Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

12 món đặc sản Tây Nguyên pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.2 KB, 16 trang )

12 món đặc sản Tây Nguyên lạ miệng khó quên
1. Thịt nai Đắk - Lắk

Thịt nai giờ trở thành món đặc sản chủ yếu của vùng rừng núi Tây Nguyên, đặc
biệt là ở Đắk Lắk vì vùng Tây Bắc giờ rất khó kiếm được. Thịt nai tươi khác thịt
bò ở chỗ ít gân, mỡ màu trắng ngà, mềm hơn cả thịt bê non. Thịt bò 7 món đã gây
thèm muốn, có nơi trở thành đặc sản, nhưng 7 món nai vượt xa một cách bất ngờ,
cho nên càng không thể so sánh với bò, cho dù là bê cũng không đọ nổi với thịt
nai.
Các nhà hàng đặc sản thịt nai tươi ở Buôn Ma Thuột - TP trung tâm của tỉnh Đắk
Lắk đã đưa thịt nai vào hầu hết thực đơn bữa thường, bữa tiệc bằng các món nai
nướng, nai xào làn, nai nhúng giấm, nai lúc lắc, sườn nai rán, cháo bao tử và sau
cùng là nai khô hợp lại đủ 7 món như thịt bò. Nhưng nai nướng, nai nhúng giấm và


nai khô lại là những món tiêu biểu nhất.
Thịt nai nướng thái mỏng ướp mỡ nước và gia vị rồi cắt mấy lát gừng nướng riêng
để ăn nóng cùng lúc rất hợp. Nai nướng không cần nước chấm, cũng không cần
muối tiêu, miếng thịt nai nướng chín ngọt, mềm cộng với vị gừng nóng kích thích
người ăn đến mê say mặc dù chẳng cần dùng đến rượu.
Nai nhúng giấm như một bản nhạc đã chuyển gam bởi lẽ đã thấm đậm đà một
hương vị không giống miếng nai nướng béo ngậy. Nai nhúng cũng phải thái mỏng
nhưng lại ướp với sả nước mắm ngon, ngũ vị hương và tỏi. Khi ăn phải dùng lẩu
đặt giữa bàn, nước dùng có pha giấm đun sôi sục, cạnh lẩu là một khay to đựng đủ
loại rau: sa lát, cà chua, hành tây thái khoanh, chuối xanh thái lát.
Nai khô có thể là đầu bảng trong các món nai. Nai khô không béo ngậy như nai
nướng vì cách thức và nguyên liệu tẩm ướp khác nhau nên miếng nai khô ngọt lịm.

Thịt nai thái ngang thớ, miếng dài chừng 5cm ướp kỹ bằng xì dầu, sả, muối,
đường, ớt mè trắng và ngũ vị hương. Sau khi ướp trong vòng 80 phút lấy từng
miếng nướng trên than hoa, nướng xong dùng sống dao dần cho miếng thịt mềm
mại rồi ăn mà không cần chấm với bất cứ thứ gì.
2. Gỏi lá

Nếu một lần đến phố núi nằm ở cực bắc Tây nguyên (Kontum), mời bạn cùng cư
dân vùng sơn cước thưởng thức món gỏi lá đặc sản Tây Nguyên. Gỏi lá được chọn
từ hơn 40 loại lá khác nhau, nhiều loại rất quen thuộc nhưng cũng có những loại
phải tìm kiếm từ rừng Tây Nguyên mới có.
Xếp một "rừng" lá, vị chủ nhà bắt đầu giới thiệu cho du khách từng loại lá khác
nhau như lá lộc vừng, sâm đất, hồng ngọc, mơ, cải cay, ổi, đinh lăng, sung, lá lốt,

