Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

vấn đề bản thể luận trong triết học mác lênin và sự vận dụng vấn đề này ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.96 KB, 32 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI</b>

<b>BỘ MÔN TRIẾT HỌC </b>

<b>ĐỀ TÀI </b>

<b>Vấn đề bản thể luận trong triết học Mác – Lênin và </b>

<b>sự vận dụng vấn đề này ở Việt Nam hiện nay. </b>

<b>NHÓM: 1 </b>

<b>LỚP: 226MLNP0221 </b>

<b>CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ </b>

<b>HÀ NỘI – 2022 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ </b>

<b>xếp loại </b>

<b>Đánh giá của giảng viên </b>

trước Mác và 3. Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác

– Lênin (3.1 đến 3.5)

A

và 1.2)

A

3.6 Ý nghĩa phương pháp luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b><small>LỜI MỞ ĐẦU ...1</small></b>

<b><small>CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN ...2 </small></b>

<b><small>1.CƠ SỞ LÍ LUẬN</small></b><small> ...2 </small>

<b><small>1.1.Khái niệm “triết học”</small></b><small> ...2 </small>

<b><small>1.2.Khái niệm “bản thể luận”</small></b><small> ...3 </small>

<b><small>2.QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRƯỚC MÁC</small></b><small> ...4 </small>

<b><small>2.1.Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông</small></b><small> ...4 </small>

<b><small>2.2.Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Tây</small></b><small> ...7 </small>

<b><small>3.QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN</small></b><small> ... 12 </small>

<b><small>3.1.Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác - Lênin</small></b><small> ... 12 </small>

<b><small>3.2.Cách tiếp cận vấn đề bản thể luận</small></b><small> ... 12 </small>

<b><small>3.3.Quan niệm vật chất</small></b><small> ... 13 </small>

<b><small>3.4.Quan niệm về ý thức</small></b><small> ... 14 </small>

<b><small>3.5.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức</small></b><small> ... 15 </small>

<b><small>3.6.Ý nghĩa phương pháp luận ... 16 </small></b>

<b><small>CHƯƠNG II. VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM ...18 </small></b>

<b><small>1.NHẬN THỨC ... 18 </small></b>

<b><small>2.TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN</small></b><small> ... 22 </small>

<b><small>KẾT LUẬN ...27</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>1 </small>

<b>LỜI MỞ ĐẦU </b>

Việt Nam tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, ruộng đất canh tác bình qn đầu người thấp, tài ngun khống sản tuy đa dạng phong phú, song trữ lượng không lớn như nhiều nước khác, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật so với các nước phát triển. Vì vậy, Đảng và Chính phủ luôn đặt nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế lên hàng đầu. Và để thực hiện tốt nhiệm vụ đó thì Đảng ta đã chỉ ra rằng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải dựa trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác cũng như tư tưởng mà Bác Hồ đã vạch ra để áp dụng vào thực tế hồn cảnh xã hội đất nước hiện nay, tìm ra đường lối đúng đắn, phương châm phù hợp để phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Triết học là một môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học. Đó là những lý luận về nguồn gốc, về sự tồn tại hay những quan niệm về nguồn gốc của thế giới hay bản thể luận. Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên, nhóm chúng em quyết định đi sâu vào phân tích đề tài “Vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin và sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>2 </small>

<b>NỘI DUNG </b>

<b>CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN </b>

<b>1.1. Khái niệm “triết học” </b>

Triết học là một môn học gạo cội. Trước khi có sự ra đời của triết học Mác-Lênin, triết học còn được coi là khoa học của mọi loại khoa học. Nhận định này là hợp lý vì phần lớn các nhà triết học lỗi lạc trong lịch sử triết học đều bắt nguồn từ các nhà khoa học và khoa học nào cũng cần tri thức triết học với tư cách là phương pháp luận để hướng dẫn khoa học phát triển. Triết học ra đời từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI Trước Cơng Ngun, từ đó đến nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học.

Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Theo Học viện Báo chí và Tun truyền: triết học là bộ mơn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người trong thế giới quan đó; những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Nhưng tất cả các cách định nghĩa đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội lồi người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.

Tóm lại, triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết các vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó và tính duy lý trong việc lập luận. Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây) và trong thời kỳ chuyển từ xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>3 </small>

chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến (phương Đông) gắn liền với sự phân cơng lao động xã hội - tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, khi con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút được cái chung từ vơ số sự vật, hiện tượng riêng lẻ, xây dựng nên các học thuyết lý luận. Triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quyết định.

<b>1.2. Khái niệm “bản thể luận” </b>

Thuật ngữ bản thể luận (ontology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa là “học thuyết về tồn tại”. Trong lịch sử triết học, trước thế kỷ XVII, thuật ngữ “bản thể luận” chưa được xuất hiện với tư cách một khái niệm mà chỉ dưới dạng những tư tưởng về nó, những tư tưởng về tồn tại. Tên gọi “bản thể luận” chỉ được xuất hiện lần đầu tiên tại thế kỷ XVII. Trong Lexicon philosophicum (bách khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius (1547 - 1628) và được xuất bản tại Phrăngphuốc (Đức) vào năm 1613. Như vậy, tên gọi “bản thể luận” xuất hiện vào thế kỷ XVII nhưng tư tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học trong cả triết học phương Đông và cả triết học phương Tây.

Trong triết học trước Mác, “bản thể luận” được hiểu là “triết học đầu tiên” là học thuyết về sự tồn tại nói chung nên nó cùng nghĩa vơi siêu hình học - một hệ thống những định nghĩa phổ biến có tính chất tư biện về tồn tại.

Đến Mác-Lênin quan điểm bản thể luận dùng để chỉ những quy luật của sự vận động phát triển của những cái đang tồn tại. Vật chất và ý thức tồn tại đều chịu sự chi phối của những quy luật đó.

<i>Tóm lại, bản thể luận được hiểu là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc, về tồn tại hay bản thể luận là quan niệm về thế giới, nó bàn tới tất cả những gì đang tồn tại trong thế giới khách quan ở bản thân nó, và nó tồn tại theo tính quy luật của nó. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>4 </small>

<b>2. QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRƯỚC MÁC </b>

<b>2.1. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông </b>

Về mặt địa lý, “ phương Đông cổ đại” bao gồm một vùng đất hết sức rộng lớn, từ Ai Cập, Babilon tới Ấn Độ, Trung Hoa... và nơi đây được ví với cái nôi của nền văn minh nhân loại. Người phường Đông cổ đại đã sớm lợi dụng từ những thuận lợi của vùng đồng bằng phì nhiêu để có thể phát triển sản xuất. Chính dựa trên những điều kiện đó, lịch sử triết học của các nước phương Đông xuất hiện từ rất sớm, vào khoảng thiên nhiên kỷ thứ III TCN. Sự phát triển của tư tưởng và triết học phương Đơng cổ, trung đại có những đặc điểm mang đậm bản sắc độc đáo so với triết học phương Tây, thể hiện đậm nét ở một số quốc gia tiêu biểu như Trung Quốc, Ấn Độ... với những

<b>quan niệm về bản thể luận rất đặc sắc. </b>

<i><b>2.1.1. Quan niệm của triết học Trung Quốc cổ trung đại về bản thể luận </b></i>

Trường phái triết học Âm dương - Ngũ hành: Trường phái triết học cổ của Trung Quốc lại hướng đến việc lý giải sự tồn tại của thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong thế giới. Quan điểm duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát, lấy tự nhiên để giải thích những gì thuộc về tự nhiên. Đây là quan niệm học thuyết về sự liên hệ, sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong thế giới là âm và dương và ngũ hành là bản thể làm nên sự tồn tại của thế giới.

