Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

lý luận giá trị thặng dư và ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.93 KB, 43 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ </b></i>

<i><b>VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ </b></i>

<b>NHÓM ĐỀ TÀI : 1 </b>

<b>LỚP : 2244RLCP1211 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : TỐNG THẾ SƠN </b>

<i><b>HÀ NỘI – 2022 </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ </b>

<b>VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ </b>

Giá trị thặng dư là mục tiêu của các nhà tư bản, là điều kiện tồn tại và phát triển của tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất hàng hóa theo quy mơ lớn. Đó là sự kết hợp của ba quá trình: sản xuất ra giá trị sử dụng, sản xuất ra giá trị và sản xuất ra giá trị thặng dư – đây là mục đích tuyệt đối hóa của Tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế, để đạt được mục đích tối đa của mình, họ đã mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư. Bất kỳ một nền sản xuất nào muốn phát triển được, muốn đáp ứng nhu cầu của con người về điều kiện sống đều phải tái sản xuất, mở rộng và phải tạo ra được sản phẩm thặng dư. Bởi mức độ giàu có của xã hội tuỳ thuộc vào khối lượng sản phẩm thặng dư. Xã hội càng phát triển thì sản phẩm thặng dư càng nhiều. Song trong mọi xã hội, sản phẩm thặng dư bán trên thị trường đều có giá trị, nhưng chỉ có ở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì giá trị của sản phẩm thặng dư mới là giá trị thặng dư. Từ đó có thể khẳng định sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Cho nên để nghiên cứu giá trị thặng dư, ta chỉ nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vậy vấn đề cần đặt ra là giá trị thặng dư là gì ? Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư ? Các hình thức chuyển hố của giá trị thặng dư ? Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Việc nghiên cứu nó phải được xuất phát từ các quan điểm đúng đắn của học thuyết Mác và thực tiễn.

<i><b>Bài viết này được chia thành 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận </b></i>

<i><b>Chương II: Thực trạng việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư tại Việt Nam hiện </b></i>

nay

<i><b>Chương III: Phương hướng và những giải pháp nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư </b></i>

tại Việt Nam trong thời gian tới

Bài viết đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn đẹp trai Tống Thế Sơn, đồng thời được sự giúp đỡ của thư viện trường về nhiều tài liệu tham khảo bổ ích.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN ... 5

1.1. LÝ LUẬN CỦA KARL MARX VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ ... 5

1.1.1. Nguồn gốc, khái niệm về giá trị thặng dư ... 5

1.1.2. Bản chất của giá trị thặng dư ... 19

1.1.3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư... 19

1.2. LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC TÍCH LŨY TƯ BẢN ... 21

1.2.1. Bản chất của tích lũy tư bản ... 21

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mơ tích lũy tư bản ... 21

1.2.3. Hệ quả tích lũy tư bản ... 22

1.3. LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ... 22

1.3.1. Lợi nhuận ... 22

1.3.2. Lợi tức ... 25

1.3.3. Địa tô tư bản chủ nghĩa ... 26

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ... 27

2.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY ... 27

2.2. THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ... 28

2.2.1. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư áp dụng vào vấn đề thể chế, chính sách của Nhà nước…… ... 28

2.2.2. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư áp dụng vào vấn đề nhân lực tại Việt Nam hiện nay……. ... 30

2.2.3. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư áp dụng vào vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngồi vào cơng nghệ tại Việt Nam ... 31

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ... 32

2.3.1. Những ưu điểm đạt được ... 322.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ... 33CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ... 35

3.1. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM ... 353.2. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI ... 39

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN </b>

<b>1.1. LÝ LUẬN CỦA KARL MARX VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 1.1.1. Nguồn gốc, khái niệm về giá trị thặng dư </b>

<i>1.1.1.1. Khái niệm giá trị thặng dư </i>

Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Giá trị thặng dư được Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và số tiền nhà tư bản bỏ ra trong kinh doanh. Nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến.Tuy nhiên, người lao động sẽ đưa vào hàng hoá một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra được gọi là giá trị thặng dư, tức là số lượng của hàng hoá mà người lao động làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho cơng nhân và mức chênh lệch đó là giá trị thặng dư.

