Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

ĐỀ TÀI " ĐỔI MỚI CUNG ỨNG DICH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM PHẦN " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.07 KB, 59 trang )

Luận văn
ĐỀ TÀI: ĐỔI MỚI CUNG
ỨNG DICH VỤ CÔNG Ở
VIỆT NAM PHẦN
Mục lục
ĐỔI MỚI CUNG ỨNG DICH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM
PHẦN I
NHỮNG TIẾN TRIỂN 20 NĂM QUA TRÊN THẾ GIỚI
TRONG QUAN NIỆM VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ CÔNG
VÀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUAN NIỆM VỀ DỊCH VỤ CÔNG
I.1. Khái niệm dịch vụ công
Dịch vụ công (từ tiếng Anh là “public service”) có quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng
hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tính cơ bản như:
1. là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó; 2.
việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác; 3. và không
thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn tồn tại. Nói
một cách giản đơn, thì những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa
công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là
hàng hóa công cộng không thuần túy.
Khái niệm “dịch vụ công” được sử dụng phổ biến rộng rãi ở châu Âu sau Chiến tranh
thế giới lần thứ hai. Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ công luôn gắn với vai trò của
nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng dịch vụ
công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành
chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết
yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những
hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ đối tượng được
hưởng hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà
nước hoặc tư nhân đảm nhiệm. Từ điển Petit Larousse của Pháp xuất bản năm 1992 đã định


nghĩa: “dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm
nhiệm”.
Khái niệm và phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi
quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ quốc
phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế- xã hội (tạo việc
làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, bảo hiểm xã hội,
…). Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu
cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ chức tư nhân
thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Tuy vậy, ở mỗi nước lại có nhận
thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ở Pháp, khái niệm dịch vụ công được hiểu rộng,
bao gồm không chỉ các hoạt động phục vụ nhu cầu về tinh thần và sức khoẻ của người dân
(như giáo dục, văn hoá, y tế, thể thao…, thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt
động phục vụ đời sống dân cư mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ
sinh môi trường, thường được gọi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công,
bao gồm hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch,… mà cả hoạt động
thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng…; còn ở Italia dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở
hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh
môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.
Ở Việt Nam, nên tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của nhà nước, mà
không bao gồm các chức năng công quyền, như lập pháp, hành pháp, tư pháp, ngoại giao,
qua đó nhấn mạnh vai trò chủ thể của nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng
đồng. Điều quan trọng là chúng ta phải sớm tách hoạt
2
động dịch vụ công (lâu nay gọi là hoạt động sự nghiệp) ra khỏi hoạt động hành chính
công quyền như chủ trương của Chính phủ đã đề ra, nhằm xoá bỏ cơ chế bao cấp, giảm tải cho
bộ máy nhà nước, khai thác mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, và nâng cao chất lượng của
dịch vụ công phục vụ người dân. Điều 22 của Luật Tổ chức chính phủ (2001) quy định: “Bộ,
cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công
thuộc ngành, lĩnh vực;…”. Điều này không có nghĩa là nhà nước độc quyền cung cấp các dịch

vụ công mà trái lại nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần
việc cung ứng một phần của một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước,… cho khu
vực phi nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều
góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích
chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo các
dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ
công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng
trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.
Từ những tính chất trên đây, dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động phục
vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực
tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện.
I.2. Các loại dịch vụ công, phương thức cung ứng và các đặc điểm chính của dịch vụ
công
I.2.1. Các loại dịch vụ công
Cần thiết phải có sự phân loại đúng đắn các hình thức dịch vụ công để hình thành cơ chế quản
lý phù hợp. Thí dụ, đối với các loại hình dịch vụ công quan trọng nhất, thiết yếu nhất như y tế,
giáo dục, cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo…, nhà nước có trách nhiệm dành cho chúng
những nguồn lực ưu tiên. Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét
theo tính chất của dịch vụ, hoặc theo các hình thức dịch vụ cụ thể,… Thí dụ, xét theo tiêu chí
chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành ba loại, như sau:
- Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch vụ công
cộng cơ bản do các cơ quan của nhà nước cung cấp. Thí dụ, an ninh, giáo dục phổ thông,
chăm sóc y tế công cộng, bảo trợ xã hội,…
3
-Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp, gồm những
dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp thực hiện mà uỷ nhiệm
cho tổ chức phi chính phủ và tư nhân thực hiện, dưới sự đôn đốc, giám sát của nhà nước. Thí
dụ, các công trình công cộng do chính phủ gọi thầu có thể do các công ty tư nhân đấu thầu xây
dựng.

- Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân phối hợp
thực hiện. Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nước. Như ở
Trung quốc, việc thiết lập hệ thống bảo vệ trật tự ở các khu dân cư là do cơ quan công an, tổ
chức dịch vụ khu phố và ủy ban khu phố phối hợp thực hiện.
Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công
thành các loại như sau:
- Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà
nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung ứng duy
nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà nước thành lập được
ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công. Đây là một phần trong chức năng quản
lý nhà nước. Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ
trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,… (Ở
một số nước, dịch vụ hành chính công được coi là một loại hoạt động riêng, không nằm trong
phạm vi dịch vụ công. Ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng có quan điểm như vậy). Người
dân được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường,
mà thông qua việc đóng lệ phí hoặc phí cho các cơ quan hành chính nhà nước. Phần lệ phí này
mang tính chất hỗ trợ cho ngân sách nhà nước.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết yếu
cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, thể dục thể thao, bảo
hiểm, an sinh xã hội,…( Sự nghiệp là một từ gốc Trung quốc, được dùng theo nhiều nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, từ ‘sự nghiệp” dùng để chỉ những hoạt động chuyên môn nhằm đáp ứng
những nhu cầu của xã hội và cá nhân con người, chủ yếu là về những lĩnh vực liên quan đến
sự phát triển con người về văn hoá, tinh thần và thể chất). Xu hướng chung hiện nay trên thế
giới là nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc
không muốn làm, nên nhà nước đã chuyển giao một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này
cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội.
- Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết yếu
cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch, vận tải
công cộng đô thị, phòng chống thiên tai…chủ yếu do các doanh
4

nghiệp nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân
đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác thải ở một số đô thị nhỏ,
cung ứng nước sạch ở một số vùng nông thôn…
I.2.2. Các hình thức cung ứng dịch vụ công
Trên thực tế, có những loại dịch vụ rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng
đồng, nhưng tư nhân không muốn hoặc chưa đủ điều kiện tham gia, vì nó không mang lại lợi
nhuận, hoặc do tư nhân không đủ quyền lực và vốn để tổ chức việc cung ứng, thí dụ như các
dịch vụ phải đầu tư lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ tiêm chủng, cứu hỏa, thoát nước,
… Đối với những loại dịch vụ này, hơn ai hết nhà nước có khả năng và trách nhiệm cung ứng
cho người dân. Bên cạnh đó, cũng có những loại dịch vụ mà thị trường có thể cung cấp nhưng
cung cấp không đầy đủ, hoặc dễ tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, làm ảnh hưởng đến lợi
ích của người tiêu dùng nói riêng và toàn thể xã hội nói chung, chẳng hạn như dịch vụ y tế,
giáo dục, điện, nước sinh hoạt, … Trong trường hợp đó, nhà nước có trách nhiệm trực tiếp
cung ứng hoặc kiểm soát thị trường tư nhân để đáp ứng những quyền lợi cơ bản của người
dân. Tuy nhiên, trên thực tế, nhà nước không phải là tác nhân duy nhất cung ứng dịch vụ
công. Tuỳ theo tính chất và loại hình, dịch vụ công có thể do các cơ quan nhà nước trực tiếp
thực hiện hoặc có thể được chuyển giao cho khu vực phi nhà nước. Có thể thấy rõ rằng, theo
thời gian, vai trò của nhà nước và các tác nhân khác trong cung ứng dịch vụ công có sự biến
đổi đáng kể dẫn đến các dạng thức cung ứng dịch vụ công khác nhau. Hiện nay, việc cung ứng
dịch vụ công ở hầu hết các nước thông thường được tiến hành theo các hình thức sau:
- Các cơ quan nhà nước trực tiếp cung ứng dịch vụ công. Theo hình thức này, nhà
nước chịu trách nhiệm trực tiếp cung ứng dịch vụ công đối với các dịch vụ liên quan đến an
ninh quốc gia và lợi ích chung của đất nước (như quốc phòng, an ninh, hộ tịch…) mà chỉ có
cơ quan công quyền mới có đủ tư cách pháp lý để làm. Nhà nước với vai trò chủ đạo của
mình, cũng trực tiếp cung ứng các loại dịch vụ thuộc các lĩnh vực và địa bàn không thuận lợi
đầu tư (ví dụ vùng sâu, vùng xa) mà thị trường không thể hoặc không muốn tham gia do chi
phí quá lớn hay không có lợi nhuận. Các đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành lập để cung ứng
như các bệnh viện và trường học công, các cơ sở cung cấp điện nước…hoạt động tương tự các
công ty nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Ban đầu, nhà nước đầu tư cho các đơn vị đó, sau
đó họ sẽ tự trang trải và khi cần thiết có thể nhận được sự hỗ trợ bù đắp của nhà nước.

