Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Tìm hiểu quy trình nhân giống hoa đồng tiền in Vitro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 64 trang )

Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Hoa Đồng Tiền có tên khoa học là Gerbera jamesonii (còn gọi là hoa mặt trời Phu
Lăng).
Hoa Đồng Tiền rất phong phú và đa dạng với nhiều màu sắc khác nhau như: đỏ,
cam ,vàng, trắng, phấn hồng, tím,… Trên một bông hoa có thể có một màu đơn hoặc
nhiều màu xen kẽ. Hoa Đồng Tiền có giá trị kinh tế cao, mặc dù hoa Đồng Tiền chỉ
chiếm tỉ lệ rất nhỏ (3-5%) trong tổng số các loài hoa cắt cành, song không thể vắng
mặt trên thị trường hoa.
Ngày nay, phương pháp nhân giống cổ truyền bằng cách tách chồi từ cây mẹ đã
không còn phù hợp. Do sau một thời gian tồn tại ngoài đồng ruộng khá lâu nên tất
yếu sẽ nhiễm rất nhiều loại vi rút và vi khuẩn làm cho chất lượng cây giống không
cao, thoái hóa ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cành hoa.
Trong vài năm gần đây, tại Đà Lạt- Lâm Đồng, việc ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy
mô tế bào trong nhân giống được phát triển mạnh mẽ. Có nhiều cơ quan nhà nước,
công ty, cơ sở tư nhân (Trung Tâm Nghiên Cứu Khoai Tây, Rau & Hoa, Trung tâm
Ứng dụng Đà Lạt, công ty Hasfarm, Bonniefarm, Rừng Hoa và một số cơ sở tư nhân
nhỏ) đã và đang nghiên cứu, ứng dụng lĩnh vực này trong nhân giống các loại rau,
hoa và đã có nhiều thành công đáng kể. Nhân giống hoa Đồng Tiền bằng phương
pháp này đang dần phổ biến và được nhiều người biết đến. Đề tài “Tìm hiểu quy
trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro” nhằm tìm hiểu quá trình nhân giống hoa
Đồng Tiền như thế nào, tìm hiểu một số biện pháp kỹ thuật trong nhân giống hoa
Đồng Tiền in vitro, nhằm khắc phục những nhược điểm và đáp ứng được những yêu
cầu hiện nay.
Qui trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro được ghi nhận tại Bộ môn Công
Nghệ Sinh Học thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoai Tây, Rau & Hoa – Đà Lạt.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
1 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoa Đồng Tiền xuất hiện ở nước ta vào những năm 1940 và đến nay đã phát triển


ra nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, diện tích trồng hoa Đồng Tiền trong cả
nước còn thấp, chất lượng hoa của một số vùng còn yếu, hoa Đồng Tiền được trồng
chủ yếu ở một số địa phương như: Đà Lạt, Hải Phòng, Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí
Minh,… Nguyên nhân của hạn chế về diện tích và chất lượng hoa Đồng Tiền là:
− Thiếu giống tốt, không chủ động được giống cây, phải nhập giống. Do vậy, làm
cho chi phí sản xuất cao, mà giá thành ngoài thị trường của hoa lại chưa cao.
− Trong điều kiện trồng trọt ở vùng nhiệt đới ở nước ta, hoa Đồng Tiền thường
nhiễm bệnh, nấm. Với nguồn nước ô nhiễm, vệ sinh đồng ruộng kém, cành hoa
bị ngắt sát đất dễ mẩn cảm với bệnh nên các giống hoa Đồng Tiền dễ bị thoái
giống.
Trước tình hình đó, việc tìm ra biện pháp nhân giống hoa Đồng Tiền sạch bệnh, có
chất lượng là rất cần thiết.
II. Mục đích, yêu cầu và ý nghĩa:
1. Mục đích:
Tìm hiểu qui trình nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro.
Khảo sát một số biện pháp kỹ thuật trong nhân giống hoa Đồng Tiền in vitro.
2. Yêu cầu:
Xác định nồng độ BAP tối ưu trong môi trường MS cho nhân nhanh chồi in vitro
các giống hoa Đồng Tiền G04.6.
Xác định nồng độ NAA tối ưu trong quá trình tạo rễ của cây hoa Đồng Tiền in
vitro G04.6.
Xác định loại giá thể phù hợp với hoa Đồng Tiền.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
2 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
3. Ý nghĩa:
Sản xuất được cây con sinh trưởng phát triển tốt, đồng đều và sạch bệnh với khối
lượng lớn, kịp thời phục vụ cho sản xuất. Thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp
kỹ thuật trong giai đoạn sản xuất hoa thương phẩm.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi

3 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sản xuất hoa:
1.1.1. Tình hình sản xuất hoa trên thế giới:
Ngày nay, hoa là một sản phẩm đặc biệt. Hoa làm tăng chất lượng cuộc sống của
con người và hoa đem lại cho con người những cảm xúc tuyệt vời mà các quà tặng
khác không có được.
Ngày nay, sản xuất hoa trên Thế Giới đang phát triển một cách mạnh mẽ và đã trở
thành một ngành thương mại cao. Sản xuất hoa đã mang lại lợi ích to lớn cho nền
kinh tế các nước trồng hoa trên Thế Giới.
Diện tích hoa của Thế Giới ngày càng mở rộng và không ngừng tăng lên. Các
nước sản xuất hoa lớn trên Thế Giới là: Nhật với khoảng 3.731 tỷ đôla, Hà Lan
khoảng 3.558 tỷ đôla, Mỹ khoảng 3.270 tỷ đôla.
Sản xuất hoa của Thế Giới sẽ tiếp tục phát triển và mạnh mẽ nhất ở các nước
Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Mục tiêu sản xuất hoa cần hướng tới là
giống hoa đẹp, tươi, chất lượng cao và giá thành thấp.
1.1.2. Tình hình sản xuất hoa ở Châu Á:
Châu Á Thái Bình Dương có diện tích trồng hoa khoảng 134 000 ha, chiếm 60%
diện tích hoa Thế Giới. Nhưng diện tích hoa thương mại của Châu Á nhỏ. Tỷ lệ thị
trường hoa của các nước đang phát triển chỉ chiếm 20% thị trường hoa Thế Giới.
Nguyên nhân là do các nước Châu Á có diện tích trồng hoa được bảo vệ thấp. Ở đây
hoa được trồng trong điều kiện tự nhiên của đồng ruộng. Hoa được trồng chủ yếu
phục vụ cho thị trường nội địa. Mấy năm gần đây thị trường hoa xuất hiện nhiều nước
mới, trong đó có các nước ở khu vực Châu Á như: Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc,
Singapore, Ấn Độ.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
4 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Các nước ở Châu Á có diện tích trồng hoa lớn là: Trung Quốc (3 000 ha), Ấn Độ

