Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

LUẬN ÁN: Tìm hiểu nền văn hóa phong kiến Nhật Bản (Từ thế kỷ VII đến cuối thế kỷ XIX) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.88 KB, 129 trang )




II








LUẬN ÁN:

Tìm hiểu nền văn hóa phong kiến
Nhật Bản (Từ thế kỷ VII đến cuối
thế kỷ XIX)
















1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia ở Châu á, hai nước không chỉ gần nhau về
mặt địa lý mà còn có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và tính dân tộc. Xuất phát từ tình
cảm thân thiết đó, từ lâu hai dân tộc đã hình thành sự giao lưu trên nhiều lĩnh vực.
Mặc dù, mối quan hệ giữa hai dân tộc trong lịch sử cũng có những lúc thăng
trầm, nhưng tình cảm hữu nghị giữa hai nước vẫn mãi mãi trường tồn cùng với thời gian.
Trong những năm gần đây, chính sách mở cửa và xu hướng xích lại gần nhau của
các quốc gia dân tộc trong khu vực và trên thế giới đang đặt ra nhu cầu giao lưu và hòa
nhập trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và đời sống xã hội. Cùng với xu hướng đó, quan
hệ giữa hai nước Nhật Bản và Việt Nam đang ngày càng được tăng cường mở rộng, trao
đổi với nhau về nhiều phương diện. Trong đó, sự giao lưu văn hóa giữa hai nước được
coi là vấn đề quan trọng, nhằm để tìm ra tiếng nói chung và để tìm thấy nét đẹp trong
những nét riêng biệt về văn hóa của nhau. Mục tiêu đó đã được Hội nghị lần thứ 5 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII nêu rõ: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là động lực, vừa là mục tiêu, vừa là tấm gương phản chiếu để điều tiết sự phát triển
kinh tế xã hội".
Ngoài những giá trị chuẩn mực xã hội, văn hóa còn là một thực thể tinh thần luôn
ở trạng thái giao lưu, học hỏi. Đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay,
đó là điều kiện cần thiết để nắm bắt những cái tiến bộ, loại trừ những cái xấu xa, lỗi thời,
để tự mình vươn lên chứ không tự đánh mất mình, hòa nhập mà không hòa tan và hiểu
người để hiểu mình.
Do vậy, chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu
nền tảng tinh thần tiến bộ lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế xã

hội bền vững. Điều đó, Tổng Bí thư Đỗ Mười đúc kết một câu rằng: Quá trình tiến hóa
của một Quốc gia luôn luôn phải gắn với cội nguồn, phát triển trên nền bản sắc văn hóa
dân tộc đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại Nếu phát triển tách khỏi
cội nguồn, xa rời những giá trị văn hóa truyền thống, nhất định sẽ lâm vào nguy cơ đánh

mất bản thân, chẳng những không thể đóng góp cho nền văn hóa chung của nhân loại mà
còn trở thành bản sao mờ nhạt của dân tộc khác.
Chính bởi vậy, nhận thức đúng về văn hóa là một điều kiện không thể thiếu trong
việc trang bị hành trang tiến vào tương lai. Để bước sang thế kỷ XXI này, làm cho mối
quan hệ sâu sắc hơn theo tinh thần "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển" cũng như mối quan hệ
giữa Việt Nam và Nhật Bản nói riêng cần phải phát huy hơn nữa thì việc tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và nhân dân Việt Nam - Nhật Bản là điều cần thiết.
Bằng những ý nghĩa thực tiễn như trên, chúng tôi chọn đề tài "Tìm hiểu nền
văn hóa phong kiến Nhật Bản (Từ thế kỷ VII đến cuối thế kỷ XIX)" làm đề tài nghiên
cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của các
quốc gia dân tộc thì việc tìm hiểu, giao lưu văn hóa giữa các Quốc gia với nhau trở thành
một vấn đề quan trọng. Cũng như nhiều quốc gia khác, đặc biệt là sự thành công về kinh
tế của Nhật Bản sau những thập kỷ chiến tranh thế giới thứ hai đã thu hút sự quan tâm
của các quốc gia trên thế giới và khu vực. ở Việt Nam, việc nghiên cứu Nhật Bản đã
được quan tâm từ lâu và đã có những công trình được xuất bản, những bài đăng trên tạp
chí.

Cùng với quá trình đổi mới, sự quan tâm của các nhà lãnh đạo và nhân dân Việt
Nam ngày càng tăng. Đặc biệt là hiện nay, mối quan hệ Nhật Bản - Việt Nam ngày càng
được tăng cường thì nhu cầu tìm hiểu về Nhật Bản càng trở nên cần thiết.
Vì thế, khi nghiên cứu về Nhật Bản đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, một số
các tác giả đã có những công trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực. Trong đó nghiên cứu
về văn hóa như chữ viết, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng cũng đã được nhiều
tác giả đề cập đến. Tiêu biểu như: Năm 1989 tác giả Hữu Ngọc trong cuốn "Hoa Anh
Đào và điện tử" đã có nhiều gợi ý về những thành tựu đã đạt được của nền văn hóa đó
qua các giai đoạn lịch sử. Năm 1990 San Som tác giả của hai tập "Lược sử văn hóa Nhật
Bản" đã miêu tả sơ lược về nguồn gốc và những đặc điểm của tín ngưỡng dân tộc ở

chương III, quá trình tiếp thu, phát triển về tư tưởng Nho giáo và Phật giáo ở chương VI.
Chương XII bàn về sự hình thành và Nhật Bản hóa hệ thống tư tưởng này. Ngoài ra, tác
giả còn lý giải về quá trình ra đời và sự hình thành của chữ viết, văn học, nghệ thuật Nhật
Bản ở chương VI và chương XII. Sự phát triển phổ biến của nền văn hóa Nhật Bản mang
màu sắc dân tộc được tác giả bàn tới ở chương XVI và XVIII. Năm 1991 tác giả Vĩnh
Sính trong cuốn "Nhật Bản cận đại" đã đưa ra những khẳng định khái quát về những
thành tựu văn hóa trong từng giai đoạn lịch sử của chế độ phong kiến Nhật Bản. Năm
1995, các tác giả Rechard Bowring và Peter Nikki trong cuốn "Bách khoa toàn thư Nhật
Bản" đã đưa ra những đặc điểm, mục đích khái quát về văn học, nghệ thuật, tôn giáo kiến
trúc, hội họa điêu khắc v.v
Năm 1997, các tác giả Lương Duy Thứ, Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền trong
"Đại cương văn hóa phương Đông" đã viết:
Văn hóa Nhật Bản chịu ảnh hưởng cả hai nền văn hóa ấn - Trung và
sau này của phương Tây mà vẫn kiến tạo được một bản sắc độc đáo, Nhật Bản
là một biểu mẫu của thân hóa, dung hợp và phát triển các ngọn nguồn văn
minh khác nhau [35, tr. 223].

