Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Bài giảng công pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.99 KB, 72 trang )

BÀI 1
KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
I. Khái niệm luật quốc tế
1. Định nghĩa
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng cùng tồn tại và phát triển. Nhà nước hình thành
và phát triển không thể thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật được ban hành bởi nhà nước.
Do đó, không có nhà nước thì sẽ không có pháp luật. Nhà nước sử dụng công cụ quản lý là
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và đưa các quan hệ xã hội phức tạp, dễ xảy ra
tranh chấp vào một trật tự nhất định.
Hệ thống pháp luật của quốc gia bao gồm nhiều ngành luật khác nhau, điều chỉnh các
quan hệ pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, khi các quốc gia thiết lập quan
hệ bang giao với nhau thì một hệ thống pháp luật mới được hình thành, đó là luật quốc tế.
Hệ thống pháp luật này tuy được hình thành và tồn tại độc lập, khác hẳn với trình tự và
thẩm quyền lập pháp của pháp luật quốc gia nhưng nó có quan hệ tác động qua lại với hệ
thống pháp luật quốc gia.
Thật vậy, trong quan hệ bang giao giữa các quốc gia, họ cùng nhau xây dựng những
nguyên tắc, quy phạm nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa họ với nhau. Phổ biến nhất là các
quan hệ song phương giữa hai quốc gia. Để đảm bảo cho quan hệ được bền vững, hai quốc
gia thường tiến hành giao kết với nhau bởi một thỏa ước. Thỏa ước này có thể là bằng
miệng hay bằng văn bản, tuỳ theo tính chất và tầm quan trọng của những quan hệ được
thiết lập. Thỏa ước này ngày nay chúng ta gọi là điều ước quốc tế. Và đây cũng chính là
luật quốc tế. Như vậy, chúng ta thấy rằng chỉ cần một điều ước quốc tế giữa hai quốc gia
được giao kết thì luật quốc tế xuất hiện và luật này sẽ được áp dụng trước tiên cho chính
hai quốc gia thiết lập nên nó.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quan hệ quốc tế của các quốc gia không còn
dừng lại trong khuôn khổ quan hệ song phương giữa hai quốc gia nữa mà dần dần nó đã
được mở rộng ra nhiều quốc gia và toàn thế giới. Do đó, ngày nay, có những quan hệ giữa
các quốc gia mang tính khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Như vậy, thuật ngữ luật quốc tế
bao gồm cả luật quốc tế giữa các quốc gia mang tính song phương, đa phương khu vực,
liên khu vực và đa phương toàn cầu. Cụ thể : Tổng thể những nguyên tắc và quy phạm điều
chỉnh quan hệ song phương mà cụ thể là thông qua những điều ước quốc tế song phương là


luật quốc tế tồn tại giữa hai chủ thể với nhau. Ví dụ : Việt Nam và Trung Quốc ký kết với
nhau điều ước quốc tế thì điều ước quốc tế này chính là nguồn của luật quốc tế giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Như vậy, tổng thể tất cả các nguyên tắc, các quy phạm được thoả
thuận giữa hai quốc gia, Việt Nam và Trung Quốc, là luật quốc tế điều chỉnh quan hệ bang
giao giữa hai quốc gia trong các lĩnh vực ký kết. Như vậy, tổng thề những nguyên tắc,
những quy phạm thể hiện trong các điều ước quốc tế đa phương giữa các quốc gia trong
một khu vực địa lý được gọi là « luật quốc tế khu vực ».Ví du : Các nguyên tắc và quy
phạm được các quốc gia Đông Nam Á thoả thuận xây dựng nên trong khuôn khổ hoạt động
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) chính là luật quốc tế khu vực. Tương tự,
nếu những nguyên tắc và những quy phạm điều chỉnh các quan hệ mang tính chất toàn cầu
thì được gọi là « luật quốc tế chung ».
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý, người ta không phân chia ra thành các loại luật
quốc tế như trên mà chỉ gọi một tên chung là « Luật quốc tế » hay « Công pháp quốc tế ».
1
Sở dĩ có tên « Công pháp quốc tế » là để phân biệt với một ngành luật quốc gia có tên
là « Tư pháp quốc tế ». Luật quốc tế và luật tư pháp quốc tế giống nhau chỉ ở một điểm là
cùng điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, như đã nói, luật tư pháp
quốc tế là luật quốc gia, nguồn chủ yếu là do cơ quan lập pháp của quốc gia ban hành và áp
dụng nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự, thương mại và lao động có yếu tố nước ngoài.
Còn đối với luật quốc tế thì không phải do cơ quan lập pháp của một quốc gia nào ban hành
cả, mà do chính các quốc gia và chủ thề của nó ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa
họ với nhau trong đời sống bang giao quốc tế vi mục đích cùng tồn tại và phát triển.
Như vậy, luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ quốc tế phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế, do chính các chủ thể của luật
quốc tế tự nguyện thỏa thuận xây dựng nên.
2. Đặc trưng cơ bản của luật quốc tế
- Về trình tự lập pháp : Khác với luật quốc gia, luật quốc tế không phải do một cơ
quan lập pháp chung, có thẩm quyền tối cao xây dựng nên để áp đặt và áp dụng bắt buộc
đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật. Luật quốc tế được hình thành trên cơ sở thoả
thuận giữa các chủ thể mà chủ yếu là giữa các quốc gia. Có nghĩa là luật quốc tế do các chủ

thể cùng nhau « ban hành » để áp dụng trong các quan hệ giữa họ với nhau. Việc « ban
hành » này có thể thông qua việc ký kết điều ước quốc tế hay cùng nhau thừa nhận một tập
quán quốc tế nào đó để áp dụng cho quan hệ giữa họ. Ở điểm này, luật quốc tế giống như là
một hợp đồng giữa các chủ thể. Đã có thể xem như là « hợp đồng » thì luật quốc tế cũng
phải mang những đặc tính của hợp đồng. Có nghĩa là yếu tố thoả thuận là yếu tố quan trọng
nhất và quyết định sự xuất hiện và tồn tại của luật quốc tế. Do đó, để có được các nguyên
tắc, quy phạm của luật quốc tế thì thoả thuận, đàm phán là con đường duy nhất được sử
dụng bởi các chủ thể. Sau khi ký kết hoặc thừa nhận áp dụng chung một quy tắc nào đó thì
các bên trong « hợp đồng » này cũng phải có nghĩa vụ thực hiện những cam kết của mình.
Tuy nhiên « hợp đồng » này đôi khi không phải nhằm mục đích là bảo vệ lợi ích của chính
các bên ký kết mà còn nhằm mục đích bảo vệ lợi ích và sự sống còn chung của nhân loại.
Tóm lại, không có bất cứ quy phạm của luật quốc tế nào được xây dựng trên cơ sở bất
bình đẳng, ép buộc và không thông qua sự thỏa thuận của các chủ thể trực tiếp tham gia
vào quan hệ quốc tế, ngoại trừ những quy định nhằm bảo vệ hoà bình, sự sống còn của
nhân loại. Như vậy, luật quốc tế có thể được xây dựng thông qua những phương thức sau
đây :
+ Phương thức trực tiếp : Các chủ thể trực tiếp tham gia đàm phán, ký kết điều ước
quốc tế. Đây là phương thức quan trọng và phổ biến nhất. Những nguyên tắc, quy phạm
pháp lý quốc tế được hình thành thông qua nguyên tắc này được gọi là những nguyên tắc
và quy phạm pháp lý quốc tế mang tính điều ước.
+ Phương thức gián tiếp : Các chủ thể có thể không tham gia đàm phán, ký kết trực tiếp
các điều ước quốc tế mà họ chỉ cần gia nhập một điều ước quốc tế đã được các chủ thể
khác đám phán, ký kết trước đó. Bên cạnh đó, các chủ thể cũng có thể cùng nhau thừa nhận
những tập quán quốc tế đã hình thành lâu dài và được cộng đồng quốc tế áp dụng trong
quan hệ của họ để xây dựng thành những quy tắc cho quan hệ quốc tế của họ. Những quy
phạm pháp lý nào được hình thành bằng con đường này gọi là những quy phạm tạp quán.
- Về chủ thể : Khác với chủ thể của luật quốc gia, tất cả các chủ thể của luật quốc tế
đều có quyền tham gia xây dựng nên những quy phạm pháp lý quốc tế. Các chủ thể này
không phải như một số chủ thể bị động, chịu sự áp đặc của quyền lực của giai cấp thống trị
như chủ thể trong luật quốc gia. Tất cả các chủ thể của luật quốc tế đều có quyền và bình

đẳng trong việc xây dựng, áp dụng pháp luật quốc tế. Chủ thể của luật quốc tế là một thực
2
thể được cấu thành bởi một cộng đồng. Đó là các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên quốc
gia hay các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và một số thực thể đặc biệt. Khi tham gia
quan hệ quốc tế, các chủ thể này sẽ quyết định trên cơ sở đảm bảo và bảo vệ quyền lợi cho
cả một cộng đồng của chính mình. Do đó, đại đa số các quan điểm cho rằng yếu tố cá nhân
với tư cách là chủ thề của luật quốc gia không được xem là chủ thể của luật quốc tế, tuy
rằng trên thực tế, một số cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội có tham gia vào một số quan hệ
quốc tế nhất định. Cơ sở cho quan điểm này là cá nhân không thể bình đẳng với quốc gia
và các tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế. Bởi vì chúng ta đã định nghĩa, luật quốc tế là
do chính các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên. Do đó, nếu cho rằng cá
nhân là chủ thể của luật quốc tế thì bản chất nguyên thủy của luật quốc tế sẽ bị thay đổi.
Bởi vì trên thực tế, cá nhân không thể tự mình đứng ra là một bên trong việc thoả thuận,
xây dựng nên các quy phạm pháp luật quốc tế với các chủ thể khác. Do tính chất đặc biệt
của cá nhân là có mặt trong một số quan hệ có tính chất quốc tế nên có quan điểm cho rằng
cá nhân cũng là chủ thể của luật quốc tế.
Đặc điểm này cũng là một trong các đặc điểm nổi bậc của luật quốc tế khác với luật
quốc gia. Trong khi trong luật quốc gia, cá nhân tuy không là người lập pháp nhưng họ là
chủ thể chủ yếu và quan trọng của luật quốc gia thì trong luật quốc tế, thực thể nào không
tham gia được trong quá trình xây dựng luật quốc tế thì không được xem là chủ thể cơ bản,
mặc dù thực thề nó có thể bị điều chỉnh của luật quốc tế vì những lý do đặc biệt như nhằm
để bảo vệ mục tiêu và giá trị pháp lý của luật quốc tế.
- Về đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế : Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế
khác với đối tượng điều chỉnh của luật quốc gia. Quan hệ pháp luật trong nước là những
quan hệ giữa cá nhân, pháp nhân, nhà nước trong các lĩnh vực còn quan hệ pháp luật do
luật quốc tế điều chỉnh là quan hệ mang tính chất liên quốc gia, liên chính phủ nhằm mục
đích chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…của cả một quốc gia, tổ chức quốc tế trên cơ sở
thỏa thuận giữa các chủ thể. Do đó, không phái luật quốc tế điều chỉnh cùng lúc hết tất cả
các quan hệ trong các lĩnh vực nêu trên mà chỉ điều chỉnh khi nào các quan hệ đó được quy
định, thoả thuận trong một điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế được các chủ thể thừa

