Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo chuyên ngành quản lý đất đai " vùng sinh thái, hiện trạng sử dụng đất… Đồng Bằng Sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 32 trang )

Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên đất quốc gia ngày càng được điều tra một cách toàn diện hơn,
xác định đúng tiềm năng làm cơ sở cho việc khai thác, sử dụng đất đai tiết kiệm,
có hiệu quả theo hướng phát triển bền vững; Tài sản đất đai quốc gia đã được giao
đến tận tay người sử dụng đất (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) đúng pháp luật để
sản xuất, khai thác làm giàu cho bản thân và làm giàu cho đất nước; Hệ thống
pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn chỉnh, giác ngộ pháp luật của nhân dân
được nâng cao, tổ chức thi hành pháp luật về đất đai ngày càng hiệu quả, góp phần
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai.
Địa hình là một yếu tố quan trọng trong tự nhiên ví nó có hình dáng nổi bật
nhất và chi phối mạnh mẽ đến các yếu tố tự nhiên khác, là nơi diễn biến các yếu tố
tự nhiên, riêng bản thân nó thì khá bền vững và ít thay đổi. Việt Nam nằm ở vùng
nội chí tuyến đáng lẽ ít có sự phân hoá theo không gian, nhưng sự phân hoá Đông
Tây, Bắc – Nam, thấp lên cao làm cho tự nhiên Việt Nam vốn đã phức tạp lại càng
phức tạp hơn do có sự đóng góp của địa hình. Địa hình là nơi diễn ra mọi hoạt
động sản xuất của xã hội, làm cho địa hình ngày càng thay đổi, làm mất đi vẻ
nguyên sinh, hình thành nên dạng địa hình mới là dạng nhân sinh, phần lớn địa
hình VN ngày nay là dạng địa hình nhân sinh.
Thực tập thực tế chuyên ngành quản lý đất đai là hoạt động được tổ chức
trong dịp hè hàng năm của Bộ môn Tài nguyên đất đai thuộc Khoa Môi trường và
Tài nguyên Thiên nhiên. Chuyến đi qua một số tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu
Long, Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên từ ngày
23/07/2012 đến 29/07/2012.
Đợt thực tập thực tế vừa qua, đã cung cấp thêm cho sinh viên chúng em
nhiều kiến thức bổ ích về vùng sinh thái, hiện trạng sử dụng đất… Từ đó giúp cho
chúng em có được định hướng tốt hơn về nghề nghiệp cụ thể trong tương lai khi
tốt nghiệp ra trường.
2. MỤC ĐÍCH THỰC TẾ
Trang bị cho sinh viên các kiến thức cơ bản về thực tế của ngành quản lý
đất đai (địa chính) tại một vài Sở Tài nguyên môi trường và quản lý nguồn tài


nguyên ngoài thực tế, sự khác nhau về cách thức quản lý ở các đơn vị khác nhau
để bổ sung kiến thức chuyên ngành cho sinh viên. Sự đối chiếu giữa lý thuyết và
thực tế để bổ sung cho hoàn thiện kiến thức có thể ứng dụng sau khi tốt nghiệp và
định hướng nghề nghiệp.
Trang 1
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
3. NỘI DUNG
3.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên, địa hình, địa mạo – vùng sinh thái
3.1.1 TP Hồ Chí Minh
* Vị Trí Địa Lý
Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' –
106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông
và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và
Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành
phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách
bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông
Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả
Trang 2
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một
cửa ngõ quốc tế
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông.
Vùng cao nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25
mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận
9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố, có
độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm,
một phần các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ
cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét.
Thành phố Hồ Chí Minh gồm có bốn điểm cực:

• Cực Bắc là xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi.
• Cực Tây là xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi.
• Cực Nam là xã Long Hòa, huyện Cần Giờ.
• Cực Đông là xã Thạnh An, huyện Cần Giờ.
* Địa Hình
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam
bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc
xuống Nam và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia thành 3 tiểu vùng địa hình.
Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc
huyện Củ Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng,
độ cao trung bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gò độ cao cao nhất tới 32m,
như đồi Long Bình (quận 9).
Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Ðông Nam thành phố (thuộc các
quận 9, 8,7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng này có độ cao
trung bình trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm phần lớn
nội thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc Môn.
Vùng này có độ cao trung bình 5-10m.
Nhìn chung, địa hình Thành phố Hồ Chí Minh không phức tạp, song cũng
khá đa dạng, có điều kiện để phát triển nhiều mặt.
Trang 3
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
* Thủy Văn
Sông Sài Gòn đoạn qua trung tâm thành phố và bán đảo Thủ Thiêm
Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, Thành
phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Ðồng Nai
Bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn,
khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung cấp 15
tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông
Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ

Chí Minh, với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km.
Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố
khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc, hai
con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông
nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai
sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và
Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến
cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ
thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ,
Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu
Hũ, Kênh Ðôi Hệ thống sông, kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc
tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy
triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và
hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.
Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía Bắc Thành phố Hồ Chí Minh có
được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía Nam, trên trầm tích
Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có
lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt, vẫn được khai thác
chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại
Quận 12, các huyện Hóc Môn và Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào,
thường được khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng.
Trang 4
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
* Khí hậu, thời tiết
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, Thành phố Hồ Chí Mình
có nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt
đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung
bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt độ trung
bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố
có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Lượng mưa trung bình của thành

phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất
xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày
mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt
hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không
đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Ðông Bắc. Các quận nội thành và
các huyện phía Bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại.
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió
mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương,
tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông,
tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió tín phong theo hướng
Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói
Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão.
Khí hậu Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Trung
bình tối
cao °C
(°F)
32
(90)
33
(91)
34
(93)
34
(93)
33
(91)
32
(90)

