Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Báo cao thảo luận đề tài " TÌM HIỂU SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT TÍN DỤNG CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.9 KB, 25 trang )

BÁO CÁO THẢO LUẬN ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT TÍN DỤNG
CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG
1. Khái niệm về lãi suất tín dụng
Một trong những đặc trưng của tín dụng là sau một thời gian nhất định
người sử dụng phải hoàn trả cho người chuyển nhượng một lượng giá trị lớn hơn
giá trị ban đầu. phàn giá trị lớn hơn chính là lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng
chính là phần người đi vay phải trả cho người cho vay. Lợi tức tín dụng được coi
như là một hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay, vì nó phải trả cho giá trị sử dụng của
vốn vay (đó chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng).
Lợi tức tín dụng cũng biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn như giá
cả hàng hố thơng thường. Nhưng lợi tức tín dụng chỉ là hình thái bí ẩn của giá cả
vốn vay mà theo mức đó là hình thái giá cả phi lý, vì nó chỉ phải trả cho giá trị sử
dụng mà không phải là quyền sở hữu cũng không phỉ quyền sử dụng vĩnh viễn mà
chỉ là trong một thời gian nhất định hơn nữa lợi tức tín dụng cũng khơng phải là
biểu hiện bằng tiền của giá trị vốn vay như giá cả hàng hoá thơng thường mà nó
độc lập tương đối hay nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay. Lợi tức tín dụng là số
tuyệt đối nên để biểu hiện một cách tổng quát về lợi tức tín dụng người ta sử dụng
chỉ tiêu tương đối là lãi suất tín dụng.
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ %giữa số tiền mà người đi vay phải trả cho người
cho vay (lợi tức) trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định sử dụng số tiền
vay đó.Lãi suất tín dụng có thể được tính theo tháng hoặc năm (ở việt năm thường
cơng bố theo tháng cịn hầu hết các nước cơng bố theo năm). Tuỳ theo từng hình

1


thức tín dụng mà người ta phân biệt lãi suất tín dụng thành các loại khác nhau với
những qui địng cụ thể khác nhau.


Lãi suất tín dụng thương mại tính trên cơ sở giá giữa việc trả tiền ngay với
việc kéo dài thời gian trả tiền. người ta thông báo cho người mua biết có thể mua
chịu hoặc trả tiền ngay và néu trả tiền ngay có thể giảm giá 2%.
Lãi suất tín dụng nhà nước chính là lãi suất các trái phiếu,tín phiếu theo
cơng bố khi nhà nước phát hành trái phiếu tín phiếu.lãi suất này có thể cố định
trong suốt thời gian vay.
Ví dụ:
Loại tín phiếu có thời hạn 3 năm lãi suất 6% thì trong suốt thời hạn 3 năm
người mua tín phiếu được hưởng lãi suất 6%/năm. Lãi suất cũng có thể biến đổi.
Ví dụ cũng loại tín phiếu 3 năm năm đàu cơng bố hay ghi trên mặt phiếu còn năm
thứ 2 năm thứ 3 sẽ đièu chỉnh theo tình hình cụ thể của những năm đó (có thể lên
hoặc xuống theo thị trường). Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là :
“Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ
ra cho vay trong một thời kỳ nhất định”.

Số lợi tức thu được trong kỳ
Lãi suất tín dụng =

x 100 (%)
Số tiền vay phát ra trong kỳ

Trong đó lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho
vayngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay, hay nói cách khácđó
chính là phần giá trị tăng thêm so với phần vốn gốc mà người cho vay thu được
sau một thời gian nhất định.

2


Lãi suất tín dụng là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá mức độ lợi tức cao hay

thấp khác nhau.