<i>1.1.1.2. Công thức chung của tư bản </i>

Tiền là sản phẩm cuối cùng của q trình lưu thơng hàng hố. Đồng thời tiền cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Song bản thân tiền không phải là tư bản mà tiền chỉ trở thành tư bản khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Tiền được coi là tiền thơng thường thì vận động theo cơng thức H-T-H. cịn tiền được coi là tư bản thì vận động theo cơng thức T-H-T. Ta thấy hai cơng thức này có những điểm giống và khác nhau:

<i><b>Giống nhau: Cả hai sự vận động đều bao gồm hai nhân tố là tiền và hàng và đều có </b></i>

hai hành vi là mua và bán, có người mua, người bán.

<i><b>Khác nhau: Trình tự hai giai đoạn đối lập nhau (mua và bán) trong hai công thức </b></i>

lưu thơng là đảo ngược nhau. Với cơng thức H-T-H thì bắt đầu bằng việc bán (H-T) và kết thúc bằng việc mua (T-H), bán trước mua sau nhưng tiền chỉ đóng vai trị trung gian và kết thúc q trình đều là hàng hố. Ngược lại, với cơng thức T-H-T thì bắt đầu bằng việc mua (T-H) và kết thúc bằng việc bán (H-T). ở đây tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc cịn hàng hố đóng vai trị trung gian, tiền ở đây chỉ để chi ra để mua rồi lại thu lại sau khi bán. Vởy tiền trong công thức này chỉ được ứng trước mà thơi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Từ đó ta thấy giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vòng chu chuyển H-T-H giá trị sử dụng tức là nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định. Như vậy qua trình này là hữu hạn, nó sẽ kết thúc khi nhu cầu được thoả mãn. Động cơ và mục đích của vịng chu chuyển T-H-T là bản thân giá trị trao đổi trong lưu thông điểm đầu và điểm cuối đều là tiền chúng không khác nhau về chất. Do vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Mà như ta đã biết, một món tiền chỉ có thể khác với một món tiền khác về mặt số lượng. Kết quả là qua lưu thông số tiền ứng trước khơng những được bảo tồn mà cịn tự tăng thêm giá trị. Nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’. Trong đó T’=T+Δt số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra là Δt, Các Mác gọi là giá trị thặng dư số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản là khơng có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.

Từ phân tích trên Mác đã phân biệt rõ ràng tiền thơng thường và tiền tư bản. Tiền thơng thường chỉ đóng vai trị trung gian trong lưu thơng. Cịn tiền tư bản là giá trị vận động, nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông rồi lại trở lại lưu thông, tự duy trì và sinh sơi nảy nở trong lưu thơng quay trở về dưới dạng đã lớn lên và không ngừng bắt đầu lại cùng một vòng chu chuyển ấy. T-H-T’mới nhìn thì nó là cơng thức vận động của riêng tư bản thương nghiệp nhưng ngay cả tư bản cơng nghiệp và cả tư bản cho vay thì cũng vậy.Tư bản chủ nghĩa cũng là tiền được chuyển hoá thành hàng hố thơng qua sản xuất rồi lại chuyển hoá thành một số tiền lớn hơn bằng việc bán hàng hố đó. Tư bản cho vay thì lưu thơng T-H-T’được biểu hiện dưới dạng thu ngắn lại là T-T’ một số tiền thành một số tiền lớn hơn. Như vậy T-H-T’thực sự là công thức chung của tư bản.

Nhưng bên cạnh đó cơng thức: T-H-T’mâu thuẫn với tất cả các quy luật về bản chất của hàng hóa, giá trị, tiền và bản thân lưu thông.

<i>1.1.1.3. Hàng hóa sức lao động </i>

Trong lưu thơng có thể có hai trường hợp xảy ra: một là trao đổi tuân theo quy luật giá trị (trao đổi ngang giá); hai là trao đổi không tuân theo quy luật giá trị (trao đổi khơng ngang giá).

<i>• Trường hợp trao đơi ngang giá: Nếu hàng hố được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự </i>

thay đổi hình thái của giá trị, từ T-H và H-T còn tổng giá trị cũng như phần giá trị

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi, trước sau không đổi. Tuy nhiên về giá trị sử dụng thì cả hai bên đều có lợi.ở đây khơng có sự hình thành giá trị thặng dư.

<i>• Trường hợp trao đổi khơng ngang giá: Nếu hàng hóa bán cao hơn giá trị của chúng </i>

khi đó người bán được lợi một khoản là một phần chênh lệch giữa giá bán và giá trị thực của hàng hóa,cịn người mua bị thiệt một khoản đúng bằng giá trị mà người bán được lợi. Còn nếu người bán hàng hố dưới giá trị của chúng (bán rẻ) thì người mua được lợi một khoản là phần chênh lệch giữa giá trị thực và giá bán của hàng hố cịn người bán bị thiệt một giá trị đúng bằng giá trị mà người mua được lợi. Vậy trong cả hai trường hợp trên cho thấy,nếu người này được lợi thì người kia thiệt nhưng tổng hàng hố vẫn khơng tăng lên nên cả hai trường hợp này khơng hình thành nên giá trị thặng dư.