nhận. Trên thực tế, trong các lĩnh vực nêu trên thì quan hệ chính trị là đối tượng điều chỉnh
chủ yếu của luật quốc tế.
- Về các biện pháp bảo đảm thi hành :
Luật quốc tế không có cơ quan cưỡng chế tập trung đứng trên các chủ thể để giải quyết
tranh chấp hay cưỡng chế thi hành. Các biện pháp cưỡng chế trong luật quốc tế chỉ có thể
được tiến hành bởi chính các chủ thể bằng biện pháp cá thể hoặc tập thể. Trong hai biện
pháp nêu trên, biện pháp cưỡng chế cá thể được sử dụng trước tiên và rất phổ biến. Ví dụ,
quốc gia bị xâm luợc có quyền thực hiện hành vi tự vệ nhằm bảo vệ cho lợi ích của chính
quốc gia bị vi phạm và bảo vệ các giá trị pháp lý quốc tế.
Đối với biện pháp cưỡng chế tập thể, thông thường được tiến hành bởi nhiều quốc gia
thông qua cơ chế cưỡng chế của một tổ chức quốc tế mà quốc gia vi phạm là thành viên.
Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, quốc gia bị vi phạm cũng có thể nhờ sự giúp đỡ của một
hoặc một số quốc gia khác nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của mình theo đúng các cam kết
hoặc nhằm để bảo vệ sự sống còn chung của nhân loại mà hành vi vi phạm của quốc gia vi
phạm có thể gây ra.
Ngoài hai biện pháp nêu trên, có một bệnh pháp đảm bảo thi hành rất hữu hiệu nữa đó
là nhờ vào dư luật quốc tế trước hành vi vi phạm của một số chủ thể bất chấp luật quốc tế.
Dư luận quốc tế có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo thi hành luật quốc tế và giữ
gìn hòa bình, an ninh quốc tế. Việc cộng đồng quốc tế cùng lên án hành vi của một quốc
3
gia là vi phạm luật pháp quốc tế sẽ làm cho quốc gia đó phải xem xét lại hành vi của mình.
Bởi vì nếu không tự dừng lại hành vi vi phạm trước dư luận quốc tế thì quốc gia đó có thể
bị cô lập hoặc làm mất lòng tin với cộng đồng quốc tế.
II. Lịch sử hình thành và phát triển của luật quốc tế
Lịch sử hình thành luật quốc tế được chia ra làm 4 giai đoạn phát triển khác nhau : Cổ
đại, trung đại, cận đại và hiện đại
- Luật quốc tế thời cổ đại (chiếm hữu nô lệ)
Trong giai đoạn này, luật quốc tế tồn tại chủ yếu dưới dạng tập quán quốc tế. Do đó,
khoa học luật quốc tế chưa được hình thành. Dần dần, do sự phát triển của các mối quan hệ
quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp nên đã hình thành một số điều ước quốc tế. Một

điều ước quốc tế nổi tiếng của thời kỳ này là Hòa ước giữa vua Ai Cập và Vua Hatusin
được giao kết năm 1278 trước công nguyên.
Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ, chiến tranh là đặc trưng của
quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Những cuộc chiến có thể gây rất nhiều thiệt hại cho các
bên tham chiến về người và của. Do đó, một số khu vực đã hình thành những quy phạm
mang tính tập quán liên quan đến chiến tranh nhằm giảm nhẹ các hậu quả của những cuộc
chiến gây ra. Những quy định về cấm dùng thuốc độc trong trong các loại vũ khí khi tham
chiến đã được hình thành. Như vậy, luật quốc tế về chiến tranh đã xuất hiện trong thời kỳ
này. Tuy nhiên, luật quốc tế thời kỳ này thừa nhận chiến tranh là biện pháp giải quyết tranh
chấp quốc tế một cách hợp pháp. Nó chỉ điều chỉnh các hình thức, phương thức chiến tranh
như thế nào mà thôi. Ví dụ : Đánh nhau như thế nào và không được sử dụng những loại vũ
khí nào trong khi tham chiến, việc bắt giữ và trao trả tù binh như thế nào…
Trong thời kỳ này thì nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta sunt
servanda) và những tập quán về ngoại giao, lãnh sự đã được hình thành. Tuy nhiên, do điều
kiện phát triển tự nhiên và xã hội thời cổ đại còn thấp kém, việc bang giao giữa các quốc
gia không được mở rộng do thiếu phương tiện giao thông, thông tin liên lạc…nên luật quốc
tế trong thời kỳ này chỉ mang tính khu vực khép kín.
- Luật quốc tế thời trung đại (phong kiến):
Đặc trưng của thời kỳ phong kiến là chế độ vua chúa. Do đó, luật quốc tế trong thời kỳ
này cũng mang bản chất phong kiến. Có nghĩa là luật quốc tế chỉ điều chỉnh những quan hệ
giữa các vua chúa mà thôi. Bởi vì, toàn bộ đất đai, lãnh thổ của một quốc gia là thuộc sở
hữu của ông vua đứng đầu quốc gia đó. Việc xâm chiếm, tặng cho hay cống nạp đất đai,
lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau thực chất đó là mối quan hệ quốc tế giữa các nhà vua
liên quan đến tài sản của họ. Do đó, luật quốc tế trong thời kỳ này còn gọi là luật quốc tế
của các vua chúa.
Đây là thời kỳ phân quyền, cát cứ, chiến tranh xảy ra liên miên và tôn giáo phát triển
mạnh mẽ, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và nội dung của luật quốc tế. Do điều kiện
giao thông và sản xuất phát triển nên quan hệ quốc tế mang tính khu vực không còn nữa,
thay vào đó là những quan hệ quốc tế mang tính liên khu vực. Do đó, để mở rộng quyền
lực, thị trường và lợi ích, các quốc gia tiến hành xâm chiếm lẫn nhau, mà nạn nhân là

những quốc gia nhỏ, có điều kiện phát triển kém.
Về mặt pháp lý, luật quốc tế trong thời kỳ này có những bước phát triển mới so với luật
quốc tế thời cổ đại. Những quy phạm pháp luật quốc tế về luật biển và ngoại giao xuất hiện
và tiếp tục phát triển. Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia cũng xuất hiện trong thời kỳ
này. Tuy nhiên, quyền bình đẳng này thực chất là quyền bình đẳng giữa các vua chúa. Đối
với các biện pháp bảo đảm thực hiện, luật quốc tế trong thời kỳ này phụ thuộc rất lớn vào
4
vai trò của tôn giáo. Các khẩu hiệu phát động từ tôn giáo rất có hiệu quả trong việc giải
quyết các tranh chấp quốc tế. Ví du : Hòa bình và đình chiến theo ý Chúa, quyền cho cư
trú trong nhà thờ…
Khoa học luật quốc tế xuất hiện và đã có những quan điểm của các học giả nổi tiếng về
luật quốc tế xuất hiện như quan điểm về « Luật chiến tranh và hòa bình », quyền « Tự do
biển cả »…
- Luật quốc tế thời kỳ cận đại (TBCN)
Trong thời kỳ này, luật quốc tế phát triển nhờ vào các nguyên tắc bình đẳng về chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…Đồng thời, chế định quốc tịch xuất
hiện với việc xác định công dân của quốc gia nên chủ quyền của quốc gia được nâng cao.
Các quy định về biên giới, ngoại giao, lãnh sự và luật lệ về chiến tranh tiếp tục phát triển.
Một số tổ chức quốc tê xuất hiện như Liên minh điện tín quốc tế (1865), Liên minh bưu
chính thế giới (1879). Điều này cho ta thấy quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng
quốc tế lúc bấy giờ đã phát triển vượt bậc. Đây là mầm mống của loại chủ thể là các tổ
chức quốc tế liên chính phủ trong thời đại của chúng ta.
Tuy nhiên, đặc trưng cơ bản của luật quốc tế thời kỳ này là luật quốc tế của các quốc
gia tư bản vì chỉ có các quốc gia được gọi là văn minh mới có quyền tham gia vào các quan
hệ quốc tế với tư cách lá chủ thể của luật quốc tế. Do đó, luật quốc tế thời kỳ này vẫn còn
tồn tại những học thuyết, những tư tưởng mang tính chất phản động như chế độ bảo hộ, nô
dịch, quyền chiến tranh bị hạn chế nhưng chưa được ngăn cấm một cách triệt để.
- Luật quốc tế thời kỳ hiện đại:
Luật quốc tế hiện đại bắt đầu từ những thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế giữa các
quốc gia và thành quả của cuộc Cách mạng tháng mười Nga 1917. Bởi vì sau khi cuộc

Cách mạng này thành công, hàng loạt các nguyên tắc mới xuất hiện trong quan hệ quốc tế
như : Nguyên tắc « cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế » với
việc cấm chiến tranh xâm lược và cấm sử dụng chiến tranh để giải quyết các tranh chấp
quốc tế ; Nguyên tắc « quyền dân tộc tự quyết » với sự thừa nhận một chủ thể mới trong
luật quốc tế mà các giai đoạn trước không có đó là các dân tộc đang đấu tranh giành độc
lập ; Nguyên tắc « bình đẳng và chủ quyền giữa các quốc gia » với việc thừa nhận tất cả
các quốc gia đều là chủ thể của luật quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, văn
hoà và quy mô, diện tích quốc gia…. ; Nguyên tắc « giải quyết các tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình » với việc quy định các cách thức và phương thức giải quyết hoà bình các
tranh chấp quốc tế mà không thông quan chiến tranh ; Nguyên tắc « các quốc gia có nghĩa
vụ hợp tác với nhau » nhằm phục vụ cho thời đại toàn cầu hoá như hiện nay….
Với sự phát triển của xã hội và các quan hệ quốc tế trong nhiều lĩnh vực, luật quốc tế
hiện đại đã và đang phát triển rất cao. Các chủ thể là tổ chức quốc tế xuất hiện rất nhiều và
ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế của các quốc gia.
Khoa học luật quốc tế phát triển đa dạng, phong phú. Có nhiều quan điểm, học thuyết
mới xuất hiện cùng với sự xuất hiện của những thực thể đặc biệt giữ vai tro rất quan trọng
và mới mẻ trong quan hệ quốc tế cũng như trong sự phát triển của khoa học luật quốc tế.
Vai trò của cá nhân cũng được khả định trong khoa học và thực tiễn quốc tế. Các thực thể
đặc biệt xuất hiện, đòi hỏi luật quốc tế phải thay đổi, bổ sung cho phù hợp. Ví dụ : quy chế
pháp lý của các vùng lãnh thổ là thành viên của các tổ chức quốc tế, các quốc gia nằm
trong một quốc gia thống nhất, …
5
Luật quốc tế hiện đại phát triển với sự phát triển của nhiều ngành luật khác nhau như
luật biên giới và lãnh thổ quốc gia, luật điều ước quốc tế, luật biển quốc tế, luật ngoại giao
và lãnh sự, luật hàng không quốc tế,…
III. Nguồn của luật quốc tế
1. Khái niệm
Nguồn của luật quốc tế là những hình thức biểu hiện sự tồn tại của luật quốc tế, chứa
đựng các nguyên tắc và các quy phạm pháp lý quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ quốc tế
do chính các chủ thể xây dựng hoặc thừa nhận. Như vậy, thoả thuận vẫn là biện pháp duy