(65 000 ha), Malaysia (1 218ha), Srilanka (500 ha), Thái Lan (5 452 ha), Việt Nam,
Inđônêsia, Philippin. Nghề trồng hoa ở Châu Á có từ lâu đời, nhưng trồng hoa thương
mại phát triển từ những năm 80 của thế kỷ 20. Khi các nước Châu Á mở của, tăng
cường đầu tư, đời sống của nhân dân được nâng cao, yêu cầu hoa cho khách sạn, du
lịch lớn, các thị trường hoa phát triển.
Các loài hoa được trồng ở Châu Á chủ yếu gồm hai nhóm giống hoa, phân chia
chủ yếu dựa vào yêu cầu nhiệt độ của chúng: nhóm các giống hoa có nguốn gốc nhiệt
đới gồm các loài hoa như hoa Lan (Orchidacea), Anthurium, hoa Đồng Tiền
(Gerbera), …và nhóm hoa có nguồn gốc ôn đới như: hoa Hồng (Rosa sp), Cúc
(Chrysanthemum sp), Layơn (Gladiolus), Huệ…
Các điều kiện thuận lợi và hạn chế của sản xuất hoa Châu Á
1.1.2.1. Điều kiện thuận lợi của sản xuất hoa các nước Châu Á:
− Có nguồn gen cây hoa phong phú, đa dạng.
− Khí hậu nhiệt đới, đủ mưa, nắng, ánh sáng, đất tốt, giá rẻ.
− Lao động dồi dào, giá lao động thấp.
− Chính phủ khuyến khích đầu tư phát triển hoa.
1.1.2.2. Các mặt hạn chế sản xuất hoa Châu Á:
− Thiếu giống hoa đẹp, chất lượng cao. Giống hoa thường nhập từ bên
ngoài.
− Chưa đủ kỹ thuật sản xuất, chế biến hoa thương mại.
− Vốn đầu tư ban đầu cao. Vốn vay lãi xuất cao.
− Cơ sở hạ tầng cho sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu
thiếu.
− Thông tin về thị trường chưa đầy đủ.
− Thiếu vốn đầu tư cho nghiên cứu, đào tạo cán bộ.
− Thuế cao, sự kiểm dịch khắt khe của các nước nhập khẩu.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
5 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
1.1.3. Tình hình sản xuất hoa ở Việt Nam:

1.1.3.1. Diện tích trồng hoa ở Việt Nam:
Việt Nam có diện tích tự nhiên trên 33 triệu ha. Diện tích trồng hoa ở Việt Nam
còn nhỏ, chiếm khoảng 0,02% diện tích trồng trọt. Hoa được trồng từ lâu đời. Diện
tích hoa tập trung ở các vùng trồng hoa truyền thống của thành phố, khu công nghiệp,
khu du lịch, nghỉ mát như Ngọc Hà, Quảng An, Nhật Tân, Tây Tựu (Hà Nội), Đằng
Hải, Đằng Lâm (Hải Phòng), Hoành Bồ, Hạ Long (Quảng Ninh), Triệu Sơn, thị xã
Thanh Hóa ( Thanh Hóa), Gò Vấp, Hóc Môn (Thành Phố Hố Chí Minh), Đà Lạt. Đà
Lạt là vùng sản xuất hoa lớn nhất cả nước với tổng diện tích trồng hoa khoảng 2 027
ha (năm 2005).
Theo điều tra ở các tỉnh trong các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam, các loài
hoa chính được trồng trong sản xuất là:
Bảng 1.1: Các loài hoa trồng phổ biến ở Việt Nam
Tên thường gọi Tên khoa học
Hoa Hồng
Hoa Cúc
Hoa Cẩm Chướng
Hoa Lay Ơn
Hoa Huệ
Hoa Loa Kèn
Hoa Thược Dược
Hoa Đồng Tiền
Rosa sp.
Chrysanthemum sp.
Dianthus caryofullus
Gladiolus communis
Polianthes tuberosa L.
Lilium longiflorum Thumb.
Dahlia pinnata Cav.
Gerbera jamesonii
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi

6 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Hoa Violet
Hoa Lan
Hoa Trà Mi
Viola tricolor L.
Orchidaceae
Camellia japonica Nois.
1.1.3.2. Kỹ thuật sản xuất hoa ở Việt Nam:
Sản xuất hoa ở Việt Nam dựa vào kinh nghiệm truyền thống và áp dụng kỹ thuật
nhân giống hoa cổ truyền. Cây giống hoa đem trồng hiện nay gồm các giống gieo hạt,
mầm, củ, nhánh, từ cây nuôi cấy in vitro.
Các phương pháp nhân giống cổ truyền dễ làm, quen với tập quán, kinh nghiệm
của nông dân, giá thành thấp. Do đó, hiện nay phương pháp này là phổ biến, chiếm
ưu thế trong sản xuất. Nhược điểm của phương pháp này là chất lượng giống không
cao. Cây hoa trồng lâu bị thoái hóa. Bệnh, vi rút có nhiều khả năng lan truyền và phát
triển, từ đó làm giảm phẩm chất hoa.
Các loại hoa trồng từ cây in vitro như: hoa cẩm chướng, hoa cúc, hoa hồng, hoa
đồng tiền,… Cây in vitro đã dược đưa ra sản xuất nhưng ở diện tích nhỏ. Ưu điểm của
cây giống hoa được nhân bằng phương pháp in vitro là cây khỏe, sạch bệnh, hệ số
nhân giống cao, làm tăng chất lượng hoa. Nhưng cây nhân bằng in vitro đòi hỏi phải
có thiết bị, giá thành cây giống cao. Hiện nay khi thị trường hoa bắt đầu phát triển,
phương pháp nhân giống bằng in vitro bắt đầu được ứng dụng rộng rãi, điều mà ở các
nước trồng hoa tiên tiến đã áp dụng từ lâu.
Vai trò của cây hoa trong nền kinh tế : Hoa có ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế của
các vùng và của các nước trồng hoa. Trồng hoa đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so
với trồng các cây trồng khác.
1.1.3.3. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của sản xuất hoa ở Việt Nam
a) Những điều kiện thuận lợi của sản xuất hoa cắt cành ở Việt Nam:
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi

7 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Diện tích tự nhiên lớn, 80% dân số sống bằng
nghề nông. Nông dân cần cù, giàu kinh nghiệm sản xuất. Nghề trồng hoa có từ lâu
đời.
Thị trường tiêu thụ hoa nội địa ngày càng mở rộng. Có tiềm năng xuất khẩu hoa ra
các nước.
Một số họ, loài hoa nhiệt đới có nguồn gốc ở Việt Nam. Thích hợp với điều kiện
tự nhiên của vùng.
Nhà nước đang khuyến khích phát triển hoa để phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu.
b) Những hạn chế của sản xuất hoa ở Việt Nam:
Khí hậu miền Bắc nóng, ẩm về mùa hè. Đặc biệt trong các tháng 5 đến tháng 8. Số
ngày nhiệt độ cao (>30
0
C ), độ ẩm không khí cao (85-90%). Mùa đông có gió mùa
đông bắc lạnh. Nhiều ngày nhiệt độ dưới 15
0
C. Độ chiếu sáng ngắn, yếu. Miền Nam
quanh năm nóng ấm, có một mùa nóng khô và một mùa nóng mưa, ẩm độ cao. Điều
kiện khí hậu đó không thuận lợi cho các cây hoa có nguồn gốc ôn đới.
Chưa có các giống hoa chất lượng cao, thích ứng với điều kiện của vùng. Tuy
vùng có một số giống đẹp, quý như hoa lan, trà, anthurium,… nhưng ở dạng hoa dại.
Thị trường thế giới hiện giờ ưu thích các dạng hoa lai tạo đẹp và có màu sắc sặc sỡ
hơn.
Sản xuất hoa tản mạn. Các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, bảo quản hoa chưa
được áp dụng rộng rãi trong sản xuất hoa.
Thiếu các phương tiện, thiết bị để bảo vệ hoa trong điều kiện nắng, nóng, mưa
bão,… như nhà kính, nhà lưới, nhà che,…
Thị trường hoa chưa phát triển cả ở trong nước và xuất khẩu.

SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
8 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Đội ngũ cán bộ khoa học về cây hoa chưa được đào tạo đầy đủ.
Nhà nước chưa có bản quyền về giống cây trồng nói chung và về cây hoa nói
riêng. Từ đó hạn chế việc trao đổi, đầu tư giống hoa của các nước vào Việt Nam.
1.1.3.4. Phương hướng phát triển sản xuất hoa ở Việt Nam:
− Nhà nước cần đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển hoa ở Việt
Nam, để khai thác hợp lý, tận dụng tiềm năng, khắc phục, hạn chế khó khăn,
đem lại hiệu quả cao cho sản xuất hoa ở nước ta.
− Trước mắt nên tập trung nghiên cứu, cải tiến giống, đầu tư phát triển
các loài hoa nhiệt đới quý, đẹp, được thị trường chấp nhận, có khả năng thích
ứng với điều kiện tự nhiên của các vùng như hoa lan. Phát triển các giống hoa
ôn đới theo mùa vụ ở các vùng thảo nguyên có khí hậu thích hợp.
− Tăng cường đào tạo cán bộ về hoa. Áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về sản
xuất, bảo quản, chế biến hoa của thế giới vào điều kiện sản xuất hoa của vùng.
− Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, chế biến, bảo quản hoa như
nhà lưới, nhà kính, nhà che cây hoa, kho lạnh, bến bãi bảo quản, lưu giữ phục
vụ xuất khẩu hoa.
− Tìm kiếm thị trường tiêu thụ hoa.
− Ra đời luật bản quyền về giống cây trồng.
− Tích cực hợp tác, mời các chuyên gia hàng đầu về hoa của các nước
tiên tiến sang truyền đạt kinh nghiệm, kỹ thuật trong sản xuất hoa.
1.2. Giới thiệu về hoa Đồng Tiền:
1.2.1. Nguồn gốc, phân loại và đặc điểm của hoa Đồng Tiền:
1.2.1.1. Nguồn gốc:
Hoa Đồng Tiền có tên khoa học là Gerbera jamesonii. Hoa Đồng Tiền gồm nhiều
loài thuộc chi Gerbera. Chi này có khoảng 30-100 loài sống hoang dã, phân bố ở Nam
Mỹ, Châu Phi đại lục, Madagascar và vùng nhiệt đới Châu Á. Chi Gerbera rất phổ
biến và được trồng tại vườn chủ yếu là các giống lai giữa Gerbera jamesonii và một

loài khác ở Nam Phi là Gerbera hybrida. Hiện nay tồn
tại hàng trăm giống khác nhau.
1.2.1.2. Phân loại:
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
9 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Giới : Plantae
Ngành : Magnoliophyta
Lớp : Magnoligopsida
Bộ : Asteraceae
Phân họ : Mutisioideae
Chi : Gerbera Hình 1.1: Cây hoa Đồng Tiền
1.2.1.3. Đặc điểm:
Hoa Đồng Tiền thuộc loại hoa lưu niên ra hoa quanh năm, độ bền hoa cắt cao,
được coi là một loài hoa đẹp trong thế giới hoa. Dựa vào hình thái hoa, người ta chia
thành 3 nhóm: hoa đơn, hoa kép và hoa đơn nhị kép.
− Nhóm 1- hoa đơn: hoa chỉ có một hoặc hai tầng cánh, xếp xen kẽ nhau
tạo vòng tròn. Hoa mỏng và yếu hơn hoa kép, màu sắc hoa ít hơn, điển hình là
màu trắng, đỏ, tím, hồng.
− Nhóm 2- hoa kép: cành hoa to, gồm hơn hai tầng cánh, bông to, đường
kính hoa có thể đạt tới 12-15 cm, cánh hoa tụ lại thành bông nằm ở đầu trục
chính, cuống dài 40-60 cm. Màu sắc đa dạng như màu trắng, đỏ, vàng, hồng,
màu gạch cua.
− Nhóm 3- hoa đơn nhị kép: bên ngoài cùng cánh đơn, bên trong cánh
kép dày đặc, thường màu trắng trong lớp cánh kép màu cánh sen nhưng nhóm
này không đẹp bằng hoa kép.

SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
10 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM

a b

C
Hình 1.2: Hình các nhóm hoa Đồng Tiền
Hình a: Hoa đơn.
Hình b: Hoa kép.
Hình c: Hoa đơn nhị kép.
Trong ba nhóm trên, Đồng Tiền kép là nhóm hoa có giá trị kinh tế cao, được ưu
chuộng hơn cả và cũng là đối tượng lý tưởng của nuôi cấy mô tế bào thực vật.
− Thân, lá: thân ngầm, không phân cành mà chỉ đẻ nhánh, lá và hoa phát
triển từ thân. Lá mọc chếch so với mặt đất một góc 15-45
0
, hình dáng lá thay
đổi theo giống và sự sinh trưởng của cây, từ hình trứng thuôn đến hình thuôn
dài. Lá dài từ 15-25 cm, rộng 5-8 cm, có hình lông chim, xẻ thùy nông hoặc
sâu, mặt lưng lá có lớp lông nhung.
− Rễ: rễ hoa Đồng Tiền thuộc dạng rễ chùm, phát triển khỏe, rễ hình ống,
ăn ngang và nổi phía trên mặt luống, rễ thường vươn dài tương ứng với diện
tích lá tỏa ra.
− Hoa: hoa Đồng Tiền do hai loại hoa nhỏ hình lưỡi và hình ống tạo
thành, là loại hoa tự đơn hình đầu. Hoa hình lưỡi tương đối lớn mọc ở phía
ngoài xếp thành vòng hoặc vài vòng nhỏ, do sự thay đổi hình thái và màu sắc
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
11 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
nên được gọi là mắt hoa hoặc tâm hoa, rất được chú trọng. Trong quá trình hoa
nở, hoa hình lưỡi nở trước, hoa hình ống nở theo thứ tự từ ngoài vào theo từng
vòng một.
− Quả: quả Đồng Tiền thuộc dạng quả bế có lông, không có nội nhũ, hạt
nhõ, một gram hạt có khoảng 280-300 hạt.