2. Nguyên tắc xác định lãi suất
Những nguyên tắc xác định lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường:
2.1.Căn cứ vào quan hệ cung-cầu tiền vay:
Cung tiền vay chịu tác động của các yếu tố:
+ Mức thu nhập: Sự gia tăng thu nhập trong nền kinh tế sẽ làm tăng các
khoản tiền dư thừa ngoài chi tiêu dẫn đến sự tăng lêncủa cung tiền vay qua đó kéo
lãi suất hạ xuống.
+ Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm cho giá trị thực tế của các
khoản tiền giảm xuống làm cho giá trị các khoản tiền thu về khi cho vay giảm,
cung tiền giảm, đẩy lãi suất tăng lên.
+ Mức rủi ro của việc cho vay: Khi mức rủi ro trong cho vay tăng lên, làm
giảm bớt việc cho vay,cung về tiền vay giảm đẩy lãi suất lên cao.

Những yếu tố tác động đến cầu tiền vay:
+ Mức lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: Khi mức lợi tức này tăng
làm tăng nhu cầu về vốn đầu tư,cầu tiền vay tăng đẩy lãi lên suất lên cao.
+Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm giảm chi phí thực tế của việc sử
dụng tiền vay,cầu về tiền vay tăng đẩy lãi suất lên cao.
+Mức bội chi ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước bội chi làm tăng
cầu tiền vay dẫn đến lãi suất tăng.
Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng và ngược lại. Khi
cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định.

3


2.2.Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Lãi suất


Lãi suất

tín dụng

< tín dụng

ngắn hạn

Lãi suất
<

trung hạn

tín dụng
dài hạn

2.3.Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương:
Tỷ lệ
lạm phát
bình quân

Lãi suất
<

huy động

Lãi suất
<


vốn bình quân

cho vay

Tỷ suất


bình quân

lợi nhuận
bình quân.

3. Các loại lãi suất tín dụng
3.1 Theo ảnh hưởng của lạm phát
a. Lãi suất danh nghĩa: Được công bố trên bảng niêm yết lãi suất, trên các
hợp đồng tín dụng và các cơng cụ nợ.
b. Lãi suất thực: Là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền
tệ
3.2 Theo cơ chế điều hành của nhà nước:
a. Lãi suất trần, lãi suất sàn: Là mức lãi suất cao nhất hoặc thấp nhất
trong một khung lãi suất nào đó mà NHTW quy định để can thiệp vào hoạt động
tín dụng nhằm bảo vệ quyền loại của người cho vay và người đi vay.
b. Lãi suất cơ bản: Là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các
NHTM và tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh doanh.
3.3 Theo nghiệp vụ tín dụng của các tổ chức TD

4


a. Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất huy động vốn, quy định tỷ lệ lãi phải trả

cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng.
Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn: Là loại lãi suất áp dụng với những khoản
tiền gửi không xác định cụ thể thời hạn gửi tiền, thông thường lãi suất này thấp
hơn lãi suất tiền gửi cho kỳ hàn
Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn: là loại lãi suất áp dụng đối với những khoản
tiền gửi có xác định rõ thời hạn gửi tiền ( 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng…)

b. Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải
trả cho người cho vay. Về nguyên tắc, trong điều kiện bình thường, lãi suất cho
vay không được nhỏ hơn lãi suất huy động để đảm bảo cho tổ chức kinh doanh tín
dụng có lãi.
Lãi suất chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương
mại đối với khách hàng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời
hạn thanh toán.
Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của Ngân hàng trung
ương ấn định cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất
này được dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị trường. Đối
với ngân hàng thương mại, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ấn định
lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng
khi cho nhau vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất thị trường liên ngân
hàng được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ
cung cầu vốn của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác và chịu sự
chi phối bởi lãi suất chiết khấu.

5


3.4 Các loại lãi suất tín dụng khác:
Lãi suất LIBOR và PIBOR là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng

London và Paris, là lãi suất đối với tiền gửi bằng đơla hay ngoại tệ khác mà theo
đó các ngân hàng lớn làm căn cứ để đi vay và cho vay trên thị trường tiền tệ châu
Âu. LIBOR phản ánh điều kiện thị trường nên được các ngân hàng sử dụng rộng
rãi làm cơ sở để ấn định lãi suất các món vay.

4. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
4.1 Quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường:
Quan hệ cung cầu tín dụng tác động và làm thay đổi lãi suất trên từng loại
thị trường tín dụng (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), loại tiền cho vay, khu vực và
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nếu cung lớn hơn cầu tín dụng thì mức lãi suất tín dụng sẽ hạ xuống, cịn
cung tín dụng nhỏ hơn cầu tín dụng thì mức lãi suất sẽ tăng lên.
4.2 Lạm phát:
Lạm phát ảnh hưởng rất lớn tới lãi suất, khi lạm phát tăng lên trong một
thời kỳ nào đó thì lãi suất có xu hướng tăng lên. Thực tế khi lam phát tăng, NHTW
sẽ tăng lãi suất tín dụng để “hút” bớt lượng tiền trong lưu thông, đồng thời người
có vốn và các nhà kinh doanh vốn sẽ khơng dám cho vay vì họ sợ vốn của mình bị
“mất giá”, do đó thay vì cho vay vốn họ chuyển sang dự trữ hàng hóa, ngoại tệ,
kim loại quý hoặc đầu tư ra nước ngoài, dẫn đến cung vốn giảm cho nên lãi suất
tín dụng tăng.
4.3 Rủi ro và kỳ hạn tín dụng:
Mức độ rủi ro của các khoản vay càng cao thì lãi suất cho vay càng lớn do
phần bù rủi ro làm cho lãi suất tăng lên. Kỳ hạn cho vay càng dài thì lãi suất cho

6


vay càng cao, do thời hạn cho vay dài thường làm rủi ro đối với các khoản vay lớn
hơn như rủi ro thanh khoản, rủi ro lạm phát …


4.4 Chính sách vĩ mơ của Nhà nước:
+ Chính sách tài khóa (thuế và chi tiêu của chính phủ): Bội chi ngân sách là
một bộ phận trong cầu quỹ cho vay nên khi bội chi ngân sách tăng làm cho cầu
quỹ cho vay tăng theo kéo theo lãi suất có xu hướng tăng.
+ Chính sách tiền tệ ( dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị
trường mở) : nhằm kiểm soát lượng cung tiền, kiểm soát lạm phát và tác dộng tới
lãi suất để thực hiện các mục tiêu cơ bản ổn định tăng trưởng kinh tê, phát triển
bền vững…trong đó có chính sách ổn định giá trị đồng nội tệ, ổn định lãi suất tín
dụng, chơng thâm hụt ngân sách nhà nước. Vì vậy một sự thay đổi trong chính
sách tiền tệ của chính phủ sẽ tác động lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế mà trước
hết là sự thay đổi của lãi suất tín dụng

4.5 Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế:
Hoạt động của các doanh nghiệp là nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó
tỷ suất lợi nhuận bình qn của nền kinh tế là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng
hợp lý. Thơng thường mức lãi suất tín dụng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình qn.
Đó là hài hịa lợi ích giữa người đi vay và người cho vay.

4.6 Một số nhân tố khác:
Mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian và mức độ cạnh
tranh trong hoạt động cung cấp dich vụ tín dụng và sự phát triển thị trường tài
chính cùng với phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin thông tin góp phần giảm
chi phí quản lý, giao dịch…kéo theo lãi suất có xu hướng giảm xuống. Bên cạnh

7


đó, tình hình về chính trị cũng như biến động của tài chính quốc tế như khủng
hoảng tài chính tiền tệ … cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất.
5. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường

Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền
kinh tế thị trường .Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín
dụng nói riêng và do đó đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói chung
.tác dụng của lãi suất được thể hiện ở những nội dung sau đây.

