Tải bản đầy đủ (.pdf) (322 trang)

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.88 MB, 322 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------

TRẦN THẾ PHI

ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------TRẦN THẾ PHI
ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG ANH)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học So sánh-Đối chiếu
Mã số:

62.22.01.10

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Cán bộ hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Văn Huệ
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Hai
Phản biện độc lập:


1. PGS. TS. Trịnh Sâm
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Trang
Phản biện:
1. PGS. TS. Trịnh Sâm
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Trang
3. PGS. TS. Phạm Văn Tình

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ với tiêu đề “Ẩn dụ ý niệm cảm
xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Trần Thế Phi


MỘT SỐ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Các ví dụ ngữ liệu minh họa in bằng chữ in nghiêng và được đánh số thứ tự
trong ngoặc đơn không theo đề mục mà theo thứ tự liên tục từ nhỏ đến lớn
trong toàn bộ luận án.
2. Trong khi trình bày phần ngữ liệu thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc của
chương 2, các thành ngữ tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt với nghĩa
nguyên văn và nghĩa thành ngữ, trong đó phần dịch nghĩa nguyên văn là phần
dịch sát ý, được sử dụng cho mục đích đối chiếu, chứ không phải là phần dịch
đúng nghĩa.



i

MỤC LỤC
Trang
DẪN NHẬP

1

0.1. Lý do chọn đề tài

1

0.2. Lịch sử vấn đề

2

0.2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh

2

0.2.2. Từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng Anh

8

0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt

8


0.2.2.2 Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Anh

12

0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

14

0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

15

0.5. Phương pháp nghiên cứu

17

0.6. Điểm mới của luận án

19

0.7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

19

0.8. Cấu trúc của luận án

20

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN


22

1.1. Một số vấn đề về ngữ nghĩa học tri nhận

22

1.1.1. Bốn nguyên lý chủ đạo của ngữ nghĩa học tri nhận

23

1.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ẩn dụ tri nhận

27

1.1.3. Nền tảng cơ bản của lý thuyết ẩn dụ ý niệm

29

1.2. Những vấn đề liên quan đến cảm xúc

34

1.2.1. Phân loại cảm xúc

34

1.2.2. Các đường hướng nghiên cứu về cảm xúc

38


1.2.3. Tính phổ niệm của cảm xúc trong các nền văn hóa

41

1.2.4. Mối quan hệ giữa cảm xúc với ngôn ngữ

42

1.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc

43

1.3.1. Phân loại ẩn dụ ý niệm cảm xúc

44

1.3.2. Hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc và các mô hình ẩn dụ ý niệm hữu quan

48


ii

1.3.2.1. Hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc

48

1.3.2.2. Các mô hình ẩn dụ ý niệm hữu quan

56


1.3.3. Sự tương tác giữa ẩn dụ và hoán dụ trong phạm trù cảm xúc

60

1.4. Những vấn đề cơ bản về thành ngữ

62

1.4.1. Quan điểm về thành ngữ trong tiếng Việt

62

1.4.2. Quan điểm về thành ngữ trong tiếng Anh

65

1.4.3. Quan điểm về thành ngữ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận

67

1.5. Tiểu kết

71

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC TRONG

72

THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH

2.1. Tiểu dẫn

72

2.2. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc vui trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

72

2.2.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT CHỨA

73

2.2.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

82

2.2.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

85

2.2.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn ÁNH SÁNG

88

2.2.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT SỞ HỮU

89

2.3. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc buồn trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh


91

2.3.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn VẬT CHỨA

91

2.3.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

95

2.3.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

97

2.3.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn GÁNH NẶNG

101

2.3.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn THIẾU SINH KHÍ

102

2.4. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc giận trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

104

2.4.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn VẬT CHỨA

104


2.4.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

108

2.4.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

112

2.4.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn LỬA

113

2.4.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn MÀU SẮC

115


iii

2.4.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn SỰ KHÓ CHỊU CỦA
CƠ THỂ
2.4.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn SỰ XÂM PHẠM
2.5. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc sợ trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

118
120
121

2.5.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn VẬT CHỨA


121

2.5.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

123

2.5.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

124

2.5.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn MÀU SẮC

126

2.5.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn KẺ THÙ ẨN NẤP

127

2.5.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn THỰC THỂ SIÊU NHIÊN 128
2.5.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn BỆNH TẬT
2.6. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc yêu trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

131
132

2.6.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn VẬT CHỨA

134

2.6.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG


136

2.6.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

138

2.6.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn SỰ HỢP NHẤT

139

2.6.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn PHÉP THUẬT

140

2.6.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn THỨC ĂN

141

2.7. Tiểu kết

142

CHƯƠNG 3: VIỆC SỬ DỤNG ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC TRONG

145

DỊCH THÀNH NGỮ TỪ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT
3.1. Tiểu dẫn


145

3.2. Một số vấn đề liên quan đến lý thuyết dịch thành ngữ và dịch ẩn dụ

146

3.2.1. Các vấn đề về lý thuyết dịch thành ngữ

146

3.2.2. Các vấn đề về lý thuyết dịch ẩn dụ

149

3.3. Khảo sát việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong dịch thành ngữ từ
tiếng Anh sang tiếng Việt
3.3.1. Phương pháp và ngữ liệu khảo sát

155
155

3.3.2. Kết quả khảo sát dịch thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt ở các
từ điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt

157


iv

3.3.2.1. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh


157

sang tiếng Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức
ngôn ngữ
3.3.2.2. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

160

sang tiếng Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức
ngôn ngữ
3.3.2.3. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

166

sang tiếng Việt sử dụng khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng cùng biểu thức
ngôn ngữ
3.3.2.4. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

166

sang tiếng Việt sử dụng khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và khác biểu thức
ngôn ngữ
3.3.2.5. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

175

sang tiếng Việt theo phương pháp dịch diễn giải
3.4. Những đề xuất cho việc dịch thành ngữ biểu thị ẩn dụ ý niệm cảm xúc
tiếng Anh sang tiếng Việt

3.4.1. Một vài đề xuất cụ thể qua cuộc khảo sát

177
177

3.4.2. Một số đề xuất về việc ứng dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc vào
quy trình dịch thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt

180

3.5. Tiểu kết

183

KẾT LUẬN

185

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

190

TÀI LIỆU THAM KHẢO

191

PHỤ LỤC 1: Bảng đối chiếu thuật ngữ Việt - Anh

203


PHỤ LỤC 2: Bảng đối chiếu thuật ngữ Anh - Việt

207

PHỤ LỤC 3: Bảng liệt kê thành ngữ tiếng Việt biểu thị năm loại cảm xúc:
Vui, Buồn, Giận, Sợ, Yêu

211

PHỤ LỤC 4: Bảng liệt kê thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc:
Vui, Buồn, Giận, Sợ, Yêu

252

PHỤ LỤC 5: Bảng liệt kê cách dịch các thành ngữ biểu thị cảm xúc
tiếng Anh sang tiếng Việt tham khảo trong sáu quyển từ điển thành ngữ
song ngữ Anh-Việt

283


1

DẪN NHẬP
0.1. Lý do chọn đề tài
Thành ngữ tiếng Việt từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của ngành
ngôn ngữ học và những liên ngành khác trên các bình diện như ngữ âm, ngữ pháp,
từ vựng- ngữ nghĩa và tu từ học. Các hướng nghiên cứu chủ yếu được triển khai
theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống, tập trung vào việc nghiên cứu cấu trúc,
chức năng và ngữ dụng của thành ngữ, trong số đó có một số công trình nghiên cứu

thành ngữ được đặt trong mối tương quan với các chuyên ngành xã hội khác (xem
Hoàng Văn Hành [22, 23], Nguyễn Công Đức [15], Hoàng Diệu Minh [35], Nguyễn
Thị Tân [39], Phạm Minh Tiến [48], v.v). Trong những năm gần đây, thành ngữ
tiếng Việt cũng là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận, một ngành ngôn
ngữ học ra đời từ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX và được xem là
một “trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ
trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan
cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật và sự tình
của thế giới khách quan đó” [42, tr.16]. Một số công trình tiên phong nghiên cứu
tiếng Việt theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận có thể kể đến là các chuyên khảo
của Lý Toàn Thắng [41, 42], Trần Văn Cơ [5] và một số luận án của Nguyễn Ngọc
Vũ [55], Phan Thế Hưng [27], Võ Kim Hà [20].
Đặc biệt hơn, ngữ nghĩa học tri nhận, một chuyên ngành của ngôn ngữ học
tri nhận, là một khuynh hướng lý thuyết vừa có sự kế thừa ngữ nghĩa học truyền
thống vừa thể hiện những nét mới của ngữ nghĩa học biểu hiện tinh thần cuối thế kỉ
XX. Lý thuyết ngữ nghĩa học tri nhận thường được xây dựng dựa trên lập luận rằng
nghĩa từ vựng có tính ý niệm. Theo đó, ý nghĩa của một vị từ không tham chiếu đến
các thực thể hoặc các mối quan hệ trong “thế giới thực” mà vị từ đó đề cập đến, mà
nó tham chiếu đến một ý niệm trong tâm trí dựa trên kinh nghiệm luận có được với
các thực thể hoặc các mối quan hệ. Một số nhà ngôn ngữ đi đầu trong nghiên cứu và
phát triển ngữ nghĩa học tri nhận trên thế giới có thể được kể đến là George Lakoff


2

[111], Dirk Geeraerts [77], Leonard Talmy [146], v.v. Ở Việt Nam, theo chúng tôi
tìm hiểu, thì hiện nay vẫn chưa có một khảo cứu chuyên sâu nào về khả năng ứng
dụng của ngữ nghĩa học tri nhận trên mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc của đối tượng
thành ngữ, một đơn vị ngôn ngữ chứa nhiều giá trị văn hóa truyền thống của một
dân tộc. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với đề tài “Ẩn dụ ý niệm cảm xúc

trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng)”. Đây có
thể được xem là một công việc cần thiết, giúp làm giàu nguồn ngữ liệu cho công tác
biên soạn giáo trình giảng dạy tiếng Việt, tiếng Anh và phục vụ nghiên cứu ngôn
ngữ-văn hoá, dịch thuật và bảo tồn văn hóa dân tộc.
0.2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói, thành ngữ là đối tượng được nghiên cứu rất sâu rộng từ nhiều
bình diện khác nhau trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong khuôn khổ của luận án,
chúng tôi điểm lại những công trình nghiên cứu quan trọng về thành ngữ trong tiếng
Việt và tiếng Anh theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học tri
nhận, tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng Anh, từ
đó nhằm đưa ra một bức tranh tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài của luận án này.
0.2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh
Trong nghiên cứu tiếng Việt theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống, các
nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu thành ngữ từ bình diện cấu trúc và hình thức.
Hoàng Văn Hành [23] đã khái quát đặc điểm của thành ngữ tiếng Việt trên hai bình
diện này, có tính đến đặc trưng tư duy văn hóa dân tộc. Trên bình diện ngôn ngữ và
văn hóa, chuyên khảo “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” của Hoàng Văn Hành và
cộng sự [22] đã tiến hành khảo sát trên 300 thành ngữ, tục ngữ cụ thể. Nhóm nhà
khoa học này đã giải thích chúng dựa trên các điển tích, điển cố, phong tục tập
quán, nghi lễ, tôn giáo, truyền thống văn hóa và tư tưởng dân tộc xuất hiện trong
các thời kỳ văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, một số luận án trong
những năm gần đây cũng quan tâm nghiên cứu chuyên sâu về thành ngữ và bước
đầu có những đóng góp quan trọng cho Việt ngữ học về mặt lý luận và thực tiễn.


3

Luận án “Bình diện cấu trúc hình thái-ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt”
của Nguyễn Công Đức [15] chia thành ngữ tiếng Việt thành ba loại: thành ngữ đối,