- Nhà nước chuyển một phần hoạt động cung ứng dịch vụ công cho thị trường dưới các
hình thức:
5
+ Uỷ quyền cho các công ty tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ cung ứng một số
dịch vụ công mà nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và thường có nguồn kinh phí từ ngân sách
nhà nước như vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải, xây dựng và xử lý hệ thống cống
thoát nước v.v…Công ty tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ được uỷ quyền phải tuân thủ
những điều kiện do nhà nước quy định và được nhà nước cấp kinh phí ( loại dịch vụ nào có
thu tiền của người thụ hưởng thì chỉ được nhà nước cấp một phần kinh phí).
+ Liên doanh cung ứng dịch vụ công giữa nhà nước và một số đối tác trên cơ sở đóng
góp nguồn lực, chia sẻ rủi ro và cùng phân chia lợi nhuận. Hình thức này cho phép nhà nước
giảm phần đầu tư từ ngân sách cho dịch vụ công mà vẫn tham gia quản lý trực tiếp và thường
xuyên các dịch vụ này nhằm đảm bảo lợi ích chung.
+ Chuyển giao trách nhiệm cung ứng dịch vụ công cho các tổ chức khác đối với các dịch
vụ mà các tổ chức này có điều kiện thực hiện có hiệu quả như đào tạo, khám chữa bệnh, tư
vấn, giám định…(bao gồm các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội…), đặc biệt là, các tổ
chức này tuy là đơn vị tư nhân hoặc phi chính phủ nhưng được khuyến kích hoạt động theo cơ
chế không vì lợi nhuận, chỉ thu phí để tự trang trải.
+ Tư nhân hoá dịch vụ công, trong đó nhà nước bán phương tiện và quyền chi phối
của mình đối với dịch vụ nào đó cho tư nhân song vẫn giám sát và đảm bảo lợi ích công bằng
pháp luật.
+ Mua dịch vụ công từ khu vực tư nhân đối với các dịch vụ mà tư nhân có thể làm tốt
và giảm được số người làm dịch vụ trong cơ quan nhà nước, như bảo dưỡng phương tiện
phòng cháy, chữa cháy, các phương tiện tin học, đáp ứng nhu cầu về phương tiện đi lại, làm
vệ sinh và công việc phục vụ trong cơ quan…
I.2.3. Các đặc điểm của dịch vụ công
Các loại dịch vụ công và các hình thức cung ứng dịch vụ công tuy có đặc điểm, tính
chất khác nhau, song chúng có những đặc điểm chung cơ bản như sau:
- Dịch vụ công có tính xã hội, với mục tiêu chính là phục vụ lợi ích cộng đồng đáp ứng nhu
cầu của tất cả công dân, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội và bảo đảm công bằng và ổn

định xã hội, mang tính quần chúng rộng rãi. Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc
tiếp cận các dịch vụ công với tư cách là đối tượng phục vụ của nhà nước. Từ đó có thể thấy
tính kinh tế, lợi nhuận không phải là điều kiện tiên quyết chi phối hoạt động dịch vụ công.
- Dịch vụ công cung ứng loại “hàng hóa” không phải bình thường mà là hàng hóa đặc biệt do
nhà nước cung ứng hoặc ủy nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện,
6
đáp ứng nhu cầu toàn xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi
hiện vật.
- Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông
thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay đúng hơn là đã trả tiền dưới
hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ công mà người sử dụng
vẫn phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí; song nhà nước vẫn có trách nhiệm đảm bảo cung
ứng các dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Từ góc độ kinh tế học, dịch vụ công là các hoạt động cung ứng cho xã hội một loại
hàng hoá công cộng. Loại hàng hóa này mang lại lợi ích không chỉ cho những người mua nó,
mà cho cả những người không phải trả tiền cho hàng hóa này. Ví dụ giáo dục đào tạo không
chỉ đáp ứng nhu cầu của người đi học mà còn góp phần nâng cao mặt bằng dân trí và văn hoá
của xã hội. Đó là nguyên nhân khiến cho chính phủ có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong
việc sản xuất hoặc bảo đảm cung ứng các loại hàng hóa công cộng.
Với sự đa dạng của các loại dịch vụ công, của các hình thức cung ứng dịch vụ công, và
những đặc điểm của dịch vụ công, có thể thấy rằng cung ứng loại dịch vụ này một cách có
hiệu quả không phải là một vấn đề đơn giản. Nhà nước phải xác định rõ loại dịch vụ nào nhà
nước cần giữ vai trò cung ứng chủ đạo, loại dịch vụ nào cần chuyển giao cho khu vực tư nhân
và các tổ chức xã hội, loại dịch vụ nào nhà nước và khu vực tư nhân có thể phối hợp cung ứng
và vai trò điều tiết, quản lý của nhà nước về vấn đề này như thế nào. Kinh nghiệm của nhiều
nước những năm qua cho thấy rằng, trong cung ứng dịch vụ công, nhà nước chỉ trực tiếp thực
hiện những loại dịch vụ công mà khu vực phi nhà nước không thể làm được và không muốn
làm. Nếu nhà nước không chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công ở các lĩnh vực thích hợp
cho khu vực phi nhà nước và cải cách việc cung ứng dịch vụ công của các cơ quan nhà nước,
thì hiệu quả cung ứng dịch vụ công về tổng thể sẽ bị giảm sút, ảnh hưởng tiêu cực đến đời

sống của người dân và sự phát triển chung của toàn xã hội.
I.3. Tác dụng của dịch vụ công trong tiến trình phát triển và vai trò quản lý, điều tiết của
nhà nước trong cung ứng dịch vụ công
I.3.1. Tác dụng của dịch vụ công trong phát triển kinh tế- xã hội
Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lượng cung ứng
dịch vụ công, bởi vì dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã
hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững và có kỷ cương, trật tự. Mọi xã hội đều có những
vấn đề chung, liên quan đến cuộc sống của tất cả mọi người. Đó là các vấn đề như trật tự trị
an, phân hóa giàu nghèo, giáo dục, y tế, dân
7
số, môi trường, tài nguyên,… Để giải quyết thành công các vấn đề này, cần có sự góp sức
của cả nhà nước, cộng đồng và các tổ chức xã hội thông qua việc cung ứng các dịch vụ công.
Nếu các dịch vụ công bị ngừng cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chất lượng thấp thì sẽ
dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mỗi người
dân, đồng thời tác động tiêu cực đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Nhìn chung, dịch vụ công đáp ứng những nhu cầu chung của xã hội về các lĩnh vực sau
đây:
- duy trì trật tự công cộng và an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh, ngoại giao.
- bảo vệ trật tự kinh tế, trật tự mua bán trên thị trường thông qua việc xây dựng và thực thi
thể chế kinh tế thị trường.
- cung cấp các tiện ích công cộng cho toàn thể thành viên trong xã hội như bảo vệ sức
khỏe, giáo dục đào tạo, giao thông công cộng, thông tin, thư viện công cộng
- quản lý tài nguyên và tài sản công cộng như: quản lý tài sản nhà nước, bảo vệ môi
trường, tài nguyên thiên nhiên.
- bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Đề cập sâu hơn tới tác dụng của việc cung ứng dịch vụ công, chúng ta có thể lấy thí dụ
trong lĩnh vực hành chính công. Hành chính công có liên quan đến mức độ thoả mãn các nhu
cầu công cộng của xã hội, liên quan đến tiến bộ kinh tế, xã hội của một quốc gia. Theo các
nhà nghiên cứu Trung quốc1, tác dụng của hành chính công chủ yếu là tác dụng dẫn đường,
tác dụng quản chế, tác dụng phục vụ và tác dụng giúp đỡ. Nói về tác dụng quản chế, tức là nhà

