Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.53 MB, 193 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Nguyễn Hằng Phương
<small>(Trên tư liệu ca dao trữ tình người Việt)</small>
<small>Chuyên ngành: Văn học dân gian</small>
LUẬN ÁN TIÊN SĨ NGỮ VĂN
Nguyễn Hằng Phương
<small>(Trên tư liệu ca dao trữ tình người Việt)</small>
<small>Chuyên ngành: Văn học dân gian</small>
Mã số : 50407
LUẬN ÁN TIÊN SĨ NGỮ VĂN
<small>Người hướng dẫn khoa học</small>
<small>MỤC LỤC</small>
<small>CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TE CUA VIỆC NGHIÊN CỨU SỰ CHUYEN DO! THI PHÁP TỪ</small>
<small>CA DAO CÓ TRUYEN DEN CA DAO HIỆN ĐẠI... S22 2t 2222 errerrerrree 121.1. Thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gỉan...--...-««- =5 seeeerrrrss 13</small>
<small>1.1.1. Thi pháp và thi pháp hỌC...-- - - -- <1 E111 SH HH kề 13</small>
<small>II. (0 T).,)0...1..2...1...088nn8Ẻeaea-... 15</small>
<small>1.2. Khái niệm ca dao cô truyén và van dé ca dao hiện đại</small>
<small>1.2.1. Khái niệm ca dao cổ truyỀN...-- -- 5: St t1 111111111 11111111111 1111111111 111111 H1 Hy tiểu</small>
<small>1.2.2. Vấn đề ca dao hiện đại ... -- ---- + 5< 22112131231 8113 1125119511 151 18 11011 HH Hy nen 19</small>
<small>SỰ CHUYEN ĐỎI DE TAI VÀ CAM HUNG CHU DAO 0... ccccccccccccsssesssessseesseessesssesssessseessees 51</small>
<small>TỪ CA DAO CO TRUYEN DEN CA DAO HIỆN DAD... ceccccccscccscsssesssssessseesecssessecssesseeseeees 51</small>
<small>2.1. Dé tài trong ca dao cỗ truyền và ca dao hiện đại...-.--<-<c<cccxeesxsesrsererersrsree 52</small>
<small>2.1.2. Vấn đề đề tài trong sáng tạo văn học nghệ thuật và việc nghiên cứu nó trong q trìnhtìm hiểu các yếu tố thi pháp của ca dao người Việt ...- 2+2 + +2 + +2 £+E£zEE+eE+exzseseczxczx 542.1.3. Những đề tài có mặt trong CO MAO ...--- -- + +: + tk tk E911 8E 2E EEkrkrerrrree 58</small>
<small>2.2. Cảm hứng chủ đạo trong ca dao cỗ truyền và ca dao hiện đại ...---<- 78</small>
<small>2.2.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo và việc tìm hiểu cảm hứng chủ đạo trong văn học nghệ</small>
<small>3.2. Những điểm tương đồng và dị biệt về phương diện nhân vật trữ tình giữa ca dao cỗ</small>
<small>truyền và ca đao hiện đại... ---«««-« « « « « « x .n n m 97</small>
<small>3.2.1. Những điểm tương đồng ... .-- ---- + 5E SE E3 E221 22111312 11811151181 11111 01H Hy gu 98</small>
<small>3.2.2. Những diém dị biệt</small>
<small>8101. ... 142</small>
<small>SỰ CHUYEN DOI NGÔN NGỮ... Q 2n 2H TỰ 212112111211211211212211 11210 are 142</small>
<small>TỪ CA DAO CO TRUYEN DEN CA DAO HIỆN ĐẠI...À... - G25 2S 22s 142</small>
<small>4.1. Ca dao với các phương thức nghệ thuật tạo hình và biếu hiện... .---s<-cese<cxsxse=c+ 144</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>4.1.1. Khai niệm phương thức tạo hình, phương thức biểu hiện và mối quan hệ giữa chúng với</small>
<small>chức năng phản ánh hiện thực của văn học nghệ thuật và ca dao ...- --‹- --- 144</small>
<small>4.1.2. Những khác biệt giữa ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại trong việc sử dụng các</small>
<small>31/411:834/103/14() 505) 0... ...ĨỒỞẺ:dẦ....- 147</small>
<small>4.2. Ca dao với tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngơn ngữ văn học ... 163</small>
<small>4.2.1. Khái niệm tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật ...-- ---- 5-5 1634.2.2. Những khác biệt của tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngơn ngữ văn học trong ca dao</small>
<small>cổ truyền và ca dao hiện đại ... --- 2 SE S8 E23 E3 3212311 Hv Hy TH HH TH HH rước 164</small>
<small>2201/0001. ...35... 179</small>
<small>DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHẢO...-- 22-22222125 11E21111711221112111121112111211 xe 188</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1. Về nghĩa của ký hiệu
a. Chữ số A rập (1,2,3...) đứng ở bên trái mỗi lời ca dao cô truyền là số
với chữ cái đầu của lời ca đao; đứng ở bên trái mỗi lời ca dao hiện đại là số thứ
tự của lời đó trong sách trích dẫn.
<small>b. Sau mơi lời ca dao cơ trun:</small>
Chúng tơi lay nguyên văn các chú thích về xuất xứ mỗi lời ca dao in trongbộ Kho tàng (chỉ dựng bản chớnh nờn chỉ ghi xuất xứ bản chớnh)
<small>Kho tàng</small>
- Coc chữ số La mo là ton tập và quyên soch
- Các chữ số Ả rập là tên trang sách có ghi lời đó
Tuổi em cũn bộ chưa nên lay chong
<small>HPVI64 NASLI22b NGCK 118b TCBDI199 TNPDI 17</small>
<small>Nhu vậy, lời ca dao Al ở trên có | bản chính được ghi trong 5 sách: Hat</small>
phường vải, trang 164; Nam âm sự loại, tập I, trang 22b; Nam giao cổ kim lý
<small>hạng ca dao chy giải, trang 118b; Thi ca b6nh dõn Việt Nam, tập IJ, trang 199;</small>
<small>Tục ngữ phong dao, tập I, trang 17.</small>
Riờng 3 cuốn sóch Tuc ngữ và dõn ca Việt Nam (Tục ngữ ca dao dõn caViệt Nam) tho cú ký hiệu riờng, sẽ trỡnh bày cựng với bảng chữ tắt sau:
1. ANPT An Nam phong thé thoai
<small>2.CDTCM Ca dao trước cách mang</small>
4. CVPD Cé Viét phong dao
<small>5. DCBTT Dõn ca Bỡnh Trị Thion</small>
<small>6. DCNTBI Dõn ca Nam Trung bộ, tập I</small>
<small>7.DCNTBH Dõn ca Nam Trung bộ, tập I</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>8. DCTH9. ĐNQT</small>
<small>Dõn ca Thanh Húa</small>
Đại Nam quốc tỳy
Hương hoa đất nước
Nam giao cô kim lý hạng ca dao chy giải
<small>Nam phong giải trào</small>
<small>Phong giao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ</small>
<small>Thơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tap IThơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tập IIThơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tap IIIThơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tập IV</small>
<small>Thanh Húa quan phong</small>
<small>Tục ngữ phong dao, tập ITục ngữ phong dao, tập II</small>
Tục ngữ va don ca Việt Nam, xuất bản lần thứ nhất, tập ITục ngữ và dõn ca Việt Nam, xuất bản lần thứ nhất, tap IITục ngữ ca dao don ca Việt Nam, xuất ban lần thứ bay
<small>c. Sau modi lời ca dao hiện đại:</small>
<small>Chữ cái sau mỗi lời ca dao hiện đại là tên (viết tat) của các cuốn sách chúng</small>
tôi lấy làm tư liệu nghiên cứu. Tơn trọng tính lịch sử của tư liệu, chúng tôi ghinguyên dạng tên sách, tập sách do Nhà xuất bản in, ví dụ: Ca dao chống Mỹ cứunước áp ba, Ca dao chồng Mỹ cứu nước tap !,...
Sau đây là bảng chữ viết tắt:
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>3. CDVN 1945-1975 Ca dao Việt Nam 1945-1975</small>
4. CDST từ 1945 đến nay Ca dao sưu tầm từ 1945 đến nay5. CHOGLD Cụ Hồ ở giữa lũng don
áp dụng trong trường hợp những lời trích dẫn ca dao rút từ các cuốn sách.