Tiền đưa vào lưu thông, qua lưu thơng thì thu được giá trị thặng dư mà lưu thông không tạo ra giá trị nên không tạo ra giá trị thặng dư, tiền rút khỏi lưu thơng làm chức năng lưu thơng thì làm chức năng cất trữ thì khơng thu được giá trị thăng dư.Như vậy cùng với lưu thông và lại không cùng với lưu thơng đây chính là mâu thuẫn của cơng thức chung của tư bản .

Để giải quyết vấn đề này ta phải đứng trên các quy luật của lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ. Vấn đề cơ bản là nhà tư bản đã gặp trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt mà khi tiêu dùng nó sẽ đem lại giá trị thặng dư đó là sức lao động.

<i>a. Sức lao động và điều kiện tạo ra hàng hoá </i>

Sức lao động bao gồm toàn bộ sức thần kinh, sức cơ bắp, thể lực, trí lực tồn tại trong bản thân con người sống, nó chỉ được bộc lộ qua lao động và là yếu tố chủ thể không thể thiếu được của mọi quá trình sant xuất Xã hội .

Sức lao động khơng phải bao giờ cũng là hàng hố nó chỉ biến thành hàng hố khi có đầy đủ hai điều kiện:

<i>Thứ nhất: người lao động phải được tự do về thân thể, tự do về năng lực lao động của </i>

mìnhvà chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định . Bởi vì sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hố khi nó được đưa ta thị trường tức là bản thân người có sức lao động đó đem bán nó. Muốn vậy người lao động phải đựoc tự do về thân thể có quyến sở hữu sức lao động của mình thì mới đem bán sức lao động được.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Người sở hữu sức lao động chỉ nên bán sức lao động trong một thời gian nhất định thôi nếu bán hẳn sức lao động đó trong một lần thì người đó sẽ trở thành nô lệ.

<i>Thứ hai: Người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất,muốn sống họ phải bán sức </i>

lao động của mình. Vì nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hố và bán hàng hố do mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động.

Khi sức lao động trở thành hàng hố,nó cũng xó hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng nhưng nó là hàng hố đặc biệt vì vậy, giá trị và giá trị sử dụng của nó có những nét đặc thù so với những hàng hoá khác.

<i>b. Hai thuộc tính của hàng hố sức lao động: </i>

Hàng hố sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.

<b>• Giá trị của hàng hoá sức lao động </b>

Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Mà sức lao động lại gắn liền với cơ thể sống. Do đó việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cũng bao hàm việc duy trì cuộc sống của con người đó.Muốn duy trì cuộc sống của bản thân mình, con người cần có một số tư liệu sinh hoạt nhất định. Mặt khác số lượng của những nhu cầu cần thiết ấy, cũng như phương thức thoả mãn những nhu cầu đó ở mỗi một người, nhóm người lao động lại khác nhau,do các yếu tố lịch sử, tinh thần, nên giá trị của sức lao động còn mang tính tinh thần, thể chất lịch sử. Nhưng những người sở hữu sức lao động có thể chết đi do vậy muốn cho người ấy không ngừng xuất hiện trên thị trường hàng hố sức lao động thì người bán sức lao động ấy phải trở nên vĩnh cửu bằng cách sinh xon đẻ cái. Vì vậy tổng số những tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó tức là con cái của những người lao động. Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vất chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động,duy trì đời sống cơng nhân.Muốn cho mgười lao động có kiến thức và sức lao động vận dụng khoa học trong một ngành lao động nhất định thì cần phải tốn nhiều hay ít chi phí đào tạo.

<b>• Giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động </b>

Nó cũng giống như các hàng hố thơng thường khác ở chỗ là nó cũng phải thoả mãn nhu cầu nào đó của người mua. Cịn khác ở chỗ các hàng hố thơng thường qua tiêu dùng thì giảm dần cịn sức lao động qua tiêu dùng tức là qua lao động thì nó tạo ra lượng giá trị

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

mới lớn hơn giá trị bản thân nó do người cơng nhân theo thời gian đã tích luỹ được kinh nghiệm sản xuất. Và phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Đến đây ta đã hiểu được mâu thuẫn công thức chung của tư bản là cùng lưu thông và không cùng với lưu thông từ đó ta thấy khi sức lao động trở thành hàng hóa,tiền tệ thành tư bản.

