Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

CHUYÊN ĐỀ: VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC ĐÔNG – TÂY CỔ ĐẠI doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.91 KB, 14 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC ĐÔNG – TÂY CỔ ĐẠI
I- PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học, theo quan điểm mácxít, là lịch sử phát sinh, hình thành và
phát triển của triết học nói chung, của các khuynh hướng và hệ thống triết học
khác nhau nói riêng trong sự phụ thuộc, suy đến cùng, vào sự phát triển của tồn tại
xã hội. Trong các giai đoạn của lịch sử triết học, có thể thấy triết học trong thời kỳ
cổ đại là một mảng kiến thức hết sức rộng lớn, phong phú, đa dạng và là di sản vĩ
đại của cả nhân loại. Trong khối di sản ấy hàm chứa rất nhiều điều bổ ích. Qua
học tập, nghiên cứu triết học Đông-Tây cổ đại (ở đây chủ yếu đề cập đến triết học
Trung Quốc, Ấn Độ và triết học Hy Lạp cổ đại) cho chúng ta những cơ sở để hiểu
những trường phái triết học đương thời; đồng thời còn cung cấp cho chúng ta
nhiều tri thức bổ ích về tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật,
con người…, nhất là phương pháp tư duy. Trên nền tảng đó, có thể làm giàu tư
duy và nâng tư duy lên một tầm cao mới.
Trong triết học Đông-Tây cổ đại, một trong những vấn đề được đề cập làm
cho mỗi chúng ta dễ nhận thấy khi học tập, nghiên cứu nó, đó là yếu tố con người
được thể hiện rất sớm, có hệ thống và khá rõ nét. Đây là một nội dung quan trọng,
cần được quan tâm nghiên cứu và đánh giá cụ thể. Thông qua tìm hiểu về vai trò
con người trong triết học Đông-Tây cổ đại giúp mỗi chúng ta nâng cao nhận thức,
hiểu được một cách có hệ thống và là cơ sở để tiếp cận những vấn đề về bản chất
và vai trò con người ở các giai đoạn triết học sau này, nhất là trong triết học của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Qua đó, tạo tiền đề, cơ sở lý luận để xây dựng các kế hoạch
phát triển, phát huy hiệu quả nhân tố con người, đồng thời có chiến lược phát triển
con người đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
II- VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
ĐÔNG
Trong qúa trình phát triển, các quốc gia ở phương Đông đã hình thành hệ
thống các quan điểm về thế giới tương đối hoàn chỉnh, góp phần không nhỏ vào


kho tàng tri thức của nhân loại. Tuy nhiên, do đặc điểm là hướng nội nên những
quan điểm về con người là những vấn đề được đề cập nhiều hơn cả.
Vai trò của con người trong triết học phương Đông được hình thành từ rất
sớm và được thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ III trước công nguyên
trong các học thuyết triết học. Nội dung các quan điểm này rất đa dạng, song
những vấn đề mà người phương Đông tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc
nguồn gốc, bản tính của con người, đạo làm người và mẫu hình con người lý
tưởng. Trong tính đa dạng, phong phú của các hệ tư tưởng trước hết phải nêu đến
các quan điểm của Ấn Độ và Trung Quốc mà tiêu biểu là các quan điểm của triết
học phật giáo và triết học nho giáo.
Khởi nguồn của tư tưởng triết học Trung Quốc có thể bắt đầu từ thần thoại
thời tiền sử; song, tư tưởng triết học Trung Quốc trong đó có vấn đề con người trở
thành hệ thống hoàn chỉnh thì phải đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, thời đại của
trì trệ được giải phóng, trí thức được tôn là thầy, trí thức được phổ cập. Phong trào
“bách gia chư tử”, “bách gia tranh minh” là biểu hiện sinh động của tư tưởng học
thuật từ quyền lực nhà nước chuyển xuống thiên hạ rộng rãi. Cuối Xuân Thu, học
thuyết của các tư tưởng gia mọc lên như nấm. Trong khoảng 103 nhà, nổi bật lên 6
nhà: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm dương gia; có ảnh hưởng
lớn nhất là Nho gia, Mặc gia và Đạo gia. Tư tưởng văn hóa thời Tiên Tần đã được
xem là cội nguồn tư tưởng triết học cổ đại Trung Quốc. Đây chính là thời kỳ hình
thành khá mạnh mẽ và rực rỡ của tư tưởng triết học về con người trong văn hóa cổ
đại Trung Quốc. Sau thời kỳ này, với quan điểm “thiên hạ hưng vong, thất phu
hữu trách” đã làm cho tư tưởng triết học gắn bó với đời sống xã hội, có lợi cho
quốc kế dân sinh, xem con người là đối tượng của luận thuyết và mục tiêu khai
sáng là giải phóng con người.
Triết học Trung Quốc cổ đại đã nhấn mạnh đến vấn đề con người, vai trò
con người. Lấy con người làm trung tâm và mục tiêu nhận thức, triết học Trung
Quốc đề cập và đề cao tinh thần nhân văn, khẳng định giá trị tồn tại tích cực của
con người đối với chính bản thân mình và đối với thế giới bên ngoài. Con người là
hạt nhân của vũ trụ nhưng không đồng nhất với động vật hoặc thần linh mà hòa