nhất để xây dựng nên nguồn của luật quốc tế hiện đại.
Như vậy, về tổng thể, nguồn của luật quốc tế có hai loại là nguồn thành văn và bất
thành văn.
2. Các loại nguồn của luật quốc tế
Luật quốc tế có các loại nguồn sau : Điều ước quốc tê, tập quán quốc tế và các nguồn
bổ trợ.
a. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là nguồn cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Chúng là sự thỏa thuận
giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm xác lập,
thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể đối với nhau.
Theo quy định của Công ước Vienne năm 1969 về Luật điều ước quốc tế và luật quốc
tế hiện hành thì điều ước quốc tế được ký kết bằng văn bản và không nhất thiết phải ghi
trong cùng một văn kiện pháp lý quốc tế. Có nghĩa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể có thể
trong 1 văn bản duy nhất hay trong nhiều văn bản đính kèm hoặc nằm rải rác trong những
điều ước quốc tế song phương, đa phương…mà chủ thể tham gia là thành viên.
Điều ước quốc tế có nhiều loại tên gọi khác nhau như công ước, hiệp ước, hiệp định,
nghị định thư, tuyên bố, hiến chương…Luật quốc tế không có quy phạm bắt buộc về việc
xác định tên gọi của các điều ước quôc tế. Các chủ thể liên quan căn cứ vào mức độ, nội
dung và tập quán mà đặt tên cho điều ứơc quốc tế mà mình đàm phán, ký kết. Về hình thức
cũng vậy, điều ước quốc tế không bắt buộc có những điều khoản rõ ràng như văn bản pháp
luật trong nước. Có những điều ước quốc tế chỉ có nội dung cam kết giữa các bên mà
không có điều khoản nào cả. Các điều ước này thông thường là những tuyên bố của các tổ
chức quốc tế.
Chúng ta đã định nghĩa điều ước quốc tế là do chính các chủ thể của luật quốc tế tham
gia xây dựng lên. Như vậy, chủ thể của điều ước quốc tế cũng chính là chủ thể của luật
quốc tế. Do đó, những chủ thể không phải là chủ thể của luật quốc tế thì không thể tham
gia đàm phán, ký kết điều ước quốc tế được. Ví dụ : Một quốc gia và một cá nhân tham gia
ký kết với nhau một thỏa thuận thì thỏa thuận này không được gọi là điều ước quốc tế và
không thể trở thành nguồn của luật quốc tế được. Như vậy, điều kiện tiên quyết của một
điều ước quốc tế là nguồn của luật quốc tế là phải được ký kết giữa các chủ thể của luật

quốc tế. Bởi vì điều ước quốc tế là hình thức cơ bản của luật quốc tế chứa đựng các nguyên
tắc và quy phạm pháp lý quốc tế để xây dựng và điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế giữa
các chủ thể được phát triển. Điều ước quốc tế còn là công cụ, phương tiện pháp lý để duy
trì và tăng cường hợp tác giữa các chủ thể, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp giữa họ và
có vai trò rất quan trọng trong việc nội luật hóa trong pháp luật của các quốc gia.
6
Tuy nhiên, không phải tất cả các điều ước quốc tế được ký kết giữa các chủ thể đều là
nguồn của luật quốc tế hiện đại. Một điều ước của luật quốc tế muốn trở thành nguồn của
luật quốc tế phải thỏa mãn những điều kiện sau đây:
- Điều ước quốc tế đó phải phù hợp với quy định của pháp luật của các bên ký kết về
thẩm quyền và trình tự, thủ tục ký kết;
- Điều ước quốc tế đó, phải được ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng;
- Nội dung của điều ước quốc tế, phải phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế hiện đại.
Do đó, các điều ước trái với Hiến chương Liên hiệp quốc, các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế hiện đại sẽ bị xem là bất hợp pháp và nó sẽ trở nên vô hiệu, không có giá trị
pháp lý tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên ký kết. Điều này có nghĩa là chúng không
phải là nguồn của luật quốc tế hiện đại.
b. Tập quán quốc tế
Tập quán quốc tế là nguồn của luật quốc tế. Nó ra đời ngay từ thời kỳ đầu tiên trong
quá trình phát triển của luật quốc tế, sớm hơn nhiều so điều ước quốc tế. Đó là những quy
tắc xử sự chung do một hay một số quốc gia áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và áp dụng
chung trong quan hệ quốc tế. Dần dần, những thói quen về quy tắc xử sự này đã được các
quốc gia khác thừa nhận và áp dụng như những quy phạm pháp luật quốc tế.
Cũng giống như điều ước quốc tế, không phải tất cả các tập quán quốc tế đều được
công nhận là nguồn của luật quốc tế. Một tập quán được xem là nguồn của Luật quốc tế phải
thỏa mãn các điều kiện sau:
- Phải là quy tắc xử sự chung, và được các quốc gia công nhận và áp dụng rộng rãi
trong thực tiễn;
- Phải được thừa nhận chung là quy phạm có tính chất pháp lý bắt buộc (các quốc gia

coi là một nghĩa vụ pháp lý);
- Phải có nôi dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Tập quán quốc tế có giá trị độc lập với điều ước quốc tế và các nguyên tắc của luật
quốc tế. Tập quán quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hình thành nên các quy phạm
pháp lý quốc tế trong các điều ước quốc tế. Bởi vì các chủ thể của luật quốc tế mong muốn
các tập quán này được thể hiện dưới hình thức văn bản để không phải giải thích hoặc xảy ra
bất đồng quan điểm trong quá trình áp dụng. Do đó, khi đàm phán, ký kết các điều ước
quốc tế thì các chủ thể thông thường chuyển hóa những tập quán đã và đang tồn tại trên
thực tế thành những điều khoản trong điều ước quốc tế.
Tập quán quốc tế là nguồn điều chỉnh hữu hiệu quan hệ quốc tế giữa các chủ thể khi
những quan hệ đó không có quy phạm điều ước điều chỉnh. Điều này có nghĩa là khi có sự
mâu thuẫn giữa tập quán quốc tế và điều ước quốc tế thì điều ước quốc tế sẽ được các chủ
thể áp dụng.
c. Các nguồn bổ trợ khác
Luật quốc tế có các nguồn bổ trợ. Các nguồn này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
áp dụng và xây dựng nên các nguồn chính thức của luật quốc tế. Những nguồn bổ trợ bao
gồm :
- Án lệ của Tòa án quốc tế : Đây là các phán quyết của tòa án quốc tế của Liên hiệp
quốc trong quá trình xét xử, giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể. Ngoài chức năng giải
7
quyết tranh chấp, các phán quyết này còn có ý nghĩa rất quan trọng mang tính tham khảo
trong quá trình giải quyết tranh chấp của các bên trong quan hệ quốc tế tương tự.
- Học thuyết của các luật gia danh tiếng về luật quốc tế : Các học thuyết của các luật
gia, các cơ sở nghiên cứu luật quốc tế…góp phần rất lớn trong việc hình thành, xây dựng
nên các quy phạm pháp lý quốc tế. Các học thuyết này cũng chỉ mang tính tham khảo, bởi
nó không được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các chủ thể.
- Các Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc và các tổ chức liên chính phủ : Nghị
quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ có hai loại : Nghị quyết mang tính bắt buộc và Nghị
quyết mang tính chất tuỳ nghi. Đối với Nghị quyết mang tính bắt buộc thì được xem như là điều
ước quốc tế bởi vì những Nghị quyết này được đưa ra bởi đại diện của cả một tổ chức quốc tế mà

quốc gia là thành viên. Còn đối với những loại Nghị quyết mang tính chất tuỳ nghi thì các quốc
gia thành viên có quyền không tuân thủ. Bởi vì nó chỉ mang tính khuyến nghị mà thôi. Tuy
nhiên, các Nghị quyết tuỳ nghi này có vai trò rất quan trọng trong việc giải thích, áp dụng các
quy phạm pháp lý quốc tế trong các điếu ước quốc tế.
Tóm lại, các nguồn bổ trợ nêu trên chỉ mang tính tham khảo, không có giá trị bắt buộc
đối với các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, một số nguồn bổ trợ này nếu được
các quốc gia cùng thừa nhận áp dụng lâu dài, không trái nhau về cách áp dụng và quan
điểm thi các nguồn này có thể trở thành tập quán quốc tế hoặc được chính các chủ thể của
luật quốc tế xây dựng nên các quy phạm trong điều ước quốc tế trên cơ sở thỏa thuận của
các bên liên quan.
IV. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
Có nhiều học thuyết khác nhau liên quan đến mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật
trong nước : Học thuyết nhất nguyên luận và học thuyết nhị nguyên luận và quan điểm của
khoa học luật quốc tế hiện đại.
1. Học thuyết nhất nguyên luận
Trường phái này cho rằng luật quốc tế và pháp luật trong nước là hai bộ phận của một
hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó bộ phận này phù thuộc vào bộ phận kia.
Ở trong nội bô của trường phái này lại tồn tại hai quan điểm khác nhau, cụ thể là: Một
nhóm đại biểu cho rằng lật quốc tế phải được đặt lên trên pháp luật trong nuớc. Ngược lại,
một nhóm đại biểu khác thì có quan điểm cho rằng pháp luật trong nước phải được đặt lên
trên luật quốc tế.
2. Học thuyết nhị nguyên luận
Trường phái này cho rằng luật quốc tế và pháp luật trong nước là hai hệ thống pháp luật
khác nhau, song song cùng tồn tại nhưng biệt lập với nhau.
3. Quan điểm khoa học luật quốc tế hiện đại
Quan điểm hiện nay, được đa số nhà nghiên cứu luật tán thành cho rằng luật quốc tế và
pháp luật trong nước là hai hệ thống pháp luật khác nhau, song song cùng tồn tại có quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau. Luật quốc gia có ảnh hưởng, mang tính quyết định việc hình
thành và phát triển của luật quốc tế và luật quốc tế có tác động tích cực đến sự phát triển và
hoàn thiện pháp luật quốc gia.