Trong các công trình ấy, đều nói về các tiêu đề văn học, nghệ thuật, tôn giáo,
kiến trúc hội họa, điêu khắc đã được các tác giả đề cập đến.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, các tác giả: Nguyễn Thị Việt Thanh đã
đóng góp nhiều ý kiến trong việc nghiên cứu về hệ thống chữ Kana của Nhật Bản. Trần
Hải Yến trong "Một số nét đặc trưng của văn học Nhật Bản" đã viết:
Văn học Nhật Bản có những nét đặc trưng liên quan tới văn học Trung
Quốc và văn học phương Tây, những đặc trưng này gắn liền với 5 nhân tố
chính đó là: Vai trò của văn học trong văn hóa Nhật Bản với tư cách một tổng
thể, mô hình phát triển của lịch sử văn học, ngôn ngữ Nhật Bản và hệ thống
chữ viết của nó, cơ sở xã hội của văn học và những yếu tố tôn giáo và triết học
[34].
Trong "Tìm hiểu Đạo Phật ở Nhật Bản", Nguyễn Thị Thúy Anh đã chia quá trình
hình thành và phát triển của Đạo Phật Nhật Bản ra 3 thời kỳ "Truyền bá, Nhật Bản hóa,

Tồn tại" [4].
Các công trình nghiên cứu trên là những tư liệu quý có ý nghĩa quan trọng trong
việc gợi ý, hướng dẫn chúng tôi thực hiện đề tài.
Như vậy, vấn đề mà đề tài đặt ra còn mới mẻ. Theo suy nghĩ của chúng tôi,
nghiên cứu để góp thêm một ý kiến nhằm đáp ứng phần nào đó về nhu cầu tìm hiểu nền
văn hóa phong kiến Nhật Bản là điều cần thiết và bổ ích.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu về nền văn hóa thời phong kiến Nhật
Bản, nhằm nâng cao hơn nữa về sự hiểu biết nền văn hóa, và những nét truyền thống nổi
bật của đất nước Nhật Bản.
Để thực hiện được mục đích đó, chúng tôi đã nghiên cứu về các vấn đề văn hóa
như chữ viết, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng thông qua các giai đoạn lịch sử,
thiết chế chính trị thời phong kiến Nhật Bản. Qua việc nghiên cứu cho thấy, quá trình
hình thành và phát triển Nhật Bản nói chung, là một dân tộc gặp nhiều khó khăn. Do sự
tác động của điều kiện địa lý cũng như chịu sự ảnh hưởng nền văn hóa bên ngoài. Nhưng
nhân dân Nhật Bản đã tự vượt qua mọi khó khăn, từng bước vươn lên trở thành một biểu
tượng của một quốc gia phát triển nhất ở phương Đông thời hiện đại. Quá trình ảnh
hưởng, tiếp thu và xây dựng đó là cơ sở cho đề tài chúng tôi cần nghiên cứu.
Chúng tôi hy vọng rằng, đề tài thành công sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc
nghiên cứu, trao đổi với nhau trong mối quan hệ giữa hai nền văn hóa Nhật Bản và Việt
Nam. Theo mục tiêu thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, văn hóa mà Hội nghị lần thứ 5
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đề ra.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp
sau:
- Nghiên cứu lịch sử là phương pháp quan trọng. Sử dụng phương pháp này dựa
trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu sự thật, cụ thể. Bao gồm các tài liệu có liên quan về văn
hóa thời phong kiến Nhật Bản như: Văn học, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, tôn giáo và
tín ngưỡng


- Khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê, phương
pháp này dùng để thống kê, phân loại các tư liệu đã thu thập được, giúp người nghiên cứu
nhìn nhận, phân tích, đánh giá tính khả thi của vấn đề mà đề tài đặt ra.
- Quan sát là phương pháp không thể thiếu khi nghiên cứu đề tài này. Chúng tôi
sử dụng phương pháp quan sát để nhìn nhận khái quát một cách toàn diện về văn hóa
Nhật Bản, để đi sâu vào nghiên cứu từng giai đoạn nhỏ trong thời kỳ lịch sử phong kiến
Nhật Bản.
- Ngoài các phương pháp trên, đề tài còn kết hợp sử dụng phương pháp lôgic và
phương pháp lịch sử. Hai phương pháp này có tác dụng bổ sung hỗ trợ lẫn nhau giúp
người nghiên cứu nhìn nhận vấn đề một cách lôgic, khoa học trong việc xử lý tài liệu, so
sánh, đối chiếu theo hệ thống thông tin đã thu thập được. Dựa trên cơ sở đó để giải thích,
đánh giá và tìm ra những kết luận đúng mang tính khách quan.
5. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, vấn đề quan tâm trước tiên là sự hình thành, tiếp thu và phát
triển của nền văn hóa phong kiến Nhật Bản. Chúng tôi đã nghiên cứu về tất cả các mặt
của nền văn hóa Nhật Bản như văn học, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, tôn
giáo theo các giai đoạn phát triển lịch sử.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 5 chương.

Chương 1
Nhật Bản - đất nước và con người
1.1. Đất nước Nhật Bản
Nhật Bản - "Xứ sở hoa Anh Đào" là một quần đảo ở phía Đông Bắc lục địa châu
á, nằm giữa biển Nhật Bản và Thái Bình Dương. Quần đảo này được hình thành bởi
những vụ nổ núi lửa cách đây nhiều triệu năm. Nó bao gồm gần 4000 đảo lớn nhỏ uốn
theo hình cánh cung rải từ Đông Bắc xuống Tây Nam, với chiều dài khoảng 3.900km, từ
vĩ độ bắc 45

0
33 đến 20
0
25. Nhật Bản có tổng diện tích là 377.815km
2
. Tuy là một quần
đảo nhưng nó chỉ có 4 đảo lớn, theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido (Bắc Hải
đảo); Honshu (Bản đảo hay Bản Châu); Shikoku (Tứ quốc); Kyushu (Cửu Châu).
Xét về mặt địa lý, Nhật Bản nằm ở một vị trí biệt lập cách xa đại lục, khoảng
cách từ Nhật Bản đến Trung Quốc là 800km, vùng gần miền Nam bán đảo Triều Tiên là
đảo Kyushu cách tới 180km. Có thể nói rằng, Nhật Bản đủ xa châu á để thoát khỏi các
đột biến của lục địa nhưng lại đủ gần để có thể hưởng những thành quả của nền văn minh
đó. Từ xa xưa, quần đảo Nhật Bản giữ mối quan hệ với lục địa châu á qua ba con đường:
Phía Bắc từ miền Đông Xibia đến Hokkaido qua Sakhalin; Phía Đông từ bán đảo Triều
Tiên đến Honshu và đường phía Nam từ đất Trung Hoa đến đảo Kyushu qua Đài Loan và
quần đảo Ryukyu. Từ ba con đường này, Nhật Bản có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn
hóa từ lâu với thế giới. Tuy nhiên, tính chất "đảo" ấy đã tạo nên ở Nhật Bản một hoàn
cảnh địa lý đặc biệt. Nếu như nữ thần Amatêraxu đã ưu ái phú cho Nhật Bản những
người con gái đẹp và khí hậu ôn hòa, thì người lại dồn cho Nhật Bản nhiều thử thách
thiên nhiên mà trong đó thường trực tai họa khủng khiếp như: Bão tố, sóng thần thường
xuyên ập đến, nhất là khi giao thông còn sơ khai, là một trở ngại lớn đối với Nhật Bản
trong việc quan hệ giao lưu với các nước xung quanh và thế giới. Nhưng sự biệt lập của
tính chất "đảo" lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân

tộc, giúp cho người Nhật chủ động cải tạo và xây dựng nền văn minh thống nhất và độc
đáo của mình.
Điều kiện tự nhiên Nhật Bản tuy đẹp nhưng quả thật khắc nghiệt đối với con
người. Những hòn đảo nghèo nàn này không được hưởng những thiên thời và địa lợi. ở
Nhật Bản, đất đai canh tác ít chỉ chiếm 15% diện tích, còn lại là đồi núi. Nhật Bản không
những không có con sông lớn, không có những cánh đồng phù sa màu mỡ như ở Ai Cập,