hợp với trời và đất để trở thành “tam tài”. Từ con người có thể suy ra để nắm bắt
cả thế giới.
Trong triết học phương Đông, Đổng Trọng Thư, một người kế thừa Nho
giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm rằng trời và con người có
thể thông hiểu lẫn nhau “thiên nhân cảm ứng”. Nhìn chung, đây là quan điểm duy
tâm, quy cuộc đời con người vào vai trò quyết định của “thiên mệnh”. Những luận
điểm như “thiên nhân vô nhị” (trời với người là một), “tâm của thánh nhân và trời
là một”, “trời là người, người là trời”, “vạn vật trong trời đất với con người vốn
là nhất thể” được đưa ra nhằm khẳng định con người gắn liền với vũ trụ, với khí
quyển và “đạo người” cũng như “đạo trời” cùng tồn tại “vạn cổ bất biến”. Từ đó,
xét cho cùng những cái tâm, tính, tình, ý khí, lương tri…đều liên quan đến nhân
tính, nhân sinh và vận mệnh con người. Chính vì vậy, có thể nói, trong triết học cổ
đại Trung Quốc, tư tưởng về xã hội – nhân văn đặc biệt phát triển, còn tư tưởng
triết học về tự nhiên lại đơn giản, nghèo nàn.
Quan niệm về con người hài hòa là cốt lõi trong nhiều tư tưởng triết học cổ
đại Trung Quốc. Bắt đầu từ những học thuyết của “Khổng Mạnh”, thuyết “Thiên
nhân hợp nhất”, tư tưởng này khá phổ biến, thuyết này về sau được nhiều nhà tư
tưởng tiếp nhận và mở rộng. Khi thừa nhận con người và tự nhiên, vật và các vật có
quan hệ không thể tách rời nhau, người ta chủ trương duy trì trạng thái cân bằng,
thống nhất, điều chỉnh sao cho chúng không lấn át nhau. Tuy nhiên, cũng có tư
tưởng ngược lại, đó là quan niệm “thiên nhân bất tương quan” của Tuân Tử. Ông
chủ trương về phương diện sinh dưỡng thì người mang ơn trời, nhưng về phương
diện trị loạn, thịnh suy thì đạo trời không quan hệ gì đến đạo người. Thuyết Âm
dương, Ngũ hành vận dụng vào đời sống con người đã cho thấy con người không
đồng nhất với thế giới bên ngoài; song lại cần giao cảm, hòa hợp với nó.
Đề cao con người nhưng không tuyệt đối hóa con người, các triết gia cổ đại
Trung Quốc chủ trương giữ gìn sự cân bằng ổn định của mối quan hệ tự nhiên –
xã hội cũng như sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
Nói đến con người phải tìm hiểu bản chất con người, tính chất người. Nhìn
chung triết học cổ đại Trung Quốc chỉ quan tâm đến “tính người”, “tâm người”,

