bị ràng buộc bởi các điều ước quốc tế của các bạo chúa, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế mà nước Pháp quân chủ là thành viên sẽ không được nước Pháp cách mạng kế thừa. Nước Nga xô viết sau cách mạng tháng 10 năm 1917 đã ban hành Sắc lệnh hịa bình ngày 26 tháng 10 năm 1917 ghi nhận việc nước Nga Xô viêt cũng không kế thừa các điều ước quốc tế bí mật mà nước Nga sa hồng ký với nước ngoài. Đây là những điều ước quốc tế nơ dịch, bất bình đẳng đi ngược lại tư tưởng nhân đạo của nước Nga xô viết. Tuy nhiên nước Nga mới vẫn kế thừa các điều ước quốc tế hịa bình, hữu nghị và thân thiện, tiếp tục thực thi và tuân thủ các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế này. Đối với các món nợ nước ngồi, nước Nga Xô viết tuyên bố không kế thừa, hủy bỏ quyền tài phán của mình ở các nước phương Đơng. Trong khi đó nước Nga xơ viết kế thừa các điều ước quốc tế về biên giới, về nhân đạo, về thư tín, viễn thơng và tất cả những gì phát sinh từ quan hệ láng giềng thân thiện, không mâu thuẫn với ý thức pháp luật của nền dân chủ nói chung và của quần chúng nhân dân lao động nói riêng. Chính vì vậy, quyền kế thừa tài sản của nước Nga cũ dù ở trong hay ngồi nước Nga là tất yếu vì đây là thành quả lao

Nhìn chung, vấn đề kế thừa quốc gia sau cách mạng xã hội rất phức tạp và được giải quyết khác nhau. Mức độ hiệu quả của việc giải quyết vấn đề kế thừa thường bị chi phối bởi các yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể. Bên cạnh đó, luật quốc tế hiện đại chưa có những quy phạm chung, thống nhất cách giải quyết vấn đề kế thừa trong trường hợp này, hai công ước về kế thừa năm 1978 và 1983 đều khơng có điều khoản nào điều chỉnh quan hệ kế thừa quốc gia sau cách mạng xã hội.

- Kế thừa quốc gia do kết quả đấu tranh giải phóng dân tộc Loại hình kế thừa này có những đặc điểm sau đây:

<small> </small>

<small>4 Luật quốc tế - Đại học Luật Hà Nội – Hà Nội 2004 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

+ Quốc gia mới thành lập là thuộc địa hoặc lãnh thổ phụ thuộc của quốc gia khác + Quốc gia để lại kế thừa vẫn tồn tại và vẫn là chủ thể của luật quốc tế

- Quốc gia để lại kế thừa đã bóc lột và chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên của quốc gia kế thừa.

Hai công ước Viên 1978 và 1983 về kế thừa đều có những điều khoản quan trọng điều chỉnh loại hình kế thừa này. Theo đó, quốc gia mới khơng bị ràng buộc bởi các điều ước quốc tế do quốc gia để lại kế thừa (quốc gia chính quốc) thay mặt họ ký kết trong

phải nghĩa vụ của quốc gia kế thừa. Đối với vấn đề kế thừa tài sản và công nợ quốc gia, Công ước về kế thừa năm 1983 thừa nhận quyền kế thừa chính đáng của các quốc gia mới đối với tài sản. Vì vậy, tài sản quốc gia phải được chuyển giao cho quốc gia kế thừa.

Quy định này hoàn toàn hợp lý nếu xét dưới góc độ lịch sử thống trị của các quốc gia đế quốc – thực dân đối với các quốc gia mới thành lập vốn là lãnh thổ thuộc địa trước kia của các nước này.

Vấn đề kế thừa các tài liệu, hồ sơ lưu trữ quốc gia cũng được điều chỉnh trong Công ước Viên 1983 về kế thừa. Theo các quy định của Công ước, số lượng các tài liệu, hồ sơ lưu trữ quốc gia cần phải được chuyển giao cho quốc gia kế thừa là rất lớn. Như vậy, quyền kế thừa các tài liệu, hồ sơ lưu trữ quốc gia mặc nhiên đã được khẳng định trong Công ước Viên 1983 về kế thừa.