Lưỡng Hà hay Trung Quốc mà còn là đất nước phải chịu đựng nhiều nét khắc nghiệt và
dữ dội của một vùng đất đầy núi lửa, động đất, sóng thần, bão lụt và hạn hán. Cho đến
ngày nay, ở Nhật Bản còn hơn 30 ngọn núi lửa đang hoạt động trong số 196 ngọn núi.
Hàng năm có tới hàng nghìn lần rung chuyển địa chất và thỉnh thoảng lại có những trận
động đất lớn, có khi thiêu hủy cả thành phố.
Người Nhật đã ý thức sớm được những khó khăn bất lợi trong điều kiện địa lý và
tự nhiên. Cho nên, từ thời cổ đại, Nhật Bản đã nhanh chóng tiếp thu những tinh hoa tiến
bộ từ bên ngoài vào, đặc biệt là ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa để tạo điều kiện cho
bước phát triển của mình. Như vậy, việc tìm hiểu vị trí địa lý và tự nhiên của Nhật cho
chúng ta thấy, Nhật Bản đã vươn lên thật là mạnh mẽ như thế nào để trở thành một trong
những dân tộc đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, kỹ thuật. Sự thành công đó đã chứng tỏ
là một thắng lợi của con người đối với thiên nhiên.
1.2. Con người Nhật Bản
Người Nhật Bản có nguồn gốc như thế nào? Hay người Nhật từ đâu đến? Đây là
một vấn đề còn đang được tranh luận. Nhưng có một số điểm gần như được nhiều nhà
nghiên cứu và nhiều nhà khảo cổ học thống nhất với nhau rằng, tổ tiên xa xưa của người
Nhật là từ nhiều nơi đến. Đặc biệt là nhóm di cư từ phía Bắc lục địa châu á xuống và có
một bộ phận từ các miền duyên hải Nam á lên. Những phát hiện trên quần đảo cho thấy,
từ thời đại đồ đá cũ khoảng 10 vạn năm trước đây có các nhóm cư dân săn bắn và hái

lượm, rải rác từ miền Đông Xibia di cư sang phía Bắc Nhật Bản qua đường Hokkaido và
Sakhalin. Nền văn hóa thuộc thời đại này được phát hiện nằm rải rác trên khắp nước Nhật
như: Những chiếc cầu bằng đất, những kiểu nhà ở và các câu chuyện truyền thuyết gợi lên
nguồn gốc đại dương, các đặc điểm văn hóa đa dạng có nhiều nét tương tự như ở phía
Nam Trung Quốc, các lăng mộ và việc chế tác đã gợi đến mối liên hệ với việc di cư của
người dân từ vùng Triều Tiên và vùng phía Bắc Trung Quốc. Tất cả điều đó đã cho thấy:
"Chủng tộc Nhật Bản là kết quả của sự pha trộn các yếu tố của các miền khác nhau trên
lục địa châu á từ thời tiền sử" [26, tr. 14]. Trong đó, nòi giống phương Bắc chiếm một
phần khá mạnh, chủ yếu là người Mông Cổ, ngoài ra còn các yếu tố Trung Hoa và người
Ainu. Trải qua nhiều thời đại lịch sử, sự pha trộn ấy đã sản sinh ra một dân tộc tương đối

thuần nhất để phân biệt với các nước láng giềng như Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ,
cả trong ngôn ngữ, sinh hoạt, tôn giáo, cơ cấu chính trị và xã hội Những nét riêng đó đã
sớm trở thành bản chất của người Nhật Bản.
Trong lịch sử phát triển của mình, yếu tố Trung Hoa đóng một vai trò quan trọng.
Từ xa xưa, người Nhật đã có sự khát khao đối với các nền văn minh khác, và trong lịch
sử tiến hóa của mình, người Nhật hoan nghênh các yếu tố văn hóa nước ngoài mà không
gạt bỏ các tập tục truyền thống đã có. Có thể nói, nhân dân Nhật Bản đã hấp thụ có chọn
lọc nhiều phát kiến văn hóa của các nền văn minh trên thế giới. Ngay từ thời tiền sử, văn
hóa Trung Hoa đã thấm đượm trong văn hóa Nhật Bản. Do sự kết hợp giữa con người,
điều kiện địa lý và thiên nhiên độc đáo, tạo nên tính cách đặc trưng của con người Nhật
Bản.
Trước tiên là tính hiếu kỳ, nhạy cảm với văn hóa nước ngoài. Điều đó có thể nói,
không có một dân tộc nào nhạy bén về văn hóa nước ngoài như người Nhật, họ không
ngừng phát triển, theo dõi những biến đổi của thế giới bên ngoài. Khi họ biết trào lưu nào
đang thắng thế thì họ sẵn sàng chấp nhận, học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lưu đó
không để lỡ thời cơ. Ví như: Khi thấy văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, người
Nhật đã nhanh chóng tiếp thu nền văn hóa ấy, nhưng họ rất ý thức về tài sản văn hóa của

họ, một nền văn hóa đã được trang trọng bồi dưỡng và tích lũy qua các thời đại lịch sử vì
thế người Nhật rất trân trọng nó.
Người Nhật cũng có óc thẩm mỹ, sự bền bỉ, kiên trì cũng là tính cách của người
Nhật. Họ ưa chuộng cái đẹp, điều đó được thể hiện trong tính cách ăn mặc, kiến trúc và
lối sống. Những đặc trưng trong tính cách người Nhật là điều kiện thuận lợi cho sự tiếp
thu những tinh hoa của nhân loại, đồng thời nó giúp cho người Nhật Bản chủ động nắm
bắt và cải tiến nền văn hóa ấy mang màu sắc dân tộc mình.

Chương 2
Văn hóa Nhật Bản từ cải cách taika
đến trước KHI thành lập chế độ Mạc Phủ
(từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII)

2.1. Bối cảnh lịch sử của Nhật Bản trong giai đoạn từ cải cách Taika đến
trước khi thành lập chế độ Mạc Phủ
Từ cuối thế kỷ VI, một bộ phận quý tộc Nhật Bản chịu ảnh hưởng của nền văn
hóa, đặc biệt là những học thuyết chính trị và pháp luật của Trung Quốc, muốn cải cách
nước Nhật theo mô hình của nhà Đường. Nhưng lúc đó, dòng họ Soga (Tô Ngã) đang
nắm quyền lực lớn trong triều đình, chiếm đoạt nhiều ruộng đất và nhiều bộ dân, đó là
chướng ngại chủ yếu trên con đường xây dựng và củng cố Nhà nước Trung ương tập
quyền ở Nhật Bản. Vì vậy chỉ có thủ tiêu thế lực Soga thì việc cải cách mới có thể thực
hiện được. Năm 645, trong khi tiếp kiến với sứ giả Triều Tiên, quan nhiếp chính Soga
Iruca (Tô Ngã Nhập Lộc) đã bị ám hại. Những người đảo chính sau đó bao vây và đốt
cháy dinh phủ, giết hại những người thuộc dòng họ Soga. Quyền lực thực sự trả về cho
Thiên hoàng Kotoku (Hiếu Đức), đặt niên hiệu là Taika (Đại Hòa).
Khi lên nắm chính quyền Thiên hoàng Kotoku đã ban hành một loạt cải cách, vào
tháng giêng năm 646 (năm Taika thứ hai). Thiên hoàng Kotoku hạ chiếu cải cách và tiếp
đó ban hành một số luật lệnh cụ thể dựa trên cơ sở của chế độ chính trị và tô thuế nhà
Đường. Những cuộc cải cách này trong lịch sử Nhật Bản gọi đó là cuộc cải cách Taika
(Đại Hòa Cách Tân).

Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách Taika là thiết lập một hệ thống chính trị từ
trung ương đến địa phương theo mô hình nhà Đường ở Trung Quốc, đồng thời tuyên bố
xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất của các quý tộc thị tộc. Trừ ruộng đất của các
đền chùa, còn lại tất cả ruộng đất trong nước đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Chế
độ bộ dân (những người dân bán tự do) cũng bị xóa bỏ và bộ dân được giải phóng, được
tự do bình đẳng như những người dân tự do khác. Nhưng tất cả mọi người đều trở thành
thần dân chịu sự quản lý của Thiên hoàng.
Sau cải cách Taika, xã hội Nhật Bản có sự chuyển biến lớn lao, với cuộc cải cách
này, chế độ bộ dân bị xóa bỏ, sức lao động của bộ dân được giải phóng và được coi như
dân tự do. Thực chất là xác lập quan hệ sản xuất phong kiến, tức là Nhà nước có quyền sở
hữu tối cao về ruộng đất. Chính sách "ban điền" của Nhà nước đã đem lại ruộng đất cho
nông dân, kể cả bộ dân được giải phóng cũng được chia ruộng đất, họ có kinh tế và gia

đình nên họ hứng thú sản xuất hơn. Tuy nhiên, họ phải chịu nộp mức thuế cố định theo
chế độ bóc lột Tô-Dung-Điệu của Nhà nước. Những nguyên tắc chính của chế độ này đã
được cụ thể hóa trong bộ luật Taiho Retsurgo. Các gia đình, những người nông dân được
chia ruộng đất nhưng họ không có quyền rời khỏi phần ruộng đất được chia của mình và
họ phải trả tô thuế cho Nhà nước và các nghĩa vụ lao động bắt buộc khác.
Như vậy, chế độ "ban điền" sau cải cách Taika đã xác nhận quan hệ sản xuất
phong kiến ở Nhật Bản. Mặc dù những biện pháp trên giải phóng được chế độ bộ dân và
đem lại ruộng đất cho nông dân, nhưng đồng thời nó cũng trói chặt nông dân vào ruộng
đất để Nhà nước và bọn chủ ruộng thống trị, nô dịch họ.
Bên cạnh việc chia ruộng đất cho nông dân, Nhà nước còn phân phong đất đai
cho tầng lớp quý tộc tùy theo tước vị, chức sắc và công lao của họ. Những phần đất đặc
quyền này được quy định theo ba loại là: tước vị và chức sắc chỉ được ban tặng tạm thời
một hoặc hai, ba đời. Còn công lao là tối đa, phần lớn đất đai này là của con cháu giới
quý tộc có quyền thế trong bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương, nên đã dần
dần biến ruộng đất được ban cấp thành ruộng đất tư hữu. ở những vùng đất đặc quyền có

nông dân sinh sống thì những người nông dân đã trở thành "phong hộ" cho giai cấp quý
tộc, họ phải nộp phần lớn thu nhập sản phẩm của mình cho giai cấp quý tộc. Ngoài ra,
chúng còn cướp đoạt ruộng đất của nông dân để mở rộng thêm phần đất của mình.
Do vậy, quy mô và hình thức sở hữu đất đai ngày càng lớn và đa dạng, đó là tiền
đề làm cho cuộc cải cách Taika trong thực tế đã bị thất bại. Thêm vào đó, sự yếu kém của
chính quyền từ trung ương đến địa phương, quyền lực bị chia cắt nhỏ trong việc quản lý
đất đai, thu thuế cũng là những bối cảnh dẫn đến hệ quả trên. Chế độ ban điền đã bị bãi
bỏ từ năm 850. Lợi dụng chính sách khai khẩn đất hoang của triều đình, lại được sự che
chở của giới quý tộc ở kinh đô, nên tầng lớp địa chủ ở địa phương đã chiếm đoạt nhiều
ruộng đất. Các thế lực mạnh lên nhanh chóng, họ muốn có quyền sở hữu vĩnh viễn đối
với đất đai của họ. Cùng với thời gian, các phần đất được chia bị biến thành trang viên
(Shoen) phong kiến. Các Tự Viện (đền chùa) cũng được Thiên hoàng và quý tộc ban tặng
nhiều ruộng đất và cũng trở thành các trang viên, được miễn thuế hoàn toàn. Các chủ
trang viên đã trở thành các chúa đất độc lập, họ không chịu sự kiểm soát của triều đình.

Những người nông dân trở thành sở hữu riêng của các chủ lãnh địa phong kiến.
Sự bóc lột tàn bạo, tô thuế cao cùng với việc chiếm đoạt ruộng đất của nông dân đã gây
ra những cuộc phản kháng rõ rệt, những người nông dân chạy trốn khỏi lãnh địa. Một số
người chạy trốn đã tổ chức thành các đội chuyên đi ăn cướp, từ đó xuất phát các cuộc
khởi nghĩa chống phong kiến được hình thành.
Từ sau cuộc đảo chính năm 645, chính quyền trở về tay Thiên hoàng. Đến năm
710, kinh đô thường trực đầu tiên của Nhật Bản được xây dựng hoàn thành theo lệnh của
nữ hoàng Genmei, đó là kinh đô Nara (Nại Lương). Trong suốt 70 năm, từ năm 710 đến
năm 794, Nara trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Nhật Bản. Tuy nhiên,
có những cuộc đấu tranh giữa tầng lớp quý tộc cũ, muốn khôi phục lại quyền lợi và địa vị
trước kia với tầng lớp quan lại diễn ra thường xuyên. Đại diện cho tầng lớp quý tộc cũ là
họ Otomo và tầng lớp quan lại mới là họ Fujiwara. Vì dòng họ này có công trong việc
tiêu diệt họ Soga trong cuộc cải cách Taika, nên được Thiên hoàng ưu đãi, như được giữ

chức vụ cao trong triều đình, phong cấp nhiều bổng lộc làm cho dòng họ Fujiwara ngày
càng mạnh lên. Cuối cùng họ Fujiwara đã đánh bại hoàn toàn tầng lớp quý tộc cũ và lên
nắm chính quyền, chấm dứt thời Nara.
Sau khi đánh bại những tàn dư quý tộc cũ, dòng họ Fujiwara ngày càng độc đoán
về quyền lực, họ lấn át cả Thiên hoàng, buộc Thiên hoàng phải rời đô từ Nara đến Heian-
Kyo (Bình An kinh), từ đó được gọi là thời kỳ Heian.
Trong thời kỳ Heian, dòng họ Fujiwara càng trở nên lớn mạnh, chiếm lĩnh mọi
quyền lực thực tế của Thiên hoàng, và không ngừng củng cố địa vị thống trị của mình.
Từ giữa thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XI, họ Fujiwara kế tiếp nhau chiếm đoạt quyền hành
của nhà vua. Trên thực tế chính quyền trung ương ngày càng trở nên suy yếu về mọi mặt.
Sự chấp chiếm quyền lực của dòng họ Fujiwara đã gây ra tình trạng thù địch lẫn
nhau giữa các phe phái phong kiến, những cuộc xung đột xảy ra thường xuyên. ở kinh đô,
các thế lực phong kiến thù địch với dòng họ Fujiwara ngày càng gay gắt. Từ thế kỷ XI,
các Thiên hoàng đã tìm mọi cách thoát khỏi sự khống chế và ràng buộc của dòng họ
Fujiwara nhằm để khôi phục lại quyền lực của mình bằng cách dựa vào tầng lớp quý tộc
quan lại bị sa sút, tầng lớp sư sãi Phật giáo có thế lực, đồng thời bãi bỏ chế độ nhiếp