“lý người”, tức là chỉ bàn đến đến phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng
của con người. Về cơ bản, các triết gia cổ đại Trung Quốc xem “tính người” như
là biểu hiện của cái thiện hoặc của cái ác, của cái tính trời hoặc của cái tính thuộc
nhân tâm. Do quan niệm con người hòa đồng với “trời” nên tính người không tách
rời ‘tính trời”, “đạo trời”; tính người là cái được trời phú, bị quy định bởi ý muốn
của Thượng đế. Một số triết gia lại xem tính người có quan hệ dẫn đến sự tác động
của xã hội đối với con người. Tính người được sinh ra từ “vô” và “hữu” (đạo và
đức) nhưng xã hội đã làm cho con người, tính người trở thành rối loạn, thực giả,
đúng sai, tốt xấu không xác định được.
Do gắn triết học với vấn đề đạo đức, chính trị xem mặt xã hội của con người
là trung tâm nghiên cứu, các triết gia cổ đại Trung Quốc đã đặc biệt quan tâm đến
vận mệnh con người. Quan niệm “thiên mệnh” quyết định nhân sự con người, bất
kể là ai đều phải tuân theo sự xếp đặt, thưởng phạt của trời, là cơ sở của nhiều luận
giải xã hội học về số phận con người và thực trạng xã hội.
Nhìn chung các triết gia cổ đại Trung Quốc vẫn chưa lý giải được bản chất
xã hội của con người, cũng như chưa tìm ra được phương thức hữu hiệu để giải
phóng con người. Những quan niệm về con người đã nói ở trên, hoặc vẫn chưa
thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm thần bí; hoặc chỉ mới dừng lại ở cảm quan duy vật
thô sơ, siêu hình. Có thể nói, về cơ bản các quan niệm về con người, đặc biệt là về
số vận của con người, vẫn chưa được xem xét trên nền tảng các điều kiện kinh tế -
xã hội mà chỉ được nhìn từ góc độ chính trị - đạo đức thuần túy. Chính điều này đã
làm cho các nhà triết học cổ đại Trung Quốc đã không thấy được những vấn đề cơ
bản của bản chất người, tính chất người và sự phát triển của con người.
Nói đến con người và quan hệ xã hội của con người, triết học cổ đại Trung
Quốc lấy đạo đức-luân lý làm nội dung chủ yếu của luận thuyết. Lý thuyết “đạo
đức chí thượng”, “đức trị”, quan điểm “thân thân” và chữ “hiếu” là hạt nhân của
giá trị đạo đức nho giáo.
Dù bị chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc nhị nguyên, suy đến cùng,
con người theo quan niệm của các học thuyết tôn giáo phương Đông đều phản ánh
sai lầm về bản chất con người, hướng tới thế giới quan thần linh. Trong triết học

phương Đông, với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác,
biểu hiện trong tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan niệm về bản chất con người
cũng thể hiện một cách phong phú. Về bản chất con người (tính người), Khổng Tử
cho bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân” chính là
giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử quy tính thiện
của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục tập quán xấu
mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tu
dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử
cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới
các giá trị đạo đức tốt đẹp; triết học Tuân Tử lại cho rằng bản chất con người khi
sinh ra là ác, nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người
mới tốt được. Về số phận con người, nho giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử
cho rằng con người có thể thắng được trời, từ đó triết học Trung Quốc hướng đến
mẫu người lý tưởng như “sĩ”, “quân tử”, “đại trượng phu”, “thánh nhân”.
Lão Tử, người mở đầu cho trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra
từ "Đạo". Do vậy, con người phải sống "vô vi", theo lẽ tự nhiên, thuần phát, không
hành động một cách giả tạo, gò ép, trái với tự nhiên. Quan niệm này biểu hiện tư
tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
Khác với triết học phương Tây với mục đích là giải thích và cải tạo thế giới,
mục đích trong triết học Trung Quốc là nhằm ổn định trật tự xã hội và hòa đồng
với thiên nhiên.
Mặc dù còn những hạn chế do trình độ phát triển của khoa học và do lập
trường giai cấp, nhưng có một số điểm nổi bật giống nhau là trong tư tưởng triết
học của các nhà Nho con người luôn là điểm xuất phát, mà chữ “nhân” là đạo đức
hoàn thiện nhất. Quan niệm triết học về con người luôn gắn liền quan niệm triết
học về đạo đức, vì thế “nhân” gắn với “lễ”. Nhân và Lễ là hạt nhân tư tưởng triết
học Nho gia. Có thể nói rằng, trong lịch sử phát triển của nó, Nho gia đã được
phát huy đến tột đỉnh tư tưởng nhân học, tách con người khỏi thần linh, coi con
người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Đó là tinh thần nhân văn cao cả, không
quy giá trị con người về thần linh, thượng đế hay bản thể linh hồn thần bí ngoài