<i>1.1.1.4. Sự sản xuất giá trị thặng dư </i>

Khi người có sức lao động đem bán sức lao động thì người mua sẽ tiêu dùng sức lao động của họ bằng cách bắt người bán đó phải lao động. Mà giá trị sử dụng của sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động tức là quá trình lao động và trong quá trình ấy sức lao động tạo ra giá trị thặng dư. Do đó để nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư sẽ bắt đầu nghiên cứu quá trình lao động.

<i>a. Lao động là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người </i>

Như vậy quá trình lao động là sự kết hợp của 3 yếu tố: Đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động.

<i>Sức lao động: Như đã nói ở trên thì nó là yếu tố cơ bản của quá trình lao động vì sức </i>

lao động gắn với con người mà con người luôn sáng tạo ra tư liệu lao động, đối tượng lao động đồng thời sử dụng chúng để phục vụ lợi ích của mình.

Lao động và sức lao động khác nhau ở chỗ sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Mà sức lao động và đối tượng lao động và tư liệu lao động tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình lao động, sức lao động kết hợp với dụng cụ lao động tác động với đối tượng lao động và chuyển toàn bộ giá trị của những tư liệu sản xuất vào sản phẩm được tạo ra.

<i>Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động </i>

vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích con người.

Đối tượng lao động có hai loại: Loại có sẵn như gỗ, rừng, quặng trong lịng đất,tơm,cá dưới sông biển...lao động của con người tác động vàậ phục vụ ngay cho nhu cầu của con người.Và một loại phải qua chế biến được gọi là nguyên vật liệu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Tư liệu lao động: là những vật hoặc hệ thống những vật mà con người dùng để tác </i>

động vào đối tượng lao động cho phù hợp với nhu cầu con người.Trong tư liệu lao động trước hết phải kể đến công cụ lao động,đây là yếu tố trực tiếp cải biến đối tượng lao động. Sự phát triển của cơng cụ lao động nói lên thời đại khác.

Tư liệu lao động và đối tượng lao động có sự phân biệt tương đối. Đối tượng lao động và tư liệu lao động trong quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất, do đó, có thể nói rằng: q trình lao động là sự kết hợp của hai yếu tố: sức lao động và tư liệu sản xuất.

Đi từ cái chung là việc nghiên cứu quá trình lao động, Mác đã đi đến phân tích q trình sản xuất giá trị thặng dư dưới thời chủ nghĩa tư bản.

<i>b. Sản xuất ra giá trị thặng dư: </i>

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.

Để hiểu rõ hơn quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ:

Giả sử để có sợi bán nhà tư bản đã mua (giả định theo đúng giá trị) 20kg bông giá 20$; tiền hao mịn máy móc 3$, tiền th công nhân là 4$ (Ngang bằng tư liệu sinh hoạt để họ sống trong một ngày) và giả sử họ kéo hết số bông trên trong 4 giờ và mỗi giờ tạo ra một lượng giá trị mới là 1$. Việc mua bán trên là đúng giá trị và điều kiện sản xuất trung bình của xã hội.

Quá trình sản xuất được tiến hành trong 4 giờ lao động với tư cách là lao động cụ thể công nhân kéo hết 20kg bông thành sợi. Giá trị của bông và hao mịn máy móc được lao động cụ thể của công nhân chuyển dịch và bảo tồn vào giá trị của sợi, hình thành ra bộ phận giá trị cũ (C) là 23$. Như vậy để sản xuất ra 20kg sợi thì nhà tư bản phải ứng trước một số tiền là 23$. Để sản xuất ra 20kg sợi thì cần phải có 20kg bơng và sự hao mịn của máy móc, khi 5kg sợi được sản xuất ra thì khơng có nghĩa là giá trị của 5kg bơng và phần

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

máy móc bị hao mịn mất đi mà phần giá trị đó được chuyển nguyên vẹn vào giá trị của 20kg sợi. Như vậy, giá trị của nhưng tư liệu sản xuất 20kg bông và hao mịn máy móc được biểu hiện bằng 23$, là những bộ phận cấu thành giá trị của 20kg sợi. Chú ý là người ta chỉ chi phí một thời gian lao động cần thiết trong những điều kiện sản xuất xã hội nhất định mà thơi, vì vậy dù nhà tư bản có sử dụng những tư liệu sản xuất nào có giá trị lớn hơn 23$ như trên đi nữa thì giá nhập vào của giá trị của 5kg sợi cũng chỉ là 23$, tức là số lao động xã hội cần thiết của nền sản xuất mà thôi.

