Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

chuyên đề người đi tìm hình của nước và quá trình bác đi tìm đường cứu nước từ ngày 5 6 1911 đến khi thành lập đảng cộng sản việt nam năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.47 MB, 29 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

<b>KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ*****************</b>

<b>BÀI THU HOẠCH</b>

<b>THAM QUAN THỰC TẾ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH</b>

<i><b>Chun đề: “Người đi tìm hình của nước” và quá trình Bác đi tìm đường cứunước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.</b></i>

<b>Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Thu HuệMã số sinh viên20201514Mã lớp bài tập142960</b>

<b>Giáo viên hướng dẫn : Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hà</b>

<i>Hà Nội, tháng 7 năm 2023</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHMÃ HỌC PHẦN: SSH1151</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1. Ni ý chí</b>

<b>2. Vượt trung dương tìm đường cứu nước3. Tìm ra ánh sáng</b>

<b>4. Thổi bùng ngọn lửa cách mạng5. Bước ngoặt lịch sử</b>

<b>6. Người về mang đến mùa xuân7. Người là niềm tin tất thắng8. Viết tiếp trang sử vàngIII.BÀI HỌC RÚT RA CHO SINH VIÊN</b>

<b>1. Bài học về lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập dân tộc và phát </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Đã hơn một thế kỷ trôi qua kể từ ngày người thanh niên yêu nước Nguyễn TấtThành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân nhưng ý nghĩa đặc biệt quan trọng của sựkiện này vẫn cịn ngun giá trị, mang tính thời sự sâu sắc và để lại nhiều bài học quýbáu, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau. Sau buổi thamquan BẢo tàng Hồ Chí Minh, ấn tượng với hành trình tìm đường cứu nước của Bác,

<i><b>em đã quyết định viết bài thu hoạch về: “Người đi tìm hình của nước” và quá trìnhBác đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản ViệtNam năm 1930.</b></i>

Bài thu hoạch là sự tìm hiểu của em về hồn cảnh lịch sử đã ni dưỡng ý chí ranước ngồi tìm đường cứu nước cùng hành trình tìm đường cứu nước từ năm 1911 đếnkhi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 của chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đóhiểu thêm về những biến chuyển của Người từ một người thanh niên yêu nước trở thànhmột người chiến sĩ Cộng sản và sự hình thành tư tưởng về cách mạng giải phóng dântộc đúng đắn, duy nhất cho dân tộc Việt Nam.

Bài thu hoạch sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp lịch sử vàlogic, phương pháp phân tích văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn củaHồ Chí Minh.

Bài thu hoạch gồm bốn chương chính là: “ Tư tưởng yêu nước và chí hướng tìmcon đường cứu nước mới”; “ Vượt trùng dương tìm đường cứu nước”, “ Thổi bùngngọn lửa cách mạng” và “ Bài học rút ra sinh viên”.

Mặc dù em đã cố gắng chắt lọc thơng tin nhưng khó tránh khỏi những thiếu sót,cần được bổ sung và góp ý từ cơ. Em rất mong sẽ nhận được những ý kiến nhận xét củacô.Em xin trân thành cảm ơn cơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Hình 1: Cha mẹ thân sinh, anh trai và chị gái Bác Hồ

Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy), sinh năm 1862, mất năm 1929, quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung Cự, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Sinh Sắc xuất thân từ gia đình nơng dân, mồ cơi cha mẹ sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm việc và ham học. Vì vậy, ông được nhà Nho Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù xin họ Nguyễn Sinh đem về nuôi. Là

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

người ham học và thông minh, lại được nhà Nho Hồng Xn Đường hết lịng chăm sóc, dạy dỗ, ơng thi đỗ Phó bảng và sống bằng nghề dạy học. Đối với các con, ông Sắc giáo dụcý thức lao động và học tập để hiểu đạo lý làm người.

Mẹ của Người là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868, mất năm 1901, là một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng thương yêu vàchăm lo cho chồng con.

Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh, cịn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm1884, mất năm 1954. Anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, cịn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888, mất năm 1950. Em của Người là bé Xin, sinh năm 1900, vì ốm yếu nên sớm qua đời. Các anh chị của Người lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ,chăm làm việc và rất thương người, đều là những người yêu nước, 5 đã tham gia phong tràoyêu nước và bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt bớ tù đày.

Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Nguyễn Sinh Cung sống ở quê nhà trong sự chăm sóc đầy tình thương u của ơng bà ngoại và cha mẹ, lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quêhương.

Hình 2: Hình ảnh phục dựng căn nhà của Bác tại Làng Sen

Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi ông Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội. Đó là những năm tháng gia đình ơng Sắc sốngtrong cảnh gieo neo, thiếu thốn. Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật khó khăn. Gần cuối năm

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trong nội thành Huế. Bà Loan sinh bé Xin trong hồn cảnh khó khăn túng thiếu nênlâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. Mới 11 tuổiNguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em.

Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ.So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng khúm núm rụt rè; cịn phần đơng người lao độngthì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những 6 người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố... Những hình ảnh đó đã in sâu vào kýức của Nguyễn Sinh Cung.

Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội trở lại Huế, đưa con về quê. Sau khi thu xếp cuộc sống cho các con, được sự động viên của bà con trong họ ngồi làng, ơng Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự kỳ thi hội năm Tân Sửu. Lần này đi thi ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy. Tháng 5-1901, ơng Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu.

Khoảng tháng 9-1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở q nội.Ơng Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung). Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được gửiđến học chữ Hán với các thầy giáo Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và sau là thầyTrần Thân. Các thầy đều là những người yêu nước. Nguyễn Tất Thành được nghe nhiềuchuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan.

Trong những người mà ông Sắc thường gặp gỡ có ơng Phan Bội Châu. Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng day dứt trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc.

Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục họcchữ Hán. Tại đây Nguyễn Tất Thành lại có dịp nghe chuyện thời cuộc của các sĩ phu đến đàm đạo với cha mình. Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt đượcông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bảnxứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Những chuyến đi này giúp Nguyễn TấtThành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ. Anh nhận thấy ở đâu người dân cũng lam lũ đói khổ, nên dường như trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy bọn áp bứcbóc lột thực dân phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, anh đã sớm “có chí đuổithực dân Pháp giải phóng đồng bào”. Sau nhiều năm lần lữa việc đi làm quan, cuối tháng 5-1906, ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất Thành và anh trai cùng đi theo cha. Vào Huế, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai được cha cho đi học Trườngtiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906); lớp sơđẳng (cours élémentaire, tháng 9-1907). Ở Huế, lần này xảy ra một sự kiện đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Nguyễn Tất Thành. Tháng 4-1908, anh tham gia cuộc biểu tình chống

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt đời Người vì quyền lợi của nhân dân lao động. Vì những hoạt động yêu nước, tham gia cuộc đấu tranh của nông dân, Nguyễn Tất Thành bị thực dân Pháp để ý theo dõi. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp trung đẳng (lớp nhì) (cours moyen) tại Trường Quốc học Huế. Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báoPháp. Các thầy giáo của Trường Quốc học Huế có người Pháp và cả người Việt Nam, cũng có những người yêu nước như thầy Hồng Thơng, thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnhhưởng của các thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà anh được tiếp xúc, ý muốn đi sang phương Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại từng bước lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Cùng thời gian đó, Nguyễn Tất Thành cịn được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước. Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành hồn thành chương trình tiểu học. Trên đường từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết. Ở đây anh xin vàolàm trợ giáo (moniteur), được giao dậy một số mơn, đồng thời phụ trách các hoạt động ngoại khố của Trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành lập năm 1907.Ngồi giờ lên lớp, Nguyễn Tất Thành tìm những cuốn sách quý trong tủ sách của cụ Nguyễn Thông để đọc. Lần đầu tiên anh được tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ của cácnhà khai sáng Pháp như Rútxô (Rousseau), Vônte (Voltair), Môngtétxkiơ (Montesquieu). Sự tiếp cận với những tư tưởng mới đó càng thơi thúc anh tìm đường đi ra nước ngồi.Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Ở Sài Gòn một thời gian ngắn, anh thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi.Ở đâu anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành cũng hayđến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là quần áo cho các thủy thủtrên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước mơ có những chuyến đi xa. Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lăng và đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân bị nơ lệ, đói khổ,lầm than. Q hương có truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm. Thời gian10 năm sống ở Kinh đô Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, tiếp xúc với nền văn hóa mới, với phong trào Duy Tân, đã cho Nguyễn Tất Thành nhiều hiểu biết mới. Nhìnlại các phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo; Phong trào Đơng Du của cụ Phan Bội Châu; Phong trào Đông Kinh nghĩa thục; cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo; cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ, Anh rất khâm phục và coi trọng các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường đó. Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XXđã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi anh cómột quyết định chính xác và táo bạo là xuất dương tìm đường cứu nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>II.TÌM HIỂU CHUYÊN ĐỀ “ NGƯỜI ĐI TÌM HÌNH CỨU NƯỚC” VÀ QUÁ TRÌNH NGƯỜI ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC TỪ NGÀY 5/6/1911 ĐẾN</b>