con người.
Nếu xem xét triết học cổ đại Trung Quốc là triết học xã hội-con người, thì
chính triết học này đã cống hiến cho tri thức nhân loại một kho tàng lớn lao về
“tính người”. Triết học cổ đại Trung Quốc đã hiện diện như sự thống trị của quan
niệm triết học duy tâm về con người. Mặc dù không đóng vai trò chủ đạo trong tư
tưởng triết học, song các quan điểm duy vật về con người đã có tác động tích cực-
phê phán và hạn chế các quan điểm duy tâm vốn gắn liền với lợi ích của giai cấp
phong kiến và chế độ phong kiến, đồng thời tạo ra động lực làm triết học phát
triển.
Triết học Ấn Độ cổ đại có từ rất sớm, với nhiều hệ thống trường phái triết
học khác nhau đã thể hiện những tư tưởng triết học khác nhau về con người.
Trong triết học Ấn Độ đã nhấn mạnh đến vai trò của con người trong thế giới.
Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng chủ yếu là vấn đề con
người, bởi vậy nó là triết lý nhân sinh. Điểm đặc biệt trong triết học Ấn Độ là nó
phân con người thành những yếu tố cấu thành, trong đó cái tâm có ý nghĩa quyết
định, từ đó hướng chủ yếu của nó là đi nghiên cứu, phân tích cái tâm con người.
Điều đó quy định tính chất duy tâm, hướng nội trong triết học Ấn Độ. Triết học
Ấn Độ cho rằng muốn hiểu thế giới trước hết phải hiểu mình đã, và khi đã hiểu
mình thì hiểu tất cả vì bản thể vũ trụ có trong mỗi con người.
Sự hình thành, phát triển các tư tưởng triết học về con người của Ấn Độ cổ
đại gắn liền với quan niệm tôn giáo và mang đậm tính chất tôn giáo. Điều này
khiến cho quan niệm triết học về con người không tránh khỏi duy tâm, thần bí. Có
những quan niệm đạt đến mức độ duy vật chủ nghĩa (như quan niệm của
Lokayata) có tính biện chứng sâu sắc. Nhưng nhìn chung, do điều kiện lịch sử cụ
thể và do sự chi phối mạnh mẽ của tôn giáo, các tư tưởng về con người đều không
tránh khỏi chủ nghĩa duy tâm, thần bí, đặc biệt là khi đi đến tận cùng quan niệm về
bản chất đời sống tâm linh và con đường giải thoát.
Việc lý giải bản chất đời sống tâm linh và con đường giải thoát con người
khỏi “bể khổ” trở thành nội dung chính yếu trong toàn bộ hệ thống quan niệm về
con người của tất cả các trường phái triết học cổ. Một mặt việc tập trung chủ yếu

các vấn đề này làm cho các quan niệm triết học trở lên sâu sắc; mặt khác, nó làm
cho các quan niệm nghiêng nhiều hơn về phương diện nhân sinh và thể hiện ý
nghĩa nhân văn cao cả.
Đối với các nhà triết học Ấn Độ cổ đại, mọi nguyên lý triết học đều tập
trung vào việc tìm con đường “giải thoát” con người khỏi sự ràng buộc của đời
sống thế tục vật chất. Mục đích “giải thoát” khiến tất cả các triết học đều coi trọng
và đều đặt lên hàng đầu việc giải quyết vấn đề con người. Thông qua những tư
tưởng về con người, hàng loạt những vấn đề nhân sinh được đặt ra: Đạo đức, tâm
lý, chính trị, xã hội.
Đi từ bản thể luận là để lý giải về con người, vì vậy quan niệm về con
người, sự phản ánh triết học về con người trở lên đa dạng, sâu sắc và có khả năng
mở rộng ra nhiều vấn đề triết học khác. Con người là điểm xuất phát, “giải thoát”
con người là mục đích cao nhất và cuối cùng của chính con người. Đó chính là ý
nghĩa nhân văn của triết học Ấn Độ cổ đại.
Tóm lại, từ thời kỳ cổ đại, các trường phái triết học phương Đông đều tìm
cách lý giải vấn đề bản chất con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới
xung quanh. Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học
phương Đông biểu hiện tính da dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người
trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học
phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác
ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
III- VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
TÂY CỔ ĐẠI
1. Vài nét về hoàn cảnh ra đời sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ
rộng lớn bao gồm phần đất liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng
duyên hải Ban căng và Tiểu Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng

phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh
Châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ
nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp,
không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là
kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại không những
là nơi để con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà
còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt
của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học ra đời và
từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về
xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch
pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông.
Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần
đến phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà
triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại
mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy
nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”.
Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại coi trọng vấn đề con người. Mặc dù giữa
các nhà triết học vẫn còn nhiều bất đồng về vấn đề này nhưng nhìn chung họ đều
khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Tư tưởng ấy được thể