Xét về phần giá trị mà lao động của người công nhân đã kết hợp vào bông. Giả định muốn sản xuất một lượng trung bình những tư liệu sinh hoạt cần thiết hàng ngày cho một người lao động thì mất 4 giờ lao động trung bình và giả sử 4 giờ lao động trung bình đã được vật hoá trong 4$.

Việc nhà tư bản trả 4$ cho một ngày lao động của người công nhân là đúng giá trị của sức lao động.Trong quá trình lao động, lao động khơng ngừng chuyển hố từ hình thái hoạt động sang hình thái tồn tại, từ hình thái vận động sang hình thái vật thể.Như vậy 4 giờ lao động Xã hội cần thiết,vận động kéo sợi sẽ biểu hiện ra trong một lượng sợi nhất định là 20kg sợi. Do đó thành phần giá trị do lao động của người công nhân kết hợp vào giá trị của 20kg sợi là 4 giờ lao động xã hội cần thiết và chỉ là lượng vật chất hố của số giờ lao động xã hội đó mà thôi.Vậy cũng với 4 giờ lao động trên với tư cách là lao động trừu tượng sức lao động của công nhân tạo ra lượng giá trị mới (V+m) là 4$, kết tinh vào giá trị của sợi.

Bây giờ ta thấy tổng giá trị của 20kg sợi gồm giá trị của 20kg bơng là 20$, với hao mịn máy móc là 3$ và 4 giờ lao động của người công nhân kéo sợi biểu hiện là 4$.Vậy giá trị của 20kg sợi là 27$. Họ ứng ra 27$ thu về 27$ như vậy họ khơng đạt được mục đích. Nhà tư bản suy nghĩ công nhân lao động được trả tiền họ cũng lao động nhưng khơng được gì. Họ suy nghĩ công nhân được trả 4$ ngang bằng với tư liệu sinh hoạt sống trong một ngày do đó khơng thể chỉ lao động 4 giờ mà nhiều hơn nữa là 8 giờ chẳng hạn, 4 giờ sau nhà tư bản chỉ phải mua 20kg bông trị giá 20$, hao mịn máy móc là 3$. Vậy tổng số tiền nhà tư bản ứng trước để sản xuất 40kg sợi là 40$ cho 40kg bơng, 6$ cho hao mịn máy móc, 4$ để th cơng nhân. Tổng là 50$, mà giá trị của 40kg sợi là 54$. Nếu nhà tư bản đem bán 40kg sợi (đúng giá trị) với giá 54$ thì thu được lượng trội hơn là 54$-50$=4$ là giá trị thặng dư của nhà tư bản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Để làm sáng tỏ thêm Mác đã lấy ngày lao động của công nhân để chứng minh. Ông chia ngày lao động của công nhân làm hai phần là thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Công nhân làm việc trong phần thời gian lao động cần thiết tạo ra sản phẩm cần thiết với tiền cơng của mình cịn làm việc trong thời gian lao động thặng dư là tạo ra sản phẩm thặng dư cho nhà tư bản. Nhà tư bản bán nó thu về giá trị thặng dư.

Từ đó cho ta biết được nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư: là một bộ phận của giá trị mới, bộ phận giá trị dôi ra ngồi giá trị sức lao động của cơng nhân. Do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không là lao động không công của công nhân cho tư bản. Là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị đến một thời hạn mà ở đó giá trị sức lao động của cơng nhân được hoàn lại bằng một bộ phận của giá trị mới.

Tư bản ứng trước của nhà tư bản được chia làm hai bộ phận. Một là bộ phận tư bản được chi ra để mua tư liệu sản xuất (tư bản bất biến) ký hiệu là C. Hai là bộ phận tư bản được chi ra để mua sức lao động (tư bản khả biến) ký hiệu là V, bộ phận tư bản này cũng chỉ là một số tiền như tư bản chi ra để mua tư liệu sản xuất nhưng nhờ mua được sức lao động là loại hàng hố đặc biệt mà khi tiêu dùng nó tạo ra giá trị thặng dư nên trở thành lượng khả biến. Việc phân chia này càng chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là sức lao động chứ khơng phải là máy móc hay tư liệu sản xuất khác.

<i><b>Có hai phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư: </b></i>

<i>• Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: </i>

Đây là phương thức sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong khi phần thời gian lao động cần thiết của công nhân không đổi. Phần thời gian giá trị thặng dư kéo dài bao nhiêu là được hưởng bấy nhiêu.