đó hoặc lấy từ các bài viết lẻ, chúng tơi dùng chú thích (tra ở phần tài liệu tham
<small>khảo) đê chỉ dân xuât xứ.</small>
Vớ dụ:Lời ca dao Ch 211 sau ryt từ bộ Kho ràng, chỳng tụi thụng boo xuấtxứ bằng ký hiệu:
211. Chẳng tham vựa lúa anh đây
<small>TCBDI503 TCBDIII 146 TNDI 85</small>
Cũn lời ca dao sau lay từ một bai viết, chỳng tui dung chy thích dé chỉ danxuất xứ:
<small>Con Bộ lot chun lot hoa</small>
Chỳng em not da not cổ. [92.46 ]
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>Chương 1</small>
<small>CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TÉ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU</small>
SỰ CHUYEN DOI THI PHAP TỪ CA DAO CO TRUYEN
<small>DEN CA DAO HIEN DAI</small>
nhận thức va cải tạo thé gidi. Đề thực hiện được điều đó một cách tốt nhất trongđiều kiện có thé, khơng thé không dựa trên cơ sở lý luận và thực tế của chuyênngành. Những cơ sở khoa học đó nếu được chuẩn bị đầy đủ sẽ tạo điều kiện chonghiên cứu khoa học có thé thực hiện tốt những chức năng cơ bản như mơ tả,
<small>giải thích, tiên đốn và sáng tạo khoa học. Và chính những chức năng trên sẽgiúp nghiên cứu khoa học đạt được mục đích đã đặt ra.</small>
Thực hiện luận án Sw chuyển đổi thi pháp từ ca dao cỗ truyền đến ca dao
chuẩn hoá, thống nhất các khái niệm, thuật ngữ... có liên quan đến đối tượngnghiên cứu là van đề cần được xem xét. Đặc biệt, sự ưu tiên chú ý đến nhữngvan đề khác có mỗi quan hệ với ca dao hiện đại - một bộ phận thơ dân gian gâynhiều ý kiến tranh luận tất sẽ phải đặt ra ở chương này.
<small>1.1. Thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian</small>
Nếu đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ thì nhiều nội dung sẽ phải giảiquyết ở mục này. Tuy nhiên, do điều kiện tư liệu và trong giới hạn của đề tàiluận án, người viết chủ yếu quan tâm đến những khái niệm cơ bản của khoa họcthi pháp, khoa học thi pháp chuyên ngành; qua đó thể hiện quan điểm về việc sử
<small>dụng các khái niệm trong phạm vi đê tài luận án.1.1.1. Thi pháp và thi pháp học</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Theo các nhà nghiên cứu, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy một cách hiểuthống nhất về khái niệm thi pháp và thi pháp học.Một số nhà lý luận văn học
<small>Nga như M.Khrapchenko, A.Bushmin, G.Pospelov, P.Nikolaev, L.Timofeev...</small>
đều cho răng hiện nay các định nghĩa về thi pháp đều mơ hồ hỗn hợp, quan hệcủa nó với nhiều bộ mơn nghiên cứu văn học chưa được xác định rõ ràng [Dẫntheo 143.57]. Trong thực tế, cách hiểu về các khái niệm trên của các nhà nghiêncứu Nga khác nhau và giữa họ với các nhà nghiên cứu Pháp, Mỹ cũng có nhiềuđiểm khơng tương đồng. Tuy vậy, “nếu chưa đi sâu vào các khía cạnh riêng lẻmà cần có cái nhìn tong quan, thì khơng thé khơng thấy rang, dù khác nhau bao
<small>nhiêu, thi pháp vẫn có một phạm vi xác định. Đó là nghé thudt và thì pháp học là</small>
<small>khoa học nghiên cứu văn hoc với tu cách là một nghệ thuật. Định nghĩa này có</small>
thể bao hàm mọi cách hiểu rộng, hẹp khác nhau nhất về thi pháp và thi pháphọc”[143.57]. Aritxtôt (384 - 322 tr.CN) - nhà bác học và triết học Hylạp cô đạitrong cuốn Thi pháp hoc đã xác định thi pháp hoc là khoa học nghiên cứu vềnghệ thuật thi ca như là một nghệ thuật. Sau ông, các nhà thi pháp học vẫn tiếptục duy trì truyền thống nghiên cứu đó.
học qua các cơng trình của mình. Chang hạn, V. Zhirmunsky trong Nhiệm vucủa thi pháp học (1919 - 1923) viết: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu văn
<small>học như là một nghệ thuật”. V. V. Vinôgradov (1963) cũng nêu định nghĩa: “Thi</small>
pháp học là khoa học “về các hình thức, các thể, các phương tiện, phương thứcsáng tạo nghệ thuật ngôn ngữ, về các kiêu cấu trúc, các thé loại tác phẩm vănhọc... C. Khráptrencô - một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái thi
pháp học lịch sử ở Liên Xô viết: “Không hề kỳ vọng một định nghĩa thật đầy đủ,
những định nghĩa tổng quát nhất và thuyết phục nhất về thi pháp học [34.298].
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Các nhà nghiên cứu phương Tây xem ra ưa những đối tượng nghiên cứu cụthé hơn. R. Jakobson (1960), từ góc độ ngôn ngữ học xác định nhiệm vụ thi
<small>pháp học là “nghiên cứu chức năng thơ của phát ngôn thơ”. TS. Todoror (1973)</small>
thì coi đối tượng của thi pháp học là các “thuộc tính đặc trưng của ngơn từ vănhọc”, “các quy luật chung của sự tồn tại của văn học”. Cũng có khi, thi pháp họcđược thu hep trong một thé loại thi ca, chang hạn Từ điển thuật ngữ phê bìnhvăn học phương Tây hiểu thi pháp học là: “hệ thống lý luận hay học thuyết laythơ làm đối tượng nghiên cứu để khám phá các quy tắc và ngun tắc sáng tác
<small>Quảng Hàm (Việt Nam) hoặc trong cơng trình Thi pháp học khái thuật cua</small>
thống phép tắc, cách luật của thơ [143.58].
Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã vận dụng những vẫn đề lý luận trên vàonghiên cứu cụ thé. Tuy nhiên, mới qua tìm hiểu một số định nghĩa về thi phápvà thi pháp học, chúng ta đã thấy bộc lộ nhiều quan điểm khác nhau. Vấn đềkhông đặt ra ở đây là phê phán quan điểm nao, song chọn cách hiểu nao là điều
hiểu về thi pháp. Một là lý luận khoa học về nghệ thuật ngôn từ. Truyền thốngnày có từ Aritxtơt, Horace, Boa Lơ. Một số tác giả hiện đại phương Tây như R.Jakobson, N. Frye, TS. Todorov xem thi pháp là lý luận về các quy luật chungcủa văn học, của thê loại (...). Hai là, hệ thống các nguyên tắc sáng tạo của một
<small>tác giả, nhóm tác giả hoặc trường phái, giai đoạn, thời đại mà với chúng, các</small>
sáng tác đã được tạo ra trong thực tế văn học. Ở đây, điều quan trọng không phải
là các khái niệm lý luận của nhà lý luận, mà là cách quan niệm, cách hiểu của
nhưng quan niệm thi pháp như thé ton tại cùng văn học, trong văn học và trướcAritxtốt nhiều” [146.10].
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Trong luận án này, chúng tôi cơ bản tán đồng khái niệm thi pháp theo cách
hiểu thứ hai.
<small>1. 1.2. Thi pháp văn học dân gian</small>
Nhìn một cách khái quát thì lịch sử thi pháp học là một quá trình phát triển
tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học này cũng dần dần được mở rộng, đầutiên là thơ sau đó là cả thơ và văn xi; đầu tiên là văn học viết sau đó là cả vănhọc viết và văn học dân gian. Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian khôngchỉ mở rộng phạm vi, đối tượng nghiên cứu của khoa học thi pháp mà còn đemđến cho bộ môn khoa học này những kết quả khả quan và mở ra những hướngnghiên cứu có hiệu quả.(Chăng hạn, cơng trình của Prốp và hướng nghiên cứu
<small>gian là nghiên cứu những vân đê gì?</small>
Crapxốp (1906-1980) - nhà pholklore học Xơ viết cho rằng: “Thi pháp vớitư cách là tổng hợp những đặc điểm hình thức nghệ thuật của các tác pham ngôn
<small>từ bao gôm:</small>
<small>a. Những đặc diém của câu trúc tác phâm;</small>
b. Hệ thống những phương tiện phản ánh, nhờ những phương tiện này màvăn học viết và văn học dan gian xây dựng những bức tranh về cuộc sống,
những hình tượng vé con người va tai tao những hiện tượng khác nhau cua thực
<small>tại (các sự kiện lịch sử; sinh hoạt và đạo đức của con người; thiên nhiên);</small>
chức năng tư tưởng thâm mĩ của các phương tiện thê hiện tác phẩm (sự thê hiện
<small>một cách xúc cảm trước hiện thực, sự đánh giá những sự kiện và hành vi cua</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">nhân vật, sự khám phá ý đồ sáng tạo cùng giá trị tư tưởng nghệ thuật và tay nghềsáng tạo ra tác phâm) [Dẫn theo 81. 27-28].
Crapxốp còn cho rằng văn học dân gian và văn học viết có cái chung,nhưng đồng thời văn học dân gian có đặc điểm riêng là sáng tạo của quần chúngnhân dân. Ông lại chỉ ra rằng, thi pháp văn học dân gian còn là những đặc điểmcủa hình thức, của cách thức thể hiện và biểu hiện riêng của từng nghệ nhân.Cuối cùng thi pháp bao gồm cả những đặc điểm của dân tộc [Dẫn theo 81.28].
Như vậy, tuy chưa chính thức định nghĩa về thi pháp văn học dân giansong Crapxép đã có ý thức phân biệt sự khác nhau giữa thi pháp văn học viết vàthi pháp văn học dân gian khi đưa ra khái niệm thi pháp. Có thể nói, Crapxốp đãgián tiếp phát biểu định nghĩa thi pháp văn học dân gian và thực chất, khái niệmthi pháp văn học dân gian đã được nhà folklore học Xô viết này xác định.