31
(88)
32
(90)
31
(88)
31
(88)
30
(86)
31 (88)
Trung
bình tối
thấp °C
(°F)
21
(70)
22
(72)
23
(73)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
25
(77)
24

(75)
23
(73)
23
(73)
22
(72)
22 (72)
Lượng
mưa mm
(inch)
14
(0.6)
4
(0.2)
12
(0.5)
42
(1.7)
220
(8.7)
331
(13)
313
(12.3)
267
(10.5)
334
(13.1)
268

(10.6)
115
(4.5)
56 (2.2)
Khí hậu Thành phố Hồ Chí Minh
Trang 5
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
3.1.2 Khánh Hòa


* Vị Trí Địa Lý
Tỉnh Khánh Hòa ở về phía khu vực duyên hải Nam Trung Bộ của Việt
Nam, phía Bắc giáp ba huyện Sông Hinh, Đông Hòa và Tây Hòa của tỉnh Phú
Yên, phía Tây giáp hai huyện M'Drăk và Krông Bông của tỉnh Đắk Lắk, phía Nam
giáp huyện Bác Ái và Thuận Bắc của tỉnh Ninh Thuận, phía Tây Nam giáp huyện
Lạc Dương của tỉnh Lâm Đồng, phía Đông giáp Biển Đông. Tỉnh lỵ của Khánh
Hòa là thành phố Nha Trang, cách Thành phố Hồ Chí Minh 447 km và cách thủ
đô Hà Nội 1.278 km đường bộ.
Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.197 km². Phần đất liền của tỉnh nằm
kéo dài từ tọa độ địa lý 12°52’15" đến 11°42’50" vĩ độ Bắc và từ 108°40’33" đến
109°27’55" kinh độ Đông. Điểm cực Đông trên đất liền của Khánh Hòa nằm tại
Mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh và cũng là điểm cực đông trên
đất liền của Việt Nam. Chiều dài vào khoảng 150 km, chiều ngang chỗ rộng nhất
vào khoảng 90 km.
Trang 6
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
Tỉnh Khánh Hòa nằm ở vị trí thuận tiện về giao thông đường bộ, đường sắt,
đường biển và đường hàng không. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Khánh Hòa
và các tỉnh thuận lợi nhờ đường sắt và Quốc lộ IA xuyên suốt chiều dài của tỉnh.
Vị trí địa lý của tỉnh Khánh Hòa còn có ý nghĩa chiến lược về mặt quốc

phòng, vì nằm gần đường hàng hải quốc tế, có huyện đảo Trường Sa, cảng Cam
Ranh và là cửa ngõ thông ra biển Ðông.
Khánh Hoà luôn chan hòa ánh nắng, nhiệt độ trung bình hàng năm 26oC,
lượng mưa trung bình hàng năm từ 1200 - 1800mm. Khí hậu có hai mùa rõ rệt:
mùa khô (từ tháng giêng đến tháng tám); mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 12), chỉ
kéo dài khoảng hơn hai tháng, thuận lợi cho phát triển du lịch.
Khánh Hòa có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, đặc biệt
tài nguyên biển có nhiều loại hải sản quý hiếm có thể khai thác, nuôi trồng, chế
biến xuất khẩu với khối lượng lớn, có yến sào, là nguồn nguyên liệu đặc biệt để
xuất khẩu và bào chế các sản phẩm bổ dưỡng quý hiếm cho con người.
Ðiều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, lịch sử văn hóa đã đem đến cho tỉnh Khánh
Hòa một tiềm năng lớn để phát triển du lịch, dịch vụ. Nha Trang - Khánh Hòa hiện
được xác định là một trong 10 trung tâm du lịch - dịch vụ lớn của cả nước. Tháng
5-2003, vịnh Nha Trang được công nhận là thành viên chính thức của Câu lạc bộ
các vịnh đẹp nhất thế giới.
* Địa Hình
Là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa số diện tích Khánh Hòa là núi
non, miền đồng bằng rất hẹp, chỉ khoảng 400 km², chiếm chưa đến 1/10 diện tích
toàn tỉnh. Miền đồng bằng lại bị chia thành từng ô, cách ngăn bởi những dãy núi
ăn ra biển. Do đó để đi suốt dọc tỉnh phải đi qua rất nhiều đèo như đèo Cả, đèo Cổ
Mã, đèo Chín Cụm, đèo Bánh Ít, đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì.
Bãi biển Dốc Lếch tại Ninh Hòa
Trang 7
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
+ Vùng núi và bán sơn địa
Khánh Hòa là một tỉnh có địa hình tương đối cao ở Việt Nam, độ cao trung
bình so với mực nước biển khoảng 60 m. Núi ở Khánh Hòa tuy hiếm những đỉnh
cao chót vót, phần lớn chỉ trên dưới một ngàn mét nhưng gắn với dãy Trường Sơn,
lại là phần cuối phía cực Nam nên địa hình núi khá đa dạng.
Phía Bắc và Tây Bắc tỉnh có vùng núi cao thuộc dãy Vọng Phu cao hơn