5.1 Lãi suất tín dụng là cơng cụ điều tiết “kinh tế vĩ mô”:
Tăng hay giảm lãi suất cho vay, sẽ làm vốn của doanh nghiệp giảm xuống
hay tăng lên. Như vậy quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản suất. Tình
trạng này sẽ dẫn đến số lượng cơng việc làm trong xã hội tăng lên hay giảm
xuống. Điều đó có nghĩa rằng, lãi suất tín dụng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội.
Mặt khác, tăng hay giảm lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tái chiết khấu
sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng ngoại tệ đi vào trong nước. Do đó sẽ ảnh
hưởng đén cung cầu ngoại tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu
trong từng thời kỳ. Như vậy, có thể khẳng định lãi suất là cơng cụ điều tiết kinh tế
vĩ mơ.

5.2 Lãi suất tín dụng là cơng cụ điều chỉnh “kinh tế vi mô”.
Trong nền kinh tế, thường xảy ra những đột biến ở từng khu vực hay trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân do những nguyên nhân không lường trước được. Khi
xảy ra những hiện tượng như vậy chính phủ thường sử dụng những cơng cụ kinh
tế trong đó có lãi suất tín dụng để điều chỉnh lại những quan hệ tạo điều kiện cho
kinh tế khu vực, ngành hay toàn bộ nền kinh tế phát triển. Chẳng hạn,trong điều

8


kiện lạm phát, chính phủ có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút bớt tiền trong lưu
thông về, hoặc có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa các khu vực, để điều
hồ lưu thơng tạo mặt bằng giá cả hợp lý, đảm bảo cho sản suất và lưu thơng hàng

hố phát triển.
Là cơng cụ điều chỉnh kinh tế vi mơ nên lãi suất tín dụng phải được xử lý
kịp thời và chính xác. Điều đó địi hỏi hệ thống ngân hàng phải nắm vững thông
tin kinh tế, biết xử lý thơng tin, để có những quyết định chính xác trong việc thực
hiện chính sách lãi suất.

5.3 Lãi suất tín dụng là cơng cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại.
Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động
đồng thời để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng lãi
suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay. Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các
ngân hàng thương mại. Thực chất của quá trình này là phân chia khối lượng tiền
gửi và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngaan hàng ra thị trường. Để đảm bảo
cạnh tranh thắng lợi, mỗi ngân hàng thương mại đều có chiến lược khách hàng của
mình. Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các ngân
hàng thương mại đều tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí
quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung
cho tồn bộ nền kinh tế quốc dân.

5.4.Lãi suất tín dụng là cơng cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có thể đưa ra một phương trình đơn giản
về thu nhập.
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm

9


Phương trình này khơng những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia
đình, các doanh nghiệp mà cả đói với nền tài chính quốc gia. Giả sử, trong điều
kiện của một nền kinh tế bình thường, tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý.

Để tăng tỷ lệ tiết kiệm, khuyến đầu tư, tức là tăng khả năng tài chính cho tồn bộ
nền kinh tế quốc dân, thì biện pháp có hiệu quả nhất là tăng lãi suất huy động vốn.
Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét lại
các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên,có thể giảm chi hoặc hoãn một số
khoản chi này, để tăng thêm tỷ lệ tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau đó từ khoản
tiết kiệm này, họ sẽ chọn hướng đầu tư : Gửi vào ngân hàng, vào quĩ bảo hiểm,
hay đầu tư vào thị trường chứng khoán... khi thấy có lợi hơn.
Như vậy có thể khẳng định lãi suất là cơng cụ can thiệp có hiệu lực để phân
chia giữa quỹ tiêu dùng và tiết kiệm. Nhưng nâng lãi suất huy động vốn đến mức
độ nào, thì cần phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền
kinh tế quốc dân

II. BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT QUA CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA
NHÀ NƯỚC THỜI GIAN QUA
1. Các cơ chế điều hành lãi suất
Quá trình điều hành cơ chế lãi suất qua các thời kỳ phát triển của nền kinh
tế chính là q trình tư do hóa lãi suất ở VN, q trình đó đựoc thể hiện như sau:
1.1 Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương
thức quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1988):
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao
cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới.
Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm

10


cho ngân hàng khơng thể bảo tồn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất
thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
1.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị

trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước (từ năm 1988 đến 2006).
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực
ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT
đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng
Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân
hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài
chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ
ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mơ hình ngân hàng một cấp và xây
dựng mơ hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mơ hình của ngân hàng các nước có
nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện
chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, cịn ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có
hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ
chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan
trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta
thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền
kinh tế. Q trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như
sau:
a. Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992):

11


Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo
nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp

dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được
điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng
theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời
gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước
chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
b. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995):
Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất
theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối
với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi
suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực
chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương,
đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu
quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho q trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
c. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000):
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã
thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự
do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt
trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự
tăng trưởng kinh tế, kiểm sốt lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương
quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở
các nước Đông Nam Á.
d. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng
Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế

12


lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường
hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.

Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi
suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi
suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu
vực và thế giới.
e. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2006):
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi
từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp
theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong
nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở
VN bước đầu đã có kết quả nhất định.

Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3
lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất đang là 14%, mức cao nhất ở Châu
Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này
nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước.

2 Các chính sách điều chỉnh lãi suất
Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào cản
mang tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng các quy luật
vốn có của nó. Và một trong những lĩnh vực thể hiện rõ cơ chế này là chính sách
điều hành lãi suất huy động vốn và cho vay của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

13


2.1 Đối với lãi suất huy động vốn
NHNN quy định thông qua các lần điều chỉnh sau:
- Ấn định mức cố định từ ngày 01/10/1982 theo Nghị định 165/HĐBT ngày

23/9/1982.
- Khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất cho
vay là 0,35%/tháng còn mức cụ thể giao cho các NHTM tự quy định theo Quyết
định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995.
- Đến ngày 28/6/1997, lãi suất huy động vốn đã thực sự tuân theo quy luật
thị trường khi NHNN hoàn toàn trao quyền cho các NHTM quyết định để phù hợp
với thời hạn của từng loại tiền gửi, địa bàn kinh doanh của từng tổ chức tín dụng.
- Và mới đây, ngày 16/5/2008, bằng Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN lãi
suất huy động sẽ chính thức bị khống chế trong hạn mức không vượt quá 150% lãi
suất cơ bản do NHNN quy định.

2.2 Đối với lãi suất cho vay
Tính đến thời điểm này đã trải qua 06 giai đoạn chính sau:
- Lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 –
01/7/1987):
* Đặt nền tản cho quy định này là Nghị định số 165/HĐBT ngày 23/9/1982.
Theo đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là Ngân hàng và Hợp tác xã
(HTX) tín dụng.
* Đối với Ngân hàng quy định gồm (i) cho vay vốn lưu động và (ii) cho vay
vốn cố định.
* Đối với HTX Tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn hạn và mức
còn lại.
14


- Áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày 01/7/1987–
01/01/1996):
* Vào ngày 29/6/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 99-HĐBT
quy định cho vay vốn lưu động trong giới hạn 2,4% đến 6%/tháng và cho vay vốn
cố định từ 2,1% đến 5,4%/tháng.


- Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000):
Với quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995, NHNN chính thức bỏ mức sàn mà
chỉ áp dụng trần lãi suất cho vay.

- Lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng với biên
độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002):
* Theo quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000, lãi suất cho
vay của các NHTM khơng phải tn theo mức trần.
* NHNN chính thức công bố định kỳ lãi suất cơ bản và biên độ giao động.
NHTM sẽ tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp với tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh.

-Lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008):
* Theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất cho vay
được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và
NHTM.
* Cũng cần nói thêm rằng, trước đó vào ngày 29/5/2001 NHNN đã chính
thức thả nổi lãi suất cho vay bằng USD cho các NHTM theo Quyết định số
718/2001/QĐ-NHNN.
-Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 19/5/2008 đến nay)
15


* Cũng như quy định tại quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 về mức trần
cho vay nhưng tại Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 NHNN đưa
ra cách xác định mức trần có khác đó là lãi suất cho vay khơng

3. Biến động lãi suất từ 1996 đến nay
3.1 Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000

NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới
căn bản về điều hành lãi suất:
- Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa
về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và
khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là
0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương
mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài
chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước).
- Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất,
chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất,
NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và
mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999.
- Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái
cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng
được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống
0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên
thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ.
- Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN
đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các
NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi
suất tái cấp vốn;
16


- Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở,
lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. Việc điều chỉnh
chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo
điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hố lãi suất, mặt khác
nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của
lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do:

Trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm
các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính
sách vĩ mơ tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế
Thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi
lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián
tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện
pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh
hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của
các cơng cụ tài chính, có nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính của TCTD
3.2 Giai đoạn từ giữa năm 2000 đến nay
Vào tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong
đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do
NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi
suất cơ bản + 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung,
dài hạn.
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất khơng
khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi
suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất
nhiều. Hình 1 cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên
độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân
của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là

17


trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, và
kết quả, như trên Hình 1, là LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất.
Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ
0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi
suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với

khách hàng.
Một điểm đáng chú ý nữa là LSCV của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn
lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả
hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng
lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn,
nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi
suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt.
Hình 1: Từ trần lãi suất đến lãi suất cơ bản rồi tự do hóa lãi suất, 19982002

Nguồn: Tính tốn từ cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế IFS của IMF.

18


Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho
phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các
ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do
hóa hồn tồn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ
sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng.
Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định lãi suất tiền gửi
(LSTG) và lãi suất cho vay (LSCV) từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc
chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN cơng bố chỉ cịn tính
chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự
do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hồi
nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi khơng cịn
kiểm sốt lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó
có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc
biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ
ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi khơng cịn trần về lãi suất
hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy

động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước
sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự
như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính
sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay.
Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng
hồn tồn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất
phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro.
Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy cho rằng: “Ưu điểm lớn nhất của cơ chế
này (cơ chế tự do hóa lãi suất) là tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng
mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và
nhanh hơn vốn cho người cần vay ... Một tác động khác của cơ chế mới là: Tạo
thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng

19


cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng
hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng Việt
Nam.”
(VNExpress lấy từ Báo Thanh Niên, “Tự do hóa lãi suất cho vay: Cởi trói
các tổ chức tín dụng”, 31/5/2002.)
Thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện
cho thấy, lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân, theo tác giả, chủ
yếu vì: tính độc quyền của các NHTM nhà nước và những ưu đãi trong cho vay
chỉ định của Chỉnh phủ. Trong mảng tín dụng thì “bốn đại gia” NHTM nhà nước
đã chiếm trên 70% thị phần nên chưa tránh được việc lãi suất bị các ngân hàng này
chi phối. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị trường ngân hàng của
các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Hiện
nay theo qui định các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
(trừ các ngân hàng Mỹ), không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ

chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không
được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh. Thêm vào đó, quá nhiều ưu đãi về lãi
suất của Chỉnh phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng làm mất đi tính thị
trường của lãi suất.
Từ năm 2003, lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh dần để đóng vai trị
là lãi suất trần của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được qui định
làm sàn của thị trường liên ngân hàng. Mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi
suất sàn đã được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên
2,4%/năm (tháng 6/2003) và từ tháng 9/2003 là 2%/năm phù hợp với thông lệ
quốc tế và tạo ra một khung lãi suất để cho các mức lãi suất liên ngân hàng biến
động. Lãi suất thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất cho
vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu. Từ khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận,
lãi suất thị trường có lúc tăng lên, rồi lại giảm do NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu, sửa đổi cơ