Chu Xuân Diên trong bài viết Vẻ việc nghiên cứu thi pháp văn học dângian cũng đã khăng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu thi pháp văn học
<small>dân gian và định nghĩa như sau:</small>
“Thi pháp văn học dân gian là tồn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ
<small>truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người... Việc nghiên cứu thi</small>
như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mơ típ và cách cấu tạocốt truyện, cách mơ tả diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhânvật...đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thê loại, và cuốicùng là nêu lên những đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của thipháp văn học dân gian nói chung. Nghiên cứu thi pháp văn học dân còn bao gồmcả việc khảo sát những đặc điểm phong cách cá nhân của người sáng tạo và diễn
Các định nghĩa ở trên cho thấy thi pháp nói chung, thi pháp văn học dângian nói riêng là vấn đề khá rộng. Nó khơng chỉ bao gồm các yếu tố hình thứcnghệ thuật đơn thuần mà cịn là những yếu tố nội dung mang tính hình thức. Đólà những yếu tố nằm trong văn bản. Riêng với bộ phận văn hoc dân gian, ngồinhững yếu tơ nam trong văn bản được coi là đối tượng khảo sát chính, yếu tốngoài văn bản như đặc điểm phong cách cá nhân của người sáng tạo, phươngthức diễn xướng... cũng cần được xem xét. Bởi nó góp phần làm nên nét riêngbiệt của tác phẩm văn học dân gian, tạo ra thi pháp văn học dân gian.
Nghiên cứu sự vận động biến đổi của thi pháp ca dao, việc xác định yếu tơnao nam trong bình diện thi pháp là cần thiết. Tất nhiên, hạn định các yếu tố thipháp nằm trong giới hạn nghiên cứu cũng cần phải đặt ra. Quy chiếu vào luậnán, chúng tôi xác định những yếu tô thi pháp chủ yếu cần nghiên cứu là để tdi,cảm hứng chủ đạo, nhân vật trữ tình và ngơn ngữ. Đây không chỉ là những yếutố thi pháp quan trọng trong văn bản trữ tình mà cịn là những yếu tổ thi pháp có
sự vận động biến đổi rõ rệt trong ca dao người Việt. Ngoài ra, yếu tố ngoài văn
Chúng tơi hy vọng, tìm hiểu phương thức diễn xướng là một trong những cơgắng bước đầu góp phần hoàn thiện hướng nghiên cứu ca đao theo tỉnh thần
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>niệm khá nhât quán về ca dao cô truyền. Tuy nhiên, khái niệm ca dao cô truyềnvân cân được thông nhat cách hiệu.</small>
Thuật ngữ ca dao đã từng được dùng với nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.Theo nghĩa gốc thì “ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát khơng có khúc
<small>điệu” [180. 26].</small>
<small>Và một thời “ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành</small>
phơ biến trong dân gian có hoặc khơng có khúc điệu” [180. 26]. Ở trường hợp
<small>này, ca dao đông nghĩa với dân ca.</small>
Trên thực tế, nội hàm khái niệm ca dao đã dần dần có sự thu hẹp. Hiện nay,các nhà nghiên cứu cơ bản thống nhất “dùng danh từ ca dao dé chỉ riêng thànhphần nghệ thuật ngôn từ (phan lời thơ) của dân ca (không ké những tiếng đệm,
tiếng lay, tiếng dua hoi)” [180. 26]. Với nghĩa nay, ca dao là bộ phận chủ yếu vaquan trọng nhất của tho dân gian truyền thống. Thí dụ lời ca dao: Con dun kểđón người đưa / Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng được xem là rút ra từ bàidân ca quan họ Bắc Ninh Còn duyên với những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưahơi như sau: Cịn dun (là dun) kẻ đón (kẻ đón) người đưa. Hết duyên (làduyên) đi sớm (đi sớm) về trưa (chứ trưa) mặc lịng. Người cịn khơng đơi tơi
cũng (6 khơng là) cịn khơng,...(Ha hội ha, hu hội hư là hứ hội hừ),...
<small>Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giới nghiên cứu nước ta đã sử dụng</small>
tập hợp từ ca dao hiện đại (hay ca dao mới) dé phân biệt với ca dao cổ truyén(còn gọi là ca đao cổ).
Nhu vậy, ca dao cổ truyền (hay ca dao cô) là khái niệm chỉ riêng thành
<small>trở VỀ trước.</small>
1.2.2. Vấn đề ca dao hiện đại
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Tìm hiểu ca dao hiện đại, muốn hay không cũng phải đề cập đến một số
nó. Bởi trên thực tế, trong xã hội hiện đại, có nhiều tác phẩm thơ ca hoặc doquần chúng sáng tác lưu truyền hoặc do các nhà thơ chuyên nghiệp sáng tác...đều có đặc điểm nội dung và hình thức nghệ thuật mang dấu ấn dân gian. Vậythực chất, ca dao hiện đại với tư cách là một thể loại của sáng tác dân gian cócịn tồn tại? Thời điểm ra đời, tình hình phát triển và đặc điểm thi pháp của nó ra
sao? Dựa trên cơ sở nào mà ta có thé nhận diện được bộ phận thơ dân gian này?
<small>niệm ca dao hiện đại.</small>
1.2.2.1. Thực tế tôn tại của ca dao hiện đại
Có hay khơng có văn học dân gian hiện đại? Đó là vấn đề đã từng gây
nhiều ý kiến tranh luận trong giới nghiên cứu nói chung. Ở Liên Xô cũ, từ
khá sôi nỗi. Một số ý kiến phủ nhận “Cái hiện đại” trong văn học dân gian,không cơng nhận có folklore hiện đại. Song, nhiều nhà khoa học Nga như: V. E.
<small>folklore trong thời kỳ hiện đại.</small>
Ở Việt Nam, từ những năm 60, van đề văn hoc dân gian hiện đại cũng đã
<small>Van học đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu.</small>
Trong điều kiện lịch sử xã hội mới, những hình thức văn hố văn nghệ dângian đích thực gần như vắng bong; nhu cầu tinh thần của nhân dân cũng gần nhưđược thoả mãn bởi sự phát trién mạnh mẽ của những sáng tạo nghệ thuật chuyênnghiệp, vi thé có ý kiến cho rang văn học dân gian khơng cịn cơ sở dé tơn tai
<small>loại tiêu biêu có tính linh hoạt và có sức sơng lâu bên như ca dao.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Tuy nhiên, phần đông các nhà nghiên cứu vẫn khăng định sự tồn tại tự
Theo dòng thời gian, những ý kiến của các tác giả như Hà Châu [17], Vũ NgọcPhan [134], Chu Xuân Diên [26], Trần Đức Các [5], Nguyễn Văn Diệu [29],Nguyễn Tấn Đắc [32], Trần Quốc Vượng [185], Trần Gia Linh [92]. Cao HuyĐỉnh [37], Đặng Văn Lung [93] đều khẳng định sự ton tại của văn học dân gian
<small>hiện đại và vai trị của nó trong đời sơng xã hội hiện nay.</small>
Có thể nói, trong những sáng tác dân gian hiện đại, ca dao là một thể loại
và sưu tầm từ 1945 đến 1975. Từ 1975 đến nay vì những lý do chủ quan vàkhách quan, phong trào sáng tác cũng như công tác sưu tầm, nghiên cứu bộ phận
<small>ca dao mới này còn nhiêu điêu bât cập.</small>
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mở ra một kỷ nguyên
mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc- tạo điều kiện cho xã hội Việt Nam phát triển về mọimặt, trong đó có sự phát triển của khoa học Văn học dân gian. Tất nhiên, sự pháttriển của khoa học văn học dân gian năm trong sự phát triển chung của toàn bộnên văn hoá mới, trên cơ sở ba nguyên tắc dan tộc hod, đại chúng hố và khoahọc hóa mà Đảng ta đã đề ra trong bản Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943.
Thực ra, môn khoa học nghiên cứu thực sự có tính chất khoa học về văn
học dân gian được ra đời, phát triển trên cơ sở những sang tạo văn hoa văn nghệdân gian và những thành tựu của việc sưu tầm, giới thiệu, nghiên cứu vốn vănhố văn nghệ đó Vậy, cùng với những sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian, thể
<small>loại ca dao ở giai đoạn lịch sử mới này tôn tại và phát triên như thê nào?</small>
Từ năm 1945 đến 1954 - một năm sau cách mạng và suốt chín năm khángchiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương “cách mạng hoá tư tưởng,quần chúng hoá sinh hoạt” do Đảng phát động, các nhà văn hoá và văn nghệ sĩtrong những đợt đi thâm nhập thực tế “đã có dịp được chứng kiến một sự phát
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">triển ram rộ và phong phú của phong trào văn nghệ quần chúng”[25.87]. Cùng
dưới những hình thức hết sức sáng tạo và độc đáo: “ca dao dán trên báng súng,
tre, “di theo” chiếc địn gánh của anh ni gánh com ra trận địa”[25. 88].