trâm, mã đề, diếp cá, chó đẻ răng cưa, quế, húng, thuyền đất… Mỗi loại có một tác
dụng chữa bệnh khác nhau. Lấy các loại lá này cuốn thành hình phễu để gắp vào
đó các loại thức ăn. Các món ăn kèm với lá như thịt heo ba chỉ, tôm rang, da heo
thái mỏng trộn cùng bột gạo nếp rang.
Nước chấm được làm từ bỗng rượu, được khử qua dầu ăn, lẫn cùng trứng vịt thành
loại nước chấm sền sệt. Tiêu để nguyên cả hạt, muối hạt, ớt cay xanh, hành là
những gia vị không thể thiếu. Kẹp đủ các loại lá, bỏ vào đó thịt, tôm, da heo, gia vị
rồi ăn cùng một lúc, nhai càng kỹ càng dễ nhận ra nhiều hương vị vừa có vị chan
chát, vừa ngòn ngọt, chua chua và vừa bùi béo ngậy của thịt, tôm.
Sau mỗi lần ăn, làm thêm một ngụm rượu được ngâm lâu ngày từ rễ cây đinh lăng.
Cuối cùng là một nồi cháo cá lóc, nóng hổi để ăn lót bụng là tuyệt nhất. Theo nhiều
người dân phố núi, ăn gỏi lá nhiều rất tốt, bởi hầu hết đều là những lá cây thuốc

nam có tác dụng chữa bệnh. Người mắc các chứng bệnh về tim mạch, đường tiêu
hóa… ăn vào có thể chữa bệnh.
3. Cơm lam

Cơm lam được coi là món ăn của núi của rừng bởi chắt lọc trong đó vị ngọt của
dòng suối mát trong và hương thơm của tre nứa xanh ngút đầu non. Bắt đầu từ
những chuyến đi dài ngày của người đàn ông với ống gạo mang theo, dao quắm và
đánh lửa cùng ống nứa sẵn trong rừng nhưng theo bước chân những người khách
du lịch, cơm lam đã trở thành món ăn đặc sản, làm say lòng du khách.
Để làm được cơm lam ngon đòi hỏi một sự tỉ mỉ đến từng chi tiết. Đầu tiên phải
chọn cây nứa ngô còn non, chặt lấy gióng lưng chừng nứa rồi phạt đi đầu mặt,
dùng lá nút lại, chất củi xung quanh đốt cho sôi. Gạo nếp làm cơm lam phải chọn

loại nếp trắng, dẻo, thơm, tốt nhất là "khảu tan" (nếp tan). Ngâm gạo, vo sạch, rắc
ít muối trộn đều rồi cho vào ống lam, cùng với dòng nước suối trong vắt sẽ tạo nên
một cơm lam hương vị đặc biệt của núi rừng, có thể làm say lòng bất cứ người
thưởng thức nào.
Khi cơm chín, chẻ bỏ lớp cháy đen bên ngoài ống cơm thật khéo léo cho đến khi
bao bọc phần ruột cơm chỉ là một lớp nứa mỏng. Xắt mỗi ống ra thành năm hay
bảy khúc. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ lớp nứa bên ngoài, ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn
rừng nướng (được nướng trong ống tre). Tuy nhiên, cơm lam ngon nhất khi ăn với
muối vừng.
4. Gà nướng Bản Đôn

Để có những con gà nướng ngon, hợp lòng du khách, người dân Bản Đôn phải rất

công phu nuôi chọn gà và có cách làm món riêng. Trước hết, giống gà phải là gà
thả vườn chính hiệu. Đất ở Bản Đôn rộng, vườn thưa, gà nuôi ở đây được thả rông
tự do, thức ăn chính của chúng là cỏ non, côn trùng và lúa rẫy. Gà được chọn
nướng là loại mới lớn, độ chừng hơn một kg mỗi con.
Sau khi làm xong, gà để nguyên con, có thể dần cho con gà bẹp lại rồi ướp muối
ớt, nước sả và thêm ít mật ong rừng. Chú ý, sả được giã nhỏ rồi chỉ lọc lấy nước
chứ không ướp cả củ, nước sả càng nhiều, thịt nướng càng thơm ngon. Con gà
thường được kẹp vào thanh tre rồi quay đều trên lửa than. Bếp than to nên một lần
có thể nướng quay nhiều con, cứ vài phút xoay trở một lần cho đến khi gà chín
chuyển sang màu vàng, tươm mỡ bóng nhẫy. Thoạt nhìn cũng đủ cồn cào dạ dày.
Để ăn gà nướng ở Bản Đôn "đúng bài", thì phải chấm thịt gà với muối ớt hoặc
muối sả. Dù loại muối nào cũng nhất thiết phải giã muối hạt với ớt rừng xanh. Loại