Sự độc lập, khác nhau của luật trong nước và luật quốc tế thể hiện ở các tiêu chuẩn như
đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, trình tự lập pháp, nguồn và các biện pháp
đảm bảo thi hành….của hai hệ thống pháp luật này.
8
Về quan hệ tác động qua lại lẫn nhau: Cả luật quốc tế và pháp luật trong nước đều
chính là công cụ để thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại của quốc gia.
Đối với luật quốc tế, luật quốc gia có ảnh hưởng rất lớn trong qua trình đám phán, ký
kết các điều ước quốc tế. Trước tiên có thể nói đến trình tự, thủ tục và thẩm quyền đàm
phán. Khi tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế thì điều ước quốc tế đó phải phù
hợp với pháp luật trong nứơc về trình tự, thẩm quyến đàm phán và ký kết. Do đó, nếu pháp
luật quốc gia không rõ ràng và đầy đủ về vấn đề trình tự, và thẩm quyền đàm phán, ký kết
thì sẽ ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của điều ước quốc tế nói riêng và luật quốc tế nói
chung. Ngoài ra, nếu quốc gia đàm phán tốt thì những quy định của pháp luật quốc gia
mình có thể trùng với những quy định của điều ước quốc tế. Lúc đó, luật quốc gia sẽ được
trở thàng những quy phạm pháp lý quốc tế. Ngược lại, luật quốc tế ảnh hưởng rất lớn đến
luật quốc gia. Cụ thể, luật quốc tế khi được xây dựng, các quốc gia thành viên phải tuân thủ
bằng nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servande). Do đó, các
quốc gia phải áp dụng luật quốc tế khi trong quan hệ với chủ thể mà mình đã thỏa thuận với
nhau bằng những điều ứơc quốc tế. Nếu thấy rằng những quy định của điều ứơc quốc tế sẽ
có lợi và làm cho hệ thống pháp luật của quốc gia phát triển, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại thì các quốc gia phải nội luật hóa. Có nghĩa là chuyển hóa các quy định của
điều ứơc quốc tế mà mình là thành viên hoặc những quy định của các điều ước quốc tế tiến
bộ khác thành những quy định của pháp luật trong nước.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, vấn đề mối quan hệ giữa luật quốc tế và
luật quốc gia và giá trị pháp lý của hai hệ thống pháp luật này đang là vấn đề mang tính
thời sự. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của rất nhiều điều ước quốc tế đa phương và
song phương. Khi đã tham gia vào điều ước quốc tế thì Việt Nam phải tuân thủ triệt để
nguyên tắc Pacta sunt servanda - một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện
đại. Để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc này, Việt Nam đã xây dựng cho mình những quy
phạm pháp luật quốc gia về ký kết và thực hiện điều ứơc quốc tế. Đồng thời, trong các văn

bản quy phạm pháp luật của quốc gia, Việt Nam đã nội luật hóa rất nhiều những quy định
tiến bộ của các điều ứơc quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đối với những vấn đề mà Việt
Nam không thể nội luật hoá được do có sự khác nhau giữa các điều ước quốc tế và bảo đảm
điều chỉnh đối với những quan hệ pháp luật thì một giải pháp hữu hiệu để tuân thủ nguyên
tắc Pacta sunt servanda là quy định trong các văn bản về giá trị pháp lý của các điều ước
quốc tế khi có sự mâu thuẫn với điều ước quốc tế. Ví dụ : Khi có sự mâu thuẫn giữa điều
ước quốc tế với văn bản này thì áp dụng điều ước quốc tế.
9
BÀI 2
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Luật quốc tế bao gồm các nguyên tắc và các quy phạm pháp lý quốc tế được hình thành
do các chủ thể thoả thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể
với nhau trong các lĩnh vực. Trong đó, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được xem là
hạt nhân của luật quốc tế. Tất cả các quy phạm pháp lý quốc tế và các tập quán quốc tế
muốn trở thành nguồn của luật quốc tế hiện đại thì phải phù hợp và không được trái với các
nguyên tắc cơ bản này.
I. Khái niệm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những quy phạm quan trọng, có tính chất bao
trùm và được thừa nhận một cách rộng rãi nhất. Như vậy, không phải bất kỳ nguyên tắc
nào của luật quốc tế cũng trở thành nguyên tắc cơ bản, mà chỉ có một số nguyên tắc có tính
bao trùm, phổ cập và chung nhất mới được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Nguyên tắc của luật quốc tế bào gồm 3 loại : Nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc chuyên
ngành và nguyên tắc đặc thù trong các quan hệ song phương hoặc đa phương giữa các chủ
thể.
Tuy nhiên, dù là nguyên tắc thuộc loại nào thì tất cả các nguyên tắc trên điều phải nhằm
mục đích là bảo vệ hoà bình, an ninh, hợp tác và sự phát triển của nhân loại nói chung và
của chính các chủ thể nói riêng. Ngoài ra, các nguyên tắc chuyên ngành và đặc thù phải là
những nguyên tắc phù hợp và không được trái với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc
tế đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Như vậy, nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là gì ?

Đây là những tư tưởng chính trị - pháp lý cơ bản, bao trùm nhất và quan trọng nhất
trong quan hệ quốc tế. Nó làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển của luật quốc tế hiện
đại và được thừa nhận một cách rộng rãi nhất trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Khác với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước, nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế không do giai cấp thống trị xây dựng nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống
trị. Những nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thể của luật
quốc tế nhằm mục đích đảm bảo lợi ích và các quy tắc xử sự chung của các chủ thể trong
quan hệ quốc tế. Ngoài ra, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế này không xuất hiện
cùng một lúc trong một văn bản quy phạm pháp luật như nguyên tắc của luật quốc gia mà
chúng xuất hiện thông qua một quá trình phát triển lâu dài của luật quốc tế.
Tính chất phổ cập và bao trùm nhất là hai đặc tính cơ bản của các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế. Tính phổ cập thể hiện ở phạm vi áp dụng của các nguyên tắc này về mặt
không gian và chủ thể của luật quốc tế. Về mặt không gian, các nguyên tắc này được áp
dụng trên phạm vi toàn thế giới và về mặt chủ thể thì chúng được áp dụng cho tất cả các
quốc gia - chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Do đó, các nguyên tắc này được ghi nhận trong
nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như Hiến chương của Liên hợp quốc, Tuyên bố
của Đại hội đồng Liên hợp quốc và các văn kiện pháp lý khác.
Tính chất bao trùm của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thể hiện ở giá trị pháp lý
của chúng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Tất cả các lĩnh vực, các ngành
luật trong hệ thống pháp luật quốc tế đều sử dụng những nguyên tắc này làm nền tảng.
Đồng thời, các nguyên tắc này cũng là những nguyên tắc mang tính bắt buộc chung. Hay
nói cách khác, đây là những nguyên tắc mang tính mệnh lệnh cao nhất trong quan hệ quốc
10
tế. Những nguyên tắc, những quy phạm pháp lý quốc tế, những hành vi được tiến hành
trong quan hệ quốc tế nếu trái với các nguyên tắc này thì sẽ bị xem là trái pháp luật quốc tế.
Do đó, việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với
tất cả các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Bỡi vì bất kỳ sự vi phạm nào đến nguyên tắc cơ
bản này đều tất yếu đụng chạm đến lợi ích của cộng đồng quốc tế và lợi ích của các chủ thể
khác. Do đó, không một thực thể nào có quyền huỷ bỏ những nguyên tắc này nếu chưa có
sự đồng ý của cộng đồng các chủ thể.

Tóm lại, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có hai ý nghĩa quan trọng sau đây :
- Là hạt nhân của toàn bộ hệ thống luật quốc tế
- Là căn cứ để giải quyết các tranh chấp quốc tế
Theo Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc thì luật quốc tế hiện
đại có các nguyên tắc cơ bản sau đây :
- Nguyên tắc bình đẳng và chủ quyền của các quốc gia ;
- Nguyên tắc cầm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế ;
- Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau ;
- Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết ;
- Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
- Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình
- Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
Ngoài ra, trong khoa học luật quốc tế, người ta còn cho rằng ngoài các nguyên tắc nêu
trên, luật quốc tế còn có thêm các nguyên tắc cơ bản khác như nguyên tắc tôn trọng quyền
con người, nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia….Tuy nhiên, trong 7 nguyên tắc nêu
trên, chúng ta thấy rằng chúng đã bao hàm hết tất cả các nguyên tắc mà khoa học luật quốc
tế hiện nay đề nghị đưa vào các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
II. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại
Trong luật quốc tế hiện đại, cộng đồng quốc tế đã và đang cùng thừa nhận những
nguyên tắc chung nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau. Những
nguyên tắc này đã được Hiến chương Liên hiệp quốc, Tuyên bố năm 1970 của Đại hội
đồng liên hiệp quốc về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế quy định như một cơ sở pháp
lý bắt buộc đối với các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Cơ sở này dựa trên sự bình đẳng về
chủ quyền quốc gia, quyền dân tộc tự quyết, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ quốc tế và phải tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế mà mình đã tham
gia…
1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
Nguyên tắc này được hình thành từ cuối thời kỳ trung đại chuyển sang cận đại. Lúc mới
hình thành và phát triển, nguyên tắc này chỉ áp dụng cho vua chúa và các nước tư bản phát
triển hay còn gọi là các nước văn minh.

Kể từ năm 1917, nội dung của nguyên tắc này mới được nâng cao, hoàn thiện và đầy
đủ. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại hai văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng đó
là Hiến chương Liên hiệp quốc và Tuyến bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.
11
Theo Điều 2, khoản 1, Hiến chương LHQ thì « Liên hiệp quốc xây dựng trên cơ sở
bình đẳng về chủ quyền của tất cả các quốc gia hội viên ».
Nội dung của nguyên tắc là :
- Các quốc gia phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể, chủ quyền, đặc điểm
về lịch sử, truyền thống văn hóa, dân tộc của nhau ;
- Các quốc gia phải có nghĩa vụ tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị
của nhau ;
- Mỗi quốc gia có quyền lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội ;
- Các quốc gia bình đẳng với nhau về pháp lý. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
khi tham gia với tư cách là thành viên của một cộng đồng quốc tế và tổ chức quốc tế ;
- Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
- Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các
quốc gia khác;
- Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các
quốc gia khác.
Như vậy, luật quốc tế không cho phép một hay một nhóm quốc gia phong tỏa ý chí và
áp đặt ý chí lên quốc gia khác trên cơ sở bất bình đẳng và không tự nguyện. Tất cả các
quốc gia đều bình đẳng với nhau, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Ví dụ : Quyền phủ quyết của năm ủy viên thường trực của Hội đồng
Bảo an Liên hiệp quốc.
2. Nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế
Nếu trong luật quốc tế các giai đoạn trước có nguyên tắc « quyền chiến tranh » để giải
quyết các tranh chấp quốc tế thì trong luật quốc tế hiện đại lại cấm nguyên tắc này thông

qua việc thừa nhận nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổ chức quốc tế Hội quốc liên (sau này là Liên
hiệp quốc) đã đưa ra một nguyên tắc « Các nước thành viên không được sử dụng chiến
tranh khi chưa áp dụng các biện pháp hòa bình ». Như vậy, quyền chiến tranh vẫn còn
được sử dụng giải quyết tranh chấp quốc tế khi các quốc gia đã sử dụng các biện pháp hoà
giải, đàm phán…mà không giải quyết được tranh chấp.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc cùng với sự ra đời của Liên hiệp quốc, nguyên
tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế được ghi nhận thành
một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.
Theo Điều 2, K4 của Hiến chương LHQ thì «Trong quan hệ quốc tế, các thành viên
của Liên hiệp quốc không được đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn
lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào hoặc bằng cách này hay cách
khác làm trái với những mục đích của Liên hiệp quốc ».
Nội dung của nguyên tắc :
- Cấm xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia khác, vi phạm các quy phạm của pháp luật
quốc tế;
- Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
12
- Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược
chống quốc gia thứ ba;
- Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng
bố tại các quốc gia khác;
- Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng vũ
trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ của quốc gia khác ;
- Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược ;
- Cấm dùng vũ lực để ngăn cản các dân tộc thực hiện quyền tự quyết của mình ;
Tuy nhiên, nguyên tắc này có 3 trường hợp ngoại lệ đó là quyền tự vệ cá thể, quyền tự
vệ tập thể và quyền sử dụng vũ lực của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập đứng lên
thành lập quốc gia độc lập. Theo đó, một quốc gia hay chủ thể của luật quốc tế trên cơ sở