Quan niệm của các triết gia: Quan điểm về Đạo của Lão tử là quan điểm tiêu biểu của người Trung Quốc cổ đại về bản thể luận. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự thống nhất của thế giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”,“mập mờ”, “thấp thống” khơng có đặc tính, khơng có hình thể, nhìn khơng nhìn, thấy, nghe khơng nghe thấy, bắt không bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại bất luận con người có nhận thức được hay không.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>5 </small>

Quan điểm của phái Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội Trung Quốc suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, cũng như tác động đến Việt Nam và một số nước Đông Á khác. Nho giáo chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc về mối liên hệ, về vận động, về quy luật với mục tiêu là xây dựng những cơ sở lý luận cho các quan điểm chính trị, đạo đức và xã hội và con người nên lại đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản nguyên của tồn tại. Theo Mạnh Tử “Tâm” là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý và trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan hệ với Tính, đem tâm tính đấy là ứng xử với vạn vật được gọi là Tình. Tâm - Lương Tri - Lương năng là cơ sở để xây dựng luân lý đạo đức, nó là cái tự nhiên có ở con người chứ không phải qua học tập, là cái vĩnh viễn không thay đổi, do vậy con người cần “phản tỉnh” để hành xử cho hợp lễ nghĩa.

<i><b>2.1.2. Quan niệm của triết học Ấn Độ cổ trung đại về bản thể luận </b></i>

Tri thức và văn hóa Ấn Độ truyền thống hết sức đa dạng, phong phú và có những yếu tổ phỏng đốn vượt thời gian. Nét đặc biệt trong văn hóa Ấn Độ là mang dấu ấn sâu đậm về mặt tín ngưỡng, tơn giáo và tâm linh, với nhiều yếu tố thần bí. Những kiến thức và văn hóa đó đã trở thành những chất liệu trực tiếp cho sự xuất hiện các trường phái triết học ở Ấn Độ thời cổ đại. Các nhà triết học ở Ấn Độ cho rằng bản thể của thế giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên, vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là thiên giới, trần thế và địa ngục. Sớm nhất là trong khoảng thế kỷ VIII – VI trước Công Nguyên, bộ kinh Upanisad đã cho rằng bản nguyên tối cao bất diệt của thế giới là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, đó là thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về nó sau khi chết. Ngồi ra có nhiều các trường phái khác nhau như phái Samkhya, trường phái Nyaya Vaisesika và Phật giáo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>6 </small>

Phái Samkhya có tư tưởng rất cổ và ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, nó có tinh thần duy vật, phủ nhận sự tồn tại của Brahman và thần. Phái Samkhya cho rằng thế giới là thế giới vật chất và nó tồn tại và vận động theo quy luật nhân quả, kết quả đã tồn tại trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện. Quan niệm về bản thể bắt đầu từ nguyên nhân.

Phái Nyaya - Vaisesika quan niệm bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế giới là những hạt vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt được gọi là Anu (nguyên tử).

tố: đất, nước, lửa, khơng khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật. Thế giới xung quanh ta đa dạng chính là do sự kết hợp khác nhau của các yếu tổ bản nguyên đó.

Phật giáo là một tơn giáo mang tư tưởng giải thốt chúng sinh ra khỏi nỗi khổ cuộc đời. Phật cho rằng bản nguyên của thế giới chính là Tâm. Tâm ban đầu vốn tròn đầy, chưa xao động, giống như mặt nước, khi gió thổi (vọng tâm sinh khởi) mà tạo ra sóng to, sóng nhỏ, bọt hay bong bóng khác nhau. Gió ngừng thổi thì mặt nước trở lại yên lặng. Vậy tâm ban đầu không thay đổi, khi có tác động từ bên ngồi, có sự tiếp xúc lục căn (sáu giác quan) và lục trần (thế giới khách quan) thì mới làm tâm xao động sinh ra tham, sân, si. Khi vượt qua được tham, sân, si tức là con người đã được giác ngộ, được giải thoát, trở về cái tâm ban đầu thanh tịnh. Một khái niệm khác của Phật giáo khi đề cập đến vấn đề bản thể luận là “khơng”. Và trong kinh Phật có cụm từ “sắc sắc không không” để nói về sự vơ thường của cuộc sống vạn vật tự sinh tự diệt, chuyển biến không ngừng trong từng phút giây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>7 </small>