ớt này mọc hoang ngoài vườn, ăn giòn thơm rất hấp dẫn.
5. Rau rừng

Bữa cơm miền cao nguyên Gia Lai bắt đầu bằng món rau xanh luộc. Những đọt lá
xanh ngăn ngắt, cứng cáp, tươi non có vẻ khá quen, nhưng khi hỏi tên nó thì người
địa phương cũng chỉ biết đáp gọn lỏn: "Rau rừng!".
Nhưng rau rừng là rau gì? Theo hình dáng thì loại này rất giống rau lủi, vốn là đặc
sản chỉ có ở vùng rừng Trà My (Quảng Nam), nhưng xét về hương vị, rau rừng Gia
Lai thiếu đi chất nhớt và cả vị thuốc, dù độ giòn ngọt thì tương tự. Có người lại cho
rằng nó na ná rau tàu bay hay đọt dớn…
Theo lời người dân địa phương, rau rừng rộ ở Gia Lai chỉ khoảng chừng vài năm
trở lại đây, trước đây là nó món "chống đói" của bộ đội Trường Sơn.

Được trồng khá rộng rãi nên ở đâu cũng có, mùa nào cũng có, nhưng rau ngon nhất
là ở đầu mùa mưa, khi cây nảy những đọt non xanh mướt, bóng lưỡng. Nó gắn liền
với chất rừng núi của vùng Gia Lai nên người phương xa ghé Gia Lai, muốn tìm
thứ gì đó mới lạ cho bữa ăn thì được giới thiệu ngay.
Chất rừng ở loại rau này không nằm ở sự ngon ngọt mà ở vị mát, dù ban đầu cứ
tưởng nó chẳng có mùi vị gì. Rau rừng còn ngon ở độ giòn, dù có nấu quá lửa thì
vẫn không bị nát. Cách chế biến ngon nhất là luộc hoặc xào tỏi, chấm với mắm cua
(làm từ cua đồng giã nát, lọc xác vắt lấy nước rồi phơi nắng) màu nâu đất ánh sắc
vàng gạch, mặn mòi.
Khẳng định như thế vì món rau này từng được mang ra "thí nghiệm" với tất cả các
loại nước chấm, kể cả muối tiêu chanh, nhưng không có loại nào vượt qua được
mắm cua. Người Gia Lai xa quê lên cơn nghiền rau rừng vẫn phải nhờ người quen

để gửi vài bó rau theo đường hàng không để ăn cho đỡ thèm.
Rau rừng đã có mặt cả trong các siêu thị ở Pleiku, được bán với giá khoảng hơn
30.000 đồng/kg. Riêng mắm cua thì không dễ kiếm, lại khó mang theo nên được
thay bằng nước mắm kho quẹt kiểu Nam bộ, tuy không đúng chất rừng nhưng cũng
chấp nhận được.
6. Cá lăng

Cá lăng, một đặc sản mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho người Tây Nguyên, là
loài cá nước ngọt, thuộc bộ cá da trơn, có nhiều trên sông Sêrêpốk. Cá có vị ngọt,
béo, thơm ngon nên đã có mặt trong thực đơn của các quán ăn, nhà hàng, khách
sạn và được nhiều thực khách ưa chuộng. Cá lăng dùng để làm chả, cá lăng om
chuối, cá lăng hấp, cá lăng xào tỏi hay cá lăng nấu cháo, món nào cũng thơm cũng

ngon.
Cá lăng nướng là món ngon với những hương vị béo, thơm, ngọt, đậm đà. Cá lăng
làm sạch, để ráo, loại bỏ da và xương, cắt miếng vừa ăn rồi ướp với nước mắm, mì
chính, mẻ, nước cốt riềng, nghệ khoảng mười phút cho cá thấm gia vị. Trước khi
nướng cá trên than hồng, cần phết một lớp dầu phộng lên từng miếng cá. Người
đầu bếp phải khéo léo lật trở vỉ nướng nhằm tránh làm cá cháy.
Khi những miếng cá lăng chảy mỡ kêu xèo xèo và từng miếng cá chuyển sang màu
nâu cánh gián, dậy lên hương thơm quyến rũ của thịt cá và mẻ là khâu nướng cá đã
hoàn thành. Món cá lăng nướng có thể ăn kèm với bún. Nhưng cá lăng nướng cuốn
bánh tráng với các loại rau: khế, chuối chát, dứa, húng, quế, là món ngon rất lạ
miệng. Những hương vị béo, ngọt, thơm của cá quyện với vị dai của bánh tráng,
tươi non của các loại rau cùng vị đậm đà của nước mắm chanh, tỏi, ớt khiến những