thành ngữ so sánh và thành ngữ thường. Hai đặc điểm quan trọng của thành ngữ
đối là quan hệ đối ý và quan hệ đối lời. Thành ngữ đối được đặc trưng là ít nhất hai
thành tố, tức mỗi vế là một thành tố, chẳng hạn nước mắt / mồ hôi; bốn thành tố,
chẳng hạn chân lấm tay bùn, mẹ tròn con vuông. Thành ngữ so sánh trong tiếng
Việt được cấu tạo theo công thức tổng quát A như B, trong đó A là đối tượng so
sánh, B là đối chứng so sánh, như là quan hệ so sánh. Trong mô thức này, đối
tượng so sánh (A), quan hệ so sánh (như) có thể có mặt hoặc tiềm ẩn. Thành ngữ
thường được cấu tạo bằng các đoản ngữ, chủ yếu là động ngữ, ví dụ gửi trứng cho
ác, hoặc bằng các kết cấu chủ vị, ví dụ chó ngáp phải ruồi. Bởi phải dùng đến một
dung lượng từ ngữ ở những mức độ cần thiết mới diễn đạt được nội dung ngữ nghĩa
của nó, thành ngữ loại này có những giáp ranh nhất định với tục ngữ. Do đối tượng
nghiên cứu của đề tài là thành ngữ tiếng Việt nói chung, nên tác giả không thể khảo
sát ngữ nghĩa của từng loại thành ngữ cụ thể mà chỉ khái quát cơ chế tạo nghĩa
chung của thành ngữ mà thôi.
Luận án “So sánh cấu trúc-chức năng của thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt”
của Hoàng Diệu Minh [35] có mục đích miêu tả, so sánh và phân loại 2938 thành
ngữ và 1668 tục ngữ trên phương diện cấu trúc-chức năng xuất phát từ chỗ có
những đơn vị chưa xác định được là thành ngữ hay tục ngữ, tác giả muốn dựa vào
lý thuyết ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học để làm sáng tỏ vấn đề. Khi
bàn luận về thành ngữ, tác giả cho rằng việc phân loại thành ngữ có thể căn cứ trên
tiêu chí cấu trúc-chức năng. Ngữ là đơn vị có chức năng cú pháp. Thành ngữ có cấu
tạo của một ngữ. Vì thế thành ngữ cũng có thể có cấu tạo của một ngữ danh từ hoặc
một ngữ vị từ. Các ngữ này cũng có thể được phân loại theo cách cấu trúc của một
ngữ đẳng lập, ví dụ con mày con nuôi, bên trọng bên khinh, ba đầu sáu tay, hay một
ngữ chính phụ hoặc một ngữ láy, ví dụ chân như ống sậy, chết nhăn răng, dai như
đỉa, lẩu bẩu như chó hóc xương. Tuy nhiên, như mục đích của luận án đã nêu, tác
giả chỉ quan tâm đến cấu trúc-chức năng của thành ngữ trong thế so sánh với tục


4


ngữ, xét trên ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học, hay nói cách khác, dựa
trên quan điểm ngôn ngữ học truyền thống.
Luận án “Thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt” của Nguyễn Thị Tân [39] đã
chỉ ra sự biến đổi của các thành ngữ mượn tiếng Hán khi được sử dụng trong tiếng
Việt dưới tác động của bối cảnh xã hội Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra sự
hình thành các biến thể khác nhau của cùng thành ngữ Hán trong tiếng Việt. Cũng
tương tự như luận án của Nguyễn Công Đức, phạm vi khảo sát của luận án này
mang nét bao quát chung của thành ngữ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán. Tác
giả chưa khai thác bình diện tri nhận của thành ngữ.
Luận án “Đặc điểm thành ngữ so sánh tiếng Hán (có đối chiếu với tiếng
Việt)” của Phạm Minh Tiến [48] lấy tiếng Hán làm tâm điểm nghiên cứu có đối
chiếu với tiếng Việt. Tác giả khảo sát trường nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên
thành ngữ so sánh và phác thảo nên hình ảnh văn hóa và nét tư duy của hai dân tộc.
Luận án phát hiện cấu trúc so sánh tiếng Hán hoàn toàn trùng khớp với thành ngữ
so sánh trong tiếng Việt. Tác giả cho rằng, cấu trúc mang tính tổng quát nhất của
thành ngữ so sánh tiếng Hán và tiếng Việt là: A - (t) – R – B, trong đó A là yếu tố so
sánh, (t) là yếu tố nét tương đồng, R là từ ngữ so sánh, và B là yếu tố tham chiếu.
Tuy nhiên, luận án chỉ khảo sát trường nghĩa của lớp thành ngữ so sánh tiếng Hán
và tiếng Việt nên kết quả nghiên cứu chưa quan tâm đúng mức đến các bình diện
khác của thành ngữ.
Về phương diện ngôn ngữ học tri nhận, gần đây có luận án “Thành ngữ tiếng
Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận” của Nguyễn Ngọc Vũ [55]. Tác giả đã giới thiệu những
luận điểm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận về cơ chế hình thành nghĩa của các tổ
hợp ngữ cố định, đặc biệt là thành ngữ. Dựa trên cơ sở lý luận của ý niệm và miền
ý niệm, tác giả khảo sát cấu trúc, cách thức hoạt động của ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý
niệm và các loại ẩn dụ, hoán dụ tương ứng. Qua đó, tác giả đã so sánh đối chiếu
thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Anh với thành ngữ tiếng Việt
tương ứng để chỉ ra nhiều điểm tương đồng trong cách tri nhận về vị trí, vai trò và



5

chức năng của các bộ phận cơ thể và sự khác biệt ở yếu tố văn hóa và loại hình văn
hóa. Tuy nhiên, tác giả luận án chỉ mới nghiên cứu lớp thành ngữ chứa yếu tố chỉ
bộ phân cơ thể người mà chưa chú ý khai thác đến các mặt khác của thành ngữ, đặc
biệt là về mặt biểu ý của thành ngữ.
Luận án “Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận trên cứ liệu tiếng Anh và
tiếng Việt” của Phan Thế Hưng [27] đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của ẩn dụ ý
niệm, trong đó đặc điểm nổi bật về chức năng của ẩn dụ đó là nhằm giúp con người
hiểu rõ hơn các ý niệm, không chỉ là các phương thức tu từ của ngôn ngữ, mà còn
là quy trình tự nhiên của nhận thức về tư duy. Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh
rằng, trải nghiệm của cơ thể con người trong ẩn dụ hóa là những trải nghiệm mang
tính phổ quát. Điểm đáng chú ý ở luận án này là tác giả đã đề cập sự tương tác giữa
ẩn dụ và hoán dụ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận có xét đến yếu tố kinh
nghiệm cơ thể phản ánh trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tổng hợp kết
quả nghiên cứu và luận điểm của các nhà ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới khi
nghiên cứu tiếng Anh, không đi sâu vào các ẩn dụ cụ thể, mà dùng ngữ liệu trong
tiếng Anh và một số ví dụ trong tiếng Việt để làm chứng cứ cho ẩn dụ ý niệm, nên
những phát hiện mới trong tiếng Việt là chưa nhiều.
Luận án gần đây nhất “Ẩn dụ tiếng Việt nhìn từ lý thuyết nguyên mẫu (so
sánh với tiếng Anh và tiếng Pháp)” của Võ Kim Hà [20] khảo sát cấu trúc và tính
hệ thống của ẩn dụ dựa trên các nguyên tắc phân loại của lý thuyết nguyên mẫu.
Tác giả tập trung phân tích miền nguồn “Dòng chảy” và miền đích “Suy nghĩ”
trong tiếng Việt vì cho rằng đây là những miền ý niệm thường được sử dụng trong
tiếng Việt. Phần so sánh đối chiếu, tác giả chọn yếu tố tay trong tiếng Việt để so
sánh với hand của tiếng Anh và main trong tiếng Pháp. Điểm đáng lưu ý của luận
án này là tác giả đã vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận để phân tích và kiến
giải khá chi tiết cơ chế tri nhận của một số ẩn dụ và hoán dụ. Tuy nhiên, như tác