1.2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ hoa Đồng Tiền ở Việt Nam:
1.2.2.1. Tình hình sản xuất:
Hoa Đồng Tiền là 1 trong 10 loại hoa quan trọng nhất trên thế giới, sau hoa Hồng,
Cúc, Lan, Cẩm Chướng, Lay Ơn,…
Ở Việt Nam giống hoa Đồng Tiền đơn được nhập về trồng đầu tiên khoảng từ
những năm 1940. Đặc điểm của giống hoa đơn này là cây sinh trưởng khỏe, thích
nghi tốt với điều kiện tự nhiên, nhưng nhược điểm là hoa nhỏ, cánh đơn, màu sắc đơn
điệu, vì vậy hiện nay người ta ít trồng. Từ những năm 1990, một vài công ty và những
nhà trồng hoa Việt Nam bắt đầu nhập các giống Đồng Tiền lai (hoa kép) từ Đài Loan,
Hà Lan, Trung Quốc về trồng. Các giống này tỏ ra có nhiều ưu điểm: hoa to, cánh
dày, gồm nhiều tầng xếp lại với nhau, màu sắc phong phú, hình dáng hoa cân đối, rất
đẹp, năng suất cao. Vì vậy, những giống này đã được tiếp nhận và phát triển mạnh mẽ
ở khắp mọi vùng, mọi tỉnh thành trên cả nước.
Trong các loại hoa Đồng Tiền đã và đang trồng tại Việt Nam thì hoa Đồng Tiền
kép nhập nội là một trong những cây cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ một sào hoa
Đồng Tiền giống mới chăm sóc đúng kỹ thuật có thể cho thu nhập gần 50
triệu/sào/năm.
1.2.2.2. Tình hình tiêu thụ:
Hiện nay, hoa Đồng Tiền là loài hoa rất được ưu chuộng với giá cả phải chăng.
Nhưng tình trạng sản xuất hoa Đồng Tiền của Việt Nam (cũng như các sản phẩm cây
cảnh khác) khó xâm nhập vào thị trường thế giới. Vì chất lượng, chủng loại, kích cỡ
không đồng đều, chưa đáp ứng được thị hiếu của khách hàng quốc tế.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
12 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Sự chênh lệch về giá cả giữa thị trường hoa Việt Nam và thị trường hoa thế giới
cũng thể hiện rõ. Ở hoa Đồng Tiền, khi bán tại ruộng giá dao động từ 500-1.500
đồng/ bông, bán trên thị trường giá trong khoảng từ 1.500-2.500 đồng/bông (tùy theo
mùa, dịp lễ mà giá bông khác nhau). Trong khi đó, giá bán hoa Đồng Tiền tại Mỹ là
20.000-25.000 đồng/bông.

1.2.3. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi cấy mô nhân giống hoa Đồng
Tiền:
1.2.3.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi cấy mô nhân giống hoa
Đồng Tiền trên thế giới:
Theo điều tra nghiên cứu về công nghệ sinh học thực vật trên thế giới ở hoa Đồng
Tiền, người ta có thể sử dụng đỉnh sinh trưởng, đế hoa, lá, cuống lá, bầu nhụy, noãn,
… làm mẫu cấy. Việc tái sinh mẫu từ lá non là thành công nhất, khi sử dụng mẫu cấy
là đỉnh sinh trưởng trải qua nhiều công đoạn để tạo ra một khối lượng sinh khối lớn.
Theo kết quả của viện nghiên cứu nông nghiệp Ấn Độ, sự phát sinh cơ quan và sự
hình thành của chồi từ mô sẹo ở hoa Đồng Tiền có hệ số nhân cao. Các mô sẹo này
được hình thành từ lá ex vitro, các mô sẹo phát triển trong môi trường MS bổ sung 0,4
mg/l BAP, 4 mg/l NAA và 3% succrose. Có 2 loại mô sẹo được hình thành: một loại
riêng rẽ và không chứa chất diệp lục tố được hình thành chủ yếu trên bề mặt vết cắt
của mô nuôi cấy, và một tập hợp mô sẹo chứa chất diệp lục tố. Tỉ lệ chồi tái sinh hình
thành được khẳng định là có liên quan đến nồng độ chất dinh dưỡng trong môi trường
nuôi cấy. Khi cấy mô sẹo vào môi trường chứa 2 mg/l NAA và 1 mg/l BAP, mô tái
sinh được hình thành với tỉ lệ cao (83,3%).
Theo Skoog và Miller (1958), quá trình phát triển của mô sẹo hoa Đồng Tiền cần
có cả cytokinin và auxin. Mô sẹo không hình thành khi môi trường nuôi cấy chỉ chứa
BAP hay chỉ chứa NAA. Mô sẹo hình thành tốt nhất ở nồng độ NAA cao và BAP
thấp.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
13 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Theo Pierik và Segers (1973), sự hình thành mô sẹo bởi cytokinin sẽ tăng lên khi
có mặt auxin trong môi trường, đặc biệt là IBA. Cytokinin hiệu quả nhất là BAP.
Thêm vào đó là kết quả nghiên cứu của Huang (2001) dùng môi trường MS bổ sung 1
mg/l BA và 0,05 mg/l IBA thích hợp cho sự hình thành mô sẹo từ đỉnh chồi và từ
cuống lá.
Kết quả nghên cứu của Jerzy và Lubonskg (1991) cho thấy số chồi hình thành cao