- Kế thừa quốc gia do phân chia quốc gia

Vấn đề kế thừa trong trường hợp này sẽ phát sinh khi một quốc gia được phân chia thành nhiều quốc gia mới, hoặc một phần lãnh thổ của quốc gia tách ra thành lập một quốc gia mới không phụ thuộc vào việc quốc gia để lại kế thừa có cịn tồn tại hay khơng, ví dụ Liên xơ cũ sụp đổ dẫn đến sự xuất hiện 15 quốc gia mới, Đông Timo tách khỏi Indonesia thành lập quốc gia mới là Cộng hồ Đơng Timo…

<small> </small>

<small>5 Điều 16 Công ước 1978 về kế thừa điều ước quốc tế </small>

<small>6 Điều 38 Công ước 1983 về kế thừa </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Trong vấn đề kế thừa điều ước quốc tế, các quốc gia mới có thể tiếp tục thực thi điều ước quốc tế, trừ trường hợp các quốc gia tham gia quan hệ kế thừa có thỏa thuận khác hoặc các điều kiện để tiếp tục duy trì hiệu lực của điều ước quốc tế đó đã thay đổi

Tài sản quốc gia là đối tượng kế thừa cũng được điều chỉnh trong công ước Viên 1983, theo đó tài sản được chia làm động sản và bất động sản. Công ước này quy định bất động sản hiện diện trên lãnh thổ quốc gia mới sẽ thuộc về quốc gia mới (quốc gia kế thừa), còn động sản và các khoản công nợ quốc gia được phân chia theo tỷ lệ công bằng cho các

Vấn đề kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế được giải quyết rất khác nhau, thực tiễn quan hệ quốc tế về vấn đề này trong khuôn khổ Liên hợp quốc đã chỉ rõ, quốc gia mới thành lập có quyền kế thừa quy chế thành viên của quốc gia để lại kế thừa tại tổ chức quốc tế. Ví dụ: Sau khi Tiệp khắc phân chia thành 2 quốc gia độc lập là Sec và Xlovakia, hai nước này đã kế thừa quy chế thành viên của Tiệp khắc tại Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế chuyên môn khác…Tuy nhiên, một số quốc gia tách ra từ Liên xô cũ lại trở thành thành viên củ Liên hợp quốc bằng con đường gia nhập chứ không phải do kế thừa.

- Kế thừa quốc gia do hợp nhất quốc gia

Vấn đề kế thừa trong trường hợp này phát sinh khi hai hoặc nhiều quốc gia (quốc gia để lại kế thừa) hợp nhất lại với nhau để thành lập một quốc gia mới (quốc gia kế thừa). Về nguyên tắc, các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia để lại kế thừa với quốc gia kế thừa sẽ chấm dứt hiệu lực vì sau khi hợp nhất, mối quan hệ giữa các quốc gia này đã thay đổi cơ bản về chất. Đối với các điều ước quốc tế được ký giữa các quốc gia để lại thừa kế với các nước thứ 3, hiệu lực của các điều ước quốc tế này vẫn được duy trì đối với quốc gia kế thừa, trừ trường hợp việc áp dụng các điều ước quốc tế nêu trên không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước hoặc các điều kiện để tiếp tục

<small> 7 Điều 34 và 35 công ước 1978 về kế thừa </small>

<small>8 Điều 40 Công ước Viên 1983 </small>

<small>9 Điều 31 Công ước viên 1978 về kế thừa </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Thực tiễn quốc tế về giải quyết vấn đề kế thừa này cũng rất đa dạng và khơng thống nhất. Tồn bộ tài sản, công nợ và hồ sơ lưu trữ của quốc gia để lại kế thừa sẽ được chuyển giao cho quốc gia mới (quốc gia kế thừa) theo trình tự kế thừa. Trong vấn đề kế thừa quy chế thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ, Cơng ước Viên năm 1983 khơng có điều khoản tương ứng điều chỉnh vấn đề này. Thực tiễn quốc tế cho thấy, quốc gia mới được thành lập sau khi hợp nhất có thể trở thành thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ theo trình tự thủ tục kế thừa, chứ khơng phải gia nhập, ví dụ: nước Đức thống nhất, nước Iemen sau khi hợp nhất là thành viên Liên hợp quốc theo quy chế kế thừa chứ khơng phải theo trình tự gia nhập.