giả thừa nhận, luận án bao quát quá nhiều vấn đề nên kết quả của luận án mang tính
chất chung chung, không chuyên sâu một vấn đề cụ thể.
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy một số công trình gần đây đã chú ý nghiên


6

cứu thành ngữ từ nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu vẫn theo quan điểm
truyền thống. Còn các luận án nghiên cứu theo quan điểm của ngôn ngữ học tri
nhận đã nêu ở trên, tuy dựa trên nền lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, nhưng
hướng phát triển dành cho tiếng Việt chưa có nhiều sự phát hiện mới mẻ. Luận án
của chúng tôi tập trung nghiên cứu miền ẩn dụ ý niệm cảm xúc biểu thị trong thành
ngữ tiếng Việt, có so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng, từ bình diện ngữ
nghĩa học tri nhận, là hướng đi hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ đề tài
nghiên cứu nào trước đó mà chúng tôi biết.
Đối với thành ngữ tiếng Anh, phần lớn các nhà ngôn ngữ học định nghĩa
thành ngữ là biểu thức cố định và không thể được hiểu theo nghĩa nguyên văn. (xem
Jackson [94], Baker [60], Fernando [74], Jackson và Amvela [95], Grant và Bauer
[86], Gramley và Patzold [84], v.v.) Thành ngữ tiếng Anh được phân loại cả về
phương diện ngữ nghĩa lẫn phương diện cú pháp. Về phương diện ngữ nghĩa, đặc
điểm nổi bật nhất của phân loại thành ngữ là sự đồng nhất đa hợp của chúng trong
đó bao gồm các từ rỗng nghĩa. Khi các thành ngữ như vậy xuất hiện, chúng cần
được xem xét về mặt biểu trưng hay ẩn dụ vì chúng tạo ra một ý nghĩa hoàn toàn
khác so với lần sử dụng trước đó. Cách phân loại phổ biến nhất mà các nhà nghiên
cứu thành ngữ tiếng Anh thường thống nhất là phân loại chúng thành hai tiểu loại:
thành ngữ theo nghĩa nguyên văn và thành ngữ không theo nghĩa nguyên văn. Để
minh họa cho cách phân loại này, nhiều tác giả, bao gồm cả Jackson và Amvela [95,
tr.66], dùng thành ngữ “to kick the bucket” làm ví dụ. Nếu giải thích theo nghĩa đen
của các thành tố từ của thành ngữ “to kick the bucket” thì nó có nghĩa là “dùng
chân đá một xô nước”, trong khi đó nghĩa của tổ hợp thành ngữ là “chết”. Vì vậy,

nghĩa đen theo các thành tố từ của thành ngữ này hoàn toàn khác với nghĩa của cả
thành ngữ. Theo Jackson và Amvela [95], cái gọi là “thành ngữ thuần” thực ra là
“thành ngữ cố định” vì loại thành ngữ này “có xu hướng mất đi tính sống động và
người nói thường lãng quên nguồn gốc ẩn dụ của chúng”.


7

Fernando [74, tr.60-63] chỉ ra rằng có một kiểu phân loại ngữ nghĩa phụ
thuộc vào mức độ cô lập nghĩa và mức độ tối nghĩa và được chia thành ba tiểu loại
như sau:
(i) Thành ngữ thuần: Chúng là những biểu thức chứa nhiều từ hoạt động như
một đơn vị ngữ nghĩa độc lập mà ý nghĩa của các từ riêng lẻ không thể được tổng
hợp lại với nhau để tạo ra ý nghĩa của toàn bộ khối. Ví dụ, “smell the rat”, nghĩa là
“trở nên đáng ngờ” nhưng không có nghĩa “ngửi thấy con chuột”.
(ii) Bán thành ngữ: Một thành tố kiến tạo nên thành ngữ loại này thường giữ
lại nghĩa nguyên văn của nó. Ví dụ, bán thành ngữ “rain cats and dogs” (có nghĩa là
“mưa tầm tả”) hay “blue film” (có nghĩa là “phim đồi trụy”), một thành phần của
chúng, trong trường hợp này “rain” (mưa) và “film” (phim) vẫn còn duy trì nghĩa
nguyên văn của chúng.
(iii) Thành ngữ nguyên văn: Chúng có thể được giải thích trên cơ sở của các
thành tố cấu tạo nên chúng, hay nói cách khác, chúng có nghĩa tường minh. Các
thành tố của những thành ngữ như vậy thường được sử dụng theo ý nghĩa trực tiếp,
mặc dù những sự kết hợp như thế đôi khi đòi hỏi nghĩa biểu trưng. Ví dụ “rub salt
in a wound” (nghĩa nguyên văn “xát muối vào vết thương”) có nghĩa là “làm tổn
thương tình cảm của một ai đó, làm ai đau khổ thêm.”
Về phương diện cú pháp, Gramley và Patzold [84, tr.57] nhận định rằng các
nhà ngôn ngữ học đã dựa vào các tiêu chuẩn cú pháp khác nhau để nêu các đặc
trưng nhận diện của thành ngữ. Theo đó, thành ngữ tiếng Anh có thể phân loại theo
từ loại, chẳng hạn như thành ngữ là cụm danh từ (ví dụ an old flame / người tình

cũ), thành ngữ là cụm tính từ (ví dụ happy-go-lucky / vô tư lự) hoặc thành ngữ là
cụm động từ (ví dụ blow one’s top / tức giận).
Vận dụng thành quả nghiên cứu của Halliday [88, 89] về ngữ pháp chức
năng với ba loại chức năng ý niệm, chức năng liên nhân và chức năng văn bản,
Fernando [74, tr.72] khi nghiên cứu thành ngữ đã phân loại chúng thành ba tiểu
loại: thành ngữ ý niệm, thành ngữ liên nhân và thành ngữ quan hệ. Thành ngữ liên
nhân có nhiệm vụ thực hiện đầy đủ một chức năng tương tác hoặc mô tả bản chất