Có lẽ hình thức sáng tạo sau là trường hợp rất hiếm gặp trong sáng tác thơca dân gian. Theo Hồi Thanh, trong Nói chuyện thơ kháng chiến, ở “chiến dịch
<small>địa cho bộ đội chiên đầu mây câu thơ:</small>
<small>Mời anh xơi năm cơm chay,</small>
<small>Bộ đội chiên đâu ngoài mặt trận đáp lại cũng băng cách dán trả mây câu</small>
thơ vào chiếc đòn gánh gánh cơm:
<small>Hôm nay tớ nhận cơm chay,</small>
Ngày mai tớ gửi mười Tây làm quà..."[ Dẫn theo 26. 51]
Điều kỳ diệu gì sẽ xảy ra khi những tác phâm thơ ca ấy được quần chúng
Từ năm 1954 đến năm 1975 - thời kỳ dân tộc ta phát động cuộc khángchiến thần kỳ chống dé quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam và xây dựng Chủ nghĩaxã hội ở miền Bắc, các hình thức đa dạng của ca dao lại được khơi nguồn vàphát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những tập Ca dao chống Mỹ, Ca dao chiếnsĩ liên tục ra đời từ phong trào sáng tác, sưu tầm ca dao ở tiền tuyến. Ở hậuphương, các tập ca dao về chủ đề sản xuất và xây dựng cuộc sống mới, tất cả
cho tiền tuyến như: Hang về (Ca dao về thương nghiệp), Cửa chung (ca dao về
chống tham 6 lãng phi), Đẩy lời sóng gió (ca dao phòng chống lụt bão), Biết đâu
(ca dao về lâm nghiệp), Khoi dong nước lên (ca dao về thuỷ lợi)... lần lượt được
mắt độc giả: Ca dao kháng chiến, Ca dao sưu tam (từ 1945 đến nay)... Một sốnhà xuất bản thời đó như: Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Quân đội nhândân, Nhà xuất bản Phé thơng.... đã rất tích cực trong việc sưu tầm, tuyển chọn cadao. Đặc biệt, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, trong nhiều lần xuất bản cònmở han một chuyên mục phan ánh tình hình sáng tác, sưu tam và hướng dẫn
mặt trận. Chang hạn, trong cuốn Ca dao chống Mỹ cứu nước tập ba, Nhà xuấtbản ghi: “Chúng tôi xin mach nước với các đồng chí là nên thuộc thật nhiều ca
dao truyền thống, học lấy cách suy nghĩ bằng hình tượng của nhân dân lao động,học lấy lời ăn tiếng nói của nhân dân, học cả lối biểu hiện nữa”. [11.69] Banbiên tập cịn phân tích nội dung và hình thức nghệ thuật một lời ca dao tiêu biểucó nội dung chống Mỹ với nhan đề: “Cần thêm rất nhiều thơ ca căm thù nhưthế”. Như vậy, rõ ràng dù đây là phong trào văn hóa văn nghệ khơng chun,
song u cầu về chất lượng trong đó có tính tư tưởng là điều mà các nhà xuấtbản hết sức quan tâm. Điều đó cịn cho thấy, số lượng ca dao mà ngày nay
Sau 1975, các nhà xuất bản vẫn rải rác cho ra đời một số cuốn sưu tập cadao mới như: Ca đao Việt Nam (1945-1915), Ca dao chống Mỹ cứu nước chọnloc, Cụ Hồ ở giữa lòng dân, Ca dao về Bác Hồ, Ca dao kháng chiến chong
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>qua di chợ đường xa, Ai ơi chớ lây chong non... là một sô lời ca dao tiêu biêu ra</small>
Tuy nhiên, hiện tượng sáng tác ca dao như sáng tác thơ khơng làm mất đivai trị quan trọng của việc sáng tạo và diễn xướng ca dao theo phương thức cổtruyền. Những sinh hoạt tập thể mà các thành viên trong đó dựa trên giai điệudân ca cô truyền dé đặt lời mới vẫn xuất hiện trong xã hội hiện đại. Hình thức
văn nghệ phù hợp với hình thái sinh hoạt tập thể như hị tiếp vận, hị đối đáp
cũng vẫn được duy trì và trong những thời điểm lịch sử cụ thể, nó phát triểnthành phong trào ca hát quần chúng rất mạnh mẽ. Những sinh hoạt hị hát vừanêu chính là “biến thê trong những điều kiện xã hội mới của các loại hò lao độngvà hát đối đáp trước cách mạng” [25.238]. Trong kháng chiến chống Mỹ, phongtrào “Tiếng hát át tiếng bom” cũng góp phần tích cực vào việc khơi dậy niềm
say mê sáng tạo thơ ca của quần chúng. Có thê nói, các hình thức ca hát trên là
<small>mảnh đât màu mỡ đê ca dao nảy mâm và phát triên.</small>
<small>Những ghi chép sau của các nhà nghiên cứu, nhà văn là một vài minh hoạ</small>
<small>nhiên đó.</small>
<small>Trong bài Những người sáng tác ca dao ở nơng thôn hiện nay, tác gia Đặng</small>
Văn Lung đã miêu tả một đêm lao động và sáng tác ca dao như sau: “Ở đâykhơng thể có sự thống kê chính xác nào về số lượng ca dao hôm ấy. Câu nàytiếp câu kia như tranh lợp nhà, khi giống nhau ở phần đầu, khi giống nhau ởphần giữa hay phan cuối, thậm chí giống nhau hai phần ba hay cũng bài ấy đôi
đi may chữ. Người ta không nghĩ đến chất lượng câu ca dao vừa làm, cũngchăng nghĩ đến việc ghi lại, sửa chữa dé gửi đến một bài báo nao, chỉ miễn sao
<small>động viên được mọi người vui vẻ, hăng hái hồn thành cơng việc của minh.</small>
Người ta cũng không thể nhớ được câu ca dao ấy do ai làm ra”[95].
chính trị viên xem đồng hỗ tính nhằm một chương trình sinh hoạt văn nghệ cap
nghĩa anh là bộ đội đi giết giặc, tôi là dan ở nhà tăng gia sản xuất. Những lời haingười ngâm đối đáp văn hoa rất dài. Giọng ngâm tốt sang sảng của hai đội viênthi nhau ngân dai và đọc | ra n: “Anh øà chiến sĩ ngàn phương”, “Tôi đi tô thắmđiệu đời đêm /ay”...nghe phơi phới, non trẻ, tươi thắm lạ thường...” [ Dẫn theo
<small>25. 238].</small>
<small>ngày - 12/3/1972) lại miêu tả cảnh sinh hoạt hò hát trong lao động của một đơn</small>
vị thanh niên xung phong trong đó có “Sửu và Thức là hai cô ở tổ đánh min” nồitiếng về “giọng hò hay” và về “tài xuất khẩu thành hị”:
lên một câu: Em rằng min giỏi nhất min,
Dọa chồng có dọa giật mìn hay không?Nguyễn Thị Thức liền trả lời ngay:
<small>Vợ em khuôn phép giỏi giang,</small>
Dạy chẳng chắc han cũng không dùng min.
<small>Ngà ta đỏ mặt tía tai lên, đành chịu khen: giỏi giỏi, nhưng phải truy cho cô</small>
<small>ta một câu nữa mới được:</small>
Quả khé thì ngọt, dan bà thì chua.Lập tức cậu ta bị Thức dồn ln:
<small>Có chua mới at mui tanh,</small>
Q hương đánh giặc nổi danh Nam Ha.
Dé biết đàn bà vác giáo đuối Tây... "[Dẫn theo 25. 498]
Đó là những cảnh sinh hoạt văn nghệ, hò hát của quần chúng trongkháng chiến chống Pháp và chống Mỹ mà các tác giả ghi lại được. Còn biết baonhiêu lần sinh hoạt văn nghệ, bao nhiêu cuộc hò hát và bao nhiêu lời ca dao, baonhiêu di ban ca dao nảy sinh trong cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu, lao động như
<small>thê mà ta chưa sưu tâm lưu giữ được?</small>
Thực tế sáng tác, sưu tầm, xuất bản ca đao ở trên cho thấy, trong giai đoạn
<small>lịch sử hiện đại, ca dao nói riêng, các hình thức sinh hoạt văn hố văn nghệ dân</small>
gian nói chung van tơn tại và phát triển. Có thé khang định rang, chủ trương vănnghệ phục vụ cuộc sống lao động và chiến đấu, văn nghệ trở về với cội nguồndân tộc của Đảng là nhân tổ quan trọng thúc đây phong trào văn hố, văn nghệquan chúng, góp phan bảo lưu và phát triển các hình thức sáng tạo văn nghệ dân
xuất phat từ nhu cầu và khả năng sáng tạo, thưởng thức văn nghệ của đại bộphận quần chúng nhân dân. Nói như nhà thơ Xuân Diệu, đó là sự tồn tại kháchquan, khơng thê cưỡng lại được của hình thức sáng tạo nghệ thuật theo phươngthức tập thể và truyền miệng ngay cả trong những điều kiện lịch sử mới của đờisống nhân dân. Hình thức sáng tạo này tuy khơng cịn là hình thức duy nhất xưakia, song vẫn tiếp tục tồn tại dé đáp ứng một loại nhu cầu sáng tạo tinh thần mànhững hình thức sáng tạo theo phương thức văn học thành văn không thể thoả
<small>mãn được [Dẫn theo 25. 89].</small>
Tất nhiên, do đòi hỏi cấp thiết của cuộc sống chiến đấu lao động khẩntrương trong điều kiện lịch sử xã hội mới, do chưa có thời gian dé trau chuốt gọtrũa, do được văn bản hoá quá sớm..., nhiều tác phẩm ca dao hiện đại còn ở dạngphác thảo, chưa đủ độ chín về nội dung và hình thức biểu hiện, cá biệt có những
lời ca dao thuần t mang tính tun truyền, hơ khẩu hiệu, ít chất thơ.