xâm lược vũ trang của quốc gia khác thì quốc gia, chủ thể bị xâm lược có quyền sử dụng
vũ trang để tự vệ. Ngoài ra, Hội đồng bảo an của LHQ cũng có quyền sử dụng vũ trang một
cách hợp pháp nhằm đại diện cho một tập thể các quốc gia trong việc gìn giữ hòa bình và
sự tồn tại của nhân loại.
3. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
Nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với các nguyên tắc khác như nguyên tắc cấm
dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và nguyên tắc bình đẳng, chủ
quyền giữa các quốc gia.
Tư tưởng không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác hình thành rất sớm.
Tuy nhiên, mãi đến thời kỳ cận đại thì tư tưởng này mới được nâng lên thành nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế. Hiện nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 2, K7 của Hiến
chương LHQ. Theo đó, Hiến chương « không cho phép LHQ được can thiệp bất cứ ở mức
độ nào vào những công việc thuộc thẩm quyền quốc gia của một nước và không yêu cầu
các thành viên đưa những việc loại này ra giải quyết theo thủ tục của Hiến chương… »
Nội dung của nguyên tắc :
- Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm
chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia;
- Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị, và các biện pháp khác để bắt buộc các
quốc gia khác phụ thuộc vào mình;
- Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính
quyền của quốc gia khác;
- Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác;
- Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa phù hợp với nguyện vọng của dân tộc.
Tuy nhiên, nguyên tắc này có hai ngoại lệ. Theo quy định của Chương VII Hiến
chương LHQ, Hội đồng bảo an của LHQ có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế trong trường
hợp có đe dọa hành vi xâm phạm hòa bình hoặc hành động xâm lược. Như vậy, nếu Hội
đồng Bảo an xác định rằng một sự biến nào đó xảy ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia
hoặc một cuộc nội chiến nào đó mà có thể đe dọa đến hòa bình, an ninh quốc tế thì sự biến
và hành vi đó không còn thuần túy là công việc nội bộ của quốc gia nữa. Lúc đó, hành

động can thiệp của LHQ trong trường hợp này không được coi là sự can thiệp vào công
việc nội bộ của quốc gia. Một ngoại lệ thứ hai trong nguyên tắc này là khi có những hành
13
vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người trong đó có quyền được sống và
sống trong hòa bình thì LHQ cũng có quyền can thiệp vào.
Tóm lại, công việc nội bộ mà các quốc gia hay LHQ không có quyền can thiệp vào theo
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những công việc thuốc về thẩm quyền của cơ quan
nhà nước của quốc gia và đồng thời không phải là công việc bị cộng đồng quốc tế cấm.
4. Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết
Nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 55 Hiến chương LHQ. Tuy nhiên, trong Hiến
chương, nguyên tắc này lại không được đưa vào các nguyên tắc cơ bản trong Điều 2. Do
đó, tính chất bao trùm, phổ cập chưa được thể hiện một cách cụ thể. Năm 1960, LHQ đã có
Tuyên bố về trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Theo đó, « tất cả các dân tộc đều
có quyền tự quyết, trong đó có quyền thiết lập chế độ chính trị và thực hiện chế độ phát
triển kinh tế, văn hóa của mình ».
Nguyên tắc này đã được ghi nhận thành nguyên tắc cơ bản chính thức trong Tuyên bố
của LHQ năm 1970 về các nguyên tắc của luật quốc tế. Tuyên bố này đã khẳng định: “Việc
thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước độc lập
khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc thiết lập bất kỳ chế độ chính trị nào do
nhân dân tự quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết”.
Nội dung của nguyên tắc
- Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập có quyền được thành lập quốc gia độc lập. Các
quốc gia có quyền cùng với các quốc gia khác thành lập quốc gia liên bang trên cơ sở tự
nguyện;
- Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội;
- Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;
- Quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có quyền tiến hành đấu tranh, kể cả đấu
tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ
về quân sự;
- Tự lựa chọn con đường phát triển ;

- Quyền được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng trong việc thực hiện quyền
dân tộc tự quyết.
5. Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế
Nguyên tắc này cò được gọi là nguyên tắc Pacta sunt survanda. Đây là nguyên tắc cổ
xưa nhất trong hệ thống luật quốc tế. Nó ra đời từ thời kỳ cổ đại và có mặt trong suốt quá
trình phát triển của luật quốc tế.
Hiện tại, nguyên tắc này được quy định tại Điều 2, K2 của Hiến chương LHQ và Tuyên
bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ. Theo đó, Hiến chương quy định « các nước thành
viên của LHQ phải làm tròn nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này ». Để cụ
thể hơn, Tuyên bố năm 1970 quy định rằng mỗi quốc gia phải thiện chí thực hiện các nghĩa
vụ quốc tề do Hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ phát sinh từ các nguyên tắc, quy phạm
được công nhận rộng rãi của luật quốc tế. Tuy nhiên, khi nghĩa vụ theo điều ước quốc tế
mà các quốc gia thành viên tham gia trái với nghĩa vụ của Hiến chương thì nghĩa vụ theo
Hiến chương phải có giá trị ưu tiên.
Theo Công ước Vienne năm 1969 về Luật điều ước quốc tế thì « mỗi điều ước quốc tế
hiện hành đều ràng buộc các bên tham gia và đều phải được các bên thực hiện một cách
14
thiện chí » và « bên tham gia không thể viện dẫn đến quy định của pháp luật trong nước để
biện luận cho việc không thực hiện điều ước quốc tế »…
Từ các cơ sở pháp lý trên, nguyên tắc này có nôi dung sau đây :
- Các chủ thể của luật quốc tế phải thực hiện tận tâm các cam kết quốc tế phù hợp với
luật quốc tế hiện đại ;
- Phải thực hiện một cách thiện chí, tận tâm và đầy đủ các cam kết quốc tế mà minh
tham gia ;
- Không được viện dẫn luật trong nước trái với điều ứơc quốc tế để làm lý do từ chối
thực hiện điều ứơc quốc tế mà mình ký kết hoặc tham gia ;
- Không được phép tự động đơn phương không thực hiện điều ước quốc tế
Tuy nhiên, nguyên tắc này có các ngoại lệ. Có nghĩa là các bên có thể không thực hiện
hoặc ngưng thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên trong các trường hợp sau :
- Điều ước quốc tế được ký sai thẩm quyền và trình tự theo quy định của pháp luật

quốc gia thành viên ;
- Điều ước quốc tế trái với Hiến chương LHQ và các nguyên tắc cơ bản của luật quốc
tế ;
- Điều kiện để thực hiện điều ước quốc tế đó bị thay đổi hoàn toàn ;
- Khi bên kia không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của điều ước ;
- Điều ước quốc tế đó hết hiệu lực áp dụng.
Như vậy, không phải trong tất cả các trường hợp, các bên tham gia điều ước quốc tế
phải tận tâm thực hiện. Bởi vì vẫn có những trường hợp ngoại lệ mà các chủ thể có thể
không thực hiện điều ứơc mà vẫn không vi phạm pháp luật quốc tế nói chung và nguyên
tắc pacta sunt servanda nói riêng.
6. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
Nguyên tắc này được hình thành kể từ khi luật quốc tế bước vào giai đoạn hiện đại.
Nguyên tắc này được hình thành và phát triển gắng liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, luật
quốc tế đã có những biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bằng con đường hoà bình. Tuy
nhiên, quyền chiến tranh vẫn còn được sử dụng khi các biện pháp hòa bình sử dụng không
hiệu quả. Do đó, trước chiến tranh thế giới thứ hai thì chưa xuất hiện nguyên tắc buộc các
chủ thể phải giải quyết tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hoà bình.
Hiện nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 2, K3 của Hiến chương LHQ và
Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Theo đó, Hiến chương LHQ quy định các biện pháp hòa bình mà các quốc gia phải lựa
chọn và tự áp dụng miễn sao không sử dụng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực cũng như vi
phạm các nguyên tắc cơ bản khác của luật quốc tế. Theo đó, « các bên tham gia tranh chấp
quốc tế trước tiên phải cố gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như : đàm phán,
điều tra, trung gian, hoà giải, trọng tài, toà án, thông qua các cơ quan hay tổ chức quốc tế
hay bằng các biện pháp hoà bình khác do các bên lựa chọn ».
Tuy nhiên, nguyên tắc này có các ngoại lệ giống như ngoại lệ của nguyên tắc cấm dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Có nghĩa là các bên có quyền sử
dụng quyền tự vệ cá thể, tập thể để giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ của luật quốc tế
quy định.

15
7. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
Đây cũng là một trong những nguyên tắc riêng của luật quốc tê hiện đại mà luật quốc tế
trong các giai đoạn trước không có. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế, xã hội của các quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Đồng thời các vấn đề mang
tính toàn cầu hiện nay như môi trường, hạt nhân, khủng bố….sẽ không thể giải quyết được
khi không có nguyên tắc này.
Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 1, Điều 55 và 56 của Hiến chương
LHQ. Các quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác vơi nhau để thực hiện tôn chỉ, mục đích của
Hiến chương và phải có nghĩa vụ hợp tác với LHQ để đạt được những mục đích kể trên.
Bên cạnh đó, trong Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ cũng xác định « các quốc
gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế không phụ thuộc
vào hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá…nhằm mục đích duy trì hoà bình và an ninh quốc
tế, góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới và sự phồn vinh chung của dân tộc và hợp
tác quốc tế ».
Nội dung của nguyên tắc :
- Các quốc gia phải hành động phù hợp với nguyên tắc của LHQ ;
- Các quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hoà bình và an
ninh quốc tế ;
- Hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung về quyền con người và các quyền tự
do cơ bản khác của cá nhân, tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc ;
- Các quốc gia phải tiến hành quan hệ hợp tác với nhau trong lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, thương mại, công nghệ theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau ;
- Các quốc gia phải hợp tác với nhau nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hoá, giáo
dục, phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là tại các nước đang phát triển.
Như vậy, về cơ bản, luật quốc tế có bảy nguyên tắc cơ bản nêu trên. Tuy nhiên, theo
một số quan điểm cho rằng luật quốc tế còn có thêm nguyên tắc chủ quyền quốc gia và
nguyên tắc bảo vệ quyền con người…
16