8

của thông tin, chẳng hạn chào hỏi và tạm biệt (good morning: chào buổi sáng), chỉ
thị (never mind: đừng lo), thỏa thuận (say no more: không nói thêm nữa), v.v.
Thành ngữ quan hệ đảm bảo chức năng liên kết văn bản, và vì vậy định hướng đến
tính mạch lạc của ngôn bản. Ví dụ như not only … but also: không những… mà
còn; in order that: để mà; v.v. Thành ngữ ý niệm là loại thành ngữ hoặc nhằm biểu
thị nội dung thông tin, các hiện tượng thuộc kinh nghiệm luận bao gồm cả cảm giác,
cảm xúc và đánh giá, hoặc nhằm mô tả bản chất của thông tin. Các thành ngữ này
có thể mô tả: (1) hành động (ví dụ do a U-turn: đảo ngược chính sách), (2) sự kiện
(ví dụ turning points: bước ngoặt), (3) tình huống (ví dụ be in a pickle: lâm vào
cảnh đáng buồn), (4) người và vật (ví dụ a back-seat driver: người không có trách
nhiệm nhưng cứ thích điều khiển), (5) thuộc tính (ví dụ matter-of-fact: thực chất),
(6) đánh giá (ví dụ turn back the clock: quay lại thời kỳ đã qua), (7) cảm xúc (ví dụ
green with envy: tái đi vì ghen tức).
0.2.2. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng
Anh
Tính phức tạp của từ ngữ biểu thị cảm xúc đã nhận được sự quan tâm rất lớn
trong những nghiên cứu về ngôn ngữ và cảm xúc. Ngôn ngữ học, nhân học và tâm
lý học đã tiếp cận nghiên cứu từ vựng ở nhiều góc độ, cố gắng xác định có hay
không có tính phổ quát của lớp từ ngữ cơ bản biểu thị cảm xúc tồn tại trong tất cả

các ngôn ngữ, liệu cụm từ tương đương khi dịch các từ ngữ cảm xúc có biểu thị
cùng ý nghĩa, và liệu các ý niệm cảm xúc phổ quát có tính chất riêng của một ngôn
ngữ hay một nền văn hóa cụ thể nào đó hay không. Ở nội dung này, để có cái nhìn
đa chiều về đối tượng nghiên cứu thành ngữ biểu thị cảm xúc trong luận án của
chúng tôi, vì lẽ thành ngữ biểu thị cảm xúc cũng có quan hệ với lớp từ ngữ cơ bản
biểu thị cảm xúc, nên việc lược sử tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc
trong tiếng Việt và tiếng Anh là cần thiết.
0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt
Các nhà nghiên cứu Việt ngữ học đã có một số công trình tiêu biểu nghiên
cứu các đơn vị từ ngữ biểu thị những cung bậc cảm xúc khác nhau. Trên bình diện


9

phong cách học, Cù Đình Tú [50, tr.43] cho rằng biểu lộ tình cảm với những cung
bậc khác nhau trước hết là hiện tượng của nhận thức và của tâm lý. Những cung bậc
tình cảm này có thể phản ánh hai thái độ đối lập nhau:
-

Thái độ khẳng định như: vui sướng, phấn khởi, yêu thích, say mê, thán phục,
thông cảm, cảm tình, hài lòng, âu yếm, vuốt ve, trìu mến… Đó là những tình
cảm tốt, tích cực, dương tính.

-

Thái độ phủ định như: phật ý, tức giận, bực mình, uất ức, phẫn nộ, trách
móc, mỉa mai, bài bác, lên án, đùa cợt, khôi hài, châm biếm,… Đó là những
tình cảm xấu (không thiện cảm), tiêu cực, âm tính.
Những cung bậc tình cảm dương tính và âm tính nói trên, như đã thấy, đều


được định hình về mặt ngôn ngữ nhờ các đơn vị từ ngữ. Những từ chỉ những cung
bậc tình cảm khác nhau vừa nêu trên chỉ là những từ định danh tình cảm, không
phải là những từ mang sắc thái biểu cảm.
Về bình diện từ vựng học, Hồ Lê [32] cho rằng từ vị “không thể tự thân nó
có nghĩa khẳng định hay phủ định”, và “cũng không thể tự thân biểu thị trạng thái
tâm lý phát ngôn” [32, tr. 209]. Mặt khác, ông cũng khẳng định: “chắc chắn một số
lượng danh từ (cũng như các từ loại khác) nhất định có khả năng biểu thị sắc thái
tình cảm” [32, tr. 210]. Bằng phương pháp tổng hợp nghĩa biểu thái, Hồ Lê đi đến
tổng hợp những biến thể của nghĩa biểu thái. Nếu áp dụng phương pháp tổng hợp
nghĩa biểu thái này vào tiếng Việt thì sẽ có đến 15 nghĩa vị biểu thái như: (1) Biểu
thị tình cảm / sự đánh giá tích cực, (2) Biểu thị tình cảm / sự đánh giá tiêu cực, (3)
Biểu thị tình cảm / sự đánh giá trung tính, (4) Biểu thị sắc thái trang trọng, (5) Biểu
thị sắc thái dung tục, (6) Biểu thị sắc thái thân mật, (7) Biểu thị sắc thái địa phương,
(8) Biểu thị sắc thái cổ kính, (9) Biểu thị sắc thái xác định, (10) Biểu thị sắc thái
ước chừng, (11) Biểu thị sắc thái bất định, (12) Biểu thị định hướng phát ngôn, (13)
Biểu thị thái độ khẳng định, (14) Biểu thị thái độ phủ định, (15) Biểu thị cảm xúc
[32, tr.214-215]. Trong số 15 nghĩa vị biểu thái này thì có 4 nghĩa vị biểu thị cảm
xúc, tình cảm (nghĩa vị số 1,2,3,15). Những phát hiện của Hồ Lê về nghĩa biểu thái