chính, không tuyển hoàng hậu thuộc họ Fujiwara, thiết lập chế độ nghị chính. Theo chế
độ này, Thiên hoàng nhường ngôi cho con và trở thành Thượng hoàng rồi lên Pháp
hoàng.
Vào năm 1086, khi Thiên hoàng Shirakawa nhường ngôi cho con và ông trở
thành Thượng hoàng. Cùng năm đó, ông thiết lập một cơ quan mới gọi là Isne (Viện
chính). Thực chất của Viện chính là một tổ chức theo dõi việc chính trị của triều đình để
giúp đỡ Thiên hoàng, và là cơ sở của Hoàng gia để chống lại họ Fujiwara. Đến đầu thế kỷ
XII, Viện chính của Thiên hoàng dựa vào hai họ Taira và Minamoto để đấu tranh với họ
Fujiwara, cũng làm cho thế lực này ngày càng giảm sút. Trong khi đó họ Taira lại nhanh

chóng phát triển thế lực của mình, nắm lấy mọi quyền hành. Điều đó, làm cho mâu thuẫn
giữa Viện chính và họ Minamoto diễn ra gay gắt. Vào năm 1181, cuộc nội chiến giữa họ
Taika và Minamoto nổ ra nhằm tranh giành bá quyền với nhau. Năm 1185, họ Minamoto
đánh bại hoàn toàn họ Taika trong trận Dannoura, từ đó quyền hành chuyển sang tay
dòng họ Minamoto.
2.2. Văn hóa Nhật Bản từ cải cách Taika đến trước khi thành lập chế độ
Mạc Phủ
2.2.1. Tôn giáo
2.2.1.1. Thần đạo
Từ xa xưa, người Nhật luôn luôn gắn bó đời sống của mình với lễ bái, thờ phụng
thiên nhiên, các chư thần, tổ tiên Nói chung việc lễ bái, thờ phụng ấy không bị ảnh
hưởng bất cứ một dòng tôn giáo nào. Cho nên, lúc đầu nó chưa có tên gọi. Đến thế kỷ VI,
khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản. Để phân biệt với Đạo Phật, các nhà tư tưởng học
Nhật Bản mới đặt tên cho tôn giáo đó là Thần đạo.
Thần đạo là tôn giáo sơ khai bản địa của người Nhật, do người Nhật sáng tạo ra
từ thời nguyên thủy và tồn tại cho đến ngày nay. Nó hình thành từ niềm tin, từ lòng thành
kính của mỗi người dân Nhật Bản đối với tổ tiên, thiên nhiên và thánh thần. Họ tin rằng,
tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều do thánh thần sinh ra, kể cả tổ tiên của họ
cũng là con cháu của thánh thần. Từ đó, họ coi là một thế giới thần quyền, có quyền
quyết định đến số phận của con người trong một xã hội nông nghiệp. Thế giới ấy được

phản ánh qua các thần núi, thần mưa, gió, thần sông, thần suối, thần mặt trăng, mặt trời
và cần phải thờ phụng nó.

Đối với người Nhật, thế giới thánh thần là biểu hiện tình cảm cao quý của nhân
dân Nhật Bản. Tình cảm đó giống như một phần nào của tín ngưỡng đa thần giáo ở Hy
Lạp, La mã cổ đại, nó chưa phải là tôn giáo theo đúng giáo lý có nguồn gốc lịch sử, nó
cũng không phải là sản phẩm của một cuộc cách mạng về ý thức. Không giống như Đạo
Hồi, Đạo Phật và Đạo Kitô, nó không có người sáng lập, không có các vị thánh thần có
tên tuổi cụ thể, và những kẻ tử vì đạo, không có kinh thánh và thầy tu, nó là một "tập tục
không được một tổ chức hay một đạo giáo nào hướng dẫn mà chỉ là dân gian tập tục" [38,
tr. 4].
Do vậy, có thể coi đây là một hình thái tín ngưỡng tự nhiên xuất phát từ nhận
thức con người cho rằng, tất cả mọi sự vật đều có linh hồn và đều có tình cảm. Những
biểu hiện của tự nhiên lớn hay nhỏ đều do sự hiện diện của thánh thần hay linh hồn
"Kami". Kami sẽ căn cứ vào sự đối xử của con người mà đáp lại một cách thuận lợi hay
không thuận lợi. Vì thế, tất cả mọi sự vật và linh hồn đều được thờ cúng để nó phù hộ cho
con người.
Đối với người Nhật, "Kami" (Thánh thần) để chỉ "người trên" hoặc "cấp trên" và
ai được phong là Kami có nghĩa là người đó có một số phẩm chất và quyền lực cao hơn
người thường, là tổ tiên vĩ đại, là những anh hùng vĩ đại. Tuy nhiên, từ ngữ "Kami"
không chỉ dùng cho người mà còn dùng cho cả thiên nhiên như: Cây cối, tảng đá, khu
rừng và các vật dụng, như một số công cụ, thanh gươm Từ những ý nghĩa trên, ta
thấy sự tôn thờ thần thánh của người Nhật cũng giống như tất cả các dân tộc trong giai
đoạn sơ khai. Nhưng, sự tôn thờ thánh thần đối với người Nhật là những thế lực vô hình,
không có hình ảnh cụ thể như các tôn giáo khác. Chẳng hạn Phật giáo có Thích Ca Mâu
Ni, Kitô giáo, có Giêsu. Đối với "Kami", nó mang lại cho con người no ấm, che chở cho
con người khỏi thiên tai, dịch bệnh, khiến cho người Nhật tin yêu hơn là sợ sệt.
Trong việc tôn thờ "Kami" (Thánh thần) của người Nhật thì việc tôn thờ thần
Mặt trời là đặc trưng tiêu biểu nhất. Theo truyền thuyết, có hai vị thần Izanagi và nữ thần
Izanami, vừa là anh em, vừa là vợ chồng đã sinh ra mọi thứ trong vũ trụ. Trong đó có