Từ khi đất nước thống nhất đến nay, sáng tác dân gian ngày càng phải đốimặt với một thức tế: tự vận động dé tồn tại bên cạnh những loại hình văn học
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">nghệ thuật chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp vốn có nhiều ưu thế về nộidung và hình thức biểu hiện. Song, văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao
vẫn tiếp tục tồn tại (tuy có chiều hướng lắng xuống), tự nguyện đóng “vai trị“ngự sử” trong đời sống dư luận” [92.47].
Bên cạnh những lời ca dao đã được sưu tầm thiên về âm hưởng ngợi ca: cangợi Đảng Bác, ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi những con người dũng cảmtrong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược..., còn một bộ phận không nhỏ ca daoxuất hiện trong thời kỳ hiện đại vẫn đang lưu truyền trong sinh hoạt của quầnchúng hoặc in lẻ tẻ trong các bài viết nhưng vì những lý do khách quan và chủquan mà ta chưa sưu tầm, tuyên chọn, giới thiệu đầy đủ. Bộ phận ca dao nàyngoài một số lời mang âm hưởng ngợi ca có khơng ít lời chứa đựng nội dung hàihước châm biém, phê bình giáo dục đậm chất thời sự khá sâu sắc và thắm thia.
<small>Xét về cả nội dung và thi pháp, bộ phận ca dao này có nhiêu vân đê đê chúng</small>
<small>ta quan tâm.</small>
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc những năm 60, 70,làm ăn tập thé theo kiểu cũ dé tạo ra “lỗ hồng” dé các hiện tượng tiêu cực xuấthiện và ca dao mới đã kịp thời lên tiếng:
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe
Cũng trong thời kinh tế bao cấp ấy, những hiện tượng “lật đời” như lời ca
<small>dao sau cũng được đưa vào ca dao:</small>
<small>Thủ kho to hơn thủ trưởng</small>
<small>Vào nhà thủ trưởng lại tưởng thủ kho</small>
bình dang nay sinh giữa tướng tá và binh lính. Đáng lưu ý là ở chỗ hiện tượng
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">này tuy không phô biến nhưng rất thực dù trong thời hiện đại và lời ca dao sử
dụng lỗi chơi chữ khá độc đáo:
Trong xã hội hiện đại, nhiều lời ca dao lưu truyền trong dân gian, tuy chưa
“liều thuốc trường sinh" không phải mua bằng tiền bạc.
Đó là những lời châm biếm nhẹ nhàng nhưng thâm thúy sâu cay kiểu ngườimuốn làm ra vẻ khác đời như trường hợp là thi sĩ sau:
<small>Nhà thơ là phải đánh răng</small>
Mặc quan áo mới và năng gội dau.
Có lẽ, chính cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về vật chất trong giai đoạnchuyền đổi nền kinh tế thị trường đã sản sinh ra những tác phẩm truyền miệng
ca dao này sử dụng khá linh hoạt thể thơ lục bát và đã có đị bản:
<small>Vợ mình là con người ta,Con mình do vợ đẻ ra,</small>
Negam ta với họ chang bà con chỉ.Khơng ăn thì để làm gì?
<small>Vợ mình là con người ta,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">dao chỉ dùng để đùa vui, về mối quan hệ gần gũi nhưng nghe “rất phi lý” giữa
sử nao thì lời ca dao trên vẫn như một món ăn tinh than phù hợp với khẩu vịhài hước của người dân lao động Việt Nam trong cuộc đời cịn q nhiều lo
<small>toan, vat vả.</small>
Đơi khi, thế hệ trẻ hiểu lầm về lớp người đi trước. Song, nên chăng trong
một vài trường hợp cụ thé, chúng ta cũng nên suy ngẫm. Lời ca dao “tinhquái” sau phải chăng là sự phát hiện tinh tường của con mắt dân gian và nó đã
Tre già măng mọc đúng rồi,Moc đâu thì mọc đừng choi ghế ơng.
Khơng chỉ quan tâm đến những vấn đề kinh tế, chính trị, ca dao giai đoạn
này cịn có những lời phản ánh các khía cạnh tế nhị trong cuộc sống riêng tư của
<small>con người - vẫn đề lựa chọn hạnh phúc gia đình. Xin dẫn một lời ca dao với hai</small>
<small>đị bản sau:</small>
DỊ bản 1: - Nồi tròn lại up vung tròn,
Bao nhiêu nồi méo vẫn còn đợi vung.DỊ bản 2: - Noi tròn lại up vung tròn,
<small>Bao nhiêu noi méo van còn la vung.</small>
Hai dị bản là hai “cuộc đời”, hai sắc thái trữ tình của văn bản ca dao. Điều đóchứng tỏ lời ca dao này đã vận động theo quy luật sáng tao của tác phẩm dangian và thực sự gây được hứng thú đối với chủ thé sáng tao và công chúng tiếpnhận. Từ cách nói hình ảnh “nồi nào vung ấy” trong văn học dân gian truyềnthống, các tác giả hiện đại đã đưa ra ít nhất hai tình huống khơng mấy dễ chịumà những người khơng may mắn có được sự hoàn thiện trời cho trong cuộc đời
<small>thường gặp phải.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Một số người hay thơ, làm thơ “theo kiểu dân gian” cũng là hiện tượng đáng
có một số tập thơ xuất bản vào những năm 60 và đã từng bị phê là có nhiều câunom na, tự nhiên chủ nghĩa. Thơ ông nôm na. Điều ay ông công nhận. Nhungtheo ông, đó là những tác phẩm viết ra dé tuyên truyền chủ trương chính sáchcủa Dang [184.8]. Điều thú vị là từ khi những van tho nôm na và cái bút danhBút Tre ra đời, nhiều vần thơ “đán nhãn” Bút Tre được xuất bản miệng khắp nơi.Vậy chính ơng - Bút Tre Đặng Văn Đăng đã khơi nguồn cho phong trào sáng tác
thế kỷ XXI. Những vần thơ “dán nhãn” Bút Tre mà dân gian xuất bản miệng ấy
<small>ngộ” hay đơi khi “ngơ nghé” đi nữa; bởi dau phải cứ văn học nghệ thuật là phải</small>
cực hay? Ngay văn học chuyên nghiệp cũng có hiện tượng những tác pham chuahay bên cạnh những tác phẩm tuyệt diệu. Và biết đâu, cái ngồ ngộ, ngô nghé aylà dụng ý, là một biện pháp của nghệ thuật trào phúng mới? Quần chúng nhândân trong thời kỳ hiện đại có cả cơng nhân, trí thức mà chăng lẽ khơng thể chỉnhcho những câu ca sau “chính danh" hơn, đúng “phép tắc ngữ nghĩa” hơn:
Chi về công tác bảo tàng,
<small>Cũng là công việc cách mang giao cho.</small>
<small>Hay: - Hôm nay trời nhẹ mây cao</small>
<small>Anh Ga ga rin bay vào vũ tru (tru).Hoặc : - Anh đi công tac Buôn Mê,</small>
Thuột xong một cái lại về cung em.
Nguyễn Bảo Sinh cũng là một hiện tượng sáng tác “theo kiểu dân gian”.
đời, khơng nhăm mục đích tun truyền như Bút Tre Đặng Văn Đăng. “Ông làmthơ như một cách ghi nhật ký, ghi lại những ý nghĩ bất chợt mỗi khi ông ngẫm ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">một điều gì đấy trên cơ sở quan sát hiện thực và mỗi khi ông rút ra được kinhnghiệm gì đấy từ cuộc đời ông” [161.15]. Đáng chú ý là thơ ông có “chất dângian” khá đậm nét. Từ cách cho ra “những bài thơ truyền khâu” [161.15] đến
trong ca dao xưa đến lối nghĩ rất hài, hay “rất người” khá độcđáo như trong một vài vần thơ dưới đây:
- Cùng chung một chuyến đị ngangKẻ thì sang bến người đang trở về
<small>Lái do lai mãi thành mê</small>
<small>- Con ta không phải của ta</small>
<small>Tai hoa của no mới là cua ta,</small>
Của ta rồi sẽ lại là của con.
<small>- Vợ là thánh chỉ vua ban</small>
<small>Có sao dung vậy không ban đúng sai.- Khi mê bùn chỉ là bùn</small>
Ngộ ra mới biết trong bùn có sen
<small>- Khimé dâm chỉ là dâm</small>
Ngộ ra mới biết trong dâm có tình...