10

của từ vị chứng tỏ rằng, về mặt từ vựng, các đơn vị từ vựng cũng là phương tiện thể
hiện tính biểu cảm trong tiếng Việt.
Bên cạnh đó, Trần Long [33] có hướng nghiên cứu khá thú vị về tính biểu
cảm của tiếng Việt. Dựa trên một số cứ liệu văn học và ngữ học liên quan đến tính
biểu cảm của tiếng Việt, đồng thời dựa vào cơ sở lý luận ngôn ngữ học kết hợp khả
năng cảm nhận ngữ nghĩa của người bản ngữ, Trần Long đã làm rõ tính biểu cảm
của tiếng Việt trên hai bình diện từ vựng và ngữ pháp. Tác giả trình bày sự thể hiện
tính biểu cảm của tiếng Việt về mặt từ vựng ở ba lớp từ: lớp từ từ vựng-ngữ pháp,

lớp từ phong cách và nhóm biến thể từ vựng, trong đó ở lớp từ phong cách, tác giả
có nhận định tính biểu cảm của thành ngữ.
Khi nghiên cứu về lớp từ vựng biểu thị các loại cảm xúc, Vũ Đức Nghiệu
[36] đã thu thập được 198 đơn vị từ vựng có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể nhằm biểu
thị các trạng thái tâm lý, ý chí, tình cảm của con người, và tập hợp các đơn vị từ
vựng này thành 18 nhóm khác nhau. Trong 18 nhóm từ vựng này, tác giả có đề cập
đến 9 nhóm từ vựng biểu thị tình cảm như sau:
i.

Những kết cấu phản ánh trạng thái vui vẻ, thoả mãn. Ví dụ: bùi tai, ngon

mắt, vui miệng, đẹp mặt, mát lòng, hả dạ, sướng bụng, phổng mũi.
ii. Trạng thái yên tâm, không lo lắng: yên dạ, yên lòng.
iii. Buồn/thương/tiếc: đứt ruột, xót ruột, thối ruột, đau lòng, não lòng, chạnh
lòng.
iv. Có thái độ, tình cảm tốt/không tốt trong quan hệ với người khác: được lòng,
rộng lòng, thật/thực lòng, thật/thực bụng, phải lòng, mất lòng.
v. Bực/tức giận: bực mình, nóng gáy, ngứa mắt, cáu sườn, nóng tiết, điên tiết,
sôi máu, sôi gan, tím gan, lộn ruột, nóng mặt, sưng mặt, cau mặt, xịu mặt.
vi. Khó chịu vì những cái trái lẽ: trái tai, chướng tai, chướng mắt, nóng tai.
vii. Lo/sợ/căng thẳng: rợn/dựng tóc gáy, sởn/nổi da gà, rợn người, vàng mắt, tái
mặt, méo mặt, thót tim, vãi đái, toát mồ hôi, sởn gáy, bận lòng, điên đầu, rối
ruột.


11

viii. Kinh ngạc, mất phản ứng, mất ý chí: trơ mắt, lác mắt, đuỗn mặt, đần mặt,
đực mặt, ngay râu.
ix. Thèm khát: nhỏ dãi, ứa nước miếng/nước bọt.

Vũ Đức Nghiệu [36] lập luận rằng các trạng thái tâm lý, ý chí, tình cảm được
phản ánh theo hai phương thức: miêu tả những biểu hiện ra bên ngoài (mà người
ta có thể cảm nhận được) của các trạng thái tâm lý, ý chí, tình cảm đó, và miêu tả
bằng nghĩa hoán dụ. Bên cạnh những từ biểu thị “chính danh” các trạng thái tâm
lý, ý chí, tình cảm của con người như: vui, buồn, lo, sợ, khiếp, hãi, kiêu ngạo,
quyết tâm…, trong tiếng Việt còn có một loạt khá phong phú những đơn vị từ
vựng khác nữa như: nóng gáy, ngứa tai, điên tiết, phổng mũi, già họng, động
lòng... cũng được sử dụng để biểu đạt các trạng thái và cảm xúc này. Đó là những
kết cấu tuy chưa được ghi trong từ điển nhưng thường hay được sử dụng trong đời
sống ngôn ngữ hàng ngày, trong sách vở... đã tương đối ổn định, quen thuộc. Về
cách thức biểu hiện, các kết cấu trên đây có khi miêu tả, phản ánh những biểu hiện
về mặt thể chất, những “triệu chứng” sinh lý phát lộ ra bề ngoài, của những trạng
thái tâm lý, ý chí, tình cảm, chẳng hạn đỏ mặt tía tai, lắm mồm, xõng lưng, ngẩng
mặt, phổng mũi, đờ người, đau đầu..., nhưng cũng có khi lại miêu tả những trạng
thái chỉ có thể có được do cách tri nhận, đánh giá mang tính chủ quan với những
đặc trưng văn hoá - xã hội của cộng đồng dân tộc Việt, ví dụ ngứa tiết, ngứa gan,
lộn ruột, mất mật, sôi máu, mất mặt,...
Nói tóm lại, từ những công trình của các nhà khoa học trình bày bên trên,
chúng tôi nhận thấy rằng tuy việc nghiên cứu từ ngữ cảm xúc trong tiếng Việt còn
khá khiêm tốn, nhưng những kết quả trong các khảo cứu này đã phần nào chứng tỏ
tính đa dạng của ngôn ngữ được dùng để miêu tả các khía cạnh cuộc sống của con
người, mà trong đó cảm xúc là một phạm trù rất quan trọng không thể thiếu được.
Chúng tôi cũng chưa ghi nhận nghiên cứu chuyên sâu nào về thành ngữ biểu thị
cảm xúc của tiếng Việt, do vậy chúng tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đối tượng
này, chủ yếu tập trung vào năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu.