ai lần đầu thưởng thức món ngon này sẽ nhớ mãi không quên.
Lẩu cá lăng nấu canh chua là một món ngon giải nhiệt, bổ dưỡng, được nhiều
người lựa chọn trong mùa hè. Nguyên liệu chính để nấu lẩu gồm: cá lăng, măng
chua, nghệ tươi giã nhỏ, cà chua chín băm nhuyễn. Cá lăng làm sạch, cắt lát vừa ăn
rồi trụng qua nước sôi cho thịt cá săn chắc. Phi thơm dầu phộng với hành băm rồi
cho nghệ tươi và cà chua vào xào lấy nước màu, tiếp tục cho cá lăng và măng chua
vào, nêm gia vị gồm bột nêm, mì chính, nước mắm, để lửa nhỏ cho cá thấm gia vị.
Cuối cùng, cho nước hầm xương vào nồi lẩu, đun sôi lẩu rồi tắt bếp. Để món ăn
thêm nhiều hương vị cần cho thêm một ít tiêu bột, ớt tươi cắt lát và một ít rau thơm
như hành lá, ngò rí. Lẩu cá lăng nấu canh chua dùng kèm với bún hay ăn như một
món canh chua thông thường vừa thơm ngon lại rất ngọt nước, thích hợp dùng
trong những ngày hè nắng nóng.

7. Canh cà đắng

Người dân tộc Tây Nguyên – Đắk Lắk, Đắk Nông thường dùng cà đắng chế biến
món ăn trong các bữa cơm để phòng và chữa bệnh thống phong, thấp khớp hay đau
nhức. Cây cà đắng mọc hoang trên nương rẫy rồi được trồng nhiều trong vườn, hầu
như nhà của người Ê Đê nào cũng có trồng cà đắng. Cây có gai, có trái quanh năm,
có loại ít và loại nhiều gai; càng nhiều gai cà càng đắng, đắng như khổ qua. Nay
thấy cà ăn ngon, có tín hiệu tích cực cho sức khoẻ, người Kinh cũng trồng đại trà
bán ở các chợ, giá đến 10.000đồng/kg. Trái lớn gấp đôi, ba lần trái cà pháo nhưng
tròn ô van chứ không tròn quay.

Cách nấu dân dã của người Ê Đê ngon một cách bất ngờ. Đầu cá trích khô cho vào

cối giã nát, khử hành hay tỏi với một ít dầu, đưa bột đầu cá trích vào xào sơ – dậy
thơm nhờ tinh dầu cá trích có nhiều trên đầu. Đổ nước vào nấu canh, sôi lên, cho
cà xắt khoanh hay bổ như múi cam vào. Khi cà mềm, chắt nước cơm cho vào nồi
canh để nước có độ sền sệt, làm tô canh thơm lạ cùng với vị ngọt, đắng nhẫn nhẫn
của cà

Canh cà đắng thường giằm nhiều ớt cay và "đắng cay" này để thưởng thức chứ
không than vãn. Cầu kỳ hơn, da heo cắt cỡ chừng hai đốt ngón tay nấu thêm
trong nồi canh cà đắng, tăng vị béo béo, dai dai mà ngon đáng kể.

Cá khô là thực phẩm dự trữ phổ biến của người miền núi và không biết tự bao giờ
người Ê Đê lại chọn được đầu con cá trích khô nấu cà đắng – nó tương hợp một

cách ngon lành. Có lẽ tinh dầu cá trích thơm ngậy mà thường được đóng hộp, "biến
tấu" khác, dùng cá hộp nấu canh cà đắng thay cho đầu cá trích giã nát – vẫn không
thua kém nhau.