Song, có lẽ hiện thời vẫn nên gọi Nguyễn Bảo Sinh là nhà thơ khơng chun
(nhưng hóm hinh, có tài) như ơng đã có lần tự nhận trong thơ “Làm thơ anh chỉ
nếu như những sáng tác đó được cơng chúng khơng những đón nhận mà cịn lưutruyền, gìn giữ theo quy luật của sáng tạo văn học nghệ thuật dân gian.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Vẫn ít nhiều mang tính chất tự phát, văn học dân gian nói chung, ca dao nói
riêng trong thời đại ngày nay tất khơng tránh khỏi có tác phẩm mang nội dung
dao hiện đại mà còn cho ta thấy đầy đủ hơn về diện mạo của nó và hiểu đượcchính xác quần chúng cơng-nơng-binh-trí thức hiện nay “đang nghĩ gì và muốn
<small>Phải chăng trong thời kỳ hiện đại, chỉ ở Việt Nam mới có một phong trào</small>
sáng tác và thưởng thức thơ ca độc đáo và rộng khắp? Thực tế không phải
<small>hóa cũng đã từng có một phong trào văn hóa văn nghệ và thơ ca tương tự như</small>
ở nước ta những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Ở Trung Quốc trong những năm từ 1937 đến 1949 - những năm Đảng cộng
với bọn Quốc dân đảng phản động cũng có một phong trào văn nghệ quần chúngsơi nỗi rộng khắp - phong trào “văn nghệ Diên An”. Gọi là phong trào “văn nghệDiên An” nhưng thực chất đó là phong trào văn nghệ phát triển sâu rộng ở phạm vinhiều vùng trong tồn quốc. Có điều, Diên An là nơi phong trào văn nghệ quầnchúng phát triển đầu tiên và mạnh mẽ; đồng thời cũng là nơi Trung ương Đảng
<small>theo phương hướng công - nông - binh”</small>
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống phát xít Nhật, văn nghệ quầnchúng, trong đó có các sáng tác thơ ca đã rất phát triển. Các phong trào thơ đầuphó, tho bang súng, thơ chiến hào... day lên mạnh mẽ, rộng khắp trong các tanglớp nhân dân và trong qn đội. Đó phần lớn là những sáng tác khơng chuyên
trong cuộc dau tranh vùng lên giải phóng và trong chiến đấu ác liét”[158. 269].
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Những hình thức đa dạng và hoạt động sôi nổi của phong trào thơ đầu phố
<small>rộng trong các khu căn cứ địa cách mạng và cả trong những khu vực quân</small>
Tưởng Giới Thạch nắm quyền kiểm soát.
Những cuộc vận động sáng tác thơ báng súng, thơ chiến hào, thơ truyềnđơn, vè... cũng là những hoạt động văn nghệ sôi nổi trong quân đội Trung Quốcthời bấy giờ.
Các sáng tác truyền miệng trong nhân dân cũng hết sức được coi trọng. Các
<small>loại dân ca cũ và mới lân lượt được sưu tập và xuât bản.</small>
Bên cạnh những sáng tác thơ ca ngăn gọn cịn có những tác phâm trườngthi kiểu dân ca của nhiều nhà thơ chuyên và nghiệp dư ra đời. Các tác phẩm đómang nội dung mới song về thủ pháp biểu hiện thì lại hap thu được “chất đinh
giả đã sử dụng cốt truyện đẹp đẽ và hình thức “tín thiên du” (điệu hát của dân caThiểm Bắc) vào sáng tác thơ ca.
Tuy nhiên, một số lượng khá lớn thơ ca ra đời từ phong trào văn nghệ quầnchúng như trên đã không được sưu tầm lưu giữ đến ngày nay.
Có thé thay răng, phong trào văn nghệ nói chung, phong trào sáng tác thơca nói riêng ở Trung Quốc trong thời kỳ kháng chiến chống phát xit Nhật, dautranh với quân đội Tưởng Giới Thạch có nhiều nét tương đồng với phong trào
<small>văn hoá văn nghệ và sáng tác ca dao ở nước ta sau Cách mạng tháng Tám, trong</small>
những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nét tương đồng đó thê hiện ở
dào của quần chúng nhân dân, ở truyền thống văn nghệ dân gian phong phú củamỗi dân tộc, ở tính chất tuyên truyền đôi khi bộc lộ rõ trong cách tô chức hoạtđộng văn nghệ va trong nội dung tác phẩm .v.v...
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><small>Tât nhiên, vân có những nét đặc thù trong phong trảo văn hố văn nghệ của</small>
<small>mơi dân tộc, chăng hạn, trong truyên thông văn nghệ và thơ ca dân gian, trongcách vận dụng đường lôi văn nghệ của Đảng vao thực tiên sản xuat và chiên dau</small>
cụ thê...
1.2.2.2. Van dé tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại
hiện đại là một thực tế lịch sử. Điều đó đã được nhiều nhà nghiên cứu khangđịnh. Song, “văn học dân gian hiện đại không phải là lĩnh vực duy nhất trong đờisống văn hoá nghệ thuật của nhân dân lao động, mà tồn tại trong những mốiquan hệ chang chit, phức tạp với văn học quần chúng và văn học thành văn”[26.49]. Hiện trạng đó khiến cho việc nghiên cứu văn học dân gian hiện đại nói
<small>chung, xác định tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại nói riêng gặp khơng ít khó</small>
<small>khăn, trở ngại.</small>
Trong một cuộc trao đối khoa học về van đề thi pháp ca dao hiện đại, GS.TS. Lê Chi Qué đã phân loại những sáng tác thơ ca trong thời hiện đại mà xưa
<small>nay chúng ta quen gọi chung là ca dao ra thành ba bộ phận:</small>
- Bộ phận thứ nhất là những sáng tác thơ ca của các tác giả chuyên nghiệp
<small>và nghiệp dư không qua môi trường sinh hoạt, diễn xướng. Quá trình sáng tác,</small>
lưu truyền những tác phẩm này giống như văn học thành văn. Ví dụ: những tậpca dao của Trần Hữu Thung; phong dao của Tản Đà,... và những sáng tác củamột số tác giả khác được văn bản hoá ngay sau khi ra đời. Đó là những sáng tác
<small>năm trong lĩnh vực nghiên cứu của văn học thành văn.</small>
- Bộ phận thứ hai gồm những sáng tác thơ ca của các tác giả chuyên nghiệpnhưng đã được dân gian hoá; (chăng hạn lời ca dao: Tháp Mười đẹpnhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ của Bảo Định Giang), hoặcnhững sáng tác thơ ca trong phong trào văn nghệ quần chúng (như ca dao xuất
<small>hiện trong các cuộc thi sáng tác ca dao, ca dao dán trên bi đông, bang súng...)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Những sáng tác như vậy vẫn được coi là ca dao thuộc loại hình trữ tình dân gian
<small>và là đôi tượng nghiên cứu của khoa học văn học dân gian.</small>
- Bộ phận thứ ba gồm những tác pham ca dao ra đời trong môi trường sinhhoạt của quần chúng, có chức năng ứng dụng thực hành. Đó là những tác phẩmca dao được sáng tao và diễn xướng theo phương thức cổ truyền. Chang han,những lời được sáng tác theo phương thức tập thể và truyền miệng dựa trên
hát tập thé. Day là những tác phẩm ca dao đích thực, ca dao với tu cách là một
<small>thê loại của sáng tác dân gian.</small>
Chúng tôi tán thành quan điểm trên của GS. TS. Lê Chi Qué nhưng cũngmuốn được chia sẻ với băn khoăn của tác giả Vũ Ngọc Phan khi ông cho răng:
“phân biệt thật rạch ròi thế nào là thơ và thế nào là ca dao là một điều rất
<small>khó”[131. 76].</small>
Và, trong thực tế, không phải lúc nào cũng xác định được chính xác nguồngốc ra đời cũng như theo dõi được quá trình lưu truyền của các lời ca đao. Bởivậy, trên cơ sở ý kiến phân loại trên, chúng tôi thấy cần đưa thêm những tiêu chí
<small>tôi sẽ nêu sau đây chỉ là mot cách nhận diện ca dao hiện đại. Song, nó cũng góp</small>
phần tạo ra ngơn ngữ đối thoại thống nhất trong phạm vi luận án.
Trong một bài viết về van đề nghiên cứu văn học dan gian hiện đại, tác giảChu Xuân Diên đã nêu quan điểm: “Nếu xem xét văn học dân gian hiệnđại hay văn học dân gian mới là giai đoạn phát triển của văn học dân giantruyền thống trong những điều kiện lịch sử mới sau cách mạng, thì trước tiên cầnphải thong nhất nhận định về ban chat thâm mỹ, về đặc trưng loại biệt của vănhọc dân gian nói chung”[26.39]. Đó là một trong những đề xuất lý luận có tính
một bộ phận thơ dân gian tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><small>cũng cân được xem xét theo định hướng nghiên cứu trên. Việc định ra tiêu chí</small>
<small>nhận diện ca dao hiện đại cũng nên bắt đâu từ việc xem xét bản chât thâm mỹ vànhững đặc trưng cơ bản không chỉ cua văn học dân gian cô truyền ma còn củavăn học dân gian hiện đại.</small>
Văn học dân gian do nhân dân lao động sáng tác và lưu truyền. Bởi vậy, nó
mang tính tập thể và truyền miệng. Theo các nhà nghiên cứu, đó là những đặc
niệm phiến diện, hình thức chủ nghĩa dẫn đến những hiểu biết chưa thấu đáo,thậm chí lệch lạc về những đặc trưng quan trọng của bộ phận văn học loại biệt
Tính tập thể và tính truyền miệng là những phương thức sáng tác, lưutruyền của văn học dân gian. Vấn đề đó đã được các nhà nghiên cứu thống nhấtxác định. Đối với văn học dân gian hiện đại, đó là vấn đề cịn gây nhiều ý kiến
<small>tranh luận.</small>
Nhưng, trước tiên, chúng tơi muốn tìm hiểu tính tập thể và tính truyềnmiệng khơng chỉ với tư cách là những phương thức sáng tác và lưu truyền, màcòn với tư cách là những phạm trù thâm mỹ của văn học dân gian. Ngay cảnghiên cứu tính tập thể và tính truyền miệng với tư cách là những phương thức
sáng tác và lưu truyền cũng cần thận trọng, tránh nhận định một cách chungchung, thiếu cơ sở khoa học. Chang hạn, nhà nghiên cứu văn học dân gian Đỗ
Bình Trị đã nhận xét một cách có cơ sở về tính tập thể với tư cách là phương
thức sáng tác lưu truyền như sau: “dang sau khái niệm “sáng tác tập thé” (...)van tôn tại một cách hiểu mơ hồ và trừu tượng về vẫn đề tác giả văn học dângian. Thực chất của cách hiểu này là phủ nhận vai trò của cá nhân trong sáng tácvăn học dân gian, đồng nhất tính tập thể với tính phi cá nhân...” Và ông chorằng: “ Tập thể không phải là một thứ “công ty vô danh”. Lịch sử folklore cácdân tộc ghi nhận vai trò của các nghệ nhân dân gian ngay từ thời c6” [177.11].