hiện rõ qua luận điểm nổi tiếng của Pitago: “Con người là thước đo tất thảy mọi
vật”. Triết học Xôcrát đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển tư tưởng triết
học ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, từ chỗ nó chủ yếu bàn về các vấn đề căn nguyên,
bản chất của thế giới và sự nhận thức chúng tới việc coi triết học là tự ý thức của
con người về chính bản thân mình. Từ đây, những vấn đề thiết thực của cuộc sống
con người đã trở thành một trong những đề tài chính của triết học. Tuy nhiên, thứ
nhất, do con người cổ đại được nhìn nhận chủ yếu với tổ chức cá thể; thứ hai, giá
trị con người chủ yếu chỉ được bàn đến ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức
luận. Phép biện chứng được hiểu như nghệ thuật tranh luận được đặc biệt coi
trọng. Hoạt động thực tiễn của con người hầu như không được bàn đến.
2. Vai trò của con người trong triết học Hy Lạp – La Mã
2.1- Giai đoạn đầu chế độ chiếm hữu nô lệ:
Vai trò con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ rệt qua các thời kỳ,
tiêu biểu cho thời kỳ cổ đại là triết học của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Cùng với
Trung Quốc cổ đại và Ấn Độ cổ đại, Hy Lạp là một trong những cái nôi của triết
học nhân loại. Tư tưởng triết học ra đời tương đối sớm ở Hy Lạp cổ đại, khoảng
thế kỷ X trước công nguyên.
Ở Hy Lạp, các nhà duy vật đầu tiên là các nhà triết học tự nhiên đã coi con
người như một bộ phận cấu thành thế giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một
số chất tạo lên, các nhà duy vật thời kỳ này cũng quan niệm con người được bắt
nguồn từ một hay một số chất đó. Theo Talét, chất đó là nước; Anaximen cho chất
đó là không khí; theo Hêraclit là lửa; còn Xênophan là đất và nước.
Talét cho rằng nước là một chỉnh thể thống nhất giữa cái đơn và cái đa
phong phú. Con người cũng là một bộ phận của chính thể ấy, sinh ra từ nước và
mất cũng tan thành nước. Talét rất đề cao vai trò hoạt động của thực tiễn; trên
quan điểm thực tiễn, ông có những quan điểm giáo dục xã hội rất sâu sắc để răn
dạy cách cư sử của con người.
Anaximen cho không khí là bản nguyên của thế giới. Linh hồn của con
người và của thượng đế cũng có nguồn gốc từ không khí; khi bàn về nguồn gốc
của sự sống, ông cho rằng sự sống bắt đầu trên ranh giới giữa lục địa và biển, các

sinh vật ở dưới biển chuyển lên cạn, từ đó con người ra đời.
Như vậy, các đại biểu của trường phái Milê nhìn chung là duy vật, có tư
tưởng biện chứng thô sơ chất phác; coi thế giới trong đó có con người là một
chỉnh thể thống nhất, có nguồn gốc từ một loại vật chất cụ thể.
Hêraclit – nhà triết học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Ông đã đề cao vai trò
của tri thức, đề cao vai trò của con người quý tộc trong xã hội, xem thường số
đông nô lệ. Hêraclít đã đưa triết học duy vật tiến thêm một bước quan trọng trong
quan niệm về thế giới, về con người. Con người được hòa đồng vào chỉnh thể
thống nhất là vũ trụ mà không có sự tha hóa của con người khối chỉnh thể ấy. Về
chính trị - xã hội thì Hêraclít đã có cái nhìn hiện thực khi cho sự bất bình đẳng của
con người là do bất bình đẳng về lợi ích. Con người theo ông cũng giống như
những con cừu luôn thích rơm hơn vàng. Hạnh phúc không phải ở sự thỏa mãn
nhu cầu thể xác mà ở sự tư duy, ở chỗ biết nói sự thật, biết lắng nghe tiếng nói của
tự nhiên và biết hành động theo tự nhiên. Tuy nhiên, khi nhìn nhận xã hội của con
người, ông không khỏi có những hạn chế do đứng trên lập trường của tầng lớp chủ
nô – quý tộc để xem xét, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.
Pitago (khoảng 580-500 tr. CN) là nhà toán học - người đã đưa ra định lý
nổi tiếng về tổng các góc trong một tam giác; quan hệ giữa cạnh huyền và hai cạnh
bên của tam giác vuông…Là nhà triết học xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc,
nhiều năm hoạt động chính trị xã hội; ông đề cao quyền lực của thần thánh,
khuyên con người phải tìm sự hưởng lạc ở chỗ nào đó bên ngoài do các thần thánh
mang lại. Sau thần thánh là các hoạt động chính trị, xã hội, rồi đến bố mẹ. Người
lớn tuổi có trách nhiệm tuyên truyền dạy dỗ theo một đạo luật nhất định. Theo
Pitago, cuộc sống của con người trần thế, trong đó có khoái cảm của con người,
cái đẹp và cái lợi ích, là sự thỏa mãn. Những người cai trị xã hội phải đạt được sự
khoái cảm của cuộc sống nói trên. Pitago cho rằng linh hồn là bất tử tạm trú vào
các linh hồn hữu tử và sau khi con người chết đi thì linh hồn sẽ được nhập vào
một cá thể khác để thực hiện một cuộc tái sinh.
Xênôphan (khoảng 570-478 tr.CN) người sáng lập ra phái Êlê đánh giá cao
vai trò của biển trong việc xuất hiện bầu trời. Chính biển vĩ đại cũng là người sinh