nước phát huy năng lực quản lý công cộng mang tính quyền uy, cưỡng chế để xử lý, điều hòa
các quan hệ xã hội và lợi ích xã hội, đảm bảo cho xã hội vận hành tốt; còn về tác dụng giúp
đỡ, đó chính là sự giúp đỡ của nhà nước đối với các địa phương nghèo, những người có hoàn
cảnh khó khăn, như giúp đỡ người nghèo, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, y tế,
… Việc cung ứng dịch vụ hành chính công còn có tác dụng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế
-xã hội của đất nước. Khi cung cấp các dịch vụ này, nhà nước sử dụng quyền lực công để tạo
ra dịch vụ như cấp các loại giấy phép, đăng ký, chứng thực, thị thực Tuy xét về mặt hình
thức, sản phẩm của các dịch vụ này chỉ là các loại văn bản giấy tờ, nhưng chúng lại có tác
dụng chi phối quan trọng đến các hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước. Chẳng hạn, giấy
đăng ký kinh doanh của doanh
1 Hành chính công và quản lý hiệu quả chính phủ H.: NXB Lao động xã hội, 2005
8
nghiệp thể hiện việc nhà nước công nhận doanh nghiệp đó ra đời và đi vào hoạt động, điều
này dẫn đến những tác động và kết quả đáng kể về mặt kinh tế - xã hội. Ngoài ra, thông qua
việc cung ứng dịch vụ công, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để đảm bảo quyền dân chủ
và các quyền hợp pháp khác của công dân.
Nguyên tắc nhà nước phải chịu trách nhiệm cao nhất và cũng là trách nhiệm cuối cùng
đối với việc cung ứng đầy đủ về số lượng, chất lượng, có hiệu quả dịch vụ công cho dù là nhà
nước tiến hành thực hiện trực tiếp hay thông qua các tổ chức và cá nhân khác là một lá chắn
bảo vệ an toàn cho cuộc sống của mỗi người dân. Với việc nhà nước bảo đảm sự công bằng,
bình đẳng cho công dân, nhất là nhóm dân cư dễ bị tổn thương, trong việc tiếp cận và hưởng
thụ các dịch vụ công thiết yếu liên quan trực tiếp tới đời sống như y tế, giáo dục, an sinh xã
hội…, người dân được hưởng các quyền sống cơ bản của mình, trên cơ sở đó học tập, làm
việc nâng cao mức sống của bản thân và đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Như vậy, dịch vụ
công có tác dụng cực kỳ to lớn đối với sự phát triển của đất nước và từng người dân, và là yếu
tố quan trọng góp phần ổn định xã hội.
I.3.2. Vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công
Chúng ta đều biết rằng, nhà nước của bất kỳ chế độ nào cũng bao gồm hai chức năng
cơ bản: chức năng quản lý (hay còn gọi là chức năng cai trị) và chức năng phục vụ (hay còn
gọi là chức năng cung cấp dịch vụ cho xã hội). Hai chức năng này thâm nhập vào nhau, trong

đó chức năng phục vụ là chủ yếu, chức năng quản lý xét đến cùng cũng nhằm phục vụ. Với
chức năng phục vụ, như đã phân tích ở các phần trên, nhà nước có trách nhiệm cung ứng các
dịch vụ công thiết yếu cho xã hội. Bên cạnh đó, với chức năng quản lý, nhà nước phải thực
hiện vai trò quản lý và điều tiết xã hội nói chung, trong đó có vấn đề dịch vụ công. Nhà nước
bằng quyền lực của mình, thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, để quản lý và điều tiết hoạt động cung ứng dịch vụ công, qua đó làm tăng
hiệu quả cung ứng dịch vụ công trong toàn xã hội.
- Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức tự quản của cộng đồng tham gia cung ứng dịch vụ công
Vai trò này vượt ra khỏi phạm vi quản lý nhà nước thuần túy, xuất phát từ việc xác
định trách nhiệm cao nhất và đến cùng của nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ công không có
nghĩa là nhà nước phải trực tiếp cung ứng toàn bộ các dịch vụ này. Thực hiện vai trò này, nhà
nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích tư nhân, các doanh nghiệp và các tổ
chức xã hội của người dân tham gia cung ứng dịch vụ công. Cơ chế, chính sách ấy bao gồm:
vạch rõ những lĩnh vực dịch vụ cần khuyến khích sự tham gia của khu vực phi nhà nước,
chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách thuế, các điều kiện vật chất, các chính sách đào tạo,
kiểm tra và kiểm
9
soát, Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý chung cho tất cả các đơn vị cung
ứng dịch vụ công, đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà cung ứng dịch vụ công.
- Nhà nước quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở ngoài nhà nước cung ứng
dịch vụ công
Xét cho cùng, nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước xã hội về số
lượng cũng như chất lượng dịch vụ công, kể cả các dịch vụ công được thực hiện bởi các công
ty tư nhân hay các tổ chức kinh tế-xã hội. Trong khi đó, đối với các công ty tư nhân, các tổ
chức, cá nhân đảm nhận các dịch vụ công, lợi ích của chính bản thân họ không phải bao giờ
cũng thống nhất với lợi ích của nhà nước, của xã hội. Vì vậy, nhà nước phải tạo ra cơ chế để
các tác nhân bên ngoài nhà nước khi đảm nhận các dịch vụ công thực hiện mục tiêu xã hội.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ công để đánh giá hoạt động của các đơn vị
cung cấp, giám sát và kiểm tra hoạt động của các cơ sở này. Nhà nước cần định hướng phát

triển đối với khu vực tư nhân, hướng khu vực tư nhân vào những lĩnh vực mà tư nhân hoạt
động hiệu quả, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm không ngừng cải tiến
việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Điều cốt lõi là nhà nước phải cân nhắc, tính toán và
giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích của nhà nước, của xã hội với lợi ích của tổ chức
và cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ công.
II. ĐỔI MỚI CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG
II.1. Những chuyển biến trong chủ trương của nhà nước về cung ứng dịch vụ công
Ở nhiều nước trên thế giới, khu vực nhà nước đã từng nắm độc quyền trong lĩnh vực
cung ứng dịch vụ công và nhìn chung chất lượng cung ứng là vấn đề gây nhiều bức xúc.
Những thập kỷ qua đã chứng kiến việc nhà nước trực tiếp tiến hành quá nhiều hoạt động,
trong đó có hoạt động cung ứng dịch vụ công, mà lẽ ra có thể chuyển giao ở một mức độ nhất
định cho thị trường và xã hội dân sự đảm nhiệm. Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy
một chính phủ ôm đồm quá mức sẽ không đưa đến một xã hội phát triển. Do vậy, một trong
những mục tiêu cải cách đã được các nhà nước xác định rõ là chuyển một phần khá lớn chức
năng quản lý xã hội của chính phủ sang cho các tác nhân khác, và xã hội hóa dịch vụ công là
một xu thế lớn trong trào lưu cải cách nhà nước hiện nay ở phần lớn các nước trên thế giới.
Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong đảm bảo cung cấp dịch vụ công, nhưng không
nhất thiết phải là người trực tiếp cung cấp tất cả các dịch vụ đó. Vai trò của nhà nước cần thể
hiện rõ hơn trong đẩy mạnh quản lý cung ứng dịch vụ công bằng luật pháp, chính sách và các
biện pháp mang tính hỗ trợ, kích thích. Các nhà nước tiên tiến hiện nay đang tìm cách sử dụng
tối đa cơ chế thị trường trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ công. Phần lớn dịch vụ công được toàn xã hội tiến hành, nhà
nước chỉ giữ lại những dịch vụ cần thiết nhất theo hướng “nhà nước nhỏ như cần thiết, xã hội
lớn như có thể”.
Hộp 2: Những biến chuyển trong chủ trương cung ứng dịch vụ công của Chính phủ
Anh
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của người dân, và trước áp lực của Liên minh
Châu Âu, Chính phủ Anh đang tập trung chú ý vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng
dịch vụ công mà trước hết là giáo dục, y tế, giao thông, môi trường. Cụ thể là:
- Trong tổ chức và quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ công có sự tách bạch khá rõ ràng