những hòn đảo sẽ là lãnh thổ của Nhật Bản. Nhưng đến khi sinh ra vị thần lửa thì nữ thần
Izanami bị thiêu chết. Nam thần Izanagi đi theo bà xuống dưới âm phủ, vì quá muộn nên
xác bà đã bắt đầu thối rữa, Izanagi hoảng sợ bỏ chạy để khỏi nhìn thấy cảnh chết rục của
vợ, về đến trần gian chàng vội vã tẩy uế thân thể bằng cách nhảy xuống biển tắm. Tất cả
quần áo của chàng cởi ra đều là thánh thần "Kami" của Thần đạo. Trong số những vị thần
đó thì Amateraxu được tôn là đại thần đã phái xuống trần gian 800 vị thần để phò tá
Thiên hoàng. Về sau Amateraxu nhường ngôi trị vì các đảo Nhật Bản cho con cháu của
mình và đó chính là Thiên hoàng. Dòng dõi hoàng tộc đó vẫn trị vì ở Nhật Bản cho tới
ngày nay. Có lẽ, chính vì tôn sùng thần Mặt trời nên người Nhật thường gọi đất nước
mình là "Đất nước Mặt trời mọc". Cùng với thời gian, những tín ngưỡng này ngày càng
ăn sâu vào đời sống tinh thần của người Nhật. Dần dần phát triển lên gọi là Thần đạo.
Như vậy, Thần đạo là kết quả của sự pha trộn từ những tín ngưỡng từ thời tiền
sử, hay nói cách khác là có nguồn gốc bái vật giáo. Đối tượng chính trong các nghi lễ của
Thần đạo là những vị thần được gọi là Kami. Kami có thể có nhiều loại khác nhau và
được phân biệt bằng những tên riêng, nhưng lại có đặc điểm chung. Kami không có hình
dạng cố định và chỉ biểu lộ hình thức khi được mời gọi trú ngụ trong những vật cụ thể
như cái bình, gậy, tảng đá Những người có khả năng về tâm linh sẽ đóng vai trò cầu
nối giữa Kami với thế giới loài người. Kami sống ở thế giới riêng và hàng năm được mời
đến với thế giới loài người vào các mùa thông qua các nghi lễ để mong được ban phước
lành.
Đặc điểm chủ yếu của nghi lễ Thần đạo là chú ý đến sự trong sạch, vi phạm điều
này có nghĩa là xúc phạm đến Kami, như vậy sẽ là có tội. Do đó, muốn tránh được tội thì
phải kiêng giữ sạch sẽ khi đến gần Kami. Trước khi hành lễ, phải tắm rửa, thay quần áo
sạch sẽ, vì người bẩn là điều tối kỵ. Tuyệt đối không được hành lễ khi phải mang trong
người những thứ bẩn như đang hành kinh hay trong thời kỳ sinh đẻ. Trong những truyện
thần thoại có nói đến "những lều đẻ" hay "lều cưới" phải làm cách xa nhà nhằm tránh cho
nhà khỏi bị bẩn. Ngoài ra, bệnh tật, người chết ốm đau cũng là nguồn gây bẩn. Vì thế,
ngay từ thời cổ đại đã có một danh sách những tội cần được rửa trong các kỳ lễ.


Đó là việc cơ bản, trước khi tiến hành nghi lễ đều được thực hiện ba cách sau:
"Trừ tà" - do thầy cúng thực hiện nhằm tẩy trừ sự ô uế do tội lỗi gây ra, bằng cách người
làm lễ phải nộp tiền phạt về tội lỗi của mình. "Tẩy uế" (Misogi), là nghi lễ nhằm tẩy trừ
sự ô nhiễm do đụng chạm với những thứ bẩn thỉu từ cái chết và bệnh tật. Thông thường
là tắm rửa hoặc vẩy nước muối, nghi thức này còn tồn tại cho đến ngày nay. "Trai giới",
là phương pháp chủ yếu liên quan đến các thầy cúng, họ phải tuân thủ những điều cấm
kỵ, không được đụng chạm đến bệnh tật, cái chết, tang ma, chỉ được mặc quần áo đã
được tẩy uế cẩn thận, "phải cách ly với bên ngoài và ăn kiêng gồm những sản vật từ cây,
nước lã" [5, tr. 4].
Nói chung, nghi lễ của Thần đạo với mục đích chủ yếu là mong muốn mùa màng
bội thu. Nghi lễ này, được biểu hiện qua rất nhiều lễ hội, những lễ hội quan trọng nhất
đều có liên quan ít nhiều đến nghề nông như: Lễ hội hoa quả đầu mùa (Niiname), Hội
thần nếm (Kanname) được tổ chức tại cung điện của Thiên hoàng và các đền miếu, Hội
cùng nếm (Ainame) là Thiên hoàng cùng với các thần nếm cơm gạo mới và rượu mới
nấu.
Trong các nghi lễ đó, có lễ lớn nhất là hội cùng nếm hoa quả đầu mùa, lễ hội này
thường được tiến hành sau lễ lên ngôi chính thức của Thiên hoàng. Lễ hội được tiến hành
ở cung điện của Thiên hoàng trong tòa nhà bằng gỗ được dựng lên một cách đặc biệt, sau
khi kết thúc lễ hội ngôi nhà đó đã bị phá hủy ngay. "Những nghi lễ đó đã giữ lại được từ
thời cổ với một kỹ thuật nguyên thủy về sản xuất và cất giữ lương thực và đậm nét quan
tâm đến việc bảo vệ cho sự phong phú mùa màng" [5, tr. 4]. Bên cạnh những nghi lễ cầu
tạ ơn về mùa màng, còn có những nghi lễ chống lại hoặc xua đuổi dịch bệnh, rủi ro, ô
uế
Tóm lại: Thần đạo là thứ tôn giáo sơ khai bản địa của người Nhật, nó được hình
thành từ thời tiền sử trên quần đảo Nhật Bản. Thần đạo không phải là quốc giáo của Nhật
Bản, vì nó không cấu thành nổi một triết lý, không kinh kệ, giáo điều của màu sắc cá tính
Thần đạo. Trên thực tế, thần đạo cũng không phải là thứ tôn giáo riêng của người Nhật

Bản. Vì cũng giống như người Trung Quốc, Việt Nam đều thờ cúng trời đất, vua chúa, tổ
tiên, thần thánh của mình. Nhưng tư tưởng tôn giáo trong đạo đức của người Nhật được

đồng hóa với tín ngưỡng ngay từ tiền khởi của nền tôn giáo sơ khai
2.2.1.2. Phật giáo
Từ sau công nguyên, Đạo Phật đã vượt ra khỏi biên giới và phạm vi của triết lý
truyền thống ấn Độ, mở rộng ra nhiều nước trong khu vực Trung á và Đông á. Đặc biệt,
Trung Quốc là nơi Phật giáo được truyền bá rất thành công, và sau quá trình du nhập nó
đã được nhào nặn ở Trung Quốc mang những nét khác biệt cơ bản so với Phật giáo ở ấn
Độ. Từ Trung Quốc, Đạo Phật đã du nhập vào Triều Tiên, và từ đó được truyền bá sang
Nhật Bản vào thế kỷ VI.
Theo sử sách, vào năm 552, vua Triều Tiên Bách Tế (Packeche) cử hai học giả
Achiki và Wani, sang cầu viện triều đình Yamato giúp đỡ về mặt quân sự và hy vọng
Nhật Bản sẽ trợ giúp mình chống lại kẻ thù. Cho nên, đã gửi cho Thiên hoàng Yamato
một tượng phật bằng vàng và nhiều tặng phẩm khác. Trong đó, có một số bộ kinh phật và
kèm theo một bức thư hết lòng tán dương Phật giáo rằng: "Phật giáo tuy khó giải thích và
khó hiểu, đây là một thứ học thuyết hay nhất và có thể giúp thực hiện mọi nguyện vọng"
[26, tr. 75]. Điều này đã tác động lớn đến tầng lớp quý tộc Nhật Bản, đặt vấn đề có nên
tiếp nhận tôn giáo mới hay không? Do đó, đã thường xuyên xảy ra những cuộc xung đột
giữa hai phe phái, đại diện cho phái chống đối là họ Nakatomi và Mononobe, còn phái
ủng hộ Phật giáo là họ Soga, cuộc đấu tranh giữa hai phái diễn ra trong suốt gần nửa thế
kỷ. Cuối cùng, phái Soga giành thắng lợi. Đến cuối thế kỷ VI, Phật giáo đã trở thành tôn
giáo chính thức của Nhật Bản, khi đó mới chấm dứt được những mâu thuẫn giữa thần đạo
và Phật giáo. Thật ra Phật giáo cũng có nhiều yếu tố gần giống với thần đạo. ở Nhật Bản,
các thần (Kami) cũng trở thành thần bảo vệ chùa chiền.