<b>KHI THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NĂM 1930</b>

<i>Chương 1: Nuôi ý chí (1890 – 1911)</i>

Giữa thế kỷ 19, thực dân pháp nổ súng tấn công dân tộc Việt Nam, từng bước từng bước biến nước ta thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Từ đây đất nước mất độc lập, nhân dân mất quyền tự do và sống kiếp nô lệ lầm than, Với phong trào yêu nước, các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đã nổ ra mạnh mẽ và rộng khắp Bắc Trung Nam, xong tất cả các phong trào đó đều bị thực dân Pháp dìm trong bể máu và đi đến thất bại. Trong bối cảnh đó, ngày 19 tháng 5 năm 1890, Nguyễn Sinh Cung đã được sinh ratrong một gia đình nhà nho yêu nước tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đâylà nơi có truyền thống yêu nước, và là quê hương của nhiều bậc danh nhân, sĩ phu, anh hùng hào kiệt. Ngay từ nhỏ Nguyễn Sinh Cung đã bộc lộ tư chất thông minh, lại ham học hỏi truyền thống tốt đẹp của quê hương, gia đình nên đã sớm hình thành lên tư tưởng yêu nước, thương dân, và phần nào Người đã hiểu được tình cảnh của dân tộc mất tự do.

<i>Chương 2: Vượt trùng dương tìm đường cứu nước (1911 – 1920) </i>

Trong bối cảnh nước mất nhà tan, các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đều bị dìm trong bể máu, các con đường cứu nước chưa tìm được lối ra. Với lòng nồng nàn yêu nước, thương dân, khát vọng giải phóng dân dộc. Nguyễn Tất Thành đã quyết địnhchọn con đường đi riêng. Hành trình này đã giúp cho Người hiểu rõ cội nguồn khổ đau của nhân dân lao động, Sự ác bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành lên ý thức giai cấp.

Với tên gọi Văn Ba , ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã tạm biệt tổ quốc tại Cảng Sàn Gòn để làm phụ bếp trên tàu Đơ đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral LatoucheTréville). Đó là sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu hành trình đi tìm con đường cứu nướccủa Người. Để đánh dấu sự kiện trọng đại đó, nhà thơ Chế Lan Viên có viết bài thơ:

<i>“Đất nước đẹp vơ cùng nhưng bác phải ra điCho tơi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn bác.”</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Hình 3: Hình ảnh được chụp tại Bảo tàng

Sau hơn 1 tháng trên biển, qua nhiều cảng lớn ở châu phi, lần đầu tiên bác đặt chân đến nước pháp tại cảng Mácxây, cảng Lơ Havơrơ (Le Havre) của Pháp. Đây là những cảnh biển lớn hiện đại, là bức tranh thu nhỏ thể hiện cho sự tự phát triển của nước pháp tư bản.Nó khác xa so với những gì Người thấy ở Việt Nam. Với mong muốn tìm hiểu nền văn minh tiến bộ của các nước để trở về giúp ích cho đồng bào, ngày 15 tháng 9 năm 1911, người đã gửi thư cho tổng thống Pháp xin học tại trường Thuộc địa Paris. Bức thư đã không được chấp nhận . Vì vậy Nguyễn Tất Thành đã khơng có cơ hội học tập tại Pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Hình 4: Bức thư Bác gửi cho Tổng thống Pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Đầu năm 1912, Nguyễn Tất Thành tiếp tục làm phụ bếp trên một con tàu khác củahãng Sácgiơ Rêuyni đi vịng quanh châu phi. Theo hành trình của tàu, Người đã lần đầutiên đến với nước mỹ.