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Do đó, một mặt khơng thé phủ nhận vai trị quan trọng là những phương
thé không đi sâu tìm hiểu bản chất thắm mỹ của các đặc trưng này.
Với tư cách là những phạm trù thâm mỹ của văn học dân gian, tính tập thể
trong sự vận động xa hơn. Trên cơ sở đó, chúng ta có điều kiện xem xét văn họcdân gian đúng như sự tồn tại của bản thân nó - một thực thê sống và vận động
<small>trong q trình lịch sử.</small>
Tính tập thể được nhìn nhận với tư cách là một phạm trù thầm mỹ thể hiệnrõ nét ở chỗ: những hiện thực đời sống khách quan được phản ánh trong tácphẩm là những hiện tượng đời sống gây được tác động mạnh mẽ vào nhận thứckhơng chỉ của một cá nhân nào đó mà của cả một cộng đồng người nhất định.Từ nhận thức đó sẽ nảy sinh những sáng tác dân gian tập thể. Theo các nhànghiên cứu, những sáng tác dân gian đó mang tâm lý sáng tác tập thể. Như vậy,đặc trưng tập thể không chỉ phản ánh thực tế sáng tác (sáng tác tập thể) mà cònbộc lộ những giá trị thâm mỹ (là một phạm trù thâm mỹ) của tac pham dân gian.Những giá trị tham mỹ dân gian này không mang dấu an nghệ thuật độc đáo cá
nhân mà mang dấu ấn nghệ thuật độc dao tập thé.
Có thé nói, ở ca dao cơ truyền, tinh tập thé thường thé hiện ở cả hai
Ở ca dao hiện đại, tình hình có khác. Điều đáng lưu ý là, tính tập thể với tư
cách là một phạm trù thâm mỹ có vai tro quan trọng trong việc nhận diện tacphẩm văn học dân gian hiện đại nói chung, ca dao hiện đại nói riêng khi trongq trình vận động lịch sử, tác phẩm khơng mang đặc trưng tập thê với tư cáchlà phương thức sáng tác lúc nó mới ra đời. Chăng hạn, lời ca dao sau lúc đầu làdo một người sáng tác, song trong q trình lưu truyền, nó đã trở thành tài sản
mỹ tập thé và đã có di bản:
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>Đêm khuya ai gọi sang đị</small>
Có nước nóng uống chèo lién sang ngay
<small>Mặc trời gió rét đêm nay</small>
Thịt da tê buốt cứng tay cũng chèo.
<small>Hoàng Tuyên. CDST (từ 1945 đến nay)</small>
<small>DỊ bản:</small>
Đêm khuya có tiếng gọi đị,
Có phải thóc thuế thì cho xuống thuyên.Thóc thuế xin chở trước tiên,
Có nước nóng uống chèo lién sang ngay.
<small>Mac du gio rét dém nay,</small>
<small>CDVN (1945-1975)</small>
Tính truyền miệng với tư cách là một phạm trù tham mỹ cũng cần đượcxem xét. Vẫn cịn có người quan niệm tính truyền miệng ở văn học dân gian làhệ quả tất u của trình độ văn hóa của nhân dân lao động trước Cách mạnghoặc tính truyền miệng đơn thuần là phương thức sáng tác và lưu truyền văn họcdân gian. Quan niệm như vậy sẽ dẫn đến chỗ lạc hậu hóa văn học dân gian, đơn
<small>giản hóa một đặc trưng quan trọng của văn học dân gian, thậm chí phủ nhận cả</small>
học dân gian có liên quan tới những điều kiện sống của nhân dân lao động thờixưa, đặc biệt, nó có quan hệ mật thiết với hồn cảnh lịch sử của hình thức vănhọc sơ khai bi đầu. Nhưng, tính truyền miệng không chỉ là phương thức sángtác và lưu truyền mà còn là một đặc trưng thâm mỹ của văn học dân gian. Có thểnói, càng ngày ý nghĩa thâm mỹ của tính truyền miệng càng đóng vai trị quantrọng trong sự tồn tại và phát triển của văn học dân gian. Nhà nghiên cứu Chu
<small>Xuân Diên còn cho răng đên văn học dân gian hiện đại, ý nghĩa thâm mỹ trở</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">thành ý nghĩa duy nhất của tính truyền miệng và “ý nghĩa thắm mỹ của tinh
trường hợp mang tính chất là một thứ nghệ thudt biểu diễn” [26.43]. Điều đóphần nào lý giải hiện tượng: đã có chữ viết, thậm chí ngày nay có rất nhiềuphương tiện, cách thức chuyền tin, song văn học dân gian vẫn chủ yếu lưutruyền bằng truyền miệng. Ca dao chống Mỹ là một ví dụ tiêu biểu. Nó khơngchỉ xuất hiện trên báo tường, trong các cuộc thi sáng tác ca đao mà còn được cấtlên trên đường hành quân, bên đôi bồ tiếp vận, trong những dip thanh niên nam
thâm mỹ của lời ca. Trong thực tẾ, có những lời ca dao hiện đại mang dấu ấn rõrệt của lỗi đối đáp nam nữ - một hình thức diễn xướng dân gian, có giá trị nghệthuật biểu diễn dân gian.
<small>Thí dụ: 74. Dù anh văn hoa lớp mườiAnh chưa ra trận, em thời không yêu</small>
75. Dù em nhan sắc tuyệt vời
<small>Em không đánh Mỹ, anh thoi không yêu</small>
Dù em duyên dáng, mỹ miêu
Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chong.<small>CDCMCN t. IV</small>
nghệ thuật biéu diễn” dân gian hồn nhiên như thé được sử dụng khá phổ biếnnhư chúng ta đã thấy.
Một đặc trưng nữa của văn học dân gian mà ngày nay chúng ta cần xem
xét một cách linh hoạt khi nghiên cứu là tính di bản. Ở bộ phận văn học dân gian
vậy, khơng có nghĩa là tat cả các tác phẩm văn học dân gian cũ đều có di ban
gian hiện đại, sỐ lượng tác phẩm có dị bản cịn rất thưa thớt. Chang han, trongcuốn Ca dao Việt Nam 1945 -1975, tac giả Nguyễn Nghia Dân chi sưu tập đượcdị bản của một số lời ca dao. Đó là các lời C 92, Ch 130, L 248, L 249, Q367, A476, D 544, Tr 732. Song, không thé căn cứ vào hiện tượng đó mà đi đến chỗnghi ngờ sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại. Có thé nghĩ đến nhiều nguyênnhân: thời gian chưa đủ dé nảy sinh di bản, còn nhiều di bản lưu truyền trong
học dân gian hiện đại nói chung, ca dao hiện đại nói riêng, vấn đề dị bản chưathé đặt ra như một đặc trưng bắt buộc phải có.
<small>Chung ta khơng thê noi đên sự tôn tại va phat triên cua van hoc dân gian</small>
<small>hiện đại, của ca dao hiện đại mà khơng tìm hiéu vê tính trun thơng và sự vận</small>
Các nhà nghiên cứu folklore đã bàn khá nhiều về tính truyền thống và mốiquan hệ gắn bó khăng khít giữa truyền thống và ứng tác. Ở đây, chúng tơi muốn nóiđến vai trị của tính truyền thống chủ yếu trong việc nhận diện tác phẩm. Vậy, tínhtruyền thống trong văn học dân gian được hiểu như thế nào?
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Chúng ta biết rang, khi đã có một số lượng nhất định tác phẩm, quá trình
thuật nào phù hợp với tâm lý tập thể, phù hợp với sự sáng tác và lưu truyền bằngmiệng sẽ được lưu giữ và trở thành “vốn liếng nghệ thuật” cho các cá nhân tiếptục khai thác dé tham gia ứng tác, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ bị đào thải.