Sau khi giành được sự bảo trợ của triều đình thì Phật giáo dường như đã mở rộng
cửa đón nền văn minh đại lục sâu xa hơn trước. Một trong những nhân vật lịch sử xuất
hiện để hoàn thành sứ mệnh văn hóa ấy, đó là Thái tử Shotoku (574-622). Ông là một
người có học vấn uyên thâm, nhãn quan chính trị sáng suốt, trở thành nhiếp chính cho nữ
Thiên hoàng Suiko vào năm 593. Trong 30 năm hoạt động, Thái tử đã biến đổi nước Nhật
trên nhiều phương diện. Trong đó, Nho giáo và Phật giáo được khuyến khích, nâng đỡ và
ngày càng phát triển nhanh chóng. Ngay trong bộ luật 17 điều của Thái tử Shotoku cũng

nêu ra quy định, những người phục vụ Thiên hoàng phải tôn trọng và đi theo tín ngưỡng
Phật giáo. Ngoài ra, Thái tử cũng là người hiểu rất sâu sắc về phật học. Trong tác phẩm
đầu tiên do Thái tử Shotoku viết vào năm 599 là cuốn Sankyogisho (Tam kinh nghĩa sớ)
để giải thích những triết lý về Phật giáo. Thái tử còn cho xây dựng rất nhiều chùa Phật ở
khắp nơi. Trong đó, nổi tiếng nhất là chùa Horyuji (Pháp Long Tự) ở Ikaruga Yamato.
Đây là ngôi chùa được xây dựng bằng gỗ cổ nhất thế giới còn tồn tại cho đến ngày nay.
Tính đến cuối năm 624, ở Nhật Bản đã có 46 ngôi chùa, 816 sư sãi và 569 tăng ni, đồng
thời triều đình Nhật Bản còn mời nhiều thầy dạy từ Triều Tiên và Trung Quốc sang
truyền bá Đạo Phật.
Cùng với việc tiếp thu và tôn sùng Đạo Phật. Thái tử còn gửi nhiều học sinh sang
học tập, tiếp thu nền văn hóa của Trung Quốc. Phái đoàn đầu tiên lên đường vào năm
607, mang theo quốc thư của Thái tử Shotoku viết rằng: "Được biết Phật giáo tại quý
quốc đương hồi hưng thịnh, tệ quốc gửi sứ sang triều bái và đưa theo mấy chục sa môn
để học thêm giáo lý cao thâm của Phật pháp" [35, tr. 243]. Trong thời Thái tử, ba phái
đoàn đã thực hiện sứ mệnh văn hóa ấy.
Từ cải cách Taika năm 645, Nhật Bản đã xây dựng Nhà nước theo mô hình của
Trung Quốc, đồng thời trong cải cách Thái tử Kotoku đã tiến hành ban bố nhiều sắc lệnh.
Trong đó, Phật giáo được công nhận là quốc giáo, khuyến khích mỗi quận, mỗi làng đều
xây dựng chùa chiền, mỗi ngành, mỗi nhà đều phải có người xuất gia và tăng ni trụ trì ở
đền chùa Những nơi thiếu phương tiện còn được triều đình giúp đỡ. Vì thế nhiều đền
chùa nguy nga được dựng lên nhờ sự giúp đỡ của Nhà nước, những nghi lễ sang trọng

cũng được tổ chức dưới sự bảo trợ của triều đình hay quý tộc. Vì vậy, đến cuối thế kỷ VII
trong cả nước đã có trên 450 ngôi chùa.
Đến thế kỷ VIII, hệ thống chính quyền Nhà nước theo mô hình nhà Đường được
hoàn thành, mở đầu cho thời kỳ Nara. Trong thời kỳ này, do triều đình muốn khuếch
trương Phật giáo nhằm thống nhất uy quyền chính trị mà trước kia bị phân tán bởi chế độ
thị tộc, đồng thời cũng muốn xóa nhòa tôn giáo thị thần ở địa phương để quy các giai
tầng hào tộc vào chung một hệ thống, chịu sự chi phối của nhà nước. Để làm được điều
đó, đối với triều đình, Phật giáo trở thành một thế lực quan trọng, là một quyền lực thiêng

liêng bảo vệ xứ sở. Một ngôi chùa vĩ đại kiến tạo ở Nara mang tên là Todaiji (Đông Đại
Tự) với tượng Đại Phật uy nghi, làm trung tâm của Phật giáo, liên kết và điều khiển chùa
chiền ở các địa phương. Ngoài ra, triều đình còn có những ưu tiên đặc biệt đối với các
nhà sư, như: Phong tước cho các nhà sư, còn nhà chùa thì được ban cấp nhiều ruộng đất,
miễn thuế. Điều này đã thúc đẩy cho Phật giáo phát triển nhanh chóng. Nhưng dần dần
các chùa và giới tăng lữ do được ưu tiên đã tự do lộng quyền câu kết với các quý tộc ở
địa phương, giúp cho tầng lớp này không phải đóng thuế rồi chia nhau lợi tức. Do đó, đã
làm cho ngân sách của Nhà nước ngày càng giảm sút, đời sống nhân dân đói khổ bên
cạnh cuộc sống giàu sang của tầng lớp quý tộc và sư sãi. Hơn nữa, do sự ưu đãi của triều
đình về kinh tế nên các sư sãi đã vượt ngoài giới hạn của lĩnh vực tôn giáo, can thiệp sang
lĩnh vực chính trị. Do được nữ Thiên hoàng Shotoku sủng ái, Dokyo trở thành đại thần
Thiền sư và được phong tước hiệu là Pháp Vương, nhưng vẫn chưa hài lòng, âm mưu
chiếm cả ngôi Thiên hoàng. Hành động này đã làm đảo lộn chính trị trong triều đình và
cả hệ thống Hoàng gia, dẫn đến cuộc đảo chính năm 770 do nhà quý tộc Fujiwara lãnh
đạo và đã đoạt được quyền từ tay nhà sư tên là Dokyo.
Như vậy, ở thời Nara Đạo Phật đã trở thành quốc giáo, tăng lữ trở thành một thế
lực chính trị, trong số đó không thiếu những người mang đầy tham vọng quyền lực như
trường hợp Dokyo.