<b>2.2. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Tây </b>

Khái niệm “bản thể luận” được xuất hiện ở thế kỷ XVII tại phương Tây. Khái niệm này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học phương Tây tới mức chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của phương pháp tư duy triết học Tây Âu. Trong mỗi thời kỳ, triết học Phương Tây lại có những nhà triết học tiêu biểu với nhiều quan niệm về “bản thể luận” khác nhau, điều đó đã tạo nên một

<b>bức tranh đầy màu sắc về triết học phương Tây. </b>

<i><b>2.2.1. Quan niệm của triết học Hy lạp cổ đại </b></i>

Thời kỳ này các nhà triết học cũng chính là các nhà khoa học, chính vì vậy quan niệm về bản thể luận của những nhà triết học thời này rất phong phú, mang đậm dấu ấn cùng những ngành khoa học họ nghiên cứu.

Ta-let (624-546 TCN): Ông cố gắng đi tìm một nguồn gốc chung, một thực thể chung làm cơ sở của mọi vật. Đối với ơng, thực thể đó chính là nước. Trong cơng cuộc đi tìm cách xây dựng “bản thể luận mới”, chúng ta phải kể đến Pi-ta-go (571-497 TCN). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà tóan học. Ông cho rằng bản nguyên thể giới là những con số. Con số là lực lượng chi phối toàn bộ thế giới theo một quy luật nhất định. Vì vậy, con số khơng chỉ là bản nguyên của tồn bộ sự vật mà còn là cơ sở của hiện tượng tinh thần. Con số tồn tại vĩnh viễn nên linh hồn cũng bất tử. Nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Tuy nhiên, quy luật toán học chỉ là một loại quy luật, ngồi ra cịn rất nhiều những quy luật khác.

Hê-ra-clit (khoảng 530 - 470 TCN): Ông được coi là đại biểu vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Ông quan niệm về bản thể luận của thế giới là lửa. Lửa là nguồn gốc của mọi sự trong vũ trụ, là cơ sở của linh hồn con người. Theo ông, cả vũ trụ là một ngọn lửa vĩnh hằng, khồng không bùng cháy và tàn lụi. Lửa trao

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Platon: Khác với Đê-mô-crit, Platon chia thế giới thành 2 bộ phận: thế giới của những ý niệm và thế giới của những sự vật cảm tính. Ông cũng kế thừa quan điểm của Pi-ta-go về những con số. Theo ông, sự tồn tại của thế giới các ý niệm thông qua các quan hệ tỷ lệ toán học tác động vào vật chất tạo ra thế giới các sự vật cảm tính. Chỉ có ý niệm mới tồn tại chân thực, mới là đối tượng của nhận thức chân lý, cịn có sự vật cảm tính chỉ là kết quả của sự bắt chước ý niệm.

<i><b>2.2.2. Quan niệm triết học Tây Âu thời trung cổ </b></i>

Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II - V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ nô lệ và là sự ra đời của chế độ phong kiến, và chế độ phong kiến kéo dài đến thế kỷ thứ XIV với sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến và phương thức sản xuất phong kiến cùng chế độ phong kiến phân quyền. Triết học thời kỳ này là nển triết học kinh viện lấy vấn đề trung tâm là cuộc đấu tranh giữa niềm tin tơn giáo và trí tuệ. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thức và chủ nghĩa duy danh là biểu hiện cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Tây Âu thời kỳ này. Tiêu biểu nhất trong thời kỳ này là nhà triết học Tô-mát Đa-canh. Triết học của ông được

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>9 </small>

nhờ Thiên Chúa coi là học thuyết duy nhất đúng đắn và làm hệ tư tưởng của mình. Về quan niệm về bản thể luận, ông cho rằng Thượng đế là cơ sở tồn tại của thế giới.