giữa những lĩnh vực hoạt động do nhà nước tài trợ hoàn toàn như y tế, giáo dục với những dịch vụ
được tư nhân hóa như vệ sinh môi trường, cấp nước sạch, giao thông công cộng.
- Phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm giữa chính phủ và chính quyền địa phương trong việc quản
lý các dịch vụ công khá rõ ràng, rành mạch. Có những lĩnh vực chỉ có cấp trung ương chịu trách
nhiệm thực hiện (như y tế, giáo dục bậc đại học, cung cấp nước sạch), có lĩnh vực cả cấp trung
ương và địa phương quản lý (dịch vụ môi trường). Nhìn chung, trong việc tổ chức và quản lý các
hoạt động dịch vụ công, chính phủ đề ra chiến lược, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và
phân bổ ngân sách,… còn chính quyền địa phương thực hiện ký kết hợp đồng với các công ty tư
nhân và giám sát, kiểm tra việc thực hiện.
- Nghĩa vụ và trách nhiệm cung ứng dịch vụ công của các cơ quan, tổ chức nhà nước và tư nhân
cũng như của các cá nhân, tổ chức hưởng thụ dịch vụ được luật hóa một cách đầy đủ, chi tiết.
- Chính phủ tích cực tạo hành lang pháp lý và thúc đẩy cơ chế cạnh tranh giữa khu vực công và
khu vực tư cũng như giữa các tổ chức thuộc khu vực công để nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch
vụ công.
- Quyền tự chủ về tài chính và nhân lực của các đơn vị trực tiếp cung ứng dịch vụ công được bảo
đảm, đồng thời chính phủ và các chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát và có biện
pháp xử lý kịp thời để bảo đảm tính liên tục của các dịch vụ.
Bốn nguyên tắc cải cách dịch vụ công của Thủ tướng Anh Tony Blair
- Xây dựng các chuẩn mực chung có tính quốc gia đáp ứng nhu cầu của người dân và thoả
mãn các đòi hỏi của EU; xác định rõ trách nhiệm thực hiện để đảm bảo người dân dù là ai, ở đâu
đều có quyền nhận được các dịch vụ có chất lượng cao.
- Thực hiện nguyên tắc phân cấp, phân quyền và uỷ quyền để nâng cao tính chủ động sáng
tạo và tự chịu trách nhiệm của các bộ phận trực tiếp tiếp xúc với dân
11
và cho các cơ quan chính quyền địa phương trong cung cấp dịch vụ công. Theo đó, chính
quyền địa phương phải chịu trách nhiệm một phần đáng kể chi phí cho việc cung ứng các dịch vụ
công như giáo dục, các dịch vụ xã hội, chăm sóc người tàn tật và giao thông công cộng.
- Tạo điều kiện cho các cơ sở cung ứng dịch vụ như y tế, giáo dục có khả năng trả thêm
lương cho công chức; thực hiện nguyên tắc khuyến khích tính năng động và tự chủ của các cơ sở.
Từ năm 1998 gần một nửa giáo viên phổ thông được tăng 25% lương do gắn với kết quả giảng

dạy, lương cho y tá mới nâng cao trình độ tăng1/3, các bệnh viện công đang thử nghiệm trả lương
gắn với kết quả hoạt động. Theo dự kiến bệnh viện sẽ trả thêm 6000 bảng/năm cho mỗi nhân viên
nếu hoàn thành nhiệm vụ.
- Thực hiện nguyên tắc mở rộng khả năng lựa chọn cho khách hàng, đảm bảo cho người dân
có quyền lựa chọn và yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn không chỉ từ khu vực tư nhân mà cả từ
khu vực công. Ví dụ như việc chọn trường học cho trẻ em, bệnh viện điều trị khi ốm đau, hoặc hệ
thống cung cấp nước sạch tốt hơn và rẻ hơn. Từ tháng 7/2002, bệnh nhân đợi mổ tim nếu quá 6
tháng sẽ được giới thiệu đến mổ ở một bệnh viện khác tránh tình trạng đợi quá lâu.
Nguồn: Theo Báo cáo của Đoàn Công tác Bộ Nội vụ khảo sát, nghiên cứu hành chính công, dịch
vụ công ở Anh, 2004
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhận thức từ phía các cơ quan công quyền và
từ chính những người dân về sự cần thiết phải có sự chuyển biến trong cung ứng dịch vụ công.
Đó là, thứ nhất, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực tư nhân về phương
diện kinh tế, những thành tựu khoa học công nghệ đã làm cho khu vực tư nhân có thể tiếp
nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về nhà nước. Thí dụ, kỹ thuật truyền hình cáp phát
triển cho phép nắm được thời gian sử dụng của từng máy thu hình, hoặc qua thiết bị tự ghi có
thể đo chính xác lượng sử dụng khí ga, điện, nước của từng hộ tiêu thụ ( để thu tiền). Thứ hai,
sự thay đổi về mức sống tạo điều kiện cho cá nhân có thể tự mua sắm cho mình những phương
tiện mà trước đây chỉ có thể sử dụng công cộng. Có thể thấy rõ điều này trong cung ứng dịch
vụ công về lĩnh vực văn hóa; nếu như trước đây, người dân chỉ có thể xem phim ảnh tại các
rạp chiếu công cộng, thì nay người ta có thể xem tại nhà qua đầu máy VCD, DVD. Ngoài ra,
sự thay đổi về mức sống của người dân theo hướng chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao
đòi hỏi số lượng các loại hình và chất lượng dịch vụ cũng cần phải ngày càng tăng để đáp ứng
yêu cầu của đời sống xã hội. Thứ ba, lý do quan trọng khiến nhà nước cần đổi mới cơ chế
cung ứng dịch vụ công thông qua cải cách và chuyển giao dần việc cung ứng dịch vụ công cho
khu vực tư nhân là sự kém hiệu quả của khu vực công so với khu vực tư nhân trong lĩnh vực
12
này. Theo J. E. Stiglitz, thì các dự án nhà ở công cộng thường tốn kém hơn nhà ở của
khu vực tư nhân khoảng 20%; chi phí thu gom rác thải do khu vực công cộng thực hiện
thường cao hơn khu vực tư nhân 20%; chi phí phòng cháy, chữa cháy của khu vực tư nhân