BÀI 3
CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
I. Khái niệm về chủ thề của luật quốc tế
Vấn đề chủ thể của luật quốc tế hiện nay trong khoa học luật quốc tế có nhiều quan
điểm khác nhau, đặc biệt là sự thừa nhận các loại thực thể nhất định là chủ thể hay không là
chủ thể. Tuy nhiên, theo quan điểm của hầu hết các quốc gia và những học thuyết thì để có
tư cách là chủ thể của luật quốc tế thì chủ thể đó phải có khả năng tham gia độc lập trong
quan hệ quốc tế bằng quyền và những nghĩa vụ pháp lý quốc tế xác định và có khả năng
chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do mình gây ra trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, chủ thể của luật quốc tế hiện đại là những thực thể đang tham gia hoặc có
khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ những
quyền và nghĩa vụ quốc tế, đồng thời có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý
trên cơ sở những quy định của pháp luật quốc tế.
Từ định nghĩa trên, khi xác định chủ thể của luật quốc tế chúng ta phải căn cứ vào các
tiêu chí sau đây :
- Chủ thể phải có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế do luật quốc tế điều
chỉnh ;
- Chủ thể phải có ý chí độc lập trong quan hệ quốc tế, không phải chịu sự chi phối
của một thế lực nào đứng trên nó trong quan hệ quốc tế mà nó tham gia ;
- Chủ thể phải có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế trong lĩnh vực mà mình tham gia;
- Chủ thể phải có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do
những hành vi mà chủ thể đã thực hiện gây ra.
II. Các loại chủ thề của luật quốc tế
Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về các loại chủ thể của luật quốc tế. Có
quan điểm cho rằng chủ thể của luật quốc tế chỉ có quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính
phủ và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập. Có quan điểm cho rằng chủ thể của luật
quốc tế bao gồm có cả cá nhân, các tổ chức quốc tế phi chính phủ, các vùng lãnh thổ độc
lập trong một quốc gia và các công ty xuyên quốc gia…Như vậy, tất cả các quan điểm đều
thống nhất ba thực thể sau đây là chủ thể của luật quốc tế : quốc gia, các tổ chức quốc tế

liên chính phủ và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập.
1. Quốc gia
Quốc gia là chủ thể truyền thống và cơ bản của luật quốc tế. Quốc gia là chủ thể xây
dựng nên đại đa số các quy phạm pháp lý quốc tế và là chủ thể sáng lập ra chủ thể khác, đó
là các tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Một thực thể như thế nào được xem là quốc gia trong quan hệ quốc tế ? Cho đến nay,
chưa có một định nghĩa thống nhất nào trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quốc gia.
Trong khoa học luật quốc tế, người ta xác định quốc gia dựa trên các yếu tố cấu thành nên
một quốc gia.
Theo Điều 1, Công ước Montevideo ngày 26/12/1933 về quyền và nghĩa vụ của quốc
gia thì một thực thể được coi là quốc gia trong quan hệ quốc tế phải hội đủ 4 điều kiện sau:
17
Có dân số ổn định và thường xuyên; Có lãnh thổ; Có chính phủ; Có khả năng tham gia vào
quan hệ quốc tế một cách độc lập với các chủ thể khác.
Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của quốc gia :
- Quyền được tôn trọng độc lập, bình đẳng về chủ quyền quốc gia và các quyền lợi
khác;
- Quyền được bất khả xâm phạm về biên giới và lãnh thổ;
- Quyền được tự vệ cá thể và tập thể;
- Quyền được phát triển và tồn tại trong hòa bình;
- Quyền được tham gia xây dựng các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế;
- Quyền tự do quan hệ và hợp tác với các Chủ thể khác của luật quốc tế;
- Quyền trở thành hội viên của các tổ chức quốc tế phổ cập;
- Quyền được tham gia các Hội nghị quốc tế liên quan đến lợi ích của mình
Khi thực hiện những quyền và nghĩa vụ nêu trên, các quốc gia có thể thực hiện một
cách độc lập theo ý chí của mình, hoặc cùng với các quốc gia khác phối hợp thực hiện. Tuy
nhiên, dù độc lập hay liên kết thực hiện những quyền và nghĩa vụ thì việc thực hiện đó
không được ảnh hưởng đến phạm vi chủ quyền quốc gia của họ và các quốc gia khác.
2. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ
Tổ chức liên quốc tế liên chính phủ là tổ chức do hai hay nhiều quốc gia thỏa thuận

thành lập nhằm để thực hiện những mục tiêu nhất định của quốc gia tham gia tổ chức.
Tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất hiện từ thời kỳ cận đại trong lịch sử phát triển của
luật quốc tế. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ II thì tổ chức quốc tế liên chính phủ
mới bắt đầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình một cách toàn diện trong đời sống quốc
tế. Hiện nay, tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể có vai trò rất quan trọng trong quan
hệ quốc tế, đặc biệt là quá trình toàn cầu hoá trong các lĩnh vực. Đây là chủ thể phái sinh.
Có nghĩa là nó chỉ được hình thành trên cơ sở của chủ thể khác chứ nó không được hình
thành một cách tự nhiên như quốc gia.
Hiện nay có khoảng 500 Tổ chức Quốc tế liên Chính phủ đựơc thành lập và hoạt động
trên toàn cầu, điển hình như: UN (United Nations); WHO (World Health Organization);
ILO (International Labour Organization); ICAO (International Civil Aviation
Organization); IMO (International Maritime); UNESCO (United Nations Educational,
Scientific and Cultural Organization); ITO (International Telecommunication Union);…
Quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế cơ bản của tổ chức quốc tế liên chính phủ :
- Thảo luận và thông qua các văn bản pháp lý về tổ chức và hoạt động của mình
trong phạm vi quy định của Hiến chương và Điều lệ;
- Quyền được ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến các hoạt động của mình;
- Nhận đại diện và quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa phải là thành
viên của mình;
- Tham gia tổ chức các Hội nghị quốc tế liên quan đến nội dung hoạt động của
mình;
- Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và giữa các thành viên
với tổ chức quốc tế;
18
- Được hưởng quyền theo quy định của các điều ước quốc tế mà tổ chức đó ký
kết hoặc tham gia;
- Được yêu cầu kết luận tư vấn của Tòa án quốc tế của Liên hiệp quốc;
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia, các tổ chức khác trong trường
hợp nhận thấy cần thiết, đồng thời cũng được hưởng những quyền miễn trừ và ưu đãi ngoại
giao.

Song song với các quyền cơ bản nêu trên, các tổ chức quốc tế liên chính phủ còn phải
thực hiện nghĩa vụ tương ứng nhất định. Đó là tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế, tôn trọng các quyền của các tổ chức quốc tế khác và của các chủ thể khác của luật
quốc tế…
Trong quan hệ quốc tế, các tổ chức tham gia vào quan hệ quốc tế không được đầy đủ
như các quốc gia. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng hạn chế
do đây là chủ thể sinh ra từ các quốc gia. Có nghĩa là chính các quốc gia là người khai sinh
ra các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các quốc gia xác định quyền và nghĩa vụ của tổ
chức quốc tế của mình. Như vậy, các tổ chức quốc tế chỉ được thực hiện các quyền và
nghĩa vụ được ghi nhận trong hiến chương, điều lệ thành lập nên nó mà thôi, trong khí đó
các quốc gia lại có đầy đủ tất cả các quyền năng của một chủ thể.
3. Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập
Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là nguyên tắc « Quyền dân tộc tự
quyết ». Do đó, các dân tộc đang đấu tranh vì một nền độc lập và tự do chân chính có thể
trở thành chủ thể của luật quốc tế hiện đại. Trong quan hệ quốc tế, các dân tộc đang đấu
tranh giành độc lập này tham gia rất hạn chế. Hầu như họ tham gia chỉ với một cơ sở pháp
lý duy nhất là quyền dân tộc tự quyết. Do đó, chủ thể này còn được xem là chủ thể hạn chế
của luật quốc tế.
Để trở thành chủ thể của luật quốc tế hiện đại thì các dân tộc phải hội đủ các điều kiện
sau:
- Phải là các dân tộc đang bị đô hộ, nô dịch và bị áp bức;
- Đã và đang đứng lên đấu tranh; và
- Đã thành lập được cho mình một cơ quan lãnh đạo đại diện cho dân tộc mình.
Ví dụ: PLO (Palestin Liberation Organization); ANC (African National Congress);
SWAPO (South West African People’s Organization)
Như vậy, các dân tộc đang bị đô hộ muốn trở thành chủ thể của luật quốc tế thì phải có
cơ quan lãnh đạo thực hiện quyền năng cho một cuộc đấu tranh đòi quyền tự quyết và nó
phải gắn liền với thực tế của một cuộc đấu tranh. Do vậy, khi hội đủ ba điều kiện nêu trên
thì mặc nhiên, các dân tộc này trở thành chủ thể của luật quốc tế, chứ không phụ thuộc vào
việc công nhận của các quốc gia khác.

Các quyền quốc tế cơ bản của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập:
- Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất kỳ
dạng nào, kể cả việc áp dụng các biện pháp nhằm chống lại các quốc gia đang cai trị mình;
- Quyền được luật pháp quốc tế bảo vệ, và được sự giúp đỡ từ các quốc gia, các tổ
chức quốc tế, các dân tộc và nhân dân trên thế giới;
- Quyền được thiết lập các quan hệ chính thức với các chủ thể của luật quốc tế hiện
đại;
19
- Quyền được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế;
- Quyền được tham gia xây dựng những quy phạm pháp luật quốc tế, và được thi
hành một cách độc lập những quy phạm pháp luật quốc tế.
Bên cạnh các quyền nêu trên thì các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập cũng phải có
những nghĩa vụ quốc tế tương ứng như: tôn trọng các quyền cơ bản của các quốc gia khác;
tuân thủ các cam kết quốc tế
Như vậy, các dân tộc bị đô hộ khi đứng lên đấu tranh và thành lập được cơ quan lãnh
đạo phong trào thì nó trở thành chủ thể của luật quốc tế hiện đại. Quyền năng chủ thể của
nó gắn liền với sự tồn tại trên thực tế của cuộc đấu tranh chứ không phụ thuộc vào việc nó
đã thành lập được một quốc gia độc lập hay chưa, hoặc không phụ thuộc vào sự công nhận
của quốc gia khác. Quyền năng này được quy định và đảm bảo thực hiện bởi các quy phạm
pháp luật quốc tế.
Ngoài các chủ thể như quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đang đấu
tranh giành độc lập nêu trên, trên thực tế hiện nay, còn có các thực thể mới xuất hiện mà nó
có thể tham gia vào quan hệ quốc tế một cách độc lập như : Tòa thánh Vatican, các vùng
lãnh thổ là thành viên của các tổ chức quốc tế…Ngoài ra, trong khoa học luật quốc tế, có
rất nhiều quan điểm cho rằng cá nhân, các công ty xuyên quốc gia và tổ chức quốc tế phi
chính phủ cũng là chủ thể của luật quốc tế. Bởi vì trên thực tế, những thực thể này đã có
mặt trong các quan hệ pháp lý mang tính chất quốc tế nhất định.
III.Vấn đế công nhận trong luật quốc tế
Trên thực tế hiện nay, trong quan hệ quốc tế, có những thực thể được một số nước công
nhận đó là quốc gia nhưng ngược lại, một số nước lại cho rằng đó không phải là một quốc