20


chế cho vay ngắn hạn, chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN đối với NHTM để mở
rộng khả năng tiếp cận kênh tái cấp vốn cho các NHTM, các NHTM Nhà Nước đã
hiệp thương thoả thuận thống nhất việc giảm LSTG và khống chế chung mức trần
LSTG, các NHTM khống chế tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng
trưởng chung và trên cơ sở nguồn vốn huy động. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn đã
bước đầu có tác động đến lãi suất thị trường. Song tác động này cịn hạn chế. Do
qui mơ, độ sâu của thị trường tiền tệ ở mức thấp và trong điều kiện dư thừa vốn
khả dụng thì việc điều chỉnh giảm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng chỉ
có tác dụng phát tín hiệu nới lỏng tiền tệ để định hướng lãi suất thị trường, ít có tác
động đến khối lượng tiền cung ứng và cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Dầu
vậy, việc thường xuyên điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn căn cứ vào mục tiêu CSTT
trong từng thời kỳ để hoàn thiện khung lãi suất chỉ đạo của NHNN vẫn rất cần

thiết để lãi suất tái cấp vốn phát huy tác động hiệu ứng của nó.
Trong giai đoạn 2001-2007, chính sách lãi suất đã từng bước được đổi mới
phù hợp với cơ chế thị trường. Bước đầu lãi suất USD đã được tự do hố (6/2001),
sau đó đến lãi suất đồng Việt Nam được tự do hố (6/2002). Mặc dù chính sách lãi
suất được coi là tự do hoá nhưng vẫn tồn tại lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Lãi suất cơ bản được áp dụng từ tháng 8 năm 2000 và được xác định hàng tháng
trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay của 15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt
nhất. Tuy nhiên, nhiều khi lãi suất này có thể được quyết định bởi 4 NHTM nhà
nước vì thị phần tín dụng của 4 ngân hàng này chiếm trên 70% thị trường trong
nước. Để dễ tính tốn và so sánh chúng tơi chọn mức lãi suất tương đối trung bình,
tức là lấy mức lãi suất tiền gửi ba tháng.
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến động,
đầu năm lãi suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị
trường đã biến động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên
mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào
tháng 3 năm 2008, có nơi cịn cho vay với lãi suất xấp xỉ 20%/năm. Đây là một sự

21


chuyển động theo tín hiệu lãi suất thực dương. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền
phấn khởi vì lãi suất tiền gửi lên là người đi vay phải lo lắng cho việc không thể
nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 15-17%/năm. Các NHTM thì vẫn sử dụng chính
sách huy động lãi suất cao và cho vay lãi suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn
trong trước mắt. Thực tế đã có một số NHTM cổ phần với nhận thức như vậy đã
cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho thị trường tiền tệ có nhiều biến động
mạnh.
Sau khi NHNN có cơng điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc
chốt trần lãi suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì ngày 24/3/2008, Hiệp hội
các Ngân hàng có họp và có sự đồng thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều

chỉnh lãi suất với mức 10,5%/năm (dưói 6 tháng) và 11%/năm (trên 6 tháng). Đến
đầu tháng 4 năm 2008 lãi suất huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở mức 11,5-12%, lãi
suất cho vay VNĐ ở mức16-18%/năm, lãi suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng đến
1 năm ở mức 6%-6,5%/năm. Đến ngày 16/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu
cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy động, để thị trường tự điều tiết vì thấy các NHTM
đều huy động với lãi suất thấp hơn lãi suất trần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau
khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, một vài NHTM cổ phần đã tranh thủ đẩy
lãi suất huy động lên cao hơn mức trần 12%. Việc đẩy lãi suất huy động lên trên
12% của một vài NHTM cổ phần là nhằm thu hút được nhiều vốn vì họ vẫn có lãi
khi cho vay với lãi suất cao 18-20%.
Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao q mức
thì có thể là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho vay với
lãi suất quá cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo đảm có lợi
nhuận lớn cho các ngân hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
huy động là quá lớn 6-7%, trước đây ta chỉ cho mức chênh lệch này ở mức không
quá 0,35%. Lãi suất cho vay lên cao đã tạo ra gánh nặng cho các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh vì khơng có mấy hoạt động có thể có lãi trên 20%, tức là đủ trả lãi
cho NHTM cổ phần và một phần để cho doanh nghiệp.