nhất (8-11 chồi) trong môi trường có 10 mg/l BAP, nhưng có vài chồi yếu và xuất
hiện hiện tượng thủy tinh thể. Trong môi trường BA chứa 1-2 mg/l BA chỉ hình thành
1-3 chồi.
Viện nghiên cứu nông nghiệp Ấn Độ đã kết luận rằng khi chỉ sử dụng BAP trong
môi trường nuôi cấy mà không kết hợp NAA thì hệ số nhân của chồi thấp, còn khi
dùng riêng NAA thì không có một chồi nào xuất hiện. Viện cũng đưa ra môi trường
giúp cây ra rễ tốt nhất là MS + NAA và IBA. Theo Barbosa (1992) hệ thống rễ phát
triển tốt hơn trong môi trường MS + IAA (nồng độ từ 0,5; 1,0; 2,0 và 4,0 mg/l).
Theo viện nghiên cứu nông nghiệp Banglaclech, trong nhân giống hoa Đồng Tiền
in vitro, những nồng độ khác nhau của các chất điều hòa sinh trưởng khác nhau (IAA;
NAA; 2,4-D và kinetin) có thể sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau trong sự tái
sinh chồi cũng như trong quá trình hình thành mô sẹo trên những mô cấy khác nhau
của cây hoa Đồng Tiền trong điều kiện in vitro. Trong quá trình tái sinh chồi và nhân
lên của chồi thì những mẫu cấy ban đầu là đỉnh chồi hoặc rễ cây in vitro tỏ ra có hiệu
quả hơn so với các mẫu từ các mô khác của cây. Cũng theo nghiên cứu này, môi
trường MS bổ sung 2 mg/l NAA cho bộ rễ của cây hoa Đồng Tiền in vitro hình thành
sớm và nhiều nhất. Ngoài ra, những mô sẹo phân chia, phát sinh phôi khi nuôi cấy lá
và cuống lá in vitro trên môi trường MS bổ sung thêm 0,4 mg/l 2,4-D.
1.2.3.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi cấy mô nhân giống hoa
Đồng Tiền trong nước:
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
14 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Theo phương pháp truyền thống, người nông dân thường nhân giống bằng cách
tách cây con từ cây mẹ để làm giống cho thế hệ sau. Phương pháp này vẫn được sử
dụng đến ngày nay. Cho đến khi phương pháp nhân giống bằng kỹ thuật in vitro ra
đời, người nông dân đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật công nghệ sinh học mới này và
đã áp dụng trên diện rộng cho nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và hiệu quả
năng suất cao hơn nhiều so với phương pháp nhân giống truyền thống.
Ở nước ta, phương pháp nhân giống in vitro chỉ mới bắt đầu từ năm 1975, đến nay

đã khá phổ biến và được ứng dụng thành công đối với một số loại rau củ như khoai
tây, dâu tây,… hoa lan, cúc, cẩm chướng. Trong đó, có hoa Đồng Tiền là một trong
những giống hoa có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, tại các trung tâm nghiên cứu hoặc
những cơ sở nuôi cấy mô vừa và nhỏ trên địa bàn Đà Lạt – Lâm Đồng đã và đang
phát triển mạnh mẽ phương pháp nhân giống cây trồng, nhất là những cây có giá trị
cao. Trong đó, hoa Đồng Tiền cũng là một trong những giống hoa ưu tiên hàng đầu.
Tại những nông trại lớn có vốn đầu tư của nước ngoài như Hasfarm, Bonniefarm,
nông trại tư nhân như Langbiang farm và các trung tâm nghiên cứu như Phân viện
Sinh học, Trung tâm Nghiên cứu Khoai Tây, Rau & Hoa đã bước đầu thành công và
là nơi cung cấp giống hoa Đồng Tiền in vitro.
1.3. Giới thiệu về kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật:
1.3.1. Sơ lược lịch sử nuôi cấy mô thực vật:
Haberlandt (1902) cho rằng bằng cách nuôi cấy, người ta có khả năng tạo thành
công các phôi nhân tạo từ các tế bào sinh dưỡng. Nhưng ông đã thất bại trong nuôi
cấy các tế bào đã phân hóa tách từ lá một số cây một lá mầm như cây bách hợp
(Erythronium), cây sữa chim (Ornithogalum), cây cỏ trai (Tradescantia). Nguyên
nhân là ông đã dùng tế bào quá chuyên biệt (mất hết khả năng tái sinh).
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
15 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Kotte (1922), học trò của Haberlandt và Robbins người Mỹ, lập lại thực nghiệm
của Haberlandt, với đỉnh sinh trưởng tách từ đầu rễ một cây hòa thảo. Trong môi
trường lỏng gồm có muối khoáng và glucose, đầu rễ sinh trưởng khá mạnh, tạo nên
một hệ rễ nhỏ có cả rễ phụ. Tuy nhiên, sự sinh trưởng như vậy chỉ tồn tại một thời
gian, sau đó chậm dần và ngưng lại, mặc dù các tác giả đã chuyển sang môi trường
mới.
Năm 1934, bắt đầu giai đoạn thứ hai trong lịch sử nuôi cấy mô thực vật, khi White
nuôi cấy thành công một thời gian dài đầu rễ cà chua (Lycopersicum esculentum) với
môi trường lỏng chứa muối khoáng, glucose, và nước chiết nấm men. Sau đó, White
đã chứng minh là có thể thay thế nước chiết nấm men bằng hỗn hợp 3 loại vitamine

nhóm B: thiamin (B
1
), pyridoxin (B
6
) và nicotinic acid. Từ đó, việc nuôi cấy đầu rễ đã
được tiến hành ở nhiều cây khác nhau.
Trong thời gian này, Gautheret ở Pháp đã tiến hành các nghiên cứu nuôi cấy mô
tượng tầng một số cây gỗ. Sau khi Went và Thimanm (1937) phát hiện chất sinh
trưởng đầu tiên là IAA và kết tinh được chất này, Gautheret xác nhận tác dụng kích
thích sinh trưởng mô sẹo của IAA và nhóm 3 vitamin do White đề nghị. Cùng với
Nobercourt, Gautheret (1939), đã thành công trong việc duy trì sinh trưởng của mô
sẹo cà rốt (Daucus carota) trên môi trường bán rắn.
Overbeek (1941), chứng minh tác dụng kích thích sinh trưởng của nước dừa trong
nuôi cấy phôi. Sau đó, Steward (1948) xác nhận tác dụng của nước dừa trên mô sẹo
cà rốt. Trong thời gian này, nhiều chất sinh trưởng nhân tạo thuộc nhóm auxin đã
được nghiên cứu và tổng hợp hóa học thành công. NAA, 2,4-D bắt đầu được sử dụng
để trừ cỏ lá rộng trong nông nghiệp. Nhiều tác giả nhận thấy cùng với nước dừa, 2,4-
D và NAA đã giúp tạo mô sẹo, gây phân chia tế bào thành công ở nhiều đối tượng
thực vật trước đó rất khó nuôi cấy.
Năm 1951, Skoog và Miller đã phát hiện ra các hợp chất có thể điều khiển sự
nhân chồi.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
16 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Skoog (1954), tình cờ thấy nếu thêm một ít chế phẩm đã để lâu của acid
desoxyribonucleic (DNA) lấy từ tinh dịch cá bẹ vào môi trường nuôi cấy các mảnh
mô thân cây thuốc lá thì tác dụng kích thích sinh trưởng trở nên rất rõ rệt. Skoog cố
tìm bản chất hiện tượng kích thích sinh trưởng của DNA. DNA mới trích ly từ tinh
dịch cá bẹ không có tác dụng nhưng nếu đem hấp trong hơi acid thì mẫu DNA mới
cũng có hoạt tính như mẫu DNA cũ. Skoog cho rằng chất có hoạt tính là một sản