gia vì nó chưa hoàn toàn độc lập…Tuy nhiên, dù có được công nhận hay không thì thực thể
này sẽ mặc nhiên trở thành chủ thể của luật quốc tế nếu như nó hội đủ các điều kiện của
một chủ thể. Có nghĩa là nó tham gia độc lập trong một hay một số lĩnh vực nhất định với
chủ thể khác trong quan hệ quốc tế mà luật quốc tế cho phép.
1. Khái niệm về sự công nhận
Khi một thực thể mới xuất hiện trong cộng đồng quốc tế muốn tham gia vào quan hệ
quốc tế một cách chính thức, dễ dàng với các chủ thể khác thì chủ thể đó cần phải được các
chủ thể khác công nhận sự tồn tại của nó. Do đó, nếu không được công nhận thì đồng nghĩa
với việc chủ thể đó không được thiết lập các mối quan hệ với quốc gia không công nhận
mình. Ngược lại, quốc gia đã tồn tại muốn thiết lập quan hệ quốc tế với thực thể mới trong
các lĩnh vực thì quốc gia đó có thể biểu hiện thiện chí đầu tiên của mình với thực thể mới
này là công nhận sự tồn tại về mặt pháp lý của thực thể mới này. Do đó, cùng một thực thể
mới xuất hiện hay đang tồn tại trên thực tế nhưng sẽ có những quan điểm khác nhau về tư
cách chủ thể của nó. Một số quốc gia công nhận và cho rằng thực thể này là quốc gia.
Ngược lại, một số quốc gia sẽ không công nhận thực thể này là quốc gia vì cho rằng thực
thể đó vẫn chưa thực sự độc lập.
Công nhận trong luật quốc tế là một hành vi pháp lý - chính trị của quốc gia công nhận
đối với thực thể được công nhận nhằm xác nhận sự tồn tại và với mục đích xác lập quan hệ
quốc tế đối với một thành viên mới trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong sinh hoạt của cộng
đồng quốc tế.
Như vậy, hành vi công nhận là hành vi độc lập, phụ thuộc và ý chí đơn phương của bên
công nhận đối với bên được công nhận nhằm phục vụ cho lợi ích chính trị và các lợi ích
khác của bên công nhận. Do đó, hành vi công nhận không tạo ra tư cách chủ thể của thực
20
thể mới của luật quốc tế mà nó chỉ có ý nghĩa trong mối quan hệ giữa bên công nhận và
bên được công nhận mà thôi.
Trong khoa học luật quốc tế hiện nay, có các loại công nhận như : Công nhận quốc gia
mới, công nhận chính phủ mới, công nhận người đứng đầu chính phủ mới…
2. Các hình thức công nhận trong luật quốc tế
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có ba hình thức công nhận phổ biến là công nhận « de

jure », công nhận « de facto » và công nhận « ad-hoc ». Tuy nhiên, không có một hình thức
nào được áp dụng thống nhất cho mọi trường hợp cũng như luật quốc tế không bắt buộc chủ
thể công nhận phải sử dụng hình thức cụ thể nào để công nhận cả. Điều đó có nghĩa là nếu
quyết định công nhận thì chủ thể công nhận có toàn quyền quyết định trong việc lựa chọn trong
số các hình thức trên để công nhận một thực thể khác.
a. Công nhận “de jure”
Công nhận de jure là hình thức công nhận chính thức ở mức độ đầy đủ nhất và toàn
diện nhất. Đây là hình thức công nhận minh thị, công khai và được thể hiện bằng một ý chí
rõ ràng của bên công nhận đối với bên được công nhận. Do đó, ở hình thức này, chủ thể
công nhận luôn luôn bày tỏ một thái độ rất cương quyết, rõ ràng và mong muốn được thiết
lập mối quan hệ nhiều mặt với thực thể được công nhận. Các phương thức được sử dụng
trong hình thức công nhận này là việc gửi công điện chúc mừng sự thành lập, ủng hộ thực thể
này vào làm thành viên của các tổ chức quốc tế…
Kết quả của hình thức công nhận này là các bên thường thiết lập mối quan hệ nhiều
mặt, đầy đủ với nhau, trong đó có mối quan hệ về ngoại giao.
- Công nhận "de facto"
Đây là cũng hình thức công nhận chính thức, rõ ràng nhưng phạm vi và mức độ không
đầy đủ như công nhận « de jure ». Ở hình thức này, sự công nhận chỉ thể hiện về mặt pháp
lý là chủ yếu. Thực thể công nhận chỉ thể hiện thái độ đối với bên được công nhận chứ ít
khi thể hiện ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể. Do đó, quan hệ giữa hai bên trong
hình thức công nhận de facto chỉ được hình thành ở mức độ quan hệ quá độ để tiến lên
quan hệ toàn diện. Kết quả là các bên chỉ có thể thiết lập với nhau thường ở mức độ quan
hệ lãnh sự mà thôi.
- Công nhận ad-hoc
Công nhận ad-hoc là hình thức công nhận đặc biệt, không theo một trình tự thủ tục
chung nào. Việc công nhận này mang tính chất riêng biệt phụ thuộc vào vụ việc cụ thể của
sự công nhận. Do đó, việc công nhận này chỉ phát sinh trong một phạm vi lĩnh vực nhất
định và nhằm một mục đích nhất định mà thôi và khi thực hiện xong mục đích đó thì quan
hệ giữa hai bên sẽ chấm dứt. Hình thức công nhận này thường được sử dụng khi các bên
chưa thể áp dụng các hình thức công nhận chính thức nói trên. Phương thức công nhận

thông thường được thể hiện ở việc viếng thăm và làm việc của phái đoàn của quốc gia, của
người đứng đầu các cơ quan chuyên môn liên quan…
3. Hệ quả pháp lý của sự công nhận
Trong khoa học luật quốc tế, có hai quan điểm khác nhau về hệ quả pháp lý của sự
công nhận. Có quan điểm cho rằng sự công nhận tạo ra tư cách chủ thể của luật quốc tế bởi
thuyết cấu thành. Đây là học thuyết của các nhà khoa học tư sản nhằm sáng lập ra chủ thể
của luật quốc tế, họ đưa ra quan điểm như sau: Sự công nhận chính thức từ các chủ thể
công nhận là cơ sở duy nhất để quốc gia mới được thành lập có thể trở thành chủ thể của
luật quốc tế, và là một thành viên độc lập trong cộng đồng quốc tế.
21
Do đó, theo thuyết này thì một quốc gia không thể trở thành chủ thể của luật quốc tế
nếu không được ít nhất một quốc gia khác công nhận nó.
Theo quan điểm của thuyết cấu thành thì chủ thể của luật quốc tế phải được sáng lập ra
bởi những chủ thể đã và đang tồn tại chứ một thực thể sẽ không tự nhiên trở thành chủ thể
mặc dù nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành nên chủ thể.
Ngược lại, có quan điểm lại cho rằng sự công nhận không tạo ra tư cách chủ thể của
luật quốc tế mà chỉ mang tính tuyên bố sự có mặt của một thực thể mới trong quan hệ quốc
tế mà thôi. Quan điểm thứ hai này dựa trên thuyết tuyên bố và được sử dụng trong khoa
học luật quốc tế ngày nay. Học thuyết này cũng là học thuyết của các luật gia tư sản và nó
ra đời muộn hơn so với thuyết cấu thành. Như vây, theo thuyết tuyên bố thì việc công nhận
chỉ là sự thể hiện nội dung của chính sách đối ngoại của chủ thể công nhận đối với thực thể
khác trong quan hệ quốc tế. Do đó, trước khi quyết định công nhận một đối tượng nào đó
thì các quốc gia đều phải cân nhắc kỹ về lợi ích của chính quốc gia mình và lợi ích của
nhân dân thế giới. Nhìn chung, điểm tiêu biểu của sự công nhận theo thuyết tuyên bố thể
hiện hai chức năng cơ bản sau: Thứ nhất là công nhận khẳng định quy chế của đối tượng
được công nhận; Thứ hai là công nhận tạo điều kiện thuận lợi để các bên thiết lập những
quan hệ nhất định với nhau.
4. Các thể loại công nhận cơ bản
Các thực thể mới xuất hiện hoặc mới thay đổi chế độ chính trị, lãnh đạo…thì làm phát
sinh sự công nhận của quốc gia khác trong quan hệ quốc tế để thuận lợi hơn cho họ trong

các hoạt động và mục đích ngoại giao…
a. Công nhận quốc gia mới
Công nhận quốc gia mới là việc thừa nhận thêm một thành viên mới trong quan hệ quốc
tế và thành viên này sẽ là một quốc gia có chủ quyền đầy đủ tương tự như các các quốc gia
khác đang tồn tại trong cộng đồng quốc tế.
Như vậy, khi một quốc gia mới ra đời thì các quốc gia trên thế giới có thể thể hiện sự
công nhận của mình nếu muốn thiết lập quan hệ với quốc gia mới này. Thông thường, quốc
gia mới được ra đời trong những trường hợp sau đây:
+ Do hành vi chiếm cứ lãnh thổ vô chủ : Quốc gia mới được hình thành do một nhóm
người hoặc một dân tộc phát hiện ra những vùng đất mới, vô chủ và thực hiện quyền chiếm
cứ trên một vùng đất này. Từ đó, họ thành lập nên quốc gia ở vùng đó. Có thể khẳng rằng
đây là cách cổ điển mà các quốc gia được hình thành trong lịch sử. Hình thức thành lập
quốc gia mới này chỉ xuất hiện phổ biến trước thế kỷ XIX. Hiện nay, cách thức thành lập
này hầu như không xuất hiện nữa.
+ Quốc gia mới được hình thành do kết quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc làm
xuất hiện một quốc gia của dân tộc được độc lập và có chủ quyền. Trường hợp này khá phổ
biến ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai. Các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh giành độc lập. Kết quả giải phóng dân tộc
thành công và dân tộc đó sẽ thành lập một quốc gia độc lập trong quan hệ quốc tế.
+ Quốc gia mới được hình thành do kết quả của sự phân tách quốc gia đang tồn tại
thành nhiều quốc gia. Ví dụ, một quốc gia liên bang tách ra thành nhiều quốc gia mới. Do
đó, quốc gia mới được thiết lập theo chế độ chính trị, kinh tế - xã hội mới một cách độc lập.
+ Quốc gia mới được hình thành do sự hợp nhất các quốc gia đang tồn tại thành một
quốc gia theo chế độ chính trị, kinh tế - xã hội mới.
22
Như vậy, khi một quốc gia được hình thành trong các trường hợp nêu trên thì những
quốc gia còn lại có thể công nhận bằng cách gủi công hàm chúc mừng, tuyên bố trên các
phương tiện thông tin về việc chúc mừng sự thành lập quốc gia mới, cử phái đoàn nhà nước
đến viếng thăm và làm việc, ký kết điều ước quốc tế…
- Công nhận chính phủ mới