ra mây, gió, mưa…Thế giới không phải là kết quả của thần; chính con người đã
sáng tạo ra thần theo hình ảnh, mẫu hình, lý tưởng của mình, cho nên sẽ có nhiều
hình ảnh khác nhau về thần ở những người khác nhau. Xênôphan tiến bộ khi
khẳng định vai trò của con người trong việc tìm ra lửa, làm ruộng, chăn nuôi…
Tuy nhiên, Xênôphan chưa phải là nhà vô thần đúng nghĩa, trên thực tế trong ông
vẫn còn quan niệm Thượng đế, theo ông Thượng đế chỉ có một, vĩnh viễn và
không vận động.
2.2- Giai đoạn phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ:
Từ thế kỷ thứ V tr. CN là thời kỳ hưng thịnh, phát triển của chế độ chiếm
hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại. Cuộc đấu tranh giữa hai phái chủ nô dân chủ và chủ nô
quý tộc đã tạo ra những tiền đề chính trị cho cuộc đấu tranh ý thức hệ và thế giới
quan trong triết học. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của các trường phái triết
học ở Hy Lạp cổ đại. Vai trò của con người được đặc biệt đề cao trong tư tưởng
của các nhà triết học duy vật thời kỳ này, tiêu biểu là quan điểm của Empêđốclơ,
Lơxíp, Đêmôcrít.
Empêđốclơ cho rằng mọi sự sống đều có lý tính nhưng con người là sự sống
có lý tính cao nhất, thông minh nhất và đặc biệt con người có đôi tay để thực hiện
lý tính của mình. Ông đã thấy được vai trò của cảm giác trong nhận thức và cảm
giác là có hạn, đời người lại ngắn ngủi, do đó con người đạt chân lý không chỉ
bằng cảm giác mà còn phải dựa vào trí tuệ.
Đêmôcrít (460-370 tr. CN) cho rằng về nguồn gốc sự sống, nguồn gốc loài
người, con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến
đổi tự nhiên. Ông quan niệm rằng con người có hai dạng nhận thức, đó là nhận
thức cảm tính và nhận thức chân lý. Đêmôcrít đề cao vai trò của trí tuệ, chỉ có trí
tuệ mới giúp con người nhận biết được bản chất đích thực của sự vật. Ông xem
nhận thức là một quá trình, trong đó nhận thức cảm tính là tiền đề cần thiết cho
nhận thức lý tính, là tài liệu để lý tính nhận thức chân lý. Là đại biểu của nền dân
chủ chủ nô Aten có quyền lợi gắn liền với sự phát triển của các ngành thủ công
nghiệp và thương nghiệp. Đêmôcrít đã đưa ra một loạt quan điểm đạo đức xã hội
nhằm biện hộ cho trật tự xã hội đang tồn tại. Theo ông, nhà nước dân chủ chủ nô

là trụ cột của xã hội, điều hành mọi hoạt động xã hội. Ông cho rằng đạo đức có
tính cá nhân, có nhiệm vụ giải quyết vấn đề hành vi của con người. Mục tiêu của
con người là hạnh phúc, dân chủ và tự do. Về mặt xã hội và con người, Đêmôcrít
còn có những hạn chế khi quan niệm về sự dung hòa lợi ích giai cấp, về việc coi
nhu cầu là yếu tố quyết định tất cả đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Prôtago, Gioocgiát, Prôđíc…là đại biểu tiêu biểu của phái ngụy biện giai
đoạn này; trung tâm chú ý của các nhà ngụy biện là con người, xã hội và tri thức
và ít quan tâm tới vật lý - tức là về giới tự nhiên. Nhìn chung họ phủ nhận khả
năng nhận thức của con người. Từ quan niệm có tính tương đối về giới tự nhiên,
nên theo Prôtago: “con người là thước đo của mọi vật đang tồn tại, rằng chúng
tồn tại và của mọi vật đang không tồn tại rằng, chúng không tồn tại”. Nghĩa là con
người là thước đo của mọi vật tại. Luận điểm này một mặt đề cao con người, mặt
khác lại tạo kẽ hở dẫn đến chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Đối với Gioocgiát, trong
quan niệm về đạo đức và pháp luật ông cũng có quan niệm tương đối như Prôtago.
Bởi lẽ, theo ông các giá trị đạo đức và các chuẩn mực pháp lý là có điều kiện do
con người sáng tạo ra. Ông có tiến bộ khi thấy được vai trò của những phát minh
kỹ thuật trong xã hội.
Xôcrát xuất thân từ một gia đình giầu có ở Aten. Ông lấy con người làm
trung tâm nghiên cứu triết học, đặc biệt trong lĩnh vực đạo đức. Ông cho rằng, triết
học không phải là cái gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính bản thân
con người. Ông hướng triết học của mình vào con người nhiều hơn vào giới tự
nhiên, đồng thời kêu gọi “con người, hãy nhận thức chính mình”; đối với Xôcrát,
nhận thức chính mình - tức là nhận thức bản thân mình- không chỉ như một nhân
cách mà còn như một con người nói chung. Trên cơ sở nhận thức bản thân, con
người mới hiểu được cái thiện, cái ác. Xôcrát đặc biệt đề cao vai trò của tri thức,
khái niệm trong hoạt động của con người, coi tri thức là nền tảng của đạo đức. Vì
vậy tri thức sẽ giúp con người sống hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách của mình.
Xôcrát lấy mục đích của hành động để làm tiêu chuẩn chung đánh giá hành vi đạo
đức của con người.
Platôn là đại biểu tiêu biểu của triết học duy tâm khách quan thời cổ đại.