12

0.2.2.2. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Anh

Sau khi khảo sát nhiều nghiên cứu hiện có và danh sách các thuật ngữ cảm xúc,
Monika Bednarek [62] đã khái quát 18 tiểu loại ngữ nghĩa, bao gồm: (1) cảm giác
về quá khứ (feelings about the past); (2) cảm giác về tương lai (feelings about the
future); (3) sự hài lòng, phấn khích và sự hứng khởi (pleasure, excitement, and
elation); (4) sự coi trọng và lòng biết ơn (appreciation and gratitude); (5) sự nhiệt
tình và sự tỉnh táo (enthusiasm and alertness); (6) nỗi buồn, sự đau khổ, và tuyệt
vọng (sadness, distress, and despair); (7) sự bối rối, bồn chồn, và lo lắng
(confusion, anxiety, and worry); (8) sự chọc tức và cơn giận (irritation and anger);
(9) sự xấu hổ và nhục nhã (embarrassment and humiliation); (10) sợ hãi và hoảng
loạn (fear and panic); (11) sự bất ổn và mất bình tĩnh (insecurity and loss of
composure); (12) ngạc nhiên, sốc, và kinh ngạc (surprise, shock, and amazement);
(13) đố kị và ganh tị (envy and jealousy); (14) tình yêu, tôn trọng, và thiện chí (love,
respect, and goodwill); (15) lòng từ bi và sự tha thứ (compassion and forgiveness);
(16) sự đối kháng (antagonism); (17) quan tâm và chăm sóc (be concerned and
care); (18) lòng khao khát và thèm muốn (desire and want). Cuộc khảo sát này đã
tập hợp một danh sách gồm 1060 đơn vị từ vựng về cảm xúc, tuy không thể khẳng
định đó là một danh sách đầy đủ, nhưng cũng có thể xem là chứa một tập hợp khá
lớn từ ngữ cảm xúc của tiếng Anh.
Trong công trình “Ẩn dụ và Cảm xúc – Ngôn ngữ, Văn hóa, và Cơ thể trong
Cảm xúc con người” xuất bản năm 2004, Kövecses [103] nêu ba lớp từ ngữ cảm
xúc trong tiếng Anh gồm (1) từ ngữ biểu cảm, (2) từ ngữ có nghĩa gốc hay nghĩa
đen biểu thị các loại cảm xúc, và (3) từ ngữ có nghĩa biểu trưng miêu tả các đặc tính
của cảm xúc. Trong số đó thì lớp từ ngữ (3) chiếm số lượng nhiều nhất tính cho đến
nay, tuy vậy nó chưa nhận được sự chú ý đáng kể nào trong các nghiên cứu ngôn
ngữ cảm xúc. Lớp từ ngữ có nghĩa biểu trưng chưa thu hút các nhà nghiên cứu lưu
tâm đến vì họ xem lớp từ ngữ này như một nhánh nghiên cứu phụ khi cho rằng
không có cách biểu đạt nội dung nào thú vị hơn bằng ngôn ngữ đơn giản với nghĩa
gốc hay nghĩa đen. Hơn nữa, các từ ngữ trong lớp từ ngữ biểu cảm (1) thường có



13

nghĩa gốc. Chính vì điều này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn lý do tại sao các từ ngữ
trong nhóm (3) ít nhận được sự quan tâm nghiên cứu hơn.
Từ ngữ cảm xúc
Biểu cảm (1)

Miêu tả
Nghĩa gốc (2)

Cơ sở

Không cơ sở

Nghĩa biểu trưng (3)
Ẩn dụ

Hoán dụ

Các loại ngôn ngữ cảm xúc (dẫn từ [103, tr.6])

Theo Kövecses [102, tr.136], một số từ ngữ cảm xúc có thể bộc lộ cảm xúc,
có nghĩa là chúng xác nhận trải nghiệm xúc cảm của người nói tại thời điểm phát
ngôn. Việt ngữ học gọi chúng là thán từ. Ví dụ như “shit!” (khỉ thật!) khi biểu lộ sự
giận dữ, “wow!” (ôi chao!) khi cảm thấy ấn tượng, “yuk!” (chậc!) khi cảm thấy ghê
tởm. Loại từ ngữ này được dùng để biểu thị trực tiếp một loại cảm xúc nào đó mà
nó tượng trưng. Một số từ ngữ cảm xúc khác lại miêu tả (hay gọi tên) các loại cảm
xúc mà nó biểu thị: như “anger” hay “angry” (giận), “overjoyed” và “happy” (vui),
“sadness” và “depressed” (buồn). Trong loại từ ngữ cảm xúc miêu tả này, các thuật
ngữ có thể được xem như cơ bản ở mức độ ít hoặc nhiều. Những người nói một

ngôn ngữ nhất định nào đó có thể cảm thấy rằng một số từ cảm xúc là cơ bản hơn
các từ khác. Những từ ngữ cơ bản hơn trong tiếng Anh bao gồm anger, sadness,
fear, happiness và love (giận, buồn, sợ, vui và yêu). Những từ ngữ ít cơ bản hơn bao
gồm annoyance, wrath, rage, hatred, indignation, fright, và horror (phiền toái,
thịnh nộ, giận dữ, hận thù, phẫn nộ, sợ hãi, và kinh sợ).
Ngoài thuật ngữ từ ngữ biểu cảm và miêu tả, có một loại biểu thức khác liên
quan đến cảm xúc, đó là từ ngữ biểu trưng. Nhóm từ ngữ biểu trưng này có thể
nhiều hơn cả hai loại từ ngữ kia gộp lại. Ở đây, những thuật ngữ này không gọi tên
những cảm xúc cụ thể, và vấn đề không phải là từ vựng hay biểu thức ấy có cơ bản


14

hay điển mẫu đến như thế nào. Từ và biểu thức thuộc nhóm này biểu thị khía cạnh
khác nhau của ý niệm cảm xúc, chẳng hạn như cường độ, nguyên do, và kiểm soát.
Chúng có tính ẩn dụ và hoán dụ. Các biểu thức ẩn dụ là biểu hiện của phép ẩn dụ ý
niệm mà miền nguồn thường mang tính vật chất hoặc sinh lý (xem Lakoff và
Johnson [113]). Ví dụ, “boiling with anger” (sôi sục lên vì giận) là một ví dụ ngôn
ngữ của một ý niệm ẩn dụ GIẬN LÀ MỘT CHẤT LỎNG NÓNG ( Lakoff và
Kövecses [115]; Lakoff [108]; Kövecses [97], [100]); tương tự như hình ảnh vật lý
trong “burning with love” (đốt cháy với tình yêu) là một ví dụ của YÊU LÀ LỬA
(Kövecses, [99]), và “to be on cloud nine” (trên chín tầng mây) là một ví dụ của
VUI LÀ HƯỚNG LÊN, trong đó có một miền vị trí tưởng tượng trên trục thẳng
đứng (Kövecses, [100]). Tất cả ba ví dụ nêu trên cho thấy các khía cạnh cường độ
của cảm xúc có liên quan đến từ ngữ biểu thị chúng.
0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Việc nghiên cứu ẩn dụ ý niệm cảm xúc thông qua khảo sát thành ngữ tiếng
Việt biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu (so sánh với thành ngữ tiếng
Anh tương ứng) từ bình diện ngữ nghĩa học tri nhận nhằm:
- Góp phần làm sáng rõ thêm lý thuyết ẩn dụ ý niệm của ngữ nghĩa học tri

nhận từ góc độ so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ Việt-Anh;
- Góp phần tìm hiểu và phân tích hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc được biểu
đạt trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh;
- Đóng góp vào việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, làm
nổi bật đặc trưng ngữ nghĩa, tư duy văn hoá dân tộc biểu hiện trong thành ngữ biểu
thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng Anh;
- Góp phần xây dựng giáo trình dịch thuật văn bản và từ điển thành ngữ song
ngữ Anh-Việt có sử dụng thành ngữ biểu thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng Anh.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án lần lượt giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Xác định đặc điểm phân loại của hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc từ bình
diện ngữ nghĩa học tri nhận;