- Kế thừa quốc gia do có sự thay đổi về lãnh thổ

Khi có sự thay đổi về lãnh thổ phù hợp với luật quốc tế hiện đại, như chuyển nhượng một phần lãnh thổ hay sáp nhập một phần lãnh thổ của quốc gia này vào lãnh thổ của quốc gia khác theo các điều ước quốc tế hữu quan về thay đổi lãnh thổ, cộng đồng quốc tế thường áp dụng nguyên tắc dịch chuyển đường biên giới quốc gia theo điều ước quốc tế. Nội dung chính của nguyên tắc này được thể hiện qua các quy định cơ bản sau đây:

+ Các điều ước quốc tế của quốc gia để lại kế thừa sẽ chấm dứt hiệu lực tại phần lãnh thổ quốc gia kể từ thời điểm chuyển giao phần lãnh thổ đó cho quốc gia kế thừa. Đồng thời các điều ước quốc tế của quốc gia kế thừa sẽ chính thức có hiệu lực tại phần lãnh thổ được chuyển giao, trừ trường hợp việc áp dụng các điều ước quốc tế của quốc gia kế thừa mâu thuẫn với đối tượng và mục đích của các điều ước quốc tế hoặc số lượng

Tuy nhiên, trong trường hợp có sự thay đổi về lãnh thổ, các điều ước quốc tế về đường biên giới của lãnh thổ được chuyển giao vẫn có hiệu lực pháp luật đối với các quốc gia thứ 3 (quốc gia thành viên của điều ước quốc tế về biên giới nhưng không phải là quốc gia tham gia quan hệ kế thừa), đây là nghĩa vụ pháp lý phải tuân thủ. Tất cả các vấn đề còn lại của quan hệ kế thừa phát sinh khi chuyển giao lãnh thổ từ quốc gia này cho quốc gia khác như: địa vị pháp lý của công dân, tài sản và quyền sở hữu … thường được <small> </small>

<small>10 Điều 15 Công ước Viên về kế thừa </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

giải quyết theo các quy định của một điều ước quốc tế chuyên môn về chuyển giao lãnh thổ được ký kết giữa các quốc gia có liên quan.

III. TỔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN CHÍNH PHỦ - CHỦ THỂ PHÁI SINH CỦA LUẬT QUỐC TẾ.

1.Khái niệm

<i>Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết các chủ thể luật quốc tế, trước tiên và chủ yếu là các quốc gia độc lập có chủ quyền, được thành lập dựa trên cơ sở điều ước quốc tế, có hệ thống cơ cấu tổ chức hồn chỉnh thực hiện các thẩm quyền và chức năng được ghi nhận trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế, có tư cách chủ thể luật quốc tế để thực hiện các mục đích, tơn chỉ của tổ chức quốc tế. </i>

Ngoại trừ một số tổ chức quốc tế nhất định, hầu hết các tổ chức liên chính phủ khác đều có thành viên là quốc gia. Về nguyên tắc, các tổ chức quốc tế đều phải có một bộ máy hồn chỉnh với các cơ quan chính và cơ quan giúp việc đảm bảo cho các tổ chức quốc tế có thể hoạt động ổn định và thường xuyên nhằm thực hiện các tôn chỉ và mục đích hoạt động của tổ chức quốc tế. Dựa trên cơ sở chủ quyền quốc gia, mỗi nước thành viên đều có quyền gia nhập hoặc rút khỏi tổ chức quốc tế mà khơng có sự áp đặt bắt buộc bất kỳ nào. Quyền này bị chi phối bởi lợi ích của quốc gia và các quy định có liên quan về quy chế thành viên của tổ chức quốc tế.

Cùng là chủ thể quan trọng của luật quốc tế, nhưng khác với quốc gia – chủ thể chủ yếu và cơ bản, tổ chức quốc tế là chủ thể phái sinh của luật quốc tế. Đặc điểm cơ bản này của tổ chức quốc tế liên chính phủ phát sinh từ bản chất pháp lý của quá trình thành lập và hoạt động của tổ chức quốc tế. Vì vậy, quyền năng chủ thể của chúng không xuất hiện một cách đương nhiên mà phải có sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên thống nhất trao cho tổ chức quốc tế. Nhìn chung, quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế được ghi nhận trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế hoặc được thể hiện trong thực tiễn, thông qua các hoạt động chức năng của nó. Trên bình diện quốc tế, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của từng tổ chức quốc tế hồn tồn khơng giống nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

2. Những vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức quốc tế liên chính phủ a. Quy chế thành viên

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

BÀI 3: LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

I. KHÁI NIỆM LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Định nghĩa

<i>Luật điều ước quốc tế là một ngành luật thuộc hệ thống pháp luật quốc tế bao gồm tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế, điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế. </i>

2. Nguồn của luật điều ước quốc tế

Các nguyên tắc, quy phạm của luật điều ước quốc tế được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế.

Các quy phạm tập quán của luật điều ước quốc tế được hình thành chủ yếu từ chính thực tiễn đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của các quốc gia. Hiện nay, những tập quán quốc tế liên quan đến thủ tục, nghi lễ ký kết điều ước quốc tế vẫn được các chủ thể kết ước áp dụng trong quá trình thiết lập các quan hệ điều ước quốc tế với nhau.

Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế được coi là nguồn pháp luật thành văn chủ yếu của luật điều ước quốc tế hiện hành.

Về phương diện pháp lý, các quốc gia sử dụng luật điều ước quốc tế như phương tiện pháp luật phổ cập để hình thành và phát triển hệ thống các điều ước quốc tế mang tính chất vừa là nguồn chứa đựng các quy phạm luật quốc tế, vừa là công cụ pháp lý hiệu quả để duy trì quan hệ hợp tác quốc tế của các chủ thể luật quốc tế.

3. Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế - Tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết điều ước quốc tế

- Điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế

- Tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda)

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

II. KHÁI NIỆM ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Định nghĩa

<i>Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó. </i>

Định nghĩa trên đây đã thể hiện được những đặc điểm cơ bản nhất của một điều ước, đó là:

- Về hình thức : Phải là thoả thuận thành văn

- Về chủ thể ký kết : Phải do các chủ thể luật quốc tế thoả thuận ký kết - Về luật điều chỉnh : Phải là luật quốc tế

Với những đặc điểm nêu trên, có thể phân biệt điều ước quốc tế với một văn kiện quốc tế không phải là điều ước, mặc dù văn kiện đó có thể giống với văn bản điều ước quốc tế về tên gọi.

2. Về hình thức của điều ước quốc tế

- Tên gọi của điều ước quốc tế : Điều ước quốc tế là tên khoa học pháp lý chung để chỉ các văn bản pháp luật quốc tế do hai hay nhiều chủ thể luật quốc tế ký kết. Trong từng quan hệ điều ước cụ thể, điều ước có thể được gọi bằng rất nhiều tên gọi khác nhau như hiệp ước, hiệp định, công ước, hiến chương, quy chế...Việc xác định tên gọi cụ thể cho một điều ước do các chủ thể ký kết điều ước đó thỏa thuận quyết định. Vì vậy, tính chất điều ước của một văn bản pháp lý quốc tế không phụ thuộc vào tên gọi

- Cơ cấu của điều ước quốc tế : Hầu hết các điều ước quốc tế song phương và đa phương thường được kết cấu thành ba phần: Phần lời nói đầu ; Phần nội dung chính ; Phần cuối cùng

- Ngôn ngữ của điều ước : Các ngôn ngữ được lựa chọn trong văn bản điều ước thường là ngơn ngữ làm việc chính thức của Liên hợp quốc hoặc ngôn ngữ của các bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

ký kết (đối với điều ước song phương). 3. Về nội dung

Khác với các loại văn kiện quốc tế khác như tuyên bố chính trị, một số thoả thuận quốc tế.., điều ước quốc tế chứa đựng các cam kết đã được các chủ thể ký kết thoả thuận thống nhất, thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật quốc tế nhằm trực tiếp điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong từng lĩnh vực hợp tác nhất định. Trong thực tiễn quốc tế, nội dung cơ bản của từng điều ước cụ thể thường được thể hiện ngay ở tên gọi của chính điều ước đó, ví dụ như Hiệp định về bảo hộ công dân, Hiệp định về biên giới, Hiệp định về đầu tư, Hiệp định về dẫn độ....

4. Phân loại điều ước quốc tế

Với sự đa dạng của các điều ước quốc tế hiện nay, từ thực tiễn tồn tại của điều ước quốc tế trong quan hệ quốc tế, có thể phân chia điều ước quốc tế dựa trên một số tiêu chí nhất định. Cụ thể:

- Căn cứ vào các bên ký kết điều ước, có các loại điều ước: Điều ước song phương; Điều ước đa phương (khu vực hoặc toàn cầu);

- Căn cứ vào lĩnh vực điều chỉnh của điều ước, có các loại điều ước: Điều ước về chính trị, an ninh, biên giới lãnh thổ…;Điều ước về kinh tế; Điều ước về văn hoá- khoa học - kỹ thuật.

Ngoài ra, trong một số tài liệu, sách báo khác nhau, một số tác giả còn phân loại điều ước quốc tế thành điều ước khế ước, điều ước luật hoặc điều ước thời bình, điều ước thời chiến...