Như vậy, truyền thống không chỉ bao gồm những nhân tố cũ mà còn gồmnhững nhân tổ cũ đã được cải biên và những nhân tố mới được hình thành nếunhư những nhân tố mới đó phù hợp với nhu cầu thâm mỹ, với tâm lý tập thé củanhân dân lao động trong từng giai đoạn lịch sử. Và, sự hình thành truyền thống
<small>diễn ra liên tục theo quy luật lựa chọn của quá trình sáng tạo văn học nghệ thuật</small>
dân gian. Bởi vậy, tính truyền thống trong văn học dân gian cần được nghiêncứu theo quan điểm lịch sử. Nghĩa là, tính truyền thống trong văn học dân giancần được nghiên cứu trong sự vận động, biến đổi của lịch sử
<small>xã hội.</small>
Tính truyền thống có vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình sáng tác
đây là, trên cơ sở tính truyền thống, người nghiên cứu có thê đưa ra những tiêuchí nhận diện các sáng tác dân gian hiện đại trong đó có ca dao hiện đại. Chăng
<small>hạn, tiêp cận hai lời ca dao sau:</small>
<small>Con trời, còn Hước con non</small>
<small>CDVN (1945-1975)</small>
<small>Con trời, con nudc con nonCon lúa chính phủ, em con cứ di</small>
<small>CDST (từ 1945 đến nay)</small>
<small>trên cơ sở “cải biên” lời ca dao cô truyên:</small>
<small>805. Con trời, con nuoc con non</small>
<small>Con cô ban rượu, anh con say sưa.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>ANPT 6A BNQT 102B HHĐN 54</small>
<small>Hay lời ca dao:</small>
Răng đen vì thuốc, rượu nỗng vì men
<small>HHĐN 224 LHCĐ 34B</small>
trong ca dao cô truyền được tác giả dan gian dùng dé tao ra lời ca dao hiện đạitrên cơ sở tiếp nối “tứ thơ” rat tự nhiên và tài tinh:
Con gà tốt mã vì lơng
Răng đen vì thuốc, rượu nơng VÌ men
<small>I tờ di học, dua chen với đời.</small>
<small>CDVN (1945-1975)</small>
Trên đây là một số phân tích về bản chất thâm mỹ, về những đặc trưngloại biệt của văn học dân gian. Nghiên cứu sâu về những vấn đề đó có thê sẽphát hiện ra quy luật vận động của văn học dân gian, của ca dao; đồng thời cũnglà dé tiến tới giải quyết những van dé còn tồn tại của việc nghiên cứu văn học
dân gian hiện đại và ca dao hiện đại; nhất là những van đề có liên quan đến tiêuchí nhận diện ca dao hiện đại - một bộ phận của thể loại văn học dân gian có sức
<small>sơng mạnh mẽ, bên bỉ cho đên tận ngày nay.</small>
Thực tế cho thấy, ranh giới giữa một số thé loại của văn học dân gian cổ
khi chưa có sự phân định rõ ràng. Chăng hạn, đối với thê loại ca dao, các nhànghiên cứu lấy mốc lịch sử là Cách mạng Thang Tám năm 1945 dé phân biệt hai
phù hợp với sự phát triển của xã hội, văn hóa, lịch sử. Song, nếu chúng ta quanniệm những lời ca dao cô truyền đã sưu tầm ở dạng “tĩnh” và những lời ca daocơ truyền cịn sống trong mơi trường sinh hoạt của dan chúng là những lời ởdang “động” thì sẽ xảy ra tình trạng: ở dang “động”, chúng có thé ton tại dướihai hình thức. Thứ nhất, chúng vận động trong môi trường sinh hoạt và những
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">đặc điểm của truyền thống nghệ thuật cũ đã có sự cải biên. Về van đề này, tácgiả Chu Xuân Diên trong bài viết Van dé nghiên cứu văn học dân gian hiện đại
chúng vận động trong môi trường sinh hoạt nhưng khơng có sự biến đổi. Nhữnglời ca đao đó vẫn mang những đặc điểm của truyền thống nghệ thuật cũ. Hìnhthức thứ hai vừa nêu khơng nhiều song khơng thể nói là khơng có. Với nhữngtrường hợp ấy, tiêu chí nhận diện là mốc lịch sử rõ ràng chưa thỏa đáng.
Sự phân tích có tính chất khái qt ở trên đã phản ánh phần nào quy luậtvận động của văn học dân gian trong tiến trình lịch sử. Chúng tơi muốn lưu ýthêm rằng một bộ phận văn học dân gian, trong đó có ca dao, tồn tại trong mơitrường sinh hoạt mà vẫn giữ nguyên toàn bộ những đặc điểm nội dung, hìnhthức nghệ thuật như chúng vốn có trước cách mạng thì khơng có lý do gì để xếp
<small>nó vào văn học dân gian hiện đại, cụ thê là ca dao hiện đại được.</small>
Van dé chúng tôi quan tâm hơn là ranh giới giữa ca dao hiện đại với thơ
chúng. Vấn đề này thực sự là mau chốt gây ra những tranh luận về sự ton tại haykhông ton tại ca dao hiện dai và như thé nao được coi là ca dao với tư cách làmột thê loại của sáng tác dân gian?... Điều phức tạp gây ra những tranh luận vừanêu suy cho cùng bắt nguồn từ chỗ chúng ta chưa chú ý tìm ra quy luật vận động
<small>của văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng, chưa nghiên cứu một cách</small>
cụ thé bộ phận ca dao hiện đại và nhất là chưa định ra được tiêu chí nhận diện
Căn cứ vao thực tế, theo chúng tơi, việc định ra tiêu chí nhận diện ca daohiện đại là cần thiết và các tiêu chí đó phải thỏa mãn một cách tương đối nhữngyêu cầu cụ thê về xác định ranh giới nêu trên.
Ca dao cổ truyền mang những truyền thống nghệ thuật cũ, còn ca dao hiệnđại mang những truyền thống nghệ thuật cũ đã được cải biên và những truyềnthống nghệ thuật mới được định hình trong thời điểm lịch sử hiện tại. Như vậy,
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">dau ấn truyền thống đọng lại trong từng lời ca dao và đó là điều mà chúng tơiđặc biệt lưu ý khi tìm kiếm những tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại với tư cách
<small>là văn bản văn học dân gian đã định hình.</small>
<small>Ranh giới giữa ca dao hiện đại với thơ ca của các tác giả chuyên nghiệp,</small>
thơ ca nảy sinh trong phong trào văn nghệ quần chúng khó xác định hơn rấtnhiều bởi giữa chúng có mối liên hệ chăng chịt, đơi khi có những thời điểm
<small>chúng “gặp nhau, trùng lặp với nhau, hoà vao với nhau làm một” [26.50] Song,</small>
ca dao hiện đại chăng hạn, với tư cách là một bộ phận của thể loại sang tac dângian, đương nhiên ít nhiều nó cũng phải vận động theo quy luật riêng của tho cadân gian và mang những truyền thống nghệ thuật của thể loại trữ tình này.Chang hạn, là sáng tác dân gian, tác phẩm sẽ mang đặc trưng tập thé, ít nhất vớitư cách là một phạm trù thâm mỹ, mang những đặc điểm nghệ thuật dân giantruyền thống và vận động theo quy luật của sáng tác dân gian như quy luật kế
truyền thống bởi nó mang tâm lý sáng tác tập thể, mang dấu ấn nghệ thuật dângian truyền thống:
“Con kiến mày leo cành da
<small>Leo phải cành cụt leo ra leo vào</small>
Thang Mỹ cũng chang khác nàoMiễn Nam leo vào miễn Bắc leo ra
<small>Loay hoay hơn chục năm qua</small>
<small>CDCMCN t. ba</small>
Nếu ở ca dao cô truyền, hiện thực đời sống khách quan thu hut sự chú ý của
<small>tác giả dân gian là những vân đê thiên vê tâm sự riêng tư trong cuộc sơng lứa</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">đơi, thì ở ca dao hiện đại những sự kiện được quần chúng nhân dân chú ý nhất
<small>Tô quôc đât nước.</small>
Có một số đặc điểm nghệ thuật được duy trì khá bền vững từ ca dao cơ
thường được làm theo thê thơ dân tộc - thể lục bát. Có lẽ bởi đây là thể thơ có“niêm luật (...) khá giản di” [107.172] mà vẫn có sức biểu dat lớn. Tuy nhiên,
<small>dung hữu hiệu, sâu sac.</small>
Còn thơ ca thành văn và thơ ca trong phong trào văn nghệ quần chúng chắcchắn cũng có quy luật vận động và đặc điểm nội dung, nghệ thuật riêng biét. vềvan dé này, có thé tham khảo thêm bài viết Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian
thêm rằng quan điểm và thao tác nghiên cứu cần thiết là xem xét các hình thứcthơ ca đó trong cùng một lát cắt đồng đại, trong mối quan hệ qua lại biện chứng
song đồng thời cũng phải chia tách để khám phá chúng từ nhiều bình diện, đặngcó cái nhìn toàn điện va sâu sắc hơn về bản chất nghệ thuật của từng loại.
Từ những tìm tịi nghiên cứu trên, chúng tôi xin nêu ra một số suy nghĩ để
trên cơ sở đó có thé nhận diện ca dao hiện đại:
1) Ca dao hiện dai là những tác phẩm ca dao mang đặc điểm nghệ thuật dangian truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống
<small>của nhân dân trong thời kỳ hiện đại.</small>
Ở đây, chúng tôi xin làm rõ hai điểm:
- Truyền thống nghệ thuật dân gian phù hợp với quan niệm nghệ thuật mớivà hiện thực đời sống của quần chúng nhân dân trong thời kỳ hiện đại gồmnhững truyền thống nghệ thuật của ca dao cô truyền được cải biên và những
</div>