(nhưng do nhà nước cấp tiền) thấp hơn của khu vực công cộng 47%. Khảo sát ở 58 quốc gia
đang phát triển cho thấy chỉ có 6% số người được hỏi đánh giá dịch vụ công do nhà nước
cung cấp là có hiệu quả còn 36% trả lời là không hiệu quả. Đặc biệt, dịch vụ xây dựng đường
sá và dịch vụ y tế bị đánh giá là kém hiệu quả nhất2. Lý do cuối cùng buộc nhà nước phải có
những chuyển biến để giao một số lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cho khu vực ngoài nhà
nước là vì điều đó sẽ giúp nhà nước giảm nhẹ được gánh nặng ngân sách, huy động được các
nguồn lực tiềm tàng của xã hội. Lấy ví dụ trong lĩnh vực y tế, mặc dù ở hầu hết các nước, nhà
nước đều đảm nhận vai trò to lớn trong cung ứng dịch vụ y tế vì đây là một loại hàng hóa công
cộng rất đặc biệt, song nhà nước không thể là người cung ứng duy nhất các dịch vụ này do
mức độ chi phí lớn của nó. Theo một tài liệu khảo sát, chi tiêu cho chăm sóc y tế trong GDP
nói chung đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn từ 1965 đến 1983 với mức tăng ít nhất là 50%,
trong đó có năm nước đạt mức tăng trên 70%. Với mức tăng như vậy, ngân sách nhà nước khó
mà chịu nổi và sự tham gia của khu vực tư nhân là tất yếu. Ở Mỹ, tỷ lệ chi của nhà nước trong
tổng chi tiêu chăm sóc sức khỏe đạt khoảng 40% mỗi năm kể từ 1974 đến nay3. Phần chi còn
lại đến từ các nguồn kinh phí của tư nhân, các tổ chức xã hội hoặc tiền bảo hiểm.
Để thực thi có hiệu quả các chức năng của nhà nước, các cơ quan công quyền phải linh
hoạt, mềm dẻo để thích ứng với các điều kiện phức tạp và thay đổi nhanh. Kinh nghiệm từ
nhiều nước cho thấy, nếu nhà nước tự thân thực thi toàn bộ các chức năng của mình mà bỏ
qua các nhân tố thị trường và xã hội thì sẽ dẫn tới một nhà nước yếu và một xã hội kém phát
triển. Cũng vậy, trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, nếu nhà nước chỉ sử dụng bộ máy của
mình để cung ứng dịch vụ thì chắc chắn sẽ dẫn tới những bất cập cả về khối lượng và chất
lượng cung ứng. Do đó, cùng với việc phải đổi mới hiệu quả cung ứng dịch vụ công ngay
trong khu vực nhà nước, điều quan trọng là nhà nước phải chuyển giao các loại dịch vụ công
mà xã hội có thể đảm nhiệm đi đôi với việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo chất lượng và
hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
Hộp 3: Các hình thức chuyển giao dịch vụ công trên thế giới
1- Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ công
cho tư nhân hoặc một tập thể;
2 Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo thường niên
năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3 J. E. Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
13
2- Nhà nước bán một phần cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ công ra ngoài xã
hội;
3- Nhà nước cho thuê doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công đối với tư nhân hoặc tập thể;
4- Khoán kinh doanh cung ứng dịch vụ công cho tư nhân hoặc tập thể;
5- Ký hợp đồng hoặc đơn đặt hàng với các doanh nghiệp hoặc tổ chức trong việc cung ứng dịch vụ
công theo yêu cầu của nhà nước;
6- Cho phép các doanh nghiệp hoặc tổ chức tư nhân tham gia vào các lĩnh vực cung ứng dịch vụ
công và chịu sự quản lý của nhà nước thông qua luật lệ và quy chế.
Nguồn: Lê Chi Mai (2003).
II.2. Đẩy mạnh sự tham gia của khu vực phi nhà nước trong cung ứng dịch vụ công
Thực ra, việc khu vực phi nhà nước cung ứng dịch vụ công đã có từ thời xa xưa. Lịch
sử cho thấy rằng, hầu hết các dịch vụ y tế đều được thực hiện trên cơ sở tư nhân bởi những bà
đỡ, các thầy lang. Tại các nước đang phát triển, đô thị hóa và công nghiệp hóa mạnh mẽ đã
dẫn đến việc thành lập các nhóm lao động và họ đã tự tổ chức để cung ứng dịch vụ bảo hiểm y
tế thông qua “những quỹ đề phòng ốm đau” hoặc đề nghị thành lập các hệ thống bảo hiểm xã
hội được nhà nước cấp kinh phí. Chỉ đến thế kỷ XX nhà nước mới giữ vai trò quan trọng trong
việc cung cấp các dịch vụ xã hội như giáo dục và y tế, và ngày nay, trong trào lưu cải cách nhà
nước trên khắp thế giới, việc cung ứng dịch vụ công lại được chuyển từng phần thích hợp cho
khu vực phi nhà nước, và đang trở thành một xu thế phát triển. Thực tế cho thấy, khu vực phi
nhà nước đã ngày càng thâm nhập vào các hoạt động cung ứng dịch vụ công, chẳng hạn như
trong lĩnh vực làm sạch môi trường, cung cấp điện, nước,… Ngay cả ở những lĩnh vực mà
theo truyền thống chỉ do nhà nước quản lý và thực hiện, thì nay cũng trở thành địa bàn hoạt
động của khu vực tư nhân. Ở Mỹ hiện nay, nhiều nhà tù tại các bang đã được giao cho khu
vực tư nhân quản lý, nhiều loại dịch vụ cảnh sát đã được giao cho các công ty tư nhân đảm
nhiệm. Ngoài ra, khu vực tư nhân cũng được phép tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục và y tế,
là loại dịch vụ mà nhà nước giữ vai trò cơ bản vì chúng liên quan trực tiếp đến mục tiêu phát
triển của mỗi quốc gia. Ở phần lớn các nước trên thế giới tồn tại song song hai hệ thống giáo
dục công lập và giáo dục dân lập. Sự phát triển hệ thống trường tư thục đã tạo điều kiện cạnh

tranh về chất lượng giảng dạy giữa hai hệ thống. Tất nhiên, các trường tư phải chịu sự quản lý
của nhà nước về nội dung giảng dạy, bảo đảm theo một chương trình chuẩn, thống nhất. Việc
chuyển dần mô hình trường công lập sống nhờ bao cấp nhà nước với sức ỳ quán tính sang
định chế hội đồng quản trị tư doanh đã thúc đẩy tính năng động, sáng tạo và cạnh tranh của
các cơ sở giáo dục.
14
Hộp 4: “Thị trường hóa” giáo dục ở Anh
Theo sách trắng của Chính phủ Anh, việc cải cách giáo dục nước này bao gồm việc tiến đến
“thị trường hoá” giáo dục ở từng địa phương. Qua mô hình này, các trường được “thị trường hoá” có
quyền cạnh tranh với hệ trường tiểu – trung học nhà nước hiện hưũ . Nội dung thị trường hoá được thể
hiện như sau:
-Phụ huynh, các cơ quan phúc lợi xã hội, kể cả doanh nghiệp được khuyến khích hình thành và
điều hành các trường định chế tư thực;Nhóm đối tác vừa nêu có quyền xây dựng “thương hiệu riêng”,
xây dựng giáo trình thích hợp, miễn không ra ngoài các chỉ tiêu vĩ mô của chính phủ liên quan đến
phát triển kinh tế- xã hội. Đặc biệt khuyến khích nội dung giảng dạy đổi mới khoa học- kỹ thuật;
-Chấm dứt sự can thiệp của các cấp chính quyền địa phương vào việc tuyển sinh, chọn giáo
viên, kể cả thuê mướn ban giám hiệu. Chính quyền địa phương không được ngăn trở các kế hoạch phát
triển cơ sở trường ốc;
-Hiệu trưởng hành xử chức năng như một giám đốc điều hành. Hiệu trưởng giỏi và có năng lực
quản lý được khuyến khích tiếp nhận điều hành các trường kém. Từ đó hình thành chuỗi trường dưới
quyền một hội đồng quản trị mà hiệu trưởng thực tài trở thành chủ tịch;
-Các trường có quyền ký hợp đồng thuê mướn, thải hồi và ấn định quy chế lương bổng cho các
đối tượng nhân sự phục vụ tại trường.
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài gòn, ngày 24/11/2005
Bằng việc chuyển hoạt động cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân, nhà nước có
thể sử dụng cạnh tranh giữa các nhà cung ứng dịch vụ với nhau để có được nhà cung ứng dịch
vụ có hiệu quả nhất. Chính vì thế, thúc đẩy cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ giữa khu vực
công và tư đang là một mục tiêu được nhiều nước hướng tới nhằm nâng cao chất lượng dịch
vụ cung ứng. Sử dụng thị trường để cung ứng những dịch vụ cạnh tranh sẽ giảm bớt chi phí và
cải tiến chất lượng dịch vụ, san sẻ gánh nặng của nhà nước và tiến tới xây dựng mối quan hệ