<i>Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ trong đó gồm thời gian lao động cần thiết là 4 giờ và 4 </i>

giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động kéo dài tuyệt đối thành 10 giờ mà thời gian lao động cần thiết khơng đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng từ 4 giờ đến 6 giờ. Điều này dẫn đến việc đấu tranh của công nhân và sự đấu tranh đó buộc nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động. Khi đó độ dài ngày lao động được xác định và nhà tư bản

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

phải tìm phương thức khác để sản xuất ra giá trị thặng dư đó là phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

<i>• Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối: </i>

Là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết của công nhân trong khi thời gian lao động của người công nhân không đổi dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.

<i>Ví dụ: Người lao động làm việc 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và </i>

4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động vẫn giữ nguyên là 8 giờ nhưng thời gian lao động cần thiết của cơng nhân rút ngắn xuỗng cịn 2 giờ nên thời gian lao động thặng dư tăng lên từ 4 giờ đến 6 giờ. Như vậy muốn rút ngắn thời gian lao động của công nhân phải tăng năng suất lao động xã hội và năng suất lao động xã hội tăng ên làm cho giá trị hàng hoá tiêu dùng giảm xuống kéo theo sức lao động giảm. Vì vậy 2 giờ lao động cần thiết cũng đảm bảo khối lượng tư liệu sinh hoạt để công nhân tái sản xuất sức lao động, đồng thời để tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ. Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá trị thặng dư tương đối vì nó đều do tăng năng suất lao động mà có. Nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động xã hội do đó tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch. ở đây máy móc cơng nghệ tiên tiến không tạo ra giá trị thặng dư mà nó tạo điều kiện để tăng sức lao động của người lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hố thấp hơn giá trị của thị trường. Nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.

<i>c. Mặt lượng của giá trị thặng dư: </i>

Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở khối lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

• Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ so sánh giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến (ký hiệu là m’).

Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng giá trị mới so sức lao động tạo ra thì cơng nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm được bao nhiêu đồng thời nó cịn chỉ rõ trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Nói lên sự bóc lột của nhà tư bản với cơng nhân làm th, nó chưa nói rõ quy mơ bóc lột. Để phản ánh quy mơ bóc lột CácMác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.

<i>• Khối lượng giá trị thặng dư </i>

Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng số tư bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M.

Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng cơng thức:

<b> M = m’.V </b>

(Trong đó, V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.)

Nhìn vào cơng thức trên ta thấy,ở cùng một trình độ bóc lột (m’) nhất định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậycó thể thấy giá trị thặng dư phản ánh quy mơ của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.

<i>• Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư </i>

Khi ta bán hàng hố thì giá cả phải ln ln cao hơn giá trị của nó. Trong giá cả của hàng hố gồm giá trị của nó và phần giá trị thặng dư, mà phần giá trị thặng dư được quyết định bởi ba nhân tố là độ dài ngày lao động, cường độ bình thường của lao động và sức sản xuất của lao động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi (cho sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi: </i>

Đại lượng của ngày lao động khơng đổi, có nghĩa là giá trị của ngày lao động đó khơng đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là không đổi. Giá trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Mà giá trị của sức lao động khơng giảm xuống, thì giá trị thặng dư khơng tăng lên, nên để có sự thay đổi đó cần phải thay đổi sức sản xuất.

Giả định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của lao động tăng lên, thì chỉ cần một thời gian ít hơn 4 giờ để sản xuất ra khối lượng tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần 4 giờ để sản xuất. Do đó, giá trị của sức lao động sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu sức sản xuất của lao động giảm xuống, thì giá trị của sức lao động tăng lên. Như vậy, việc tăng năng suất lao động sẽ làm giảm giá trị của sức lao động, và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư mà việc tăng hay giảm của giá trị thặng dư luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất nó là kết quả chứ khơng phải là nguyên nhân của việc tăng hay giảm tương ứng của giá trị sức lao động.

<i>Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi, cường độ lao động thay đổi: </i>

Khi cường độ lao động cao thì sản phẩm làm ra trong ngày sẽ nhiều hơn so với số lượng sản phẩm làm ra trong một ngày có cường độ lao động thấp hơn mà số giờ lao động thì như nhau.