<i><b>2.2.3. Quan niệm của triết học Tây Âu thời Phục hưng (TKXV-XVI) </b></i>

Cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, cũng như sự phát triển khoa học và nghệ thuật, triết học thời kỳ phục hưng đã có một bước ngoặt trong sự phát triển, mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới của chủ nghĩa duy vật. Về vấn đề bản thể luận trong thời kỳ này, có một nhà triết học tiêu biểu là Giooc-đa-nơ Bru-no (1548-1600) ông là nhà triết học, đồng thời là nhà khoa học tự nhiên vĩ đại người Italia. Phạm trù trung tâm trong triết học của ông là Cái duy nhất (Uno). Uno chính là thượng đế tồn tại dưới dạng giới tự nhiên (Tự nhiên thần luận). Ông cũng đã kế thừa và chịu ảnh hưởng của Aritx- tốt, ơng cho rằng có sự thống nhất giữa vật chất và hình dạng trong Uno, mọi hình dạng chẳng qua chỉ là hình dạng của vật chất mà thơi. Ơng cũng tiếp nhận tư tưởng về sự thống nhất vật chất của vũ trụ khi cho rằng: “Mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất cả mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta”. Bên cạnh đó, ơng cũng xây dựng thuyết đơn từ (monad): Theo đó, mọi sự vật và cả vũ trụ đều được cấu tạo từ đơn tử, là những phần tử vật chất nhỏ nhất có chứa khả năng tinh thần. Ông cũng kế tục và phát triển học thuyết của Cơpéc-ních mặt trời là trung tâm, nhưng ông cũng bổ sung thêm rằng, có vô số thế giới, xung quanh trái đất có một bầu khơng khí cùng xoay với trái đất và mặt trời cũng đổi chỗ với các vì sao. Với học thuyết đó, Bruno đã bác bỏ một quan điểm cơ bản của tôn giáo về sự tồn tại của thế giới bên kia, thế giới thần linh. Ông còn cho rằng thế giới vật chất tồn tại khơng ngừng, khơng có chúa trời nào thống trị vũ trụ đó cả.

<i><b>2.2.4. Quan niệm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (TK XVII-XVIII) </b></i>

Cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho xã hội phong kiến Tây Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị và tinh thần. Từ đó dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản, nhà nước tư sản được hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>10 </small>

thành, dân tộc tư sản ra đời. Triết học thời kỳ này khác về chất so với triết học duy vật cổ đại Hy lạp, thể hiện ở phương pháp siêu hình, sự gắn bó với khoa học thực nghiệm. Một đại diện tiêu biểu của thời kỳ này là Phăng-xi Bê-cơn (1561-1626) người Anh. Ông là người đã kế thừa những tư tưởng duy vật cổ đại Hy Lạp trong quan niệm về thế giới, thể hiện ở chỗ ông thường xuyên trích dẫn và ca ngợi những nhà duy vật. Ông kịch liệt chống lại quan điểm của triết học kinh viện về vật chất (thụ động, trừu tượng, chế cứng, không vận động, dùng trong tranh luận…). Ông đưa ra khái niệm “vật chất thứ nhất” để đối lập với khái niệm vật chất này của triết học kinh viện, trên cơ sở đó, ơng đưa ra 19 dạng vận động khác nhau của “vật chất thứ nhất”. Bên cạnh đó, ông cũng ủng hộ quan điểm của Ăm-pê-đốc-lơ về sự không mất đi của vật chất. Theo ông, tổng vật chất là giữ ngun. Ơng cịn cải biến học thuyết về bốn nguyên nhân của Arix-tốt theo hướng duy vật.