hợp tác nhà nước- thị trường. Theo E.X. Xavat, một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về cạnh
tranh trong dịch vụ công cộng, thì ưu thế rõ ràng nhất của cạnh tranh là nó đem lại hiệu quả
lớn hơn, nhiều hiệu quả hơn cho đồng vốn4. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, ở
Braxin, việc ký hợp đồng với các chủ đầu tư tư nhân về bảo dưỡng
4 David Osborne, Ted Gaebler, Đổi mới hoạt động của chính phủ H. NXB Chính trị quốc gia,
1997
15
đường sá đã tiết kiệm được 25% chi phí so với việc sử dụng các công ty nhà nước.
Cũng vậy, bằng cách áp dụng cơ chế cạnh tranh vào việc sản xuất và cung ứng dịch vụ công,
nhà nước tạo ra môi trường ganh đua tích cực giữa khu vực công và tư. Chẳng hạn, với việc
cho phép các công ty tư nhân tham gia tổ chức cung ứng dịch vụ vận tải nội địa, Chính phủ
Niu Dilân đã tạo ra được sự cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ vận tải, qua đó nâng
cao chất lượng phục vụ khách hàng, làm giảm cước phí vận chuyển. Ngay cả ở các nhà nước
phúc lợi như Đan Mạch, Phần Lan và Thụy Điển, hiện nay, việc thúc đẩy cạnh tranh giữa khu
vực công và tư đang là một tiêu điểm của các nhà hoạch định chính sách. Ở Đan Mạch, hầu
hết các dịch vụ xã hội là do nhà nước cung cấp, được tài trợ thông qua hệ thống thuế với mức
thuế thu nhập cá nhân rất cao, song nước này chỉ đạt chỉ số cạnh tranh về sản xuất dịch vụ
công ở dưới mức trung bình. Vì vậy, từ năm 2002, mục tiêu tăng cạnh tranh, tăng hiệu quả,
chất lượng, đổi mới và tăng sự lựa chọn đối với dịch vụ công đã trở thành mối quan tâm của
chính phủ Đan Mạch. Chính phủ đã có sáng kiến về tăng cạnh tranh và khuyến khích quan hệ
hợp tác công- tư. Điều này cũng được thể hiện rõ trong trường hợp Phần Lan. Là một nhà
nước phúc lợi, song Phần Lan là nước có truyền thống duy trì hệ thống bệnh viện tư từ nhiều
thập kỷ. Sự tồn tại của hệ thống bệnh viện tư một mặt gây sức ép về nâng cao chất lượng y tế
tại các cơ sở công, mặt khác là nguồn cung ứng thêm dịch vụ cho người sử dụng, tạo cho họ
quyền lựa chọn dịch vụ rộng rãi hơn. Chính sách cạnh tranh giữa các bệnh viện tư (về chất
lượng dịch vụ, về mức phí và nhằm tăng thị phần) đã tác động tới hệ thống y tế công và đặt
khu vực này vào tình thế phải cải cách.
Như vậy, trong việc thúc đẩy cạnh tranh, hoạt động của nhà nước không đơn thuần là
điều tiết, mà còn khuyến khích và tạo động lực thị trường. Chính phủ tạo ra một sân chơi bình
đẳng cho mọi đối tượng có khả năng cung cấp dịch vụ công để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh

giữa các nhà cung cấp dịch vụ, và người tiêu dùng các dịch vụ công được quyền tự do lựa
chọn nhà cung cấp dịch vụ. Nhiều bằng chứng thực tế cho thấy khi các tổ chức cung ứng dịch
vụ công bước vào cuộc cạnh tranh thì mọi việc đều thay đổi. Những tổ chức nào cung ứng
dịch vụ chất lượng kém với giá cả cao thì dần bị xóa bỏ, trong khi những tổ chức cung ứng
dịch vụ chất lượng cao với giá cả phải chăng thì ngày càng phát triển. Chính sự cạnh tranh đã
buộc các tổ chức cung ứng dịch vụ phải luôn luôn tự đổi mới và điều đó mang lại lợi ích cho
cả người dân, nhà nước và nhà cung ứng dịch vụ.
Một trong những chuyển biến quan trọng trong cung ứng dịch vụ công trong những
năm gần đây là sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các tổ chức xã hội dân sự, bao gồm các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các cá
nhân…Việc mở rộng sự tham gia của các lực lượng xã hội này cùng nhà nước vào cung ứng
dịch vụ công đã tạo ra một môi trường cạnh
16
tranh lành mạnh, phá vỡ sự bất bình đẳng, phi thị trường do độc quyền gây ra trong lĩnh
vực này, huy động được các nguồn lực cộng đồng và phát huy vai trò của các đối tác xã hội
trong quản lý xã hội. Vai trò của các tác nhân này trong cung ứng các dịch vụ công cho xã hội
thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:
- Là cánh tay nối dài của nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cá nhân, của cả cộng
đồng xã hội để tăng thêm nguồn lực đáp ứng các yêu cầu của xã hội về các dịch vụ công;
- Là một trong những chức năng cơ bản của tổ chức dân sự trong hoạt động vận động
quần chúng và gắn bó với lợi ích cơ bản của người dân, là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân
trong cung cấp dịch vụ công;
- Thực hiện vai trò đại diện và bảo vệ lợi ích của người hưởng thụ dịch vụ công, đảm
bảo công bằng và đúng với chính sách của nhà nước;
- Tham gia bổ sung, hoàn thiện chính sách của nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ công
đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả năng của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy ngày càng nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ công được mở rộng cho
nhiều nhóm lợi ích trong xã hội có khả năng cung ứng. Đó là các hiệp hội nghề nghiệp, các
nhóm cộng đồng, các hợp tác xã, các hội từ thiện, các tổ chức của phụ nữ, thanh niên, và các
tổ chức phi chính phủ khác,… Các tổ chức này đã tham gia tích cực vào việc cung ứng dịch

vụ trực tiếp cho các cá nhân và cộng đồng, từ dịch vụ y tế, giáo dục cho tới những dịch vụ cho
vay tín dụng nhỏ, hoặc đào tạo hướng nghiệp. Ở các nước phát triển và đang phát triển, nhiều
tổ chức xã hội hoạt động song song với những cơ quan cung ứng dịch vụ công của nhà nước.
Ví dụ, một số nước đã giao cho các nhóm cộng đồng tự quản xây dựng và khai thác các công
trình phúc lợi xã hội trong địa phận sinh sống của họ. Ở một số nước khác, chính phủ lại ủy
quyền cho các hiệp hội nghề nghiệp cấp giấy phép hành nghề, điều hành và kiểm soát các hội
viên. Nhiều bằng chứng cho thấy các tổ chức như vậy thường có nhiều lợi thế khi thực hiện
cung ứng dịch vụ công vì họ có cơ chế hoạt động rất linh hoạt và gần gũi hơn với người dân.
Việc cho phép khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội tham gia cung ứng các dịch vụ
công ích mang lại lợi ích đáng kể. Với việc huy động các nguồn vốn xã hội cho sự phát triển
kết cấu hạ tầng, như hệ thống đường sá, giao thông vận tải, thông tin, vệ sinh môi trường…,
hiệu quả cung ứng các dịch vụ công trong những lĩnh vực này đã tăng mạnh, đi đôi với việc
tiết kiệm một tỷ lệ lớn ngân sách nhà nước. Đối với các dịch vụ đường phố như quét dọn, sửa
chữa, xây dựng, duy tu và bảo dưỡng, chi phí cũng giảm đi khi thực hiện phương thức ký hợp
đồng với các thành phần
17
kinh tế khác. Cũng vậy, sự tham gia của khu vực phi nhà nước vào cung ứng dịch vụ
công tạo điều kiện cho nhiều người tham gia vào hoạt động này, phát huy được khả năng và
nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy tính sáng tạo và chủ động của người dân, qua đó đa
dạng hóa và tăng cường nguồn cung ứng các dịch vụ công cho xã hội.
Tóm lại, ngày nay phạm vi các dịch vụ công được chuyển giao cho khu vực tư nhân và
các tổ chức xã hội ngày càng mở rộng. Hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên tắc lĩnh vực nào
thị trường và xã hội có thể đảm nhiệm được thì nhà nước chuyển giao dần ở một mức độ nhất
định trách nhiệm cung ứng dịch vụ công ở lĩnh vực đó. Ở những lĩnh vực dịch vụ không thể
chuyển giao được cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội, thì nhà nước phải giữ vai trò
cung ứng nòng cốt và phải tiến hành cải cách ở trong chính khu vực nhà nước để cải thiện chất
lượng cung ứng các loại dịch vụ này. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh một lần nữa rằng, dù nhà
nước trực tiếp cung ứng dịch vụ hay chuyển giao cho các khu vực khác, thì với vai trò là
người đảm bảo công bằng xã hội, nhà nước vẫn có nghĩa vụ quan tâm đến việc đạt được
những mục tiêu chính của hoạt động cung ứng dịch vụ công thông qua kiểm soát, điều tiết và