phẩm phân giải của DNA. Năm 1955, chất này được xác lập là 6-furfurylaminopurine
và được Skoog đặt tên là “Kinetin” do tác dụng kích thích sự phân bào. Sau này,
người ta chứng minh rằng sự phân bào ở thực vật trong tự nhiên cũng do các chất hóa
học tương tự kinetin điều khiển và gộp chung các chất này vào nhóm cytokinin. Chất
cytokinin đầu tiên được tách từ thực vật bậc cao là zeatin lấy từ mầm ngô.
Nikkell (1956) nuôi liên tục được một huyền phù tế bào đơn cây đậu (Phaseolus
vulgaris).
Skoog và Miller (1957) công bố các kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của tỷ lệ
kinetin/auxin trong môi trường nuôi cấy đối với sự hình thành cơ quan của mô sẹo
thuốc lá. Khi giảm thấp tỷ lệ kinetin/auxin, mô sẹo có khuynh hướng phát triển rễ,
ngược lại nếu tỷ lệ kinetin/auxin tăng thì dẫn đến khuynh hướng tạo chồi ở mô sẹo.
Bergmanm (1960) công bố có thể dùng phương pháp lọc đơn giản để thu được
một huyền phù không có các tế bào dính cụm mà gồm hầu hết là tế bào đơn.
Năm 1960-1964, Morel cho rằng có thể nhân giống vô tính lan bằng nuôi cấy đỉnh
sinh trưởng. Từ kết quả đó, Lan được xem là cây nuôi cấy mô đầu tiên được thương
mại hóa. Từ đó đến nay, công nghệ nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã được phát triển
với tốc độ nhanh trên nhiều cây khác và được ứng dụng thương mại hóa.
Năm 1962, Murashige và Skoog đã cải tiến môi trường nuôi cấy, đánh dấu một
bước tiến trong kỹ thuật nuôi cấy mô. Môi trường của họ đã được dùng làm cơ sở cho
việc nuôi cấy nhiều loại cây và vẫn còn được sử dụng rộng rãi cho đến nay.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
17 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Guha và Maheswari (1966) công bố tạo thành công cây đơn bội từ nuôi cấy túi
phấn cây cà độc dược (Dautura inoxia). Một năm sau, nhóm Bourgin và Nitsch
(1967) tạo thành công cây đơn bội từ túi phấn thuốc lá.
1.3.2. Điều kiện và môi trường nuôi cấy mô tế bào thực vật:
Môi trường nuôi cấy là điều kiện tối thiểu cần thiết, là yếu tố quyết định cho sự
phân hóa tế bào và cơ quan nuôi cấy.
1.3.2.1. Điều kiện nuôi cấy mô tế bào thực vật:

a. Điều kiện vô trùng:
Nuôi cấy in vitro là nuôi cấy trong điều kiện vô trùng. Nếu không đảm bảo tốt
điều kiện vô trùng, mẫu nuôi cấy hoặc môi trường sẽ bị nhiễm, mô nuôi cấy sẽ bị
nhiễm, chết. Điều kiện vô trùng có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của nuôi cấy
mô in vitro.
Phương pháp vô trùng vật liệu thông dụng nhất hiện nay là dùng các chất hóa học,
tia cực tím có khả năng diệt nấm và vi khuẩn. Vô trùng ban đầu là một thao tác khó
và là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định. Nếu tìm được nồng độ và thời gian xử lý
thích hợp sẽ cho tỷ lệ sống cao. Các chất khử trùng thường sử dụng:
Bảng 1.2 : Các chất khử trùng
Tác nhân vô trùng Nồng độ (%)
Thời gian xử
lý(phút)
Hiệu quả
Canxi hypochloride 9-10 5-30 Rất tốt
Natri hypochloride 2 5-30 Rất tốt
Hydro peroxit 10-12 5-15 Tốt
Nước brôm 1-2 2-10 Rất tốt
Clorua thủy ngân 0,1-1 2-10 Trung bình, độc
Chất kháng sinh 4-5 mg/l 30-60 Khá tốt
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
18 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Phương tiện khử trùng: nồi hấp vô trùng, tủ sấy, buồng và bàn cấy vô trùng,
phòng nuôi cấy.
b. Điều kiện ánh sáng và nhiệt độ:
Ánh sáng và nhiệt độ là hai yếu tố chính có ảnh hưởng cơ bản đến quá trình sinh
trưởng của mô nuôi cấy.
 Ánh sáng:
Sự phát sinh hình thái của mô nuôi cấy chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như: thời

gian chiếu sáng, cường độ chiếu sáng và chất lượng ánh sáng. Thời gian chiếu sáng
tác động đến quá trình phát triển của mô nuôi cấy. Thời gian chiếu sáng thích hợp với
đa số các loài cây là 12-18 giờ/ngày.
Cường độ chiếu sáng tác động đến sự phát sinh hình thái của mô nuôi cấy. Cường
độ chiếu sáng cao kích thích sự tạo chồi. Nhìn chung cường độ ánh sáng thích hợp
cho nuôi cấy là 1000-7000 lux. Ngoài ra, chất lượng ánh sáng cũng ảnh hưởng tới sự
phát sinh hình thái của mô thực vật in vitro: ánh sáng đỏ làm tăng chiều cao của thân
chồi hơn so với ánh sáng trắng. Nếu mô nuôi cấy trong ánh sáng xanh thì sẽ ức chế
vươn cao nhưng lại có ảnh hưởng tốt tới sự sinh trưởng của mô sẹo. Hiện nay, trong
các phòng thí nghiệm nuôi cấy mô, để cung cấp nguồn ánh sáng có cường độ 2000-
2500 lux người ta sử dụng các dàn đèn huỳnh quang đặt cách bình nuôi cấy từ 35-40
cm.
 Nhiệt độ:
Trong nuôi cấy mô tế bào thực vật, nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
sự phân chia tế bào và các quá trình sinh hóa trong cây. Tùy thuộc vào xuất xứ của
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
19 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
mẫu nuôi cấy mà điều chỉnh nhiệt độ cho phù hợp. Nhìn chung nhiệt độ thích hợp
nhất cho sự sinh trưởng ở nhiều loài cây là 25
0
C.
1.3.2.2. Môi trường nuôi cấy mô tế bào thực vật:
Môi trường dinh dưỡng phải có đầy đủ các chất dinh dưỡng, các chất cần thiết cho
sự phân chia, phân hóa tế bào cũng như sự sinh trưởng bình thường của cây.
Thành phần hóa học của môi trường đóng vai trò quyết định đến sự thành công
hay thất bại của nuôi cấy mô và tế bào thực vật. Mỗi một loại vật liệu khác nhau có
những đòi hỏi khác nhau về thành phần môi trường, khi bắt đầu nghiên cứu một số
loài mới hoặc giống mới cần phải lựa chọn cho đối tượng nghiên cứu một loại môi
trường cơ bản phù hợp.