Luật điều ước quốc tế của Viẹt Nam năm 2005 phân chia điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thành 2 loại : điều ước quốc tế nhân danh nhà nước (ví dụ như điều ước do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu nhà nước khác ; điều ước về hoà bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia...) và điều ước quốc tế nhân danh chính phủ (ví dụ như điều ước để thực hiện điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

ước quốc tế đã được ký kết hoặc gia nhập nhân danh nhà nước...)<sup>1</sup>. III. KÝ KẾT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

1. Thẩm quyền ký kết

<i>a. Các quốc gia </i>

Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia đều có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Đây chính là loại quyền năng chủ thể luật quốc tế phổ biến của quốc gia. Thực tế cho thấy, trên cơ sở của sự thỏa thuận, quốc gia có thể từ chối một phần, toàn bộ hoặc chuyển cho một quốc gia hay tổ chức quốc tế khác thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Trong hầu hết các trường hợp, các quốc gia đều trực tiếp thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Tuy nhiên, pháp luật của một số quốc gia cũng như thoả thuận giữa các quốc gia là cơ sở để xuất hiện một số trường hợp thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế tương đối đặc biệt như quốc gia đại diện cho quốc gia khác, tổ chức quốc tế liên chính phủ đại diện cho quốc gia.

<i>b. Các tổ chức quốc tế </i>

Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế xuất phát từ quyền năng chủ thể luật quốc tế của các tổ chức quốc tế và thường được ghi nhận trong Hiến chương và các văn bản pháp lý khác của tổ chức quốc tế. Tổ chức quốc tế có thể ký kết các điều ước quốc tế với các quốc gia, kể cả quốc gia thành viên như các điều ước quốc tế về đặt trụ sở của tổ chức, các điều ước liên quan đến các khoản vay tín dụng mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các quốc gia... Tổ chức quốc tế cũng có thể ký kết các điều ước quốc tế với các tổ chức quốc tế khác như các hiệp định chuyên môn được ký kết giữa Liên hợp quốc với Tổ chức lao động quốc tế (ILO), với Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO)...Hiến chương ASEAN năm 2007 cũng cho phép ASEAN có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Tuy nhiên, do tính chất quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế nên thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế của chủ thể này không giống như thẩm quyền của các quốc gia. Vì vậy, khơng phải điều ước quốc tế nào các tổ chức quốc tế cũng có thể tham gia.

<small> </small>

<small>1 Xem thêm điều 7 luật điều ước quốc tế năm 2005 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Thực tiễn của hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế còn cho thấy một số thực thể như Toà thánh Vaticăng, Hồng Kông, Ma Cao... cũng tham gia ký kết một số điều ước quốc tế nhất định.

Để ký kết điều ước quốc tế, các chủ thể thông qua đại diện của mình. Các đại diện ký có thể là đại diện đương nhiên hoặc đại diện theo ủy quyền. Theo thông lệ quốc tế và thực tiễn pháp luật của các quốc gia, đại diện đương nhiên bao gồm:

- Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng bộ ngoại giao trong mọi hành động liên quan đến việc ký kết điều ước quốc tế;

- Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế giữa nước cử cơ quan đại diện và nước sở tại;

- Những người thay mặt cho quốc gia mình tại một hội nghị quốc tế hoặc tại tổ chức quốc tế trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế trong khuôn khổ của hội nghị hoặc tổ chức đó.

Đối với những đại diện theo ủy quyền phải có thư ủy nhiệm để tham gia vào quá trình ký kết điều ước quốc tế. Theo Điều 8 Công ước Viên năm 1969, nếu một điều ước quốc tế được ký kết hoặc thông qua bởi những người không đủ tư cách đại diện cho quốc gia mình thì điều ước đó có thể sẽ khơng có hiệu lực.

2. Trình tự ký kết điều ước quốc tế

<i>a. Giai đoạn hình thành văn bản điều ước quốc tế </i>

Các hành vi được thực hiện trong giai đoạn này gồm đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước nhằm tạo lập văn bản điều ước quốc tế. Nếu đàm phán thành công, văn bản dự thảo điều ước sẽ được soạn thảo chính thức để các bên thông qua. Việc soạn thảo văn bản điều ước sẽ do một cơ quan có thẩm quyền được các bên lập ra (hoặc thừa nhận) tiến hành hoặc do một cơ quan bao gồm đại diện của các bên tiến hành.

Thông qua văn bản điều ước là thủ tục không thể thiếu. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, có nhiều cách để thông qua văn bản điều ước, như biểu quyết, thỏa thuận miệng... Văn bản đã được các bên nhất trí thơng qua là văn bản cuối cùng, các chủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

thể kết ước không được đơn phương sửa đổi, chỉnh lý hoặc bổ sung mới.