bảo hộ để thị trường và xã hội cung ứng các dịch vụ đó một cách thuận lợi.
II.3. Cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước
Cho dù khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội ngày càng tham gia nhiều hơn vào cung
ứng dịch vụ công, song khu vực nhà nước vẫn tất yếu là người cung ứng một số lớn dịch vụ.
Chính vì vậy, trong đổi mới cung ứng dịch vụ công, việc cải thiện chất lượng cung ứng dịch
vụ ở ngay chính khu vực nhà nước là hết sức quan trọng. Bên cạnh chức năng quản lý nhà
nước, chức năng phục vụ của nhà nước nhằm cung cấp những dịch vụ cần thiết cho người dân
để họ thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình giờ đây cần được chú trọng hơn bao giờ
hết.
Nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công không phải là một vấn đề mới mẻ. Ngay từ
giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Pháp đã đưa ra các chu trình chất lượng thử nghiệm
trong các cơ quan nhà nước. Trước yêu cầu của người dân hiện đã trở thành “người tiêu dùng
đòi hỏi cao”, vấn đề chất lượng trong cung ứng dịch vụ công của nhà nước ngày càng trở nên
cấp bách. Nguyên tắc chất lượng trong cung ứng dịch vụ công của các cơ quan nhà nước đã
chính thức được đề cập tới trong Hiến chương dịch vụ công của Pháp ngày 18 tháng 3 năm
1992 và văn bản ngày 26/7/1996 về cải cách Nhà nước Pháp. Hiến chương đưa ra một loạt các
biện pháp nhằm đảm bảo cung ứng dịch vụ thiết yếu như trường học, bệnh viện, cảnh sát, bưu
điện cho những nơi xa xôi. Điều quan trọng là Hiến chương đã yêu cầu các cơ quan xây dựng
chỉ số hiệu suất và chú trọng sự hợp tác giữa cơ quan nhà nước cung cấp
18
dịch vụ và người sử dụng. Theo đó mỗi cơ quan nhà nước phải “cố gắng làm cho người
dân biết rõ mục tiêu của mình, điều chỉnh các chỉ số chất lượng theo nhu cầu của người sử
dụng dịch vụ”.
Các nhà nước cũng đang tiến hành nhiều cải cách khác nhau nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả cung ứng dịch vụ công thông qua các đơn vị nhà nước. Một số nước phát triển như
Anh, Mỹ hiện đang thử nghiệm một số phương pháp để tăng cạnh tranh trong nội bộ khu vực
nhà nước nhằm cải thiện việc cung ứng các dịch vụ công không thể chuyển giao được cho khu
vực phi nhà nước.
Ngoài ra, việc phi tập trung hóa cung ứng dịch vụ công thông qua phân cấp, phân
quyền, cũng là một biện pháp có hiệu quả để gây sức ép cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả

cung ứng dịch vụ công của khu vực nhà nước. Lý do căn bản mang tính nội tại của phi tập
trung hóa cung ứng dịch vụ công là quyền quyết định sản xuất và cung ứng dịch vụ công phải
được trả lại cho những đơn vị thấp nhất, có khả năng nắm bắt được tình hình một cách rõ ràng
nhất. Việc phi tập trung hóa tạo điều kiện cho các chính quyền địa phương linh hoạt hơn trong
cung ứng các dịch vụ công phù hợp với hoàn cảnh của địa phương mình, đồng thời buộc họ
trở nên có trách nhiệm hơn. Việc phân cấp này làm tăng hiệu quả và hiệu lực cung ứng dịch
vụ công, qua đó người tiêu dùng sẽ được hưởng những dịch vụ chất lượng cao với giá cả hợp
lý.
Hộp 5: Phi tập trung hóa trách nhiệm: kinh nghiệm của Pháp, Anh, Tây Ban Nha và
Thụy điển
- Pháp: Theo các luật về phi tập trung hóa năm 1982, Nhà nước Pháp đã trao thẩm quyền cho các
khu vực và các ban, ngành trong nhiều lĩnh vực như phát triển đô thị, các biện pháp hỗ trợ kinh tế
và giao thông địa phương. Các luật này cũng phân cấp cho chính quyền khu vực trách nhiệm về
xây dựng và bảo dưỡng các trường phổ thông trung học (tương tự như trách nhiệm của các xã đối
với các trường tiểu học vốn đã tồn tại hàng thế kỷ), trong khi vẫn giữ trách nhiệm về hầu hết các
chính sách giáo dục khác ở cấp trung ương.
- Tây Ban Nha: Tại đây, việc thành lập các cộng đồng tự quản đã dẫn đến việc chuyển giao đáng
kể các trách nhiệm, kể cả việc phi tập trung hóa hệ thống giáo dục, y tế cũng như các công trình
công cộng, nông nghiệp, bảo vệ môi trường, phát triển vùng và trợ giúp xã hội.
- Anh: việc phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm giữa chính phủ và chính quyền địa phương ở Anh
trong việc quản lý dịch vụ công khá rõ ràng, rành mạch, trong đó chính phủ tập trung đề ra chiến
lược, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và phân bổ ngân sách, thực hiện kiểm toán, còn
chính quyền địa phương thực hiện ký kết hợp đồng với các công ty tư nhân và giám sát, kiểm tra
việc thực hiện.
19
- Thuỵ Điển: Có sự phân cấp rõ những dịch vụ công mà từng cấp chính quyền phải đảm nhiệm,
trong đó đặc biệt chú ý các dịch vụ công về phúc lợi công cộng hoàn toàn miễn phí (như bảo hiểm
thất nghiệp, trợ cấp xã hội,…).
Nguồn: Phục vụ và duy trì: cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh/ Ngân
hàng phát triển châu Á H. CTQG, 2003; và các nguồn khác.

Về cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước, vấn đề kiểm
soát tài chính và quản lý đóng một vai trò quan trọng. Trong nhiều trường hợp, do rất khó đo
lường những sản phẩm đầu ra của khu vực nhà nước, nên cần có chế độ kiểm tra tài chính và
đặt chế độ chịu trách nhiệm cá nhân, nhằm buộc cán bộ quản lý phải làm việc hết mình để
tránh tình trạng sử dụng không hiệu quả các nguồn lực công cộng và nhằm cải thiện việc cung
ứng dịch vụ. Khảo sát nhiều nước cho thấy một phần đáng kể công quỹ quốc gia được phân bổ
cho các dịch vụ xã hội cơ bản đã không đến được các bệnh viện và trường học như dự kiến,
nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa5. Với tình trạng như vậy, cho dù nhà nước có
dành một phần ngân sách rất lớn cho cung ứng dịch vụ công, thì hiệu quả cũng rất thấp. Điều
đó dẫn đến sự méo mó trong bức tranh cung ứng dịch vụ công, vì nhà nước đã đầu tư rất nhiều
vào hoạt động này, song hậu quả là người dân không được hưởng ở mức xứng đáng những
phúc lợi đó. Vì vậy, tăng cường việc kiểm soát tài chính và quản lý là giải pháp không thể
thiếu nhằm cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước.
Một vấn đề quan trọng cần lưu ý trong việc cải cách nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
công trong khu vực nhà nước chính là yếu tố con người. Ở bất kỳ lĩnh vực nào, con người
luôn đóng vai trò then chốt quyết định sự thành, bại của cải cách, và trong lĩnh vực cung ứng
dịch vụ công cũng vậy. Chính vì thế, nhiều nước đã tập trung nhiều biện pháp để nâng cao
năng lực chuyên môn của công chức thông qua việc cải tiến công tác cán bộ và khuyến khích
sự tham gia của công chức vào hoạt động quản lý, tăng cường uỷ quyền và trách nhiệm cá
nhân. Phương thức tuyển dụng và đề bạt theo phẩm chất mà nhiều nước sử dụng đã làm cho
bộ máy viên chức có được lực lượng cán bộ, nhân viên chất lượng cao. Bên cạnh việc nâng
cao năng lực chuyên môn, đối với đội ngũ viên chức trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ
công, cần đặc biệt chú ý nâng cao phẩm chất, đạo đức phục vụ khách hàng. Kinh nghiệm của
nhiều nước chỉ ra rằng một khi người viên chức có ý thức trong công việc, có thái độ tận tụy
phục vụ khách hàng thì hiệu quả công việc sẽ tăng lên rất nhiều. Có thể thấy rõ vấn đề này qua
trường hợp Bang Ceara của Brazin trong hộp dưới đây:
5 Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo thường niên
năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20
Hộp 6: Xây dựng tinh thần tận tụy của nhân viên: chính quyền tốt tại Bang Ceara