Trong trường hợp này cũng gần giống như trên là đều đem lại số lượng sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động. Song cũng có điểm khác là giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm trong trường hợp này khơng đổi vì trước cũng như sau để làm ra một sản phẩm đều hao phí một lượng lao động như nhau còn trong trường hợp tăng sức sản xuất của lao động giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm giảm đi vì nó tốn ít lao động hơn trước.

Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra khi đó tăng lên, giá trị lại không giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó giá trị của sức lao động khơng đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên. Việc đó khác với việc tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị của sức lao động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

khối lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương ứng), do đó giá trị thặng dư tăng lên.

<i>Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi, ngày lao động thay đổi: </i>

Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn lại hay kéo dài ra.

Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và cường độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao động, hay không làm thay đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó làm thời gian lao động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng tương đối của nó so với đại lượng khơng đổi của giá trị sức lao động cũng giảm xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới khơng bị tổn thất. Nếu khơng thì việc rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền với sự thay đổi của năng suất lao động và cường độ lao động.

Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ và giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ, và giá cả sức lao động không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị thặng dư tăng lên cùng với đại lượng tuyệt đối của nó. Mà vì giá trị của sức lao động khơng đổi, giá trị thặng dư lại tăng lên, do đó, đại lượng tương đối của giá trị sức lao động so với giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng lên là nguyên nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài ngày lao động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mịn sức lao động tăng lên, người lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mịn đó, do đó, giá cả của sức lao động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có tăng lên thì giá trị của sức lao động cũng giảm đi tương đối so với giá trị thặng dư.

<i>Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ của lao động: </i>

Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu:

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị kéo dài.

Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến những ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động, như ngành nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ màu mỡ của đất kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương ứng.

Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá trị của sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm thời gian lao động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà giảm xuống. Nếu như ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư được sinh ra khi đó đúng bằng lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại lượng của nó vẫn giảm xuống tương đối so với giá trị sức lao động. Và nếu tiếp tục kéo dài thời gian lao động thì có thể cả hai đại lượng tuyệt đối và tương đối của giá trị thặng dư có thể tăng lên.

Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày lao động

Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời gian lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra, giá trị thặng dư được sinh ra tăng lên. Và do đó, có thể rút ngắn ngày lao động đến khi thời gian lao động thặng dư không còn nữa, nhưng cả khi sức sản xuất và cường độ của lao động có tăng đi nữa, giới hạn thời gian lao động cần thiết vẫn sẽ được nới rộng, bởi vì, càng ngày con người càng có nhu cầu sinh sống, hoạt động phong phú hơn, đồng thời một phần lao động thặng dư ngày nay sẽ được tính vào lao động cần thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc thành lập quỹ dự trữ và quỹ tích luỹ xã hội. Năng suất lao động càng phát triển, thì lại càng có thể rút ngắn ngày lao động, và ngày lao động càng rút ngắn lại thì cường độ lao động càng có thể tăng lên.

<i>1.1.1.5. Tư bản bất biến và tư bản khả biến </i>

<b>Tư bản bất biến (c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất mà giá </b>

trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm; tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản bất biến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tư liệu sản xuất gồm: máy móc, thiết bị, nhà xưởng… chuyển giá trị của nó từng phần vào sản phẩm; nhiên liệu, vật liệu khi sử dụng được chuyển ngay tồn bộ giá trị của nó vào sản phẩm.

<b>Tư bản khả biến (v) là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động. Trong quá trình </b>

sản xuất bộ phận tư bản này không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên; tức là biến đổi về lượng. Một mặt, giá trị của nó chuyển thành tư liệu sinh hoạt của công nhân và mất đi trong tiêu dùng của cơng nhân. Mặt khác, trong q trình lao động, nhờ lao động trừu tượng của mình, cơng nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị mua sức lao động.

<i>1.1.1.6. Tiền công </i>

Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Đó là bộ phận của giá trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tạo ra, nhưng nó lại thường được hiểu là do người mua sức lao động trả cho người lao động làm thuê.

Cứ sau một một thời gian lao động nhất định, người lao động làm thuê được trả một khoản tiền công nhất định. Điều đó thậm chí làm cho người lao động cũng nhầm hiểu là người mua sức lao động đã trả cơng cho mình. Trái lại, nguồn gốc của tiền cơng chính là do hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tự trả cho mình thơng qua sổ sách của người mua hàng hóa sức lao động.

<i>1.1.1.7. Tuần hoàn của tư bản </i>

Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa) gắn với thực hiện những chức năng tương ứng (chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư, thực hiện giá trị thặng dư) và quay trở về hình thái ban đầu cùng giá trị thặng dư.