22


Việc NHNN tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng cho các NHTM cổ phần
thiếu vốn cho vay thực tế là làm cho tiền trong lưu thông lại tăng lên và vòng tiếp
theo là lạm phát tăng cao. Hành động này cũng khuyến khích các NHTM cổ phần
cứ cho vay ra với lãi suất cao mà khơng có điểm dừng, hậu quả lạm phát cao và
mất ổn định hệ thống ngân hàng trong thời gian tới vì đến tháng 4/2008 dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ở mức 60,2% so với cùng kỳ năm 2007.

III. KẾT LUẬN

Có thể nói q trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt
Nam từ khi có mơ hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bước
chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng
tất yếu của q trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Quá trình thay đổi cơ chế lãi
suất ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định:
- Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong
nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính
sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát.
- Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích
sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã
dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt cơng tác hạch
tốn kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi.
- Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất,
chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Quyết định 546/2002
QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng,
đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do
hóa lãi suất trong nền kinh tế đối với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố
của Ngân hàng Nhà nước dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức
tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới cơ

23


chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thỏa thuận
thực chất là dần dần đã tự do hóa lãi suất, đây là những bước đi thận trọng, đã có
những thành cơng cơ bản của q trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Qua những lần thay đổi quy định về lãi suất huy động vốn và cho vay,
chúng ta có thể thấy rằng, tương ứng với từng giai đoạn mở cửa và hội nhập - từ
chỗ ấn định mức cụ thể cho đến lúc tự do thỏa thuận. NHNN đã có những quy
định phù hợp với tình hình mà cụ thể là ngày càng theo cơ chế tự do hóa lãi suất.

Song, đến khi quyết định 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 ra đời, thực sự
chúng ta đã quay lại vạch xuất phát của hơn 20 năm trước đó.
Có nhiều nguyên nhân lý giải cho quyết định này khi đứng trên quan điểm
của Cơ quan quản lý vĩ mơ chính sách tiền tệ quốc gia như NHNN. Trong số đó,
tỷ lệ lạm phát và sức tăng kỷ lục của hệ số CPI hiện nay là một trong những yếu tố
chính. Tuy vậy, khi đứng trên phương diện lập pháp có thể nói, Quyết định 16 là
cách để NHNN “sửa sai” khi tự cho mình cơ chế riêng bất chấp quy định của Bộ
luật dân sự. Tại khoản 1, điều 476, BLDS 2005 quy định “Lãi suất vay do các bên
thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
Cơ chế lãi suất tự do thỏa thuận có hiệu lực từ ngày 01/6/2002 nhưng trước
đó, BLDS 1995 tại khoản 1, điều 473 “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng
không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định
đối với loại cho vay tương ứng”. Để lý giải cho quyết định trái luật này, tại thời
điểm ban hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, NHNN cho rằng các tổ chức
tín dụng nên áp dụng cơ chế riêng và quy định của BLDS chỉ điều chỉnh quan hệ
vay tài sản nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng 1997.
Như vậy, để thực hiện đúng chủ trương “nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường và có sự quản lý của Nhà nước”, một lần nữa NHNN buộc sự tự do
thỏa thuận trong quan hệ tín dụng phải nằm trong khuôn phép và chịu sự điều

24


hành bởi “bàn tay hữu hình”. Thật tiếc thay, và cũng một lần nữa chúng ta đã đi
ngược tiến trình hội nhập quốc tế.

25



×