1000 m, trong đó có dãy Tam Phong gồm ba đỉnh núi cao là Hòn Giữ (cao 1264
m), Hòn Ngang (1128 m) và Hòn Giúp (1127 m). Dãy Vọng Phu - Tam Phong có
hướng tây nam - đông bắc, kéo dài trên 60 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa
hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk. Các núi thuộc đoạn giữa của tỉnh thường
có độ cao kém hơn, có nhiều nhánh đâm ra sát biển tạo nên nhiều cảnh đẹp, gắn
với những huyền thoại dân gian và di tích lịch sử, sự kiện của địa phương. Đến
phía nam và tây nam, lại xuất hiện một vùng núi rộng, với nhiều đỉnh núi cao trên
1500 m đến trên 2000 m, trong đó có Đỉnh Hòn Giao (2062 m) thuộc địa phận
huyện Khánh Vĩnh, là đỉnh núi cao nhất Khánh Hòa. Do có nhiều núi cao, mật độ
chia cắt lớn bởi khe, suối, sông tạo thành nhiều hẻm, vực, thung lũng sâu, gây khó
khăn cho giao thông. Ngoài ra, khu vực này còn có thung lũng Ô Kha, được biết
đến là một vùng nguy hiểm cho hàng không.
+ Đồng bằng
Đồng bằng ở Khánh Hòa nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi các dãy núi đâm ra biển.
Chẳng những thế, địa hình rừng núi của tỉnh không thuận lợi cho quá trình lắng
đọng phù sa, nên nhìn chung Khánh Hòa không phải là nơi thuận lợi để phát triển
nông nghiệp. Các đồng bằng lớn ở Khánh Hòa gồm có đồng bằng Nha Trang -
Diên Khánh nằm ở hai bên sông Cái với diện tích 135 km²; đồng bằng Ninh Hòa
do sông Dinh bồi đắp, có diện tích 100 km². Cả hai đồng bằng này đều được cấu
tạo từ đất phù sa cũ và mới, nhiều nơi pha lẫn sỏi cát hoặc đất cát ven biển. Ngoài
ra, Khánh Hòa còn có hai vùng đồng bằng hẹp là đồng bằng Vạn Ninh và đồng
bằng Cam Ranh ở ven biển,
Quang cảnh đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang
Trang 8
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
+ Bờ biển và biển ven bờ
Khánh Hòa là một trong những tỉnh có đường bờ biển đẹp của Việt Nam.
Đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam Ranh, có độ dài khoảng
385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, cùng khoảng 200 đảo
lớn, nhỏ ven bờ. Khánh Hòa có sáu đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân

Phong, Hòn Khói, đầm Nha Phu, vịnh Nha Trang (Cù Huân) và vịnh Cam Ranh.
Trong đó có nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 16 km, chiều rộng 32 km,
thông với biển thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18-20 m, và thường
được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á, trước đây
được sử dụng làm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ rồi Liên Xô (sau này là Nga) nhưng
về sau được chuyển thành cảng dân sự.
Thềm lục địa tỉnh Khánh Hòa rất hẹp. Địa hình vùng thềm lục địa phản ánh
sự tiếp nối của cấu trúc địa hình trên đất liền. Các nhánh núi Trường Sơn đâm ra
biển trong quá khứ địa chất như dãy Phước Hà Sơn, núi Hòn Khô, dãy Hoàng
Ngưu không chỉ dừng lại ở bờ biển để tạo thành các mũi Hòn Thị, mũi Khe Gà
(Con Rùa), mũi Đông Ba mà còn tiếp tục phát triển rất xa về phía biển mà ngày
nay đã bị nước biển phủ kín. Vì vậy, dưới đáy biển phần thềm lục địa cũng có
những dãy núi ngầm mà các đỉnh cao của nó nhô lên khỏi mặt nước hình thành các
hòn đảo như hòn Tre, hòn Miếu, hòn Mun Xen giữa các đái đảo nổi, đảo ngầm là
những vùng trũng tương đối bằng phẳng gọi là các đồng bằng biển, đó chính là
đáy các vũng, vịnh như vịnh Vân Phong, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh.
Ngoài các đảo đá ven bờ, Khánh Hoà còn có các đảo san hô ở huyện đảo
Trường Sa, với khoảng 100 đảo bãi cạn, bãi ngầm rải rác trên một diện tích từ 160
đến 180 ngàn km², trong đó có từ 23 đến 25 đảo, bãi cạn nổi thường xuyên, với
tổng diện tích 10km². Đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa là Ba Bình chỉ rộng
0,65km². Bãi lớn nhất là bãi Thuyền Chài, dài 30km; rộng 5km (ngập nước khi
triều lên). Địa hình trên bề mặt các đảo rất đơn giản, chỉ là những mõm đá, vách
đá vôi san hô, cao vài ba mét.
* Tài Nguyên
Khánh Hòa có nhiều tài nguyên khoáng sản như than bùn, cao lanh, sét, sét
chịu lửa, vàng sa khoáng, cát thuỷ tinh, san hô, đá granit, quặng ilmênit, nước
khoáng, phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp khai thác. Ngoài ra
còn có nhiều tài nguyên biển, bao gồm các nguồn rong, tảo thực vật, trữ lượng hải
sản lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hải sản; các điều kiện
thuận lợi để khai thác sinh vật biển và nuôi trồng thuỷ sản.

Trang 9
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
* Sông ngòi
Thuyền trên sông Cái, đoạn qua Nha Trang, phía sau là cầu Trần Phú
Sông ngòi ở Khánh Hòa nhìn chung ngắn và dốc, cả tỉnh có khoảng 40 con
sông dài từ 10 km trở lên, tạo thành một mạng lưới sông phân bố khá dày. Hầu
hết, các con sông đều bắt nguồn tại vùng núi phía Tây trong tỉnh và chảy xuống
biển phía Đông. Dọc bờ biển, cứ khoảng 5-7 km có một cửa sông.
Mặc dù hướng chảy cơ bản của các sông là hướng Tây - Đông, nhưng tùy
theo hướng của mạch núi kiến tạo hoặc do địa hình cục bộ, dòng sông có thể uốn
lượn theo các hướng khác nhau trước khi đổ ra biển Đông. Đặc biệt là sông Tô
Hạp, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Khánh Sơn, chảy qua các xã Sơn
Trung, Sơn Bình, Sơn Hiệp, Sơn Lâm, Thành Sơn rồi chảy về phía Ninh Thuận.
Đây là con sông duy nhất của tỉnh chảy ngược dòng về phía Tây. Hai con sông lớn
nhất tỉnh là Sông Cái (Nha Trang) và sông Dinh. Sông Cái có độ dài 79 km, bắt
nguồn từ hòn Gia Lê cao 1.812 m chảy qua Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Nha Trang
rồi đổ ra biển qua Cửa Bé (Tiểu Cù Huân) và Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Dinh
bắt nguồn từ vùng núi Chư H'Mư (đỉnh cao 2.051 m) thuộc dãy Vọng Phu, có
tổng diện tích lưu vực 985 km
2
, chảy qua thị xã Ninh Hòa và đổ ra đầm Nha Phu.
* Khí hậu
Khánh Hòa là một tỉnh ở vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ, nằm trong
khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa. Song khí hậu Khánh Hòa có những nét biến
dạng độc đáo với các đặc điểm riêng biệt. So với các tỉnh, thành phía Bắc từ Đèo
Cả trở ra và phía Nam từ Ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở Khánh Hòa tương đối
ôn hòa hơn do mang tính chất của khí hậu đại dương. Thường chỉ có 2 mùa rõ rệt
là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng
12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên
50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng

năm có tới 2.600 giờ nắng.
Trang 10
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
Nhiệt độ trung bình hàng năm của Khánh Hòa cao khoảng 26,7 °C riêng
trên đỉnh núi Hòn Bà (cách Nha Trang 30 km đường chim bay) có khí hậu như Đà
Lạt và Sa Pa.

Độ ẩm tương đối khoảng 80,5%.
Từ tháng 1 đến tháng 8, có thể coi là mùa khô, thời tiết thay đổi dần. Những
tháng đầu mùa, trời mát, nhiệt độ từ 17-25 °C, nhưng từ tháng 5 đến tháng 8 trời
nóng nực, nhiệt độ có thể lên tới 34 °C (ở Nha Trang) và 37-38 °C (ở Cam Ranh).
Tháng 9 đến tháng 12, được xem như mùa mưa, nhiệt độ thay đổi từ 20-27 °C (ở
Nha Trang) và 20-26 °C (ở Cam Ranh). Khánh Hòa là vùng ít gió bão, tần số bão
đổ bộ vào Khánh Hòa thấp chỉ có khoảng 0,82 cơn bão/năm so với 3,74 cơn
bão/năm đổ bộ vào bờ biển Việt Nam. Các trận bão được dự đoán sẽ đổ bộ vào
Khánh Hòa trong những năm gần đây thường lệch hướng vào Nam hoặc tan ngay
khi gần vào bờ. Tuy vậy, do địa hình sông suối có độ dốc cao nên khi có bão kèm
theo mưa lớn, làm nước dâng cao nhanh chóng, trong khi đó sóng bão và triều
dâng lại cản đường nước rút ra biển, nên thường gây ra lũ lụt.
Nhiệt độ trung bình
các tháng
đo tại trạm Nha
Trang
Một Hai Ba Tư Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười
Mười
một
Mười
hai
Cao nhất (°C) 27 28 29 31 32 32 32 32 32 30 28 27
Thấp nhất (°C) 22 22 23 25 26 26 26 26 25 24 24 22

Lượng mưa (cm) 2,4 0,56 2,07 1,98 5,08 3,48 2,62 3,23 13,38 25,43 25,12 12,21
Nguồn: MSN Weather
Nhiệt độ trung bình các tháng đo tại trạm Nha Trang
Trang 11
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
3.1.2 Lâm Đồng

Bản đồ hành chính tỉnh Lâm Đồng
* Vị Trí Địa Lý
Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có độ cao trung bình từ
800 - 1.000 m so với mặt nước biển với diện tích tự nhiên 9.772,19 km
2
; địa hình
tương đối phức tạp chủ yếu, là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có
những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau
về khí hậu, thổ nhưỡng, thực động vật và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm
Đồng.
- Phía đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận
- Phía tây nam giáp tỉnh Đồng Nai
- Phía nam – đông nam giáp tỉnh Bình Thuận
- Phía bắc giáp tỉnh Đắc Lắc
Lâm Đồng nằm trên 3 cao nguyên và là khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống
sông lớn; nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – là khu vực năng động,
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và là thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Toàn
tỉnh có thể chia thành 3 vùng với 5 thế mạnh: Phát triển cây công nghiệp dài
ngày, lâm nghiệp, khoáng sản, du lịch - dịch vụ và chăn nuôi gia súc.
* Địa Hình
Trang 12
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
Đặc điểm chung của Lâm Đồng là địa hình cao nguyên tương đối phức tạp,

chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ
bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng,
thực động vật và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng.
Đặc điểm nổi bật của địa hình tỉnh Lâm Đồng là sự phân bậc khá rõ ràng
từ bắc xuống nam.
- Phía bắc tỉnh là vùng núi cao, vùng cao nguyên Lang Bian với những đỉnh
cao từ 1.300m đến hơn 2.000m như Bi Đúp (2.287m), Lang Bian (2.167m).
- Phía đông và tây có dạng địa hình núi thấp (độ cao 500 – 1.000m).
- Phía nam là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc và bán
bình nguyên.
* Khí Hậu
Lâm Đồng nằm trong khu
vực chịu ảnh hưởng của khí hậu
nhiệt đới gió mùa biến thiên theo
độ cao, trong năm có 2 mùa rõ rệt;
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11,
mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau.
Nhiệt độ thay đổi rõ rệt
giữa các khu vực, càng lên cao
nhiệt độ càng giảm. Nhiệt độ
trung bình năm của tỉnh dao động
từ 18 – 25
0
C, thời tiết ôn hòa và
mát mẻ quanh năm, thường ít có
những biến động lớn trong chu kỳ
năm
Lượng mưa trung bình 1.850 – 3.150 mm/năm, độ ẩm tương đối trung bình
cả năm 79 – 86%, số giờ nắng trung bình cả năm 2.028 – 2.347 giờ, thuận lợi cho