Từ năm 1913 đến năm 1917, Nguyễn Tất Thành đã đến sống và làm việc tạiAnh. Trong thời gian này Người đã phải trải qua nhiều công việc khác nhau để để cótiền sinh hoạt và để hịa chung với cuộc sống của những người lao động khi ở tư bảnAnh

Khi làm phục vụ tại khách sạn Cáclơtơn (Carlton), phố Hây Makét. Trong khi các người phục vụ khác của khách sạn thường bỏ thức ăn thừa đi, thì Nguyễn Tất Thành lại cẩn thận giữa lại những phần đồ ăn thừa của khách để chia cho người nghèo, hành động nàycủa người thanh niên An Nam đã gây được sự chú ý của vua bếp Escophier tại khách sạn này và ông đã quyết định dạy Nguyễn Tất Thành làm bánh để kiếm thêm thu nhập. Sau những giờ làm việc người thường đến thư viện Vương quốc Anh để đọc sách và tự họctiếng anh. Có thể thấy, dù ở đâu Nguyễn Tất Thành cũng hịa mình và cảm thông với những người lao động nghèo khổ , ở đâu người cũng tự học để nâng cao tri thức cho mình.Năm 1919, lần đầu tiên Người đã lấy tên là Nguyễn Ái Quốc,thay mặt cho Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi đến hội nghị ở Vécxây (Versailles) (Pháp) và gửi bản Yêu sách cho văn phịng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự hội nghị. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư trả lời NguyễnÁi Quốc. Đây là lần đầu tiên, những quyền tự do, dân chủ tối thiểu của nhân dân Việt Namvà của xứ Đông Dương đã được đưa đến hội nghị quốc tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Hình 5: Bản “Yêu sách” gồm hai thứ tiếng

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Bản Yêu sách gồm tám điểm:

1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị

2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xố bỏ hồn tồn các tồ án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam

3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận4. Tự do lập hội và hội họp

5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương

6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh chongười bản xứ

7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật

8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ .Tuy bản “Yêu sách” không được chấp nhận, nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng hiểu rằngnhững tuyên bố về quyền tự do bình đẳng của các nhà chính trị tư sản thực ra chỉ là những lời lừa bịp các dân tộc và các dân tộc muốn giải phóng chỉ có thể dựa vào chính sức củamình . từ đó Nguyễn Ái Quốc càng tích cực tham gia vào các cách mạng. Người say sưa viết báo, hội họp, tuyên truyền cổ động và tham gia vào các hoạt động cả đảng xã hội .

<i>Chương 3: Tìm ra ánh sáng (1920 – 1924) </i>

Trải qua gần 10 năm miệt mài học tập, lao động và đấu tranh, với tư duy sáng tạo, khoahọc, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Lê-nin tìm ra con đường cứu nước , con đườngcách mạng vô sản.

Tháng 7 năm 1920, Người đã đọc luận bản sơ thảo lần thứ nhất, những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của liên minh được đăng trên báo Nhân dân, luận cươngđã chỉ ra con đường giải phóng dân tộc là nước cách mạng Việt Nam đi theo con đườngcách mạng vô sản, điều mà người tìm kiếm bấy lâu. Luận cương của Lê – nin đã làm cho Nguyễn Ái Quốc vô cùng cảm động và sung sướng, Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: “ Cơm áo là đây. Hạnh phúc đây rồi.”

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, được tổ chức tại thànhphố Tuors, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế cộng sản và bỏ phiếu tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp trở thành người Việt Nam Cộng sản đầu tiên.

</div>

×