Vấn đề con người là đề tài cơ bản xuyên suốt toàn bộ thế giới quan của Platôn.
Platôn cho rằng chính “tinh thần”, “ý niệm” mới là “tồn tại chân chính”, còn sự
vật cảm tính chỉ là “cái bóng của ý niệm”, là sự hỗn hợp của tồn tại và hư vô, là
dấu vết mờ nhạt của ý niệm siêu cảm. Ông đối lập giữa thể xác và linh hồn, coi thể
xác chỉ là chỗ trú ngụ, nhà tù của linh hồn. Con người chết đi, linh hồn bất tử được
giải thoát khỏi thể xác và trở về với thế giới ý niệm. Về cơ bản Platôn đứng trên
lập trường của chủ nghĩa duy tâm khách quan để xem xét, giải quyết các vấn đề về
xã hội và con người. Tuy nhiên, ông là người đã phân tích lý giải con người trên
nhiều khía cạnh (nhất là đạo đức và tâm lý), xây dựng cơ sở lý luận về ý thức con
người và nhân cách con người. Về sau, ở phương Tây, nhà thờ và thần học đã khai
thác những yếu tố duy tâm trong quan niệm về con người của Platôn để xây dựng
cơ sở thế giới quan tôn giáo.
Arixtốt (384-322 tr. CN) – nhà bách khoa vĩ đại nhất Hy Lạp cổ đại. C. Mác
xem ông là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại”. Aritxtốt là nhà nhị nguyên luận
khi xem xét vấn đề con người. Ông cho rằng con người được cấu thành từ linh hồn
và thể xác tựa như mỗi động vật được tạo thành từ hình dạng và vật chất, ông
khẳng định sự gắn bó hữu cơ giữa chúng mặc dù trong con người thì linh hồn
đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, khi giải quyết những vấn đề cụ thể như mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức, giữa cơ thể và linh hồn, quan điểm của ông chứa đựng
nhiều yếu tố duy vật. Ông cho rằng, thế giới khách quan là đối tượng của nhận
thức, nguồn gốc của kinh nghiệm và cảm giác của con người; nhận thức chân lý là
nhận thức linh hồn, ông cho rằng chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý trí, năng khiếu
nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là thang bậc cao nhất của
vũ trụ. Khi đề cao nhà nước, ông xem con người là “một động vật chính trị”.
Theo Arixtốt, con người là một sinh vật xã hội được cố kết trong một cộng
đồng người, trong một xã hội nhất định. Gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội.
Xã hội có nhiệm vụ đảm bảo công lý cho mỗi người dân, đảm bảo đời sống vật
chất cho mỗi gia đình. Trong xã hội, mỗi công dân phải có nghĩa vụ thực hiện tốt
đạo đức, làm tròn nghĩa vụ công dân. Arixtốt đã gắn liền đạo đức với chính trị, đòi
hỏi mỗi công dân phải có đạo đức tốt mang lại quyền lợi cho xã hội và nhà nước.