Cà đắng với người Ê Đê còn nấu với cá khô, cá hấp, tôm tép khô, ốc, còn người
Kinh nấu canh cá tươi hoặc um cà với ếch, lươn, thịt dê, gà bò Đĩa cà đắng um
mềm nhừ, thơm là lạ và vị khó bị trùng nhờ chất nhẫn đắng của chính nó. Hiện
nay, món dân gian này đã vào nhà hàng, quán xá với giá chừng 55.000đ/tô.

Theo chỉ vẽ của dân gian, cà đắng không ăn sống như cà pháo mà chỉ ăn chín. Có
thể mua nhiều về cắt miếng phơi khô, treo giàn bếp dùng dần; trước khi nấu đem
ngâm nước chừng 5 – 10 phút, cà mềm và vị đắng vẫn không mất đi.


8. Măng nướng xào "vêch" bò




Bạn đã nghe đến măng xào, măng luộc, măng chua, măng khô và những món được
chế biến từ chúng. Nhưng chắc ít ai biết đến món măng thui hay măng nướng. Đây
là một món ăn đặc sản ở xã Ea Sol, huyện Ea Hleo, tỉnh Đắk Lắk.

Một số người có thể không thích cái mùi của vêch (lòng phèo) bò, nên món này
khá là khó nuốt, nhưng đã là người con của Ê Đê phải biết ăn vêch. Món vêch xào

măng nướng chỉ dùng trong bữa ăn sáng, chiều của người dân. Nó có vị hơi đắng
nơi đầu lưỡi của vêch bò, sau đó là vị ngọt thanh của măng rừng, vị cay của ớt.
Măng có mùi vị rất thơm, không như măng luộc.

Mùa nào thức đấy, nhưng phải đợi mùa mưa, măng le rừng mọc mới nấu món đó
được, chứ mua măng ở chợ nấu không ngon. Nếu phải làm để đãi khách thì có thể
dùng tạm măng m’ô để nấu vêch bò. Tuy măng m’ô cũng mềm và ngọt nhưng món
măng nướng này phải là măng alê mọc tự nhiên ở rừng mới ngọt thơm và dai,
không bị nhão.

Để làm món ăn này, đầu tiên đặt những cây măng lên bếp lửa nướng trên lửa to,
cho cháy lớp áo măng bên ngoài, rồi khơi than cho lửa liu riu, chờ măng chín, để

nguội, bóc sạch sẽ áo măng, rửa lại rồi mới xắt nhỏ ra. Dùng vêch đã khô, cứng,
vắt lấy chất dịch màu xanh đen hơi, đặc quánh trong đó ra chiếc chén con. Đặt
chiếc chảo bự nhất lên bếp lửa cháy đỏ, giã nát một nắm củ nén và ớt chuột rồi rồi
phi thơm, sau đó cho măng vào xào cho nóng, gia vị chỉ cần muối và mì chính là
đủ. Món này phải cay mới ngon. Măng đã được nướng chín nên chỉ xào sơ qua cho
nóng là có thể cho vêch vào chung. Trong khi xào phải đảo đều tay và liên tục để
vêch không bị khô và dính vào đáy chảo.

Mùi thơm của vêch bò, củ nén, của măng nướng như mời gọi. Nhìn nồi măng nghi
ngút khói mà nước miếng cứ chảy ra. Người không quen ăn cay có thể chảy cả
nước mắt, nhưng nồi cơm gạo rẫy mới thơm thơm, hết bay lúc nào không biết.


9. Cá tiến vua



Trên bàn tiệc, món rau rừng còn được bỏ vào lẩu cá, đa phần là những loài cá đánh
bắt được từ sông Sê San. Dòng sông hùng vĩ, lắm thác ghềnh này ngoài khả năng
thủy điện còn chứa trong lòng những loài thủy sản quý hiếm như cá sọc dưa, cá
lăng, cá chiên, thậm chí cả loài cá anh vũ.

Nhìn thấy cá anh vũ trong thực đơn, thực khách khấp khởi, vừa mừng lại vừa lo.
Mừng vì có người ngược ra tận vùng Việt Trì, Phú Thọ, sẵn sàng bỏ cả triệu đồng
cho một đĩa cá anh vũ mà đâu có cơ may thưởng thức, còn lo vì giữa đại ngàn mà

có cá anh vũ chễm chệ trong thực đơn thì chắc đó là… đồ nhái!