Có rất nhiều loại môi trường nuôi cấy thực vật khác nhau. Trong đó, có một số
môi trường cơ bản được sử dụng phổ biến như: MS, B
5
, SH có hàm lượng khoáng đa
lượng cao và một số môi trường khác được mô tả bởi White, Gautheret, Nitsch, Loyd
và Mc Cown có hàm lượng khoáng đa lượng thấp hơn.
Tuy có nhiều loại môi trường nuôi cấy mô tế bào thực vật nhưng đều gồm một số
thành phần cơ bản sau:
− Các muối khoáng đa lượng và vi lượng.
− Nguồn cacbon.
− Các vitamine và amino acid.
− Các chất bổ sung, chất làm thay đổi trạng thái môi trường.
− Các chất điều hòa tăng trưởng.
a. Các muối khoáng đa lượng và vi lượng:
Khoáng đa lượng: nhu cầu khoáng của mô, tế bào thực vật tách rời không khác
nhiều so với cây trồng trong điều kiện tự nhiên. Các nguyên tố đa lượng cần phải
cung cấp là N, P, K, Ca, Mg và Fe.
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
20 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Khoáng vi lượng: nhu cầu khoáng vi lượng trong nuôi cấy mô thực vật in vitro là
lĩnh vực còn ít được nghiên cứu. Trước đây, khi kỹ thuật nuôi cấy mô mới ra đời,
người ta không nghĩ đến việc bổ sung khoáng vi lượng vào môi trường nuôi cấy. Các
thí nghiệm lúc đó thành công là do agar và hóa chất dùng để pha môi trường không
tinh khiết mà có lẫn một số nguyên tố vi lượng cung cấp phần nào cho môi trường
nuôi cấy. Các nguyên tố vi lượng cần cung cấp cho tế bào là: Mn, Zn, Cu, B, Co, I,
Mo,…
b. Nguồn cacbon:
Khi nuôi cấy in vitro, các tế bào thực vật thường không có khả năng quang hợp,
do đó đòi hỏi phải cung cấp nguồn cacbon cho các hoạt động dinh dưỡng của tế bào.

Nguồn cacbon được ưa chuộng nhất hiện nay trong nuôi cấy là đường saccharose,
một số trường hợp sử dụng glucose và fructose thay thế cho saccharose nhưng chúng
thường nghèo hydrat cacbon so với nhu cầu của thực vật. Ngoài ra, khi khử trùng môi
trường, cần chú ý không nên kéo dài thời gian để tránh xảy ra hiện tượng đường hóa,
làm môi trường chuyển sang màu vàng dẫn đến ức chế sự sinh trưởng và phát triển
của tế bào.
c. Các vitamin và acid amin:
Ảnh hưởng của các vitamin đến sự phát triển của tế bào nuôi cấy in vitro ở các
loài khác nhau thì khác nhau.
Thông thường thực vật tổng hợp các vitamin cần thiết cho sự tăng trưởng và phát
triển của chúng. Chúng cần vitamin để xúc tác các quá trình biến dưỡng khác nhau.
Khi tế bào và mô được nuôi cấy in vitro thì một vài vitamin trở thành yếu tố giới hạn
cho sự phát triển của chúng. Các vitamin thường được sử dụng nhiều nhất trong nuôi
cấy mô là: thiamine (B
1
), acid nicotinic (B
3
), pyridoxine (B
6
) và myo-inositol.
d. Các chất bổ sung, chất làm thay đổi trạng thái môi trường:
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
21 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
Nước dừa: được sử dụng để kích thích phân hóa và nhân nhanh chồi ở nhiều loại
cây. Thông thường nước dừa được lọc qua màng lọc để khử trùng trước khi bảo quản
lạnh.
Dịch chiết nấm men: Có tác dụng kích thích sự sinh trưởng và phát triển của mô tế
bào. Dịch chiết nấm men là chế phẩm thường dùng trong nuôi cấy vi sinh vật, mô tế
bào động vật với nồng độ thích hợp.

Ngoài ra, có thể sử dụng dịch thủy phân casein hydrolyase (0,1-1%) hoặc bột
chuối với hàm lượng 40g bột khô trong 100g/l nhằm tăng cường sự phát triển của mô
sẹo hay cơ quan nuôi cấy.
Agar: là chất thường sử dụng để tạo môi trường đặc hay môi trường bán rắn trong
nuôi cấy mô thực vật. Khi agar được trộn chung với nước thì tạo ra dạng gel và tan ở
nhiệt độ 60-100
0
C, đặc lại khi nhiệt độ xuống 45
0
C. Vì vậy, agar ổn định trong tất cả
các điều kiện nhiệt độ môi trường và không bị phân hủy bởi enzyme thực vật. Hơn
nữa agar không phản ứng với các chất trong môi trường. Độ cứng của agar quyết định
bởi nồng độ agar sử dụng và pH của môi trường.
Than hoạt tính: Việc bổ sung than hoạt tính vào môi trường nuôi cấy có tác dụng
khử độc. Ảnh hưởng của than hoạt tính: hút các hợp chất cản, hút các chất điều hòa
sinh trưởng và làm đen môi trường. Người ta cho rằng tác dụng cản tăng trưởng của
mô cấy trong môi trường có than hoạt tính là do nó hút các chất điều hòa sinh trưởng
trong môi trường như: NAA, kinetin, BAP, IAA và 2iP. Khả năng kích thích sự tăng
trưởng của mô thực vật là do than hoạt tính kết hợp với các hợp chất phenol độc do
mô tiết ra trong suốt thời gian nuôi cấy.
e. Các chất điều hòa sinh trưởng:
Các chất điều hòa sinh trưởng hay còn gọi là chất kích thích sinh trưởng thực vật
là các yếu tố hóa học cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của thực vật. Chất
điều hòa sinh trưởng thực vật có thể là những chất tự nhiên được sản xuất với một
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
22 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
hàm lượng rất nhỏ trong một bộ phận nào đó của cá thể thực vật hoặc là những chất
được tổng hợp nhân tạo. Các chất điều hòa tăng trưởng gồm 2 nhóm chính: auxin và
cytokinin. Ngoài ra còn có gibberlin, ethylene, abscisic acid (ABA).