Do đứng trên lập trường của giai cấp chủ nô, Arixtốt xem chuẩn mực đạo đức của
con người phải phù hợp với sự khác nhau về đẳng cấp xã hội. Arixtốt thừa nhận
chỉ những người thuộc tầng lớp trên, tầng lớp trí thức là những người có đạo đức.
Từ thế kỷ thứ IV tr. CN bắt đầu thời kỳ Hy Lạp hóa – giai đoạn lịch sử dài
nhất của thời kỳ chiếm hữu nô lệ; đây là thời kỳ đỉnh cao của sự giao lưu văn hóa
giữa các quốc gia. Với việc đế quốc La Mã đánh chiếm Hy Lạp và nhiều miền đất
khác đã tạo điều kiện cho văn hóa Hy Lạp và La Mã mở rộng ảnh hưởng và phát
triển. Điều đó cũng làm cho triết học thời kỳ này có đặc thù riêng. Các nhà triết
học thời kỳ này thường bàn luận nhiều đến những vấn đề triết lý cuộc sống con
người. Êpiquya (341-270 tr. CN) là một trong những nhà triết học lớn thời kỳ Hy
Lạp hóa. Theo Êpiquya, mỗi sự vật không phải đơn thuần là tổng số các nguyên
tử, mà là một chỉnh thể có những đặc tính nhất định. Bản thân linh hồn con người
cũng được cấu thành từ những nguyên tử rất mảnh và năng động hơn những
nguyên tử bình thường. Êpiquya là người quan tâm nhiều đến đạo đức, ông cho
rằng con người có quyền tự do tìm và hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc, khoái lạc;
theo ông, con người không nên sợ chết, cũng không nên tin vào những điều huyễn
hoặc của tôn giáo một cách ngây thơ. Hiểu biết giới tự nhiên, nghiên cứu triết học
là phương tiện hữu hiệu giúp con người thoát khỏi những nỗi lo âu đó.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đề cập tới vấn đề con người và số phận con
người. Các nhà triết học còn có nhiều khái niệm khác nhau về bản chất con người,
chẳng hạn Prôtago cho con người là thước đo của vạn vật; Xôcrát đặt ra nhiệm vụ
nhận thức con người là chủ yếu chứ không phải giới tự nhiên; Aritxtốt cho con
người là “động vật chính trị”…Nhưng nhìn chung, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
đều cho mục tiêu cao quý của con người là chinh phục tự nhiên để phục vụ cho
mình. Con người trong quan hệ với thiên nhiên, nhìn chung là tích cực, thể hiện tinh
thần vươn lên làm chủ giới tự nhiên của con người Hy Lạp cổ đại. Điều này cũng
khác với triết học phương Đông – thường đề cập con người chính trị-xã hội, con
người với những số phận khác nhau; con người trong quan hệ hài hoà với tự nhiên.
III- KẾT LUẬN
Nếu như triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính

chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội và vấn
đề con người thiên về mối quan hệ chính trị, đạo đức. Thì đối với triết học phương
Tây cổ đại lại cho mục tiêu cao quý của con người là chinh phục tự nhiên để phục
vụ cho mình; con người trong quan hệ với thiên nhiên cơ bản là tích cực, thể hiện
tinh thần vươn lên làm chủ giới tự nhiên của con người Hy Lạp cổ đại. Nhìn
chung, trong lịch sử cả triết học phương Tây và phương Đông, thời nào cũng có tư
tưởng duy vật, gắn liền với thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, bàn về nguồn gốc, bản
chất con người, tư tưởng thống trị trong thời cổ đại vẫn là quan điểm duy tâm.
Các hệ thống triết học trong lịch sử đã đề cập nhiều vấn đề về con người
bằng cách này hay cách khác, nhưng chỉ đến triết học Mác mới được xem xét nó
một cách nhất quán, đầy đủ và sâu sắc, trên lập trường duy vật biện chứng. Dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức về con người và vai trò con người
đã có những bước tiến lớn, với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện
chứng, Mác đã đưa ra quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, cũng như về
bản chất con người và chủ nghĩa Mác phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con
người: mặt sinh vật và mặt xã hội.
Vận dụng những kiến thức, những hiểu biết về con người và vai trò của con
người đối với thực tiễn hiện nay, mỗi quốc gia, dân tộc hay mỗi một địa phương đơn
vị cần nhận thức đúng đắn và đánh giá đúng vai trò con người nói chung, vai trò quần
chúng và cá nhân nói riêng trong lịch sử để từ đó xây dựng chiến lược phát triển con
người một cách có hệ thống, toàn diện và khoa học đáp ứng được yêu cầu của thời
đại ngày nay. Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm
của chủ nghĩa Mác về vị trí, vai trò không gì thay thế của con người trong tiến trình
phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà chúng ta đang từng bước thực hiện với những
thành công ban đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi chúng ta nhận thức sâu sắc
“những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người”, thấy rõ vai trò
của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên thực tế và trong quan
niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi
sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc

gia”. Bởi vậy, để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa sự nghiệp lớn lao đó đến thắng lợi, chúng ta
không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng cao chất lượng con người nói
chung và đội ngũ người lao động nói riêng lên một tầm cao mới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
2- Giáo trình Triết học (dùng cho hệ cử nhân, cao cấp, học viên cao học và
nghiên cứu sinh)- do Viện Triết học biên soạn, Học viện Chính trị-Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
3- Vấn đề triết học trong tác phẩm Mác- Angghen, Lênin. Nxb. Chính trị
QG .H.2003.
4- Triết học phần 1. Lịch sử triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Nxb. Chính trị - hành chính 2011.
5- Triết học phần 3. Các chuyên đề triết học Mác-Lênin (dùng cho học viên
cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Nxb. Chính trị -
hành chính 2011.
6- Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb Lý luận chính trị 2006
6- Một số bài viết trên tạp chí Triết học, các tạp chí khác, trên Internet và
các tài liệu, văn bản hiện hành./.

×