Theo mô tả của người am hiểu về cá ở xứ này, cá anh vũ có dáng dấp khá giống cá
trôi, nhưng vảy có sắc óng ánh, phần đầu thuôn và đặc biệt là cặp môi hình tam
giác rất dày (có nơi còn gọi là cá lợn). Xin chủ quán cho ngắm mặt mày con cá
này, chủ quán đành lắc đầu phân bua rằng thường trong ngày chỉ có một con, mà
đã chế biến sơ rồi, có muốn xem cũng chịu.

Cả thành phố Pleiku chỉ có đôi ba quán có bán loài cá này. Những ngư dân dọc
sông Sê San thường chặn bắt cá anh vũ ở vùng nước trong, nhiều hang hốc, chủ
yếu ở khu vực thủy điện Ialy.


Cá rất có giá nên lâu ngày ngư dân có lẽ cũng quên vị cá, bởi đánh bắt được là
đành chép miệng "gả" lại cho các nhà hàng. Còn việc cá không còn nguyên vẹn vì
được mổ sạch ruột ngay khi đánh bắt được để tránh bị trương phình do cá thường
bốc mùi ươn nhanh.

Thịt cá chắc nhưng vẫn mềm mại, trắng và thơm, thường được làm thành vài món
là nướng mọi, nướng muối ớt, hấp, nấu lẩu măng chua. Hấp dẫn hơn cả là món
chiên giòn với gừng, ban đầu cứ ngỡ là thịt gà nhưng cắn vào thì thơm ngon hơn
nhiều. Ngon không chỉ vì thịt cá, mà còn bởi được tận hưởng cảm giác "làm vua"
trên bàn tiệc đại ngàn, ai ăn cũng cứ luôn miệng tấm tắc khen.

10. Lẩu lá rừng


Ai từng ghé thăm phố núi Pleiku chắc đã được thưởng thức nhiều món ngon vật lạ.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có cơ hội để nếm thử món lẩu lá rừng hấp dẫn.

Bạn có thể dễ dàng tìm mua và thưởng thức những món ăn dân dã nơi đây, tuy
nhiên, bạn sẽ không dễ dàng để được thưởng thức món lẩu lá rừng vì có rất ít nơi
bán món ăn này. Và nếu có may mắn được thưởng thức món ăn này trong những
nhà hàng, quán ăn thì cũng không thể hấp dẫn bằng việc thưởng thức nó ngay giữa
núi rừng Tây Nguyên bạt ngàn.

Món lẩu lá rừng này được chế biến đầu tiên bởi những người dân tộc Ê Đê nơi đây,
khi cuộc sống còn nhiều khó khăn, để có thức ăn nuôi sống hằng ngày, người Ê đê

phải vào rừng để hái những loại lá khác nhau về nấu canh. Trải qua thời gian, lẩu
lá rừng đã trở thành món đặc sản của người dân tộc bản địa.

Gọi là lẩu nhưng thực ra giống món canh hơn, nguyên liệu được dùng ngoài nhiều
loại lá khác nhau chỉ là tôm khô hoặc các loại thịt khác. Dường như hương vị của
núi rừng, của đại ngàn đã thấm vào từng chiếc lá. Có hơn 10 loại lá được dùng để
chế biến món ăn này, phần lớn chúng được người dân bản địa phát hiện ra khi đi
rừng. Điều đó có thể khiến bạn lo sợ về độ an toàn của món ăn này, tuy nhiên, với
những người con của núi rừng, họ luôn đủ kinh nghiệm để chọn cho mình những
loại lá không gây độc cho cơ thể.

Thưởng thức kèm với thịt heo rừng hấp, hay những món ăn dân dã khác sẽ giúp

bạn cảm nhận hết hương vị của vùng đất cao nguyên hoang sơ. Vị cay nồng của lá
cây tươi, kèm theo chút vị ngọt của các loại gia vị sẽ là thứ khiến bạn không bao
giờ quên được khi đã một lần thưởng thức lẩu lá rừng.

11. Heo rẫy nướng

Heo rẫy là loại heo đồng bào nuôi kiểu chăn thả tự nhiên. Khi ả heo nào đó
rời buôn mấy ngày, chủ nhân của nó lại biết chắc hơn ba tháng nữa nó sẽ trở
về cùng với đàn con lai heo rừng bờm dựng đen trũi. Heo rừng da dày, heo
rẫy da mỏng nhưng rất ít mỡ, thịt mềm ngọt chắc, giá đắt gấp rưỡi thịt "heo
phổ thông" nuôi mổ chất đầy các sạp chợ.