<i>b. Giai đoạn xác nhận sự ràng buộc với điều ước quốc tế. </i>

Để xác nhận sự ràng buộc với điều ước quốc tế, các chủ thể luật quốc tế có thể thực hiện các hành vi ký, phê duyệt, phê chuẩn hay gia nhập điều ước. Bản chất của những hành vi này là nhằm thực hiện sự ràng buộc quốc gia với điều ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó.

<i>- Các hình thức ký điều ước quốc tế: Có ba hình thức ký điều ước, đó là ký tắt; ký </i>

ad referendum (ký có điều kiện); ký đầy đủ (ký chính thức)

Trong các hình thức ký nên trên, ký đầy đủ là hình thức ký phổ biến nhất và được áp dụng cho cả điều ước song phương và điều ước quốc tế đa phương. Mặc dù điều ước quốc tế có thể chưa có hiệu lực thi hành sau khi được ký chính thức, nhưng hành vi ký đã thể hiện rõ ý định của quốc gia ký trong việc ràng buộc với điều ước quốc tế nên trong thời gian điều ước chưa có hiệu lực, quốc gia đó khơng được có những hành vi có thể làm ảnh hưởng đến mục đích và đối tượng của điều ước quốc tế .

- Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế

Phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế là những hành vi pháp lý của một chủ thể luật quốc tế, theo đó chủ thể này xác nhận sự đồng ý ràng buộc với một điều ước quốc tế nhất định. Việc có áp dụng hình thức phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế hay không được ghi nhận rõ ràng trong điều ước. Cơng ước Viên năm 1969 có quy định về các hình thức biểu thị sự đồng ý chịu ràng buộc đối với điều ước quốc tế của một quốc gia từ điều 11 đến điều 15.

Gia nhập điều ước quốc tế là hành động của một chủ thể luật quốc tế đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước quốc tế đa phương đối với chủ thể đó. Việc gia nhập thường được đặt ra đối với quốc gia khi thời hạn ký kết điều ước đã chấm dứt hoặc điều ước đã có hiệu lực mà quốc gia đó chưa phải là thành viên. Thủ tục gia nhập được quy định cụ thể trong phần cuối cùng của điều ước đó.

Trừ khi điều ước có quy định khác, thời điểm xác nhận sự đồng ý ràng buộc đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

điều ước quốc tế bằng hình thức phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập có thể được tính từ khi các bên ký kết trao đổi các văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập; từ khi quốc gia ký kết nộp lưu chiểu các văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập tại cơ quan lưu chiểu và khi thông báo những văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập cho các quốc gia kết ước hoặc cho cơ quan lưu chiểu...

<i>c. Bảo lưu điều ước quốc tế </i>

<i>- Định nghĩa : Theo Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thì "Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước đó, nhằm qua đó loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó". </i>

Bảo lưu (nếu có) chỉ có thể tiến hành vào giai đoạn quốc gia thực hiện các hành vi nhằm xác nhận sự ràng buộc của quốc gia đối với điều ước.

Phù hợp với mục đích của việc ký kết điều ước quốc tế và lợi ích của các quốc gia thành viên, luật điều ước quốc tế thừa nhận bảo lưu là quyền của các chủ thể khi tham gia ký kết điều ước quốc tế nhưng quyền này khơng phải là tuyệt đối mà nó bị hạn chế trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, một quốc gia sẽ không được phép đưa ra tuyên bố bảo lưu nếu điều ước quốc tế đó cấm bảo lưu, bảo lưu được đưa ra không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước...Quyền bảo lưu điều ước quốc tế của một quốc gia cũng sẽ bị hạn chế khi trong nội dung của điều ước đó chỉ cho phép bảo lưu đối với những điều khoản nhất định.

Trong thực tiễn thường có thể có hai hình thức quy định liên quan đến vấn đề bảo lưu điều ước, đó là trường hợp điều ước có điều khoản quy định về bảo lưu và trường hợp điều ước khơng có điều khoản quy định về bảo lưu. Ở trường hợp thứ nhất, nếu điều ước cho phép bảo lưu hoặc chỉ được bảo lưu những điều khoản cụ thể thì những vấn đề bảo lưu cần tuân thủ các quy định của chính điều ước quốc tế đó. Cịn với trường hợp thứ hai, nếu điều ước khơng có điều khoản quy định về bảo lưu thì Cơng ước Viên năm 1969 quy định. Theo đó:

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

+ Việc bảo lưu phải được tất cả các bên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành tồn bộ điều ước giữa tất cả các bên là điều kiện cần thiết dẫn tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối với điều ước;

+ Một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó khơng phản đối trong vịng 12 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu;

+ Nếu điều ước là văn kiện thành lập tổ chức quốc tế thì một bảo lưu cần được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó.