<b>Mơ hình của tuần hồn tư bản là: </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Kết quả của quá trình sản xuất là H’ trong giá trị của H’ có bao hàm giá trị thặng dư. Khi bán được H’ người ta thu được T’. Trong T” có giá trị thặng dư dưới dạng hình thái tiền.

<b>1.1.2. Bản chất của giá trị thặng dư </b>

Như vậy, nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng dư trên đây cho chúng ta thấy, giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động trong sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.

Quá trình đó dược diễn ra trong quan hệ xã hội giữa người mua hàng hóa sức lao động với người bán hàng hóa sức lao động. Do đó, nếu giả định xã hội chỉ có hai gia cấp là giai cấp tư sản và giai cấp cơng nhân, thì giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mang bản chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp, trong đó, giai cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên thuê mướn lao động của giai cấp cơng nhân. Ở đó, mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư, người lao động làm thuê phải bán sức lao động cho nhà tư bản ấy.

Sinh thời, chứng kiến cảnh người lao động bị áp bức lao động với tiền cơng rẻ mạt, trong khi nhà tư bản thì khơng ngừng giàu có, C.Mác nhận thấy có một sự bất cơng sâu sắc về mặt xã hội. C.Mác gọi đó là quan hệ bóc lột, mặc dù về mặt kinh tế, nhà tư bản không vi phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá (ví dụ về sự sản xuất giá trị thặng dư nêu trên cho thấy, nhà tư bản đã trả cho công nhân đúng bằng giá trị hàng hóa sức lao động, nghĩa là nhà tư bản tuân theo quy luật giá trị).

Sự giải thích khoa học của C.Mác ở đây đã vượt hẳn so với các nhà kinh tế trước đó. Tính khoa học thể hiện ở chỗ, C.Mác đã mô tả được một thực tế, nhà tư bản đã không vi phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá thông qua ký hợp đồng thỏa thuận với người lao động làm thuê, song song trao đổi ngang giá đó, giá trị thặng dư vẫn dược tạo ra chp nhà tư bản bằng lao động sống chứ không phải do máy móc sinh ra.

Trong điều kiện ngày nay, quan hệ đó vẫn đang diễn ra nhưng với trình độ và mức độ rất khác nhau, rất tinh vi và dưới hình thức văn minh hơn so với cách nhà tư bản đã từng thực hiện trong thế kỷ XIX.

<b>1.1.3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư </b>

Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

• Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối nếu là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu khơng thay đổi.

Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.

Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện khơng đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

m’= (6 giờ)/(4 giờ)×100%=150%

Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động, Tuy nhiên ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh lý (công nhân phải có thời gian ăn ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên khơng thể kéo dài bằng ngày tự nhiên, cịn cường độ lao động cũng không thể vô hạn quá sức chịu đựng của con người. Hơn nữa công nhân kiên quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai bên có mâu thuẫn, thơng qua đấu tranh, tùy tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

• Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động khơng thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.

Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở một hoặc một vài xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó sẽ thu được một số giá trị thặng dư trội hơn so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành thặng dư tương đối, thúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy giá trị siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

<b>1.2. LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC TÍCH LŨY TƯ BẢN 1.2.1. Bản chất của tích lũy tư bản </b>

Để chỉ ra bản chất của tích lũy tư bản, cần nghiên cứu về tái sản xuất.

Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, quá trình sản xuất liên tục được lặp đi lặp lại khơng ngừng q trình đó được gọi là tái sản xuất. Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

Tái sản xuất giản đơn là sự lặp đi lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Trong trường hợp này, ứng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân.

Tuy nhiên, tư bản khơng những được bảo tồn mà cịn phải khơng ngừng lớn lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích lũy tư bản. Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa thơng qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà xưởng, mua thêm nguyên- vật liệu, trang bị thêm máy móc, thiết bị… Nghĩa là, nhà tư bản không sử dụng hết giá trị thặng dư thu được cho tiêu dùng cá nhân mà biến nó thành tư bản phụ thêm. Do đó, khi thị trường thuận lợi, nhà tư bản bán được hàng hóa, giá trị thặng dư sẽ ngày càng nhiều, nhà tư bản trở nên giàu có hơn.

Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khơng những trở thành thống trị, mà cịn khơng ngừng mở rộng sự thống trị đó.

<b>1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mơ tích lũy tư bản </b>

Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, quy mơ tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ tích lũy và tiêu dùng được xác định thì quy mơ tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quy mơ tích lũy gồm:

</div>

×