Hai món heo nướng cao nguyên và heo nướng muối ớt đều tỏa mùi thơm
gốc rễ vì có chung mấy loại gia vị tẩm ướp cơ bản: củ nén, ngò gai, gốc mùi,
sả, ớt. Món nướng cao nguyên thì chặt nhỏ xiên tre, món nướng muối ớt thì
nướng nguyên con dùng dao xẻo tại bàn. Bí quyết heo nướng để lâu vẫn óng
ả giòn thơm là dùng sô-đa đánh tan mạch nha và nước cốt chanh, phết nhiều
lớp lên da, quay đều trên bếp than hồng.

12. Bò một nắng nướng

Thị trấn Củng Sơn (Phú Yên) là nơi sản sinh ra loại bò một nắng này. Ngày nay bò
một nắng đã trở thành đặc sản phổ biến không chỉ ở Phú Yên mà còn ở các tỉnh
Tây Nguyên. Tên gọi của bò một nắng bắt nguồn từ cách chế biến. Món ăn được

làm từ thịt bò tươi, thái thành từng miếng mỏng, ướp sơ qua với các loại gia vị,
đem phơi ngoài nắng trong một ngày nên có tên gọi là bò một nắng. Sau đó đóng
vào bao cất giữ, khi ăn chỉ cần lấy ra nướng chín trên bếp than hồng và thưởng
thức với muối kiến vàng của người dân tộc.

Chế biến bò một nắng rất đơn giản, chỉ cần chọn loại nguyên liệu ngon là được.
Theo bí quyết của người dân ở đây, thịt bò nhất quyết phải là bò tơ, được chăn thả
trong tự nhiên nên thớ thịt săn chắc, ít nước lại có vị ngọt tự nhiên đem lại cho
người ăn cảm giác ngon miệng. Thịt được lóc bỏ da, rửa sạch và thái thành từng
miếng mỏng, lớn cỡ bằng bàn tay là được. Thịt sau khi thái xong được ướp sơ qua
với các loại gia vị như đường, muối, bột nêm, ớt trái giã nhỏ, vừng.


Khâu ướp gia vị rất quan trọng, không nên ướp đậm quá vì khi nướng chín, thịt sẽ
bị mặn không ngon, cũng không nên ướp nhạt quá, bò không thấm đủ gia vị, sẽ
nhanh hư, không để lâu được. Sau đó đem phơi ngoài nắng, nếu trời nắng to, chỉ
cần phơi trong một ngày, thịt bò khô lại, cầm lên tay không bị dính là được. Khi
ăn, chỉ cần lấy từng miếng thịt, cho lên vỉ và nướng trên bếp than hồng. Thịt nướng
chín rám vàng hai cạnh cùng mùi thơm tỏa ra rất quyến rũ. Khi nướng nhớ trở đều
tay để thịt chín đều và không bị cháy.

Bò sau khi nướng chín, được cho lên thớt, dùng chày đập nhẹ cho miếng bò mềm,
xé thành từng miếng nhỏ. Bò một nắng được ăn kèm với dưa leo, chuối chát, các
loại rau thơm và thức chấm. Thức chấm của món ăn này rất phong phú, có thể là
tương ớt, muối ớt chanh nhưng độc đáo và ngon miệng hơn cả phải là muối kiến

vàng của người dân tộc.

Kiến vàng (hay còn gọi là kiến càng) là loại côn trùng chuyên sống trên cây trong
rừng hay các vườn cây ăn trái. Kiến sau khi bắt về, cho lên chảo rang sơ kiến và
trứng kiến. Sau đó cho thêm gia vị như muối, ớt vào cối và giã nhuyễn với một loại
lá rừng đặc biệt có tên gọi là lá then len (tên gọi của người dân tộc). Xé một miếng
thịt bò, chấm vào chén muối kiến vàng và thưởng thức cùng các loại rau để cảm
nhận thịt bò mềm và ngọt hòa trong cái đậm đà nhưng chua chua của muối kiến rất
ngon miệng.

×