phát triển du lịch nghỉ dưỡng và phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có nguồn
gốc ôn đới. Đặc biệt Lâm Đồng có khí hậu ôn đới ngay trong vùng khí hậu nhiệt
đới điển hình và nằm không xa các trung tâm đô thị lớn và vùng đồng bằng đông
dân.
Trang 13
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
* Thủy Văn
Lâm Đồng là tỉnh nằm trong hệ thống sông Đồng Nai, có nguồn nước rất
phong phú, mạng lưới suối khá dày đặc, tiềm năng thuỷ điện rất lớn, với 73 hồ
chứa nước, 92 đập dâng.
Sông suối trên địa bàn Lâm Đồng phân bố khá đồng đều, mật độ trung bình
0,6km/km
2
với độ dốc đáy nhỏ hơn 1%. Phần lớn sông suối chảy từ hướng đông
bắc xuống tây nam.
Do đặc điểm địa hình đồi núi và chia cắt mà hầu hết các sông suối ở đây đều có
lưu vực khá nhỏ và có nhiều ghềnh thác ở thượng nguồn.
Các sông lớn của tỉnh thuộc hệ thống sông Đồng Nai.
Ba sông chính ở Lâm Đồng là:
 Sông Đa Dâng (Đạ Đờng)
 Sông La Ngà
 Sông Đa Nhim
* Hệ thống cung cấp nước
Hệ thống cấp nước đã hoàn thiện tương đối tốt, hiện có: nhà máy cấp nước
Đà Lạt, công suất 35.000 m
3
/ngày-đêm hệ thống cấp nước thị xã Bảo Lộc, công
suất 10.000 m
3
/ngày-đêm; hệ thống cấp nước huyện Đức Trọng, công suất 2.500

m
3
/ngày-đêm; hệ thống cấp nước huyện Di Linh, công suất 3.500 m
3
/ngày-đêm; hệ
thống cấp nước huyện Lâm Hà, công suất 6.000 m
3
/ngày-đêm. Đồng thời với việc
cấp nước, hệ thống xử lý nước thải công nghiệp và sinh hoạt đang được hoàn
thiện.
3.2 Sự thay đổi sử dụng đất đai vùng Đồng Bằng đến vùng Cao Nguyên
Dọc theo tuyến Quốc lộ mà đoàn thực tập đi qua thì vùng Đồng bằng Sông
Cửu Long địa hình cao từ 1-4 m, đất phù sa nên chủ yếu trồng lúa, cây ăn trái như:
Trang 14
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
chuối, mít, dừa, nhãn…bên cạnh đó là nhà của các hộ dân sống ven lộ kinh doanh
nhỏ. Khi đến các tỉnh Miền Đông thì hiện trạng sử dụng đất có thay đổi, địa hình
cao từ 50-200m so với mực nước biển, đất là đỏ bazan và đất xám nên một phần
trồng cây ăn quả, canh tác lúa rất ít còn lại là cây công nghiệp như: cao su, đào lộn
hột, sầu riêng…và phát triển công nghiệp, thương mại. Qua các tỉnh thuộc Duyên
hải Nam Trung Bộ địa hình từ 60-100m, nơi đây chủ yếu là đất cát nên thấy trồng
các cây nho, thanh long, dừa, khoai mì…phát triển thủy sản, làm muối, làm gạch,
làm nước mắm, du lịch biển như Nha Trang - Khánh Hòa, tháp Chàm Ponagar…
Đến Lâm Đồng đất chủ yếu là đất đỏ bazan, địa hình khá cao từ 700-2000m nên
cây trồng chủ yếu là hoa màu như: hoa hồng, cúc, lan, cẩm tú, súp lơ, bắp cải, cà
rốt, sà lách, dâu, cây thông… Bên cạnh đó du lich sinh thái rừng cũng là thế mạnh
của địa phương.
3.3 Thổ nhưỡng từng vùng sinh thái
3.3.1 TP Hồ Chí Minh
Vườn ông Lê Văn Cẩn, Cù lao Tân Triều, Phố 4, Ấp Vĩnh Hiệp, Xã Tân Bình,

Huyện Vĩnh Cửu, Tỉnh Đồng Nai.
Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích
Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần
Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và
hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng:
Trang 15
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng 23,4 % diện tích thành phố, đất xám
ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ
vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh
có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi hình thành nhiều loại đất
khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và
đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là
"giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò.
3.3.2 Khánh Hòa
Đồi nhà anh Cao Kỳ Nghị, Thôn Tân Đảo, Xã Ninh Ích, Huyện Ninh Hòa, Tỉnh
Khánh Hòa
Cấu tạo địa chất của Khánh Hòa chủ yếu là đá granit và ryolit, dacit có
nguồn gốc mác ma xâm nhập hoặc phún trào kiểu mới. Ngoài ra còn có các loại đá
cát, đá trầm tích ở một số nơi. Về địa hình kiến tạo, phần đất của tỉnh Khánh Hòa
đã được hình thành từ rất sớm, là một bộ phận thuộc rìa phía Đông-Nam của địa
Trang 16
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
khối cổ Kom Tom, được nổi lên khỏi mặt nước biển từ đại Cổ sinh, cách đây
khoảng 570 triệu năm. Trong đại Trung sinh có 2 chu kỳ tạo sản inđôxi và kimêri
có ảnh hưởng một phần đến Khánh Hòa. Do quá trình phong hóa vật lý, hóa học
diễn ra trên nền đá granit, ryolit đã tạo thành những hình dáng độc đáo, đa dạng và
phong phú, góp phần làm cho thiên nhiên Khánh Hòa có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng.
3.3.3 Lâm Đồng
Đồi cà phê ông Nguyễn Nề, Thôn Tiền Yên, Xã Lộc Đức Huyện Bảo Lâm, Tỉnh