+ Thủ tục bảo lưu : Do bảo lưu có ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị hiệu lực của các điều khoản của điều ước quốc tế trong quan hệ giữa các bên nên theo quy định của Công ước Viên năm 1969, việc tuyên bố bảo lưu, rút bảo lưu, chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu đều phải được trình bày bằng văn bản và thông báo cho các bên liên quan.

- Hệ quả và ý nghĩa pháp lý của bảo lưu: Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước hoặc chấm dứt hiệu lực của điều khoản bị bảo lưu. Tuy nhiên, quan hệ giữa các thành viên của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi điều khoản bảo lưu. Sự thay đổi liên quan đến bảo lưu có thể khác nhau, tùy thuộc vào việc phản đối hoặc chấp thuận bảo lưu. Đối với nhiều thành viên, bảo lưu là giải pháp pháp lý để giải quyết hài hịa lợi ích riêng của quốc gia với lợi ích khi tham gia điều ước, qua đó góp phần tăng cường số lượng thành viên tham gia để điều ước có điều kiện hình thành và phát huy vai trò điều chỉnh các quan hệ quốc tế nảy sinh. IV. HIỆU LỰC CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

1. Hiệu lực của điều ước quốc tế theo không gian và thời gian

Một điều ước sẽ có hiệu lực thi hành khi thỏa mãn điều kiện chủ quan như phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với quy định về thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia và điều kiện khách quan là phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.

Khi một điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực sẽ ràng buộc các bên kết ước trong tồn lãnh thổ (khơng gian) thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước đó, trừ khi có các quy định khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Về thời gian, đa số các điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ hợp tác về thương mại, hàng hải, du lịch, các điều ước về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, về tránh đánh thuế hai lần... đều xác lập một cách rõ ràng, chính xác thời điểm bắt đầu có hiệu lực và thời điểm kết thúc hiệu lực của điều ước đó. Trong thực tiễn, có khơng ít các điều ước quốc tế chỉ xác định thời điểm bắt đầu có hiệu lực mà không quy định thời điểm kết thúc hiệu lực. Những điều ước này thường được gọi là điều ước vô thời hạn.

2. Hiệu lực của điều ước quốc tế và quốc gia thứ ba

Luật điều ước quốc tế quy định một điều ước quốc tế không tạo ra nghĩa vụ hay quyền hạn nào cho một quốc gia thứ ba - quốc gia không phải là thành viên của điều ước, trừ khi có sự đồng ý của quốc gia đó (Điều 34 Cơng ước Viên năm 1969).

Luật quốc tế nói chung và điều ước quốc tế nói riêng được hình thành trên cơ sở của sự thỏa thuận. Vì vậy, nếu một chủ thể luật quốc tế không tham gia vào quá trình thỏa thuận này thì về nguyên tắc, họ cũng không chịu sự ràng buộc của những điều ước quốc tế đó. Trong thực tế điều ước có thể phát sinh hiệu lực với quốc gia thứ ba trong một số trường hợp sau đây:

- Điều ước có điều khoản tối huệ quốc;

- Điều ước tạo ra các hoàn cảnh khách quan. Đây là những điều ước mà quốc gia thứ ba phải tôn trọng và tính đến trong quan hệ của họ với những quốc gia liên quan, như điều ước liên quan đến giao thông trên các sông quốc tế (sông Ranh, sông Đanuyp...) kênh đào quốc tế (kênh đào Panama, kênh đào Suer) và eo biển quốc tế (eo biển Gibranta, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ), điều ước về phân định biên giới;

- Quy định của điều ước quốc tế ràng buộc quốc gia thứ ba với tính chất của tập quán quốc tế.

3. Tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan tới hiệu lực của điều ước Trong thực tế, một điều ước quốc tế đã hoặc đang có hiệu lực, nhưng việc thi hành điều ước quốc tế vẫn có thể chịu sự tác động khác nhau của các yếu tố khách quan, chủ quan, dẫn đến hệ quả chấm dứt hiệu lực vĩnh viễn hoặc tạm thời đình chỉ hiệu lực của

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

điều ước đó, cụ thể:

- Những tác động mang tính chất khách quan, dẫn đến hệ quả điều ước chấm dứt hoàn toàn, như trường hợp do đối tượng của điều ước đã bị hủy bỏ hoặc khơng cịn tồn tại; điều ước quốc tế trái với một quy phạm bắt buộc chung (Jus cogens) mới xuất hiện của luật quốc tế. Riêng trường hợp do có sự thay đổi cơ bản các hồn cảnh (Rebus sic stantibus) thì theo Điều 62 Cơng ước Viên năm 1969 một quốc gia có thể viện dẫn một sự thay đổi cơ bản các điều kiện, hoàn cảnh hiện tại, so với các điều kiện, hoàn cảnh đã tồn tại vào lúc ký kết điều ước quốc tế mà các bên đã không dự kiến được để làm cơ sở hay lý do chấm dứt, rút ra khỏi điều ước. Tuy nhiên, các quốc gia không thể viện dẫn sự thay đổi này để hủy bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực của điều ước về xác lập biên giới. Ngoài ra, nếu sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh là do sự vi phạm của chính bên đã nêu ra lý do thì điều ước vẫn tiếp tục có hiệu lực thi hành.

- Yếu tố chủ quan tác động đến thực hiện điều ước thường xảy ra khi có sự vi phạm cơ bản đối với một điều ước. Trường hợp này được áp dụng trên nguyên tắc có đi có lại nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên ký kết. Một bên ký kết có quyền viện dẫn sự vi phạm của bên ký kết khác để chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thực hiện hiệu lực của toàn bộ hay một phần điều ước đã ký kết. Trong trường hợp các bên đã thỏa thuận về việc hủy bỏ hoặc tạm đình chỉ hiệu lực thi hành của điều ước thì chủ thể kết ước có quyền hành động theo thoả thuận trong điều ước đó.

Ngồi ra, hiệu lực thi hành một phần hay toàn bộ điều ước quốc tế có thể bị tác động bởi việc thực hiện các hành vi hợp pháp của chủ thể ký kết, như hành vi bảo lưu điều ước, hành vi thực hiện quyền kế thừa của chủ thể luật quốc tế trong giải quyết các vấn đề kế thừa quốc gia, chính phủ.

4. Thực hiện điều ước quốc tế

Trên cơ sở nguyên tắc Pacta sunt servanda, mọi thành viên của điều ước quốc tế phải triệt để tuân thủ điều ước quốc tế. Các thành viên của điều ước không thể viện dẫn sự khác biệt giữa điều ước quốc tế đã ký kết với luật quốc gia của nước đó để khơng thực hiện điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế phải được thực hiện trên phạm vi toàn lãnh thổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

của quốc gia kết ước, theo cơ chế đã quy định trong mỗi điều ước quốc tế hoặc theo quy định của luật quốc gia.

<i>a. Giải thích điều ước quốc tế </i>

Để thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi các bên phải hiểu đúng, chính xác các quy định của điều ước. Yêu cầu đó dẫn đến việc phải giải thích điều ước. Vấn đề giải thích điều ước được đặc biệt quan tâm khi các bên ký kết có ý kiến bất đồng về ý nghĩa thực sự của một hoặc một số điều khoản trong điều ước. Yêu cầu của việc giải thích điều ước là:

- Điều ước phải được giải thích thiện chí, phù hợp với ý nghĩa thông thường của các thuật ngữ được sử dụng trong điều ước và trong mối quan hệ với đối tượng và mục đích của điều ước.

- Việc giải thích điều ước phải căn cứ vào nội dung văn bản điều ước, các thỏa thuận có liên quan đến điều ước được các bên chấp nhận trong khi ký kết điều ước, các thỏa thuận sau này của các bên về giải thích và thực hiện điều ước, thực tiễn thực hiện điều ước liên quan đến việc giải thích điều ước và các quy định thích hợp của pháp luật quốc tế.

<i>b. Đăng ký và công bố điều ước quốc tế </i>

<i>Điều 102, Hiến chương Liên hợp quốc quy định: "Mọi hiệp ước và công ước do bất cứ thành viên nào của Liên hợp quốc ký kết, sau khi Hiến chương này có hiệu lực phải được đăng ký tại Ban thư ký và do Ban này công bố càng sớm càng tốt". </i>

Về nguyên tắc, điều ước có đăng ký hay khơng đăng ký đều không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước. Vì vậy, việc đăng ký hay khơng đăng ký điều ước hoàn toàn thuộc quyền của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, Điều 102 Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy

<i>định: "nếu không đăng ký theo quy định của khoản 1 điều này thì khơng một bên nào của điều ước được quyền viện dẫn hiệp ước hoặc công ước đó trước các cơ quan của Liên hợp quốc". </i>

Một trong những mục đích của hoạt động công bố và đăng ký điều ước quốc tế là nhằm công khai, minh bạch hoạt động ký kết và nội dung của các điều ước quốc tế. Việc

</div>

×