15

- Hệ thống hóa khái niệm và tiêu chí nhận diện thành ngữ, xác định đặc điểm
ngữ nghĩa của thành ngữ biểu thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng Anh, đồng thời
đưa ra danh sách các thành ngữ loại này;
- Xác định cơ chế biểu hiện cảm xúc của con người được biểu đạt trong thành
ngữ tiếng Việt và tiếng Anh;
- Tìm ra nét chung và đặc thù ngôn ngữ, văn hóa của thành ngữ biểu thị cảm
xúc thể hiện trong tiếng Việt và tiếng Anh;
- Trên cơ sở lý thuyết và phần khảo sát ngữ liệu, luận án đưa ra một số đề
xuất cho việc dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc từ tiếng Anh sang tiếng Việt, chú ý
đến hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc, tiến tới thúc đẩy việc xây dựng từ điển thành
ngữ song ngữ Anh-Việt.
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát thành ngữ biểu thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng
Anh thuộc năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu. Chúng tôi chọn năm loại cảm

xúc này vì chúng là những cảm xúc cơ sở (vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết ở
chương 1), đồng thời quá trình sưu tập các thành ngữ loại này cũng ghi nhận một số
lượng đơn vị thành ngữ tương đối đủ để tiến hành phân tích đối chiếu, cụ thể như
sau:
Loại cảm xúc

Số lượng thành ngữ tiếng

Số lượng thành ngữ tiếng

Việt biểu thị loại thành

Anh biểu thị loại thành

ngữ này

ngữ này

Vui

68

91

Buồn

146

72


Giận

109

136

Sợ

118

79

Yêu

62

41

Tổng cộng
năm loại cảm xúc

503 đơn vị

419 đơn vị


16

Mặc dù có thể nghiên cứu thành ngữ từ ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và
ngữ dụng, nhưng trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích bình diện

ngữ nghĩa, cụ thể là các mô hình ẩn dụ ý niệm của thành ngữ biểu thị cảm xúc. Đây
là những vấn đề quan trọng nhất, phản ánh đặc trưng tư duy, ngôn ngữ và văn hóa
của cộng đồng sử dụng chúng.
Ngữ liệu phục vụ cho nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu được lấy từ các loại
từ điển tiếng Việt và tiếng Anh như sau:
Từ điển tiếng Việt:
- Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn Hóa, Hà
Nội. [52]
- Nguyễn Lân (1989), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam, NXB Tổng hợp
TP.HCM, TP.HCM. [31]
- Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009), Thành ngữ tiếng Việt (tái bản lần 3),
NXB KHXH, Hà Nội. [34]
- Việt Chương (2009), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, NXB
Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai. [3]
Từ điển tiếng Anh:
- Siefring, Judith (2004), Oxford Dictionary of English Idioms, 2nd edition,
OUP, Oxford. (hơn 5.000 đơn vị) [139]
- McCarthy, Michael et al (1998), Cambridge International Dictionary of
Idioms, CUP, Cambridge. (khoảng 7.000 đơn vị) [126]
- Ammer, Christine (1997), The American Heritage Dictionary of Idioms,
Forbes Inc., USA. (hơn 10.000 đơn vị) [57]
- Spears, Richard A. (2000), NTC’s English idioms dictionary, 3rd edition,
National Textbook Company, Illinois, USA. (khoảng 8.500 đơn vị) [143]
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát sáu quyển từ điển thành ngữ
song ngữ Anh-Việt để phục vụ cho mục tiêu tìm hiểu việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm
xúc trong dịch thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt của chương 3:


17


- Nguyễn Văn Khi, Bạch Thanh Minh (2008), Từ điển thành ngữ Anh-Việt,
Viện Ngôn ngữ học, NXB Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM. [29]
- Lã Thành (2006), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thông tấn xã Việt Nam,
Hà Nội. [40]
- Nguyễn Minh Tiến (2004), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Trẻ, TP.HCM.
[47]
- Trung tâm biên soạn dịch thuật sách Sài Gòn (2004), Từ điển thành ngữ AnhViệt, NXB tổng hợp TP.HCM. [49]
- Trần Vũ Khanh (2003), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thanh Niên,
TP.HCM. [28]
- Trần Phong Giao (2010), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Giao thông vận
tải, TP.HCM. [16]
Ngữ liệu tiếng Việt được sử dụng trong các ví dụ minh họa trong luận án được
trích từ các nguồn tư liệu đa dạng gồm các truyện ngắn, tiểu thuyết, các văn bản báo
chí trong nước, các trang web điện tử, v.v. Ngữ liệu minh họa tiếng Anh được trích
từ các nguồn tư liệu chủ yếu xuất hiện trong các quyển từ điển thành ngữ tiếng Anh,
tài liệu nghiên cứu tiếng Anh, các trích đoạn một số tác phẩm văn học tiêu biểu cho
các loại văn phong Anh Mỹ và các trang web điện tử, được tìm có chủ đích trên
mạng internet bằng công cụ tìm kiếm điện tử. Chúng tôi chọn lựa các nguồn ngữ liệu
minh họa khá đa dạng nhằm bổ sung luận chứng cho các luận điểm được nêu trong
luận án.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng một số
phương pháp và thủ pháp như miêu tả, phân tích ngữ nghĩa, thống kê định lượng,
định tính và so sánh đối chiếu.
Phương pháp miêu tả là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng
để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong giai đoạn phát triển nào đó
của nó [19, tr.19]. Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để miêu tả đối tượng
khảo sát của luận án là thành ngữ biểu thị cảm xúc theo tiêu chí đã được xác lập về



×