Công nhận Chính phủ mới được đặt ra khi có một chính phủ mới lên cầm quyền do kết
quả của một cuộc đảo chính hoặc một nguyên nhân nào đó theo quy định của pháp luật
trong nước của quốc gia đó.
Sự công nhận chính phủ mới được thể hiện ở hai hình thức chính phủ mới : Chính phủ
« de jure » và chính phủ « de facto ».
Chính phủ « de jure » là chính phủ được thành lập hợp hiến, hợp pháp với quốc gia có
chính phủ mới. Tuy nhiên, luật quốc tế không điều chỉnh loại chính phủ này vì đây là chính
phủ hợp pháp. Ngược lại, chính phủ « de facto » là một chính phủ được thành lập mới hoàn
toàn không theo quy định của quốc gia đang tồn tại. Ví dụ như cuộc đảo chính nội bộ quốc
gia để giành chính quyền, cuộc chiến nội bộ của các đảng phái dẫn đến thay đổi nhà cầm
quyền của quốc gia đó…Có thể nói, trong trường hợp này, chính phủ mới hình thành trái
với quy định của Hiến pháp của quốc gia. Có nghĩa là không thông qua bầu cử, bổ nhiệm
theo đúng trình tự, thủ tục theo luật của quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, chính phủ này
vẫn được luật pháp quốc tế công nhận trong thực tiễn quốc tế và được gọi là chính phủ « de
facto ». Tuy nhiên, chính phủ « de facto » nay muốn được luật quốc tế hay các chủ thể khác
của luật quốc tế công nhận thì chính phủ đó phải dựa trên nguyên tắc hữu hiệu. Có nghĩa là
phải có các điều kiện sau đây:
- Phải được đông đảo quần chúng nhân dân tự nguyện, tự giác ủng hộ;
- Phải có năng lực để duy trì quyền lực của một quốc gia trong một thời gian dài;
- Phải có khả năng kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ quốc gia một cách độc
lập và tự chủ, tự quản lý được mọi công việc của đất nước;
Như vậy, để một chính phủ « de facto » được luật quốc tế công nhận trong ban giao
quốc tế thì yêu cầu đặt ra cho một thực thể tồn tại phải hội đủ ba điều kiện nêu trên mới có
thể được công nhận.
- Công nhận các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập
Có thể nói đây là sự công nhận “quốc gia” đang trong giai đoạn hình thành. Thật ra,
việc công nhận đối tượng này chỉ được đặt ra khi một dân tộc nào đó hội đủ ba điều kiện
của một chủ thể là : Đang bị áp bức ; Đứng lên đấu tranh để giải phóng dân tộc nhằm tiến
tới thành lập một quốc gia độc lập của dân tộc; Có cơ quan lãnh đạo của mình.
Việc công nhận phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc có nghĩa là việc công nhận tổ

chức đại diện của dân tộc đó. Hay nói cách khác, đó là sự công nhận một dân tộc đang tiến
dần thiết lập quốc gia mới.
Mục đích của công nhận này sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để các dân tộc đang
đấu tranh giành độc lập dễ dàng thực hiện quyền năng chủ thể của mình trong sinh hoạt
quốc tế.
Thực tiễn quốc tế cho thấy thể loại này được hình thành trong các trường hợp sau:
+ Một quốc gia có nội chiến, dẫn đến xuất hiện một đại diện cho phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc chiến nhằm mục đích giành quyền lợi cho mình và cho
23
dân tộc mình. Có thể nhận thấy rằng trong trường hợp này, thực tế tồn tại hai nhóm người :
bên tham chiến và bên khởi nghĩa;
+ Một nhóm người chiến đấu vì lợi ích của một quốc gia đệ tam nào đó (hiện nay,
trường hợp này ít khi được chấp nhận trong sinh hoạt quốc tế)
- Công nhận "Chính phủ lưu vong"
Công nhận chính phủ lưu vong có ý nghĩa rất lớn về lý luận cũng như thực tiễn. Một
chính phủ lưu vong muốn được công nhận thì chính phủ đó phải hợp với ý dân, được nhân
dân trong nước mà chính họ lãnh đạo trước đấy ủng hộ.
Mục đích của việc công nhận chính phủ lưu vong là khuyến khích, thúc đẩy các chính
phủ lưu vong nổi dậy tiếp tục lãnh đạo nhân dân trong nước
IV. Vấn đề kế thừa của quốc gia trong luật quốc tế
1. Khái niệm về kế thừa của quốc gia trong luật quốc tế
Từ điển Luật Quốc tế 1982 đã nêu ra định nghĩa như sau “sự kế thừa của quốc gia là
sự chuyển dịch các quyền và nghĩa vụ của một quốc gia này cho một quốc gia khác”. Đồng
thời, trong Dự thảo Công ước Vienne 1978 và Dự thảo Công ước Vienne 1983 cũng đã
định nghĩa rằng: “sự kế thừa của quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ sự thay thế của một
quốc gia này cho một quốc gia khác trong việc gánh chịu những trách nhiệm về quan hệ
quốc tế đối với một lãnh thổ nào đó.”
2. Đặc điểm về sự kế thừa của quốc gia trong luật quốc tế
- Về cơ sở phát sinh: Sự kế thừa của quốc gia được đặt ra trong trường hợp có sự
thay đổi triệt để và là biến cố chính trị lớn xảy ra làm “chao đảo” thế giới đương đại phù

hợp với quy luật khách quan của xã hội, thỏa mãn những yêu cầu của luật pháp quốc tế
hiện đại, đặc biệt là nguyên tắc dân tộc tự quyết.
- Đối tượng kế thừa là các quyền và nghĩa vụ quốc tế, đặc biệt là các đối tượng của
quốc gia trước đó thuộc về ai. Ví dụ như : lãnh thổ, tài sản, quốc tịch, điều ước quốc tế ,
các hồ sơ lưu trữ và công nợ tồn tại trước đó và các vấn đề liên quan khác.
- Chủ thể của quan hệ kế thừa: Là những thực thể liên quan, bao gồm thực thể để lại
kế thừa và quốc gia nhận kế thừa.
3. Các trường hợp kế thừa của quốc gia
- Sự kế thừa trong trường hợp do chuyển dịch lãnh thổ
Khi có sự thay đổi lớn về lãnh thổ phù hợp với luật quốc tế hiện đại hoặc chuyển
nhượng lãnh thổ, sáp nhập một phần lãnh thổ của quốc gia này vào quốc gia khác theo các
điều ước quốc tế…thì người ta thường áp dụng nguyên tắc di chuyển đường biên giới quốc
gia theo thỏa thuận giữa các bên hữu quan.
Về cơ bản, phần lãnh thổ sẽ có những thay đổi nhất định. Có thể lãnh thổ quốc gia được
mở rộng thêm và cũng có thể lãnh thổ quốc gia sẽ bị thu hẹp lại hoặc cũng có thể xảy ra
trường hợp chỉ thay đổi vị trí nhưng diện tích không đổi.
Sự thay đổi nêu trên dẫn đến sự thay đổi giá trị pháp lý của các văn bản đang có hiệu
lực trên phần lãnh thổ trước đó. Tuy nhiên, các vấn đề có liên quan khác về kế thừa sẽ được
giải quyết thông qua việc ký kết những điều ước quốc tế cụ thể giữa các bên hữu quan.
- Sự kế thừa trong trường hợp quốc gia mới được hình thành do thực hiện phong
trào giải phóng dân tộc
24
Khi một quốc gia mới có được hành thành trên cơ sở phong trào giải phóng dân tộc thì
họ có thể được độc lập hoàn toàn khỏi sự đô hộ trước đó hoặc chỉ có thể là một phần diện
tích được thoát khỏi sự đô hộ và lập nên được quốc gia mới. Nếu đã là quốc gia mới, vấn
đề kế thừa được xác lập cho họ như sau:
- Đối với lãnh thổ: Quốc gia mới kế thừa phần diện tích mà phong trào giải phóng cai
quản hoặc họ cũng có thể thỏa thuận với quốc gia đô hộ trước đó về diện tích nếu như chưa
được độc hoàn toàn khỏi quốc gia đô hộ;
- Đối với tài sản: Quốc gia mới kế thừa động sản và bất động sản trên phần diện tích

mà mình thiết lập chính quyền mới. Ngoài ra, họ cũng có thể yêu cầu quốc gia đô hộ trao
trả hoặc bồi thường những tài sản mà bị cướp lấy hoặc chiếm giữ do kết quả của hành vi
bóc lột nhân dân thuộc địa trước đó;
- Đối với dân cư: Quốc gia mới kế thừa số dân cư tham gia đấu tranh cho việc giải
phóng dân tộc và dân cư đang sinh sống trên phần diện tích mà thiết lập chính quyền mới;
- Đối với điều ước quốc tế và trách nhiệm quốc tế: Quốc gia mới không nhất thiết
phải kế thừa.
Đối với việc kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế phổ cập thì luật quốc tế
chưa có quy định. Tuy nhiên, trên thực tiễn thì Liên hiệp quốc đã chấp nhận và kết nạp các
quốc gia mới giành được độc lập này vào tổ chức của mình.
- Trường hợp do cuộc cách mạng xã hội của chính quốc gia dẫn đến sự xuất hiện
một chính quyền mới thay thế chính quyền trước đây
Trong trường hợp này thuật ngữ quốc gia về địa lý không đổi, mà chỉ thay đổi về mặt
bản chất chính trị. Tất nhiên, chính sự thay đổi về mặt chính trị đó dẫn đến vấn đề kế thừa
phải được đặt ra rằng nên hay không nên kế thừa.
- Đối với lãnh thổ: Chính quyền mới của quốc gia được kế thừa toàn bộ lãnh thổ của
chính quyền trước đó điều hành;
- Đối với tài sản: Tư tượng như lãnh thổ, chính quyền mới của quốc gia được kế thừa
toàn bộ từ chính quyền trước đó quản lý;
- Đối với dân cư: Chính quyền mới của quốc gia được kế thừa toàn bộ số dân sinh
sống trên lãnh thổ đang tồn tại;
- Đối với Điều ước quốc tế: Thông thường trong thực tiễn, chính quyền mới của quốc
gia sẽ tuyên bố huỷ bỏ những điều ước quốc tế bất bình đẳng, mang tính chất nô dịch và
kế thừa những điều ước quốc tế được ký kết trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện nhằm
phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác quốc tế. Ngoài ra, họ cũng có thể kế thừa các khoản nợ
về xây dựng kinh tế của chính quyền trước để lại. Điều này cho thấy chính quyền của quốc
gia mới có thể áp dụng nguyên tắc chọn lọc, hoặc xoá sạch, hay kết hợp cả hai nguyên tắc;
- Trách nhiệm quốc tế, kể cả vấn đề liên quan đến tổ chức quốc tế khác: Quốc gia
mới có quyền áp dụng nguyên tắc xóa sạch hay nguyên tắc chọn lọc, hoặc kết hợp giữa hai
nguyên tắc. Điều này xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng giữa các quốc gia,

nên quốc gia sẽ có toàn quyền quyết định vấn đề cho mình.
- Trường hợp do cuộc cách mạng xã hội dẫn đến sự hợp nhất một số quốc gia
đang tồn tại thành một quốc gia mới
Trong trường hợp này có thể có một quốc gia liên bang xuất hiện trên cơ sở một gia
đang tồn tại tiếp nhận thêm phần diện tích lãnh thỗ, dân cư, tài sản, trách nhiệm khác từ
25

×