Nhà triết học thứ hai trong thời kỳ này là Rơ-nê Đê-các-tơ (1596-1654), nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đê-các-tơ đứng trên lập trường nhị ngun luận. Ơng thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, cùng song song là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thực thể vật chất là đối tượng nghiên cứu của vật lý, còn thực thể tinh thần là đối tượng nhiên cứu của triết học. Tuy nhiên, cả hai thực thể này đều là phụ thuộc vào một thực thể thứ ba là Thượng đế. Ông cố gắng đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, giữa tồn tại và tư duy nhưng cuối cùng lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Ơng cịn phát hiện ra ngun tắc quyết định luận trong thế giới, có những dự báo khoa học về nguồn gốc vũ trụ, về sự phát triển đa dạng của các loài sinh vật. Quan niệm của ông về bản thể luận có nhiều điểm tiến bộ nhưng cịn mang tính máy móc, siêu hình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>11 </small>

<i><b>2.2.5. Quan niệm trong triết học cổ điển Đức (TK XVIII - nửa đầu TK XIX) </b></i>

Bản thể luận duy tâm cổ điển Đức chịu tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị đương thời. Trong khi Anh và Pháp tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì nước Đức vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế và chính trị. Vì giai cấp tư sản Đức yếu kém, không đủ khả năng nắm chính quyền, nên các nhà lý luận của giai cấp này là những nhà triết học duy tâm, sáng lập ra các hệ thống triết học rất trừu tượng, tách khỏi đời sống thực tiễn. Các nhà triết học duy tâm Đức, bắt đầu từ Can-tơ trở đi đã xây dựng bản thể luận triết học trong tư duy, ý thức của chủ thể, đặc biệt đề cao tính năng động và tính duy lý của chủ thể.

Can-tơ đã có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng bản thể luận độc đáo, đó chính là học thuyết vật tự có. Theo ơng, vật tự có là bản chất của mọi vậ khách quan tồn tại bên ngồi con ngời, nó thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm, siêu nhiên, con người không thể nào nhận thức được. Ví dụ như Chúa trời, tự do.

Tiếp nối các bậc tiền bối, Hê-ghen. Ông cho tinh thần thế giới là có trước, tồn tại vĩnh viễn. Tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên rồi lại thơng qua xã hội, lịch sử trở về chính nó.

Lút-vích Phoi-ơ-bắc, một nhà triết học lỗi lạc đã khôi phục lại địa vị xứng đáng cho chủ nghĩa duy vật trước Mác. Ông cho rằng thế giới vật chất là có trước, nó tồn tại và vận động nhờ chính nguyên nhân ở trong nó, ý thức có sau, ý thức là sản phẩm, thuộc tính của bộ óc của con người. Ơng cũng có quan điểm duy vật về khơng gian, thời gian. Theo ơng, khơng có khơng gian, thời gian ngồi vật chất, cũng khơng có vật chất tồn tại ngồi khơng gian, thời gian.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX với sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng chính trị xã hội độc lập dấu tranh lại giai cấp tư sản vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực hiện cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu khác nhất cho sự ra đời triết học Mác.

<b>3.2. Cách tiếp cận vấn đề bản thể luận </b>

Về cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin là:

Một là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người;

Hai là mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biển của thế giới vật chất;

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>13 </small>

Ba là thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới khơng có gì khác ngồi những q trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.

<b>3.3. Quan niệm vật chất </b>

Vật chất, với tư cách là phạm trù cơ bản của triết học, ngay từ khi mới ra đời đã được các nhà triết học quan tâm giải quyết. Phát triển quan niệm của Mác và Ăng-ghen, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất:

<i><b>Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. </b></i>

Định nghĩa trên đã có ý nghĩa to lớn khi Lênin đã làm rõ:

Thứ nhất với tư cách là thực tại khách quan, vật chất không tồn tại phụ thuộc vào ý thức con người, kiên định và triệt để quan niệm nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, khơng thể đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của cật chất như các nhà duy vật cổ đại.

Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cảm giác cho con người.

Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ảnh nó.

<i>Vậy, Lênin đã đưa ra được phương pháp định nghĩa mới, mang tính trừu tượng </i>

hóa, khái quát hóa cao. Định nghĩa này là một dấu mốc lớn, bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục những sai lầm, hạn chế trong quan điểm duy tâm, siêu hình về vật chất. Bên cạnh đó, quan niệm này cũng đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học, định hướng cho sự phát triển của khoa học cụ thể. Cho đến bây giờ và mai sau, khoa học không thể bác bỏ được định nghĩa của Lênin về vật chất.

</div>

×