 Auxin:
Auxin là nhóm chất điều hòa sinh trưởng thực vật được sử dụng rất thường xuyên
trong nuôi cấy mô tế bào thực vật. Auxin kết hợp chặt chẽ với các thành phần dinh
dưỡng trong môi trường nuôi cấy để kích thích sự tăng trưởng của mô sẹo, huyền phù
tế bào và điều hòa sự phát triển sinh hình thái, đặc biệt khi nó được phối hợp với
cytokinin.
Đặc tính của auxin: auxin là một hợp chất tương đối đơn giản: indol-3-acetic acid
(IAA). Các chất có cấu trúc gần giống IAA và cùng có vai trò với IAA trong vài cơ
quan đều được gọi là auxin (như IBA; NAA; 2,4-D; 2,4,5-T và phenoxyaxetic acid).
Auxin phối hợp với cytokinin giúp sự tăng trưởng chồi non và khởi phát sự tạo
mới mô phân sinh ngọn chồi từ nhu mô. Tuy nhiên, ở nồng độ cao, auxin cản trở sự
phát triển của các phát thể chồi vừa được thành lập hay các chồi nách (các chồi ở
trạng thái tiềm sinh). Auxin ở nồng độ cao kích thích sự tạo sơ khởi rễ (phát thể non
của rễ), nhưng cũng cản trở sự tăng trưởng của các sơ khởi này. Trong sự tạo rễ, auxin
cần phối hợp với các vitamine (như thiamine mà rễ không tổng hợp được), amino
acid (như arginin) và nhất là các chất ortho diphenolic (như cafeic acid, chlorogenic
acid).
 Cytokinin:
Cytokinin là một loại hormone thực vật kích thích tế bào phân chia. Các hợp chất
này xuất phát từ purine adenin, một trong các base của DNA và RNA. Hợp chất
Cytokinin đầu tiên được khám phá là kinetin, tiếp theo là zeatin - một hợp chất có
trong phần lớn thực vật và vài vi khuẩn, cấu trúc gần giống Kinetin, nhưng hoạt tính
cao hơn gấp 10 lần. Sau zeatin, hơn 30 loại cytokinin khác cũng được cô lập. Ngày
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
23 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
nay, người ta gọi cytokinin để chỉ một nhóm hợp chất tự nhiên hay nhân tạo, có đặc
tính sinh lý giống kinetin. Nhiều chất tổng hợp có hoạt tính cytokinin, chúng đều là
các aminopurin được thay thế ở vị trí thứ 6 như BA.
Cytokinin kích thích sự phân chia tế bào với điều kiện có auxin. Cytokinin tác

động lên cả hai bước của sự phân chia tế bào: phân nhân và phân bào. Trong nuôi cấy
các mô nghèo cytokinin (mô lõi thuốc lá, vỏ rễ đậu), auxin kích thích sự phân đôi
nhiễm sắc thể, thậm chí tạo tế bào hai nhân, nhưng không có sự phân vách, sự phân
vách chỉ xảy ra khi có cytokinin ngoại sinh. Cytokinin giúp sự gia tăng kích thước tế
bào và sinh tổng hợp protein. Trong thân và rễ, cytokinin cản trở sự kéo dài nhưng
kích thích sự tăng rộng tế bào lá trưởng thành.
Trong các nghiên cứu nuôi cấy mô thực vật, tỷ lệ auxin/cytokinin (A/C) là một
yếu tố rất quan trọng: A/C cao giúp sự tạo rễ, A/C thấp giúp tạo chồi. Như cậy,
cytokinin hỗ trợ auxin trong tăng trưởng nhưng đồng thời cũng có sự đối kháng giữa
auxin (giúp tạo rễ), cytokinin (giúp tạo chồi). Sự cân bằng giữa hai kiểu hormone này
là một trong những yếu tố kiểm soát sự phát triển.
Các chất kích thích điều hòa tăng trưởng hầu như không tan trong nước cất vì
vậy khi pha các chất này cần lưu ý:
− Nhóm auxin chủ yếu tan trong cồn hoặc bazơ.
− Nhóm cytokinin chủ yếu tan trong acid hay bazơ.
Không nên pha một lượng dung dịch mẹ các chất sinh trưởng quá nhiều vì nó rất
dễ biến tính.
 Gibberellin:
Gibberellin là một nhóm trong các chất điều hòa sinh trưởng thực vật gồm hơn 80
hợp chất khác nhau. Các hợp chất này có điểm giống nhau ở cấu trúc hóa học đó là có
sườn gibbane, được trích ra từ thực vật, vi sinh vật và được đánh số sau chữ GA. Acid
gibberellic
3
(GA
3
) và hỗn hợp giữa GA
3
với acid gibberellic
7
(GA

7
) là những
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
24 MSSV : 0811110007
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP HCM
gibberellin duy nhất có giá trị thương phẩm do chúng thường được sử dụng trong
nuôi cấy mô thực vật.
Ảnh hưởng của gibberellin trên sự phát sinh hình thái: khi bổ sung gibberellin vào
trong môi trường nuôi cấy mô thực vật thì sẽ làm giảm bớt hoặc ngăn cản sự tạo chồi,
rễ bất định và sự phát sinh phôi soma. Ở mô sẹo thuốc lá, GA
3
đặc biệt có tác dụng
cản sự tạo chồi khi có mặt vào giai đoạn hình thành đỉnh sinh trưởng và nó có tác
dụng cản mạnh hơn khi mẫu cấy được nuôi trong điều kiện tối so với ngoài sáng.
Trong thực vật, gibberellin có ảnh hưởng:
− Kích thích vươn thân qua kích thích phân bào và kéo dài tế bào. Tạo ra
thân cao ngược với tính lùn cây.
− Kích thích vươn thân trong điều kiện ngày dài.
− Kích thích nảy mầm ở hạt cần xử lý lạnh hay ánh sáng để phát sinh nảy
mầm.
− Kích thích sản xuất nhiều loại enzyme như
α
- amylase ở các loại hạt
ngũ cốc.
− Gibberellins ngoại sinh kích thích sự hình thành và phát triển trái.
− Phát sinh tính cái của hoa lưỡng tính.
 Ethylene:
Ethylene được tổng hợp từ methionine ở nhiều loại mô khi phản ứng với stress.
Dường như nó không cần thiết cho sinh trưởng sinh dưỡng. Nó chỉ là một
hydrocarbon có ảnh hưởng trên thực vật. Đặc biệt nó được tổng hợp ở mô trái qua

quá trình lão hóa hay đang chín đột phát.
Là một chất khí, ethylene vận chuyển bằng phương thức khuếch tán từ nơi nó
được tổng hợp. Có một chất trung gian rất quan trọng 1- aminocyclopropane – 1-
carbonxylic acid (ACC) có thể được vận chuyển và có thể giải thích những ảnh
hưởng của ethylene ở xa nơi gây ra sự kích thích.
Ethylene có ảnh hưởng đến nhiều quá trình sinh lý của thực vật như:
SVTH: Nguyễn Thị Diễm Chi
25 MSSV : 0811110007

×