của Braxin
Năm 1987, ngoài hoạt động hành chính kém cỏi, chính quyền bang Ceara ở Đông Bắc Braxin còn
phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính gay go. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 4 năm, cuộc
khủng hoảng tài chính đã được khắc phục, và chất lượng của các dịch vụ đã được cải thiện đáng
kể. Diện được tiêm chủng văcxin phòng bệnh sởi và bệnh bại liệt đã tăng gấp ba, từ 25% lên tới
90% tổng số trẻ em. Chương trình công chính của bang này đã tạo việc làm cho hơn một triệu
nông dân không có việc làm trong thời kỳ hạn hán…
Sự thành công này phần lớn là do công lao của bộ máy viên chức. Bằng việc khen thưởng cho
những người làm việc tốt, công khai xét tuyển nhân viên mới, thi hành các chương trình định
hướng và loan tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về thành công của mình, chính quyền
bang đã tạo nên một ý thức mạnh mẽ về sứ mạng trong các chương trình chủ chốt và những người
thực hiện chương trình. Những viên chức có động cơ tốt đã đảm đương nhiều phần việc hơn bình
thường, và nhiều khi với thái độ tự nguyện. Được trao quyền quyết định rộng hơn, các viên chức
cung ứng được nhiều dịch vụ theo đúng yêu cầu riêng của các khách hàng. Khác với ở những nơi
khác, tuy cho quyền rộng hơn, nhưng cơ hội để làm điều tiêu cực không tăng vì đã có những áp lực
đòi hỏi nhân viên phải chịu trách nhiệm. Nhân viên muốn làm việc tốt hơn để xứng đáng với niềm
tin mới của khách hàng đối với họ. Và bản thân điều này là kết quả của việc sắp xếp công việc theo
hướng phục vụ đúng các yêu cầu của khách hàng và chính quyền bang công khai tỏ ra tôn trọng
họ….
Những cơ chế này đã tạo ra một vòng luân hồi mà trong đó nhân viên cảm thấy được quý trọng và
thừa nhận, không nhất thiết là bởi cấp trên, mà bởi những khách hàng của họ và những cộng đồng
ở nơi họ làm việc. Và điều này đã củng cố tinh thần tận tụy của họ đối với công việc.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo thường
niên năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21
II.4. Tăng cường sự tham gia và giám sát của cộng đồng đối với việc hoạch định chính
sách và đảm bảo chất lượng dịch vụ công
Sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách và đảm bảo chất lượng
dịch vụ công sẽ giúp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ của nhà nước thông qua việc cải tiến
quản lý dịch vụ công và tăng cường sự minh bạch trong quyết định chính sách. Quá trình tham

gia này thể hiện qua nhiều cách khác nhau, có thể từ tham khảo ý kiến, trao đổi thông tin, cho
tới những hành động trực tiếp tham gia của công dân, chủ động đề xuất sáng kiến hoặc góp ý
vào chính sách. Nhất là ở những nơi việc cung ứng dịch vụ công không hiệu quả thì người dân
có thể thông báo cho các cấp chính quyền về vấn đề này và thúc ép họ phải cải tiến. Do đó,
các cơ quan công quyền buộc phải có trách nhiệm hơn trong việc lắng nghe tiếng nói của
người dân và phản hồi kịp thời, đầy đủ trước các yêu cầu đó. Cơ chế phản hồi này giúp cho
các thông tin hai chiều luôn thông suốt và được chia sẻ. Thông qua đó, người dân và các nhà
cung cấp dịch vụ có cơ hội cùng đánh giá và trao đổi ý kiến nhằm nâng cao chất lượng dịch
vụ. Kinh nghiệm các nước cho thấy rằng sự tương tác ngày càng tăng giữa người sử dụng và
nhà cung ứng dịch vụ công đã đem lại những kết quả tích cực. Một đánh giá gần đây của
người dân về hệ thống cung cấp nước ở Bacu, Adebaigian đã cho thấy không chỉ những vấn
đề nghiêm trọng về thất thoát nước và chất lượng nước có hại cho sức khỏe mà cả những chi
phí cao do bộ máy cung cấp nước không đáng tin cậy của thành phố áp đặt cho những người
tiêu dùng có thu nhập thấp. Ngoài ra, những người tiêu dùng này cũng cho biết thêm là họ sẵn
sàng trả nhiều hơn từ 2 đến 5 lần số tiền thực tế mà họ đang trả cho việc cung cấp nước sạch
và đáng tin cậy. Những thông tin như vậy ở một mức độ nhất định đã buộc nhà cung cấp phải
xem xét lại chất lượng dịch vụ của mình, điều có thể dẫn tới những thay đổi tích cực trong
việc cung cấp nước ở thành phố này. Ở Singapore, Cục thông tin phản hồi của công chúng tập
hợp một cách có hệ thống những bình luận của công dân về nhiều loại chính sách quốc gia,
trong đó có cung ứng dịch vụ công, và mời những nhóm có quan tâm tới dự những cuộc họp
báo cáo với các bộ trưởng và quan chức cao cấp. Điều này làm tăng tinh thần trách nhiệm của
cơ quan nhà nước cung ứng dịch vụ công thông qua việc đòi hỏi các cơ quan này phải công bố
và tuân thủ những định mức và tiêu chuẩn dịch vụ, cung cấp thông tin công cộng và trả lời
khiếu nại của người dân. Ở các thành phố của Mỹ, chính quyền các thành phố đã thiết lập một
cơ chế đồng bộ, động viên công chúng tham gia vào toàn bộ quá trình quản lý đô thị. Do
những người có lợi ích liên quan được tham gia một cách rộng rãi vào quá trình quyết định
chính sách, nên quá trình thực thi chính sách được thực hiện một cách tương đối thuận lợi.
Một lý do nữa khiến cho sự tham gia của cộng đồng vào việc hoạch định chính sách và
đảm bảo chất lượng dịch vụ công trở nên cần thiết; đó là thực tế cho
22

thấy cơ quan cung ứng dịch vụ công của nhà nước không thể dự kiến trước và đáp ứng
được tất cả các dịch vụ công mà người dân muốn có. Việc xuất hiện những biện pháp thay thế
của các tổ chức xã hội và khu vực tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong cung
ứng dịch vụ công. Do vậy, các tổ chức xã hội có thể vừa là những cộng sự, đồng thời là những
đối thủ cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ công. Và một khi được người dân ủng hộ, các tổ
chức này có thể gây áp lực với chính quyền để cải thiện việc cung ứng và nâng cao chất lượng
các dịch vụ công.
Trong cung ứng dịch vụ công, các nhà nước đang tạo ra những cơ chế thuận lợi để mọi
người dân đều có thể đóng góp, san sẻ gánh nặng tài chính với nhà nước, và qua đó cải thiện
được chất lượng dịch vụ mà chính họ được hưởng. Có thể thấy rõ xu hướng này qua hệ thống
bảo hiểm y tế xã hội dựa vào cộng đồng. Đây là một hình thức lựa chọn để tăng độ bao phủ
của hệ thống bảo hiểm y tế, đặc biệt mang lại lợi ích cho người dân vùng nông thôn, và các
vùng sâu, vùng xa. Xu hướng xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế như vậy được nhiều nước chú
trọng. Thí dụ, Đài loan và Hàn quốc đã rất quan tâm đến việc xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế
theo hướng phục vụ người dân ngày càng có hiệu quả dựa trên sự đóng góp tài chính từ phía
người dân cùng với sự hỗ trợ của nhà nước. Chương trình bảo hiểm y tế quốc gia của Đài
Loan, sau 3 năm thực hiện (1998), đã thu hút được 97% dân số tham gia. Đến cuối năm 2003,
con số này đã lên tới 99%6. Chương trình bảo hiểm y tế đã làm cho người dân hiểu rõ được
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ trong việc cùng nhà nước và những người dân khác chia
sẻ nghĩa vụ đóng góp và cùng hưởng những lợi ích từ Bảo hiểm y tế quốc gia. Thực tế cho
thấy rằng Chương trình Bảo hiểm y tế quốc gia của Đài loan đã bảo vệ người dân khỏi những
rủi ro tài chính và có sự tiếp cận công bằng tới các dịch vụ y tế. Bên cạnh đó, Chương trình đã
tăng cường cung cấp các dịch vụ y tế ở vùng sâu vùng xa, đảm bảo lợi ích cho người dân sống
ở các vùng khó khăn. Điều đó cho thấy rằng chủ trương tăng cường sự tham gia của người dân
vào cung ứng dịch vụ công qua đó mang lại lợi ích cho cả hai phía người dân và nhà nước là
hoàn toàn đúng đắn và cần được nhân rộng ra nhiều lĩnh vực cung ứng khác.
6 “Bảo hiểm y tế quốc gia của Đài Loan”/ Hong-jen, Tài liệu trình bày tại Hội nghị quốc tế: Hướng tới
bảo hiểm y tế quốc gia bình đẳng, hiệu quả và chất lượng cao- Đài Loan, 2005
23

×