Lâm Đồng
Lâm Đồng có diện tích đất 977.219,6 ha, chiếm 98% diện tích tự nhiên, bao
gồm 8 nhóm đất và 45 đơn vị đất:
Nhóm đất phù sa (fluvisols)
Nhóm đất glây (gleysols)
Trang 17
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
Nhóm đất mới biến đổi (cambisols)
Nhóm đất đen (luvisols)
Nhóm đất đỏ bazan (ferralsols)
Nhóm đất xám (acrisols)
Nhóm đất mùn alit trên núi cao (alisols)
Nhóm đất xói mòn mạnh (leptosols)
Đất có độ dốc dưới 25
o
chiếm trên 50%, đất dốc trên 25
o
chiếm gần 50%.
Chất lượng đất đai của Lâm Đồng rất tốt, khá màu mỡ, toàn tỉnh có khoảng
255.400 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp, trong đó có 200.000 ha đất
bazan tập trung ở cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh thích hợp cho việc trồng cây
công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như cà phê, chè, dâu tằm. Diện tích
trồng chè và cà phê khoảng 145.000 ha, tập trung chủ yếu ở Bảo Lâm, Bảo Lộc,
Di Linh, Lâm Hà; diện tích trồng rau, hoa khoảng 23.800 ha tập trung tại Đà Lạt,
Đơn Dương, Đức Trọng; chè, cà phê, rau, hoa ở Lâm Đồng đa dạng về chủng loại,
có những loại giá trị phẩm cấp cao. Đất có khả năng nông nghiệp còn lại tuy diện
tích khá lớn nhưng nằm rải rác xa các khu dân cư, khả năng khai thác thấp vì bị
úng ngập hoặc bị khô hạn, tầng đất mỏng có đá lộ đầu hoặc kết vón, độ màu mỡ
thấp, hệ số sử dụng không cao Trong diện tích đất lâm nghiệp, đất có rừng chiếm
60%, còn lại là đất trồng đồi trọc (khoảng 40%).

3.4 Đô thị và kiến trúc cảnh quan từng vùng
* TP Hồ Chí Minh
Hầm Thủ Thiêm, hầm vượt sông dài nhất Đông Nam Á
Là thành phố trẻ năng động, rất phát triển, là nơi ứng dụng khoa học kỹ
thuật tiên tiến rất nhanh, tập trung đầy đủ các loại hình dịch vụ, có một vị trí địa lý
hết sức thuận lợi, nó là ngã tư đường từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây của
phía Đông Nam thế giới cả về đường hàng không và đường hàng hải.
Trang 18
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
TP. Hồ chí Minh hiện nay thương mại dịch vụ rất phát triển, khắp nơi cửa
hàng cửa hiệu, nhiều khu công nghiệp.
Kiến trúc đô thị TP.HCM hiện nay đang là bài toán khó đối với tất cả
những ai quan tâm. Sau biến cố lịch sử, sau nhu cầu tăng cao của cư dân sống tại
TP thì hiện nay các nhà chuyên môn, giới KTS đều nhận thấy vấn đề này còn
nhiều bất cập, kiến trúc manh mún, lộn xộn thiếu đặc thù và tư duy học thuật.
Nhiều người tiếc cho những dãy nhà phố bị mất đi, nhưng theo KTS Mười: “Nhu
cầu nhà ở ngày càng cao, mật độ dân số cao hơn các nước trên thế giới, nên cần
nhà cao tầng là tất yếu nhưng quan trọng nên quy hoạch sao để có bố cục tổng thể
hài hòa và vẫn giữ được nét đẹp đặc trưng của vùng miền”. Một mặt tích cực của
TP mang tên Bác là vấn đề nhà ở, cũng từ việc quy hoạch đô thị nên nhiều người
sống bên kênh rạch đã có nhà ở đàng hoàng hơn, người thu nhập thấp dần có nơi
sống ổn định, giảm bớt sự nhếch nhác đô thị, các kênh rạch được nạo vét và xây
kè đem lại không gian cho TP.
* Nha Trang - Khánh Hòa
Kiến trúc cảnh quan ở Nha Trang đẹp, tuy nhiên đường ở Nha Trang nhỏ
và lề đường hẹp vì đây là thành phố củ.
Lịch sử hình thành đô thị Nha Trang được tính từ ngày 30-4-1924, khi vua
Khải Định ra đạo dụ lấy vùng đất hạ nguồn sông Cái, tiếp giáp với biển Đông để
thành lập thị trấn Nha Trang. Khi mới thành lập, thị trấn Nha Trang còn rất hoang
Trang 19

Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
sơ, chỉ có một số ít công trình kiên cố. Chưa đầy một thế kỷ sau, Nha Trang đã trở
thành một đô thị lớn có tốc độ phát triển đến chóng mặt nhưng cũng mất dần vẻ
đẹp thanh bình vốn có.
Thế nhưng trong khoảng 15 năm trở lại đây, tốc độ đô thị hóa tại Nha
Trang diễn ra nhanh đến chóng mặt. Những công trình cao tầng đua nhau mọc lên,
cái sau cao hơn cái trước. Đầu tiên là khách sạn Lodge cao 14 tầng, tiếp đến là
Sunrise, Novotel, Sheraton… và bây giờ là Hoàn Cầu, Crown Plaza, Nha Trang
Plaza (cao nhất TP với 40 tầng, 119 m).
Vinpearl
Khánh Hòa có hệ thống cơ sở hạ tầng về tương đối phát triển, nằm trên các
trục giao thông quan trọng ven biển của Việt Nam như: Quốc lộ 1A chạy dọc ven
biển từ Đèo Cả đến Ghềnh Đá Bạc nối liền với các tỉnh phía Bắc và phía Nam;
quốc lộ 26 nối Ninh Hòa với Đăk Lăk và các tỉnh Tây Nguyên; đường 723 (Nha
Trang đi Đà Lạt) và dự án đường cao tốc Bắc Nam đi qua Khánh Hòa.
* Đà Lạt - Lâm Đồng
Trang 20
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
Địa hình Đà Lạc chủ yếu là đồi núi, khí hậu lạnh vì vậy nó củng ảnh hưởng
kiến trúc đô thị: đường uống lượn quanh đồi núi, nhà ở đa số thiết kế phòng nhỏ
gọn.
Đối với địa hình bằng phẳng, việc quy hoạch ô bàn cờ là giải pháp tốt khi
sử dụng và tiện lợi về mọi phương diện. Để tạo cảm giác thẩm mỹ, người ta
phải dùng đến các biện pháp: đắp đất tạo đồi, đào hồ tạo mặt nước, mở các mặt
hồ để tạo thành các không gian biến động.
Thành phố Đà Lạt có địa hình mấp mô, uốn lượn, cộng với việc tổ chức
hệ thống giao thông hình mạng nhện, đã tạo thành những không gian linh động,
biến đổi không ngừng. Đi trên đường Trần Hưng Đạo, giữa rừng thông cao vút
của Dinh II, bất ngờ chợt nhìn qua phía bên kia, cả một khoảng không gian kỳ
ảo bỗng hiện ra dãy Lang Biang xanh thẫm làm nền cho toàn cảnh bức tranh.

Đồi Cù ẩn hiện mấp mô giữa những thân thông thẳng tắp soi bóng xuống
mặt hồ Xuân Hương phẳng lặng. Chỉ có Đà Lạt mới có được những bức tranh
phong cảnh với đầy đủ sắc độ, không gian xa mà gần như vậy. Ở mọi nơi trong
thành phố người ta đều thấy được đỉnh tháp chuông của nhà thờ Chánh Tòa.
Chỉ cần mấy bước chân tìm đến, qua khỏi khúc quanh của đường Lê Đại Hành,
thật bất ngờ ngay trước mắt là một công trình trang nghiêm với tháp chuông
cao vút, sừng sững hiện ra trước mặt. Sau sự ngạc nhiên chính là cảm giác
thành kính ngưỡng mộ đối với công trình kiến trúc đặc sắc này. Để tạo cảm
giác trang nghiêm, ngoài hình dáng kiến trúc đối xứng tuyệt đối theo đúng bút
pháp chủ nghĩa kiến trúc cổ điển Pháp, công trình còn có không gian mở rộng
được đánh dấu bằng một công viên nhỏ có đặt một bức tượng Chúa với chức
năng là đảo giao thông, tránh cho con đường từ dưới dốc lên đâm trực tiếp vào
cổng nhà thờ.
Vừa đến cửa ngõ thành phố, ta có một cái nhìn bao quát toàn bộ thành
phố, từng lớp nhà xếp lên nhau và tràn xuống thung lũng, ẩn hiện trong màu
xanh của cây và sương mù cao nguyên. Về đêm, bầu trời dường như thấp
Trang 21
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
xuống dưới chân du khách với muôn ngàn ánh sao ẩn hiện. Ở đồng bằng, điều
này chỉ thấy được nếu nhìn từ máy bay.
3.5 Sự hình thành và phát triển các vùng đô thị mới ở các vùng khác nhau
* TP Hồ Chí Minh
TP.HCM sẽ phát triển theo các hướng đông bắc, nam - đông nam, bắc -
tây bắc, tây nam và có 10 triệu dân. Đó là nội dung trong dự thảo báo cáo về phát
triển đô thị của TP.HCM vừa được Sở Xây dựng trình UBND TP, chuẩn bị báo
cáo trung ương.
Theo đánh giá của dự thảo của Sở Xây dựng TP.HCM, trong thời gian qua
TP.HCM đã có nhiều khu đô thị mới được hình thành. Việc phát triển không gian
đô thị có tính đến việc kết nối với các đô thị lân cận, sự phát triển của vùng, diện
mạo đô thị đã thay đổi nhiều theo hướng ngày càng hiện đại.

Số liệu khảo sát của cơ quan chức năng cho biết đến tháng 4-2009, bình
quân diện tích nhà ở trên đầu người ở TP là 13,4m
2
/người và dự kiến đến năm
2010 là 14m2/người. Hiện nhà ở chủ yếu là nhà bán kiên cố, cấp 3, 4 và chiếm
Trang 22
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
khoảng 65% tổng số căn nhà, số còn lại là nhà cấp 1, 2 và nhà lụp xụp trên và ven
kênh rạch. Dự kiến đến năm 2010 TP có khoảng 1,7 triệu căn nhà.
TP phấn đấu sẽ trở thành khu đô thị hiện đại, gắn với vùng đô thị TP.HCM
(gồm TP.HCM và bảy tỉnh xung quanh là Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh,
Long An, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Tiền Giang). Cùng với sự phát triển
này đến năm 2020, TP dự kiến phấn đấu chỉ tiêu đất xây dựng đô thị bình quân 80-
100m
2
/người, trong đó đất dân dụng bình quân 55-65m
2
/người, còn lại là đất cho
cây xanh, giao thông, công trình công cộng Tổng nhu cầu đất xây dựng đến năm
2020 lên đến khoảng 100.000ha.
TP.HCM xác định việc phát triển TP sẽ theo hướng đa trung tâm, phát triển
các đô thị vệ tinh xung quanh và lấy trung tâm hiện hữu mở rộng sang khu đô thị
mới Thủ Thiêm làm trung tâm chính. Các khu đô thị khác được xác định theo bốn
hướng, cụ thể như sau:
Hướng phát triển về đông bắc gắn với huyện Dĩ An (Bình Dương) và TP
Biên Hòa (Đồng Nai), gồm các quận 2, 9 và Thủ Đức. Đây được xem là hướng
cửa ngõ của TP đi các tỉnh miền Trung và miền Bắc, đồng thời cũng là hướng phát
triển chính với khu đô thị mới Thủ Thiêm, một trung tâm mới gắn liền trung tâm
hiện hữu là quận 1, 3. Chính vì vậy khu đô thị mới này sẽ được ưu tiên đáng kể
trong việc đầu tư hạ tầng, kỹ thuật với các dự án lớn đã và đang thực hiện: hầm,

cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, đại lộ đông-tây
.
Căn Hộ Gia Phú
Nhưng tại khu đô thị mới này có một số hạn chế cần khắc phục: hạ tầng kỹ
thuật khu vực chưa đồng bộ, các dự án triển khai còn chậm, việc quản lý quy
Trang 23
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
hoạch chưa được tuân thủ chặt chẽ, môi trường khu vực chưa được quan tâm đúng
mức
Một hướng chính khác là phát triển về phía nam, đông nam tiến ra biển gắn
với khu Nhà Bè, Bình Chánh, Cần Giờ (TP.HCM), Nhơn Trạch - Long Thành
(Đồng Nai). Đây có thể nói là địa bàn có nhiều lợi thế là đất đai rộng nhưng hạ
tầng đô thị còn thiếu. Không phải bây giờ mà hướng này đã được TP tính từ rất
sớm, điển hình như khu đô thị Phú Mỹ Hưng (khoảng 433ha) đến nay đã cơ bản
xong phần hạ tầng chính và đã xây dựng xong nhiều khu nhà ở.
Riêng Cần Giờ cách xa khu trung tâm TP hàng chục cây số đang có dự án
khu đô thị du lịch sinh thái lấn biển với quy mô hơn 850ha. Còn ở Nhà Bè thì dự
án khu đô thị - công nghiệp cảng Hiệp Phước cũng đang trong giai đoạn chuẩn bị
đầu tư với 2.000ha và sẽ trở thành khu vực gắn giữa phát triển du lịch với phát
triển đô thị của TP.
Hướng phát triển thứ ba là bắc, tây bắc gắn với Củ Chi, Hóc Môn, dọc quốc
lộ 22 - trục xuyên Á nối với tỉnh Tây Ninh và Campuchia. Dù được xem là hướng
phát triển phụ nhưng địa bàn này có vị trí rất thuận lợi và dễ dàng tiếp cận với
Bình Dương, Tây Ninh, Long An cũng như các tỉnh khác của miền Đông và miền
Tây. Đây cũng là một trong những cửa ngõ của TP nên thời gian qua TP đã đầu tư
hạ tầng giao thông khá nhiều cho khu vực này như đường Trường Chinh, tuyến
xuyên Á. Nhưng so với các khu vực khác, việc phát triển tại đây còn chậm, chưa
hình thành các khu đô thị hoàn chỉnh, kết hợp các khu đô thị tập trung.
Về mặt quy hoạch cũng chưa xác định những khu chức năng quan trọng hỗ
trợ việc hình thành các khu đô thị lớn như khu đô thị tây bắc (bao gồm Củ Chi với

huyện Trảng Bàng của tỉnh Tây Ninh, huyện Đức Hòa của Long An mà Chính phủ
đã phê duyệt).
Hướng còn lại là tây nam dọc quốc lộ 1 trên địa bàn quận Bình Tân và
huyện Bình Chánh. So với các khu vực khác, tốc độ đô thị hóa tại đây diễn ra rất
nhanh.
Với đặc thù là cửa ngõ để TP tiếp cận với các tỉnh miền Tây nên có nhiều
dự án cầu, đường đã và đang triển khai như quốc lộ 1A, đường cao tốc TP.HCM -
Trung Lương, đại lộ đông-tây Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển nhanh các
khu công nghiệp tập trung tại khu vực này đã hút một lượng lớn dân nhập cư,
khiến thiếu hụt chỗ ở và các dịch vụ đi kèm. Đây cũng là khu vực có nhiều nơi
phát triển tự phát.
* Nha Trang - Khánh Hòa
Trang 24
Báo Cáo Thực Tế Nhóm 1
Kể từ khi chính thức trở thành đô thị loại 1 vào năm 2009, thành phố Nha
Trang tỉnh Khánh Hòa có tốc độ phát triển rất mạnh. Theo báo cáo của UBND tỉnh
Khánh Hòa năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP tăng 11%. GDP bình quân đầu
người đạt khoảng 1.480 USD.
Với nhiều lợi thế hơn hẳn các tỉnh, thành trong khu vực Nam Trung Bộ,
Khánh Hòa đã thu hút được nhiều nhà đầu tư tiềm lực tài chính và năng lực kinh
nghiêm trong đầu tư, quản lý điều hành dự án và kinh doanh có hiệu quả. Nhiều
khách sạn được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao như Vinpearland;
Novotel; Sheraton; Evasion Six Senses Hideway…
Khách sạn Sheraton
Ở khu vực Bãi Dài, hầu hết phần diện tích phía Đông đại lộ Nguyễn Tất Thành
(giáp Biển) đã được UBND tỉnh cho phép các nhà đầu tư lập dự án tại đây. Hiện
có 5 nhà đầu tư đã được cấp phép xây dựng, các nhà đầu tư còn lại đã được cấp
giấy chứng nhận đầu tư và đang tiến hành các bước xin cấp phép xây dựng.
Đáng chú ý, từ năm 2010, khá nhiều khu đô thị mới được hình thành và phát triển
nhanh chóng, đặc biệt là về phía Tây thành phố Nha Trang. Thống kê của Savills

Việt Nam cho thấy, số dự án ở phía Tây chiếm đến hơn 50% tổng số dự án tương
lai của Nha Trang. Một số dự án khu đô thị lớn như Venesia, Mỹ Gia, Phước Long
đều nằm ở phía Tây Thành phố.
Trang 25

×