Thời Nara còn hình thành nhiều tông phái khác nhau của Đạo Phật, các tông phái
từ ấn Độ vào Trung Quốc rồi truyền sang Nhật Bản và hầu như về giáo lý của các tông
phái này không có sự chống đối gì với nhau, nó chỉ là những biến thể của một chủ đề
chung gọi là sáu tông phái Nara.
Tông phái đầu tiên là Tam Luận Tông (Sanron), do nhà sư Triều Tiên tên là
Eikwan truyền bá vào Nhật. Giáo lý của tông phái này dựa theo bộ Trung luận của
Nagarjuna (Long Thọ Bồ Tát) mang một triết lý hết sức duy tâm và tuyệt đối, cho rằng:
Mọi hiện tượng là không thực, không tồn tại riêng biệt mà chỉ tồn tại trong đối với nhau
mà thôi, một quan niệm rất khó hiểu đối với người Nhật học nó. Tuy nhiên là tông phái
đầu tiên, nên vẫn tồn tại và đến cuối thời Nara đã bị sa sút. Sau Tam Luận Tông là Thành
Thực Tông (Jojitsu) du nhập từ Triều Tiên. Các giáo lý của Tông phái này cũng giống

như Tam Luận Tông, vì thế Tông phái này hầu như không phải là riêng biệt mà lẫn vào
Tam Luận Tông. Một Tông phái nữa ở Nhật là Pháp Tướng Tông (Hosso) còn gọi là Duy
Thực Tông (Yuishiki). Tông phái này dựa theo bộ luận Joyuishiki-ron (Thành duy thức
luận) là một bộ tóm tắt những lời bình luận về một bài phát biểu ngắn bằng thơ triết học
duy tâm của Vashubundhu (Thiên thần Bồ Tát) và những vấn đề khác, do nhà sư Huyền
Trang nổi tiếng người Trung Quốc sắp xếp năm 648. Toàn bộ tác phẩm này đưa ra học
thuyết cho rằng thực tại duy nhất chính là tâm thức của con người.
Câu Xá Tông (Kusha) cũng không phải là một Tông phái riêng biệt, các giáo lý
của nó dựa trên một bộ luận có tính chất bách khoa của Nannubandhu. Bộ luận này là
một bản trình bày về tư tưởng siêu hình của các trường phái phật học ban đầu. Tông phái
này chép từ bộ luận đó gọi là Kusha (Câu Xá Luận) nghĩa là kho tàng của phép siêu hình,
cho rằng mọi sự vật đều tồn tại và coi những yếu tố tâm lý, vật lý trong hoạt động sống
của mọi vật thể là vĩnh hằng.
Một trong những Tông phái khác biệt so với những tông phái khác, nó không
phải là vì giáo lý siêu hình mà vì tính chất thiết yếu đặc biệt của nó. Đó là Luật Tông
(Ritsu), đúng như tên gọi của nó. Tông phái này không quan tâm nhiều đến các vấn đề

triết lý, mà chỉ chuyên chú vào giới luật, sao cho đúng sự kế thừa các bậc tu hành. Thực
ra nhánh của tông phái này phát triển như một sự phản ứng lại với những cái tinh tế siêu
hình của các tông phái khác, và như một sự phản đối với lối sống buông thả của Tăng Lữ
lúc đó. Vì thế, họ rất coi trọng những cuộc lễ thụ giới, chủ trương rằng chỉ có các nhà sư
nào được thụ giới đúng đắn thì mới có thể thụ giới đúng cho người khác được.
Cuối cùng là Hoa Nghiêm Tông (Kegon), dựa vào một số triết lý của Kinh Hoa
Nghiêm, được du nhập từ Trung Quốc vào Nhật Bản năm 736. Là một trường phái triết
học, Hoa Nghiêm Tông không cạnh tranh như các tông phái khác. Nhưng ở Nhật, nó
vượt các tông phái khác về sự phát triển nghi lễ và một phần nào đó có những nét độc đáo
về những lời bình giải của nó. Nên làm cho Hoàng gia thấy hấp dẫn và tiếp thu. Chủ
trương của tông phái này là thờ Đức Phật Lư Xá Na (Roshana), hiện thân trong toàn vũ
trụ mà các Đức Phật trong lịch sử chỉ là một hóa thân của ngài. Trong kinh của tông phái
này có miêu tả tượng phật Lư Xá Na ở trên một tòa sen có 1000 cánh. Mỗi cánh hoa là

một vũ trụ, và trong mỗi vũ trụ lại có vô vàn thế giới. Trên mỗi cánh hoa là một vị Thích
Ca, hiện thân của Lư Xá Na. Còn trong thế giới của vô vàn thế giới kia lại có một vị Phật
nhỏ, hiện thân của Thích Ca, Triều đình và Tăng lữ đã thấy sự giống nhau giữa các tôn ti
trật tự này với cái tôn ti của Nhà nước. Vì thế kinh Hoa Nghiêm được triều đình trọng
dụng và được coi là kinh có quyền uy.
Đến thế kỷ IX, để tránh ảnh hưởng của Phật giáo, Thiên hoàng Kamu chủ trương
dời đô từ Nara đến Heian. ở đó, Thiên hoàng đã đặt ra các quy định chặt chẽ đối với Phật
giáo, như quy định lại vị trí của tăng ni trong xã hội chủ trương "Đạo dời dị biệt". Ngoài
ra, còn quy định một loạt các điều khoản khác nhằm hạn chế quyền lực của Phật giáo
như: Quy định việc phong tước, tăng quan, quy định hình phạt cho những người vi
phạm Do có các biện pháp như vậy, nên hơn nửa thế kỷ đầu của thời Heian, quyền lực
của Thiên hoàng được toàn vẹn, không bị giáo quyền xâm phạm.
Cũng trong giai đoạn này, bản thân nội bộ Phật giáo cũng có sự thay đổi cho phù
hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Bên cạnh sự suy thoái của các tông phái Phật giáo

thời Nara dẫn đến phong trào "Tân hưng Phật giáo", tuy các tông phái cũ vẫn còn tồn tại
nhưng hầu như đều khuất chìm trước làn sóng mới ở đầu thế kỷ IX, đó là do hai hòa
thượng Saicho lập ra phái Tendai (Thiên Thai) và Kukai lập ra phái Shingon (Chân
Ngôn). Hai vị tăng trưởng này, sau khi đắc đạo từ Trung Quốc trở về nước đúng vào thời
của thịnh của Pháp Tướng Tông và Nghiêm Hoa Tông. Vì bị hai phái này chèn ép, nên
phải dựng chùa trên núi với chủ trương "Đời là dục vọng, đạo là thanh" [19, tr. 40], xa
lánh chốn phồn hoa đô hội và các nhà quyền quý, rút vào rừng núi tĩnh tu, khi nào "nhập
đạo" mới hạ sơn cứu nhân độ thế, tiếp xúc với bình dân lam lũ. Chủ trương của hai Tông
phái này rất phù hợp với ý tưởng của triều đình. Nhà vua dời đô với lý do là để xa lánh
Pháp Tương Tông, "vì tăng giới này tại cựu đô rất phức tạp trong quan niệm giáo lý,
nên Trẫm đã chứng kiến nhiều hành động phi pháp và phi đạo của họ" [19, tr. 40]. Vì
thế, trong những năm Thiên hoàng Kamu còn trị vì, chỉ tăng giới Thiên Thai Tông và
Chân Ngôn Tông được triều đình và nhân dân quý mến.
Nhìn chung, Phật giáo thời Heian trở thành một tôn giáo có vai trò to lớn, ảnh
hưởng đến đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội Nhật Bản. Vì thời kỳ này, Phật giáo

trở về với bản chất đích thực của nó là để cầu nguyện hơn là truyền bá giáo lý.
Đối với giai cấp quý tộc thì Phật giáo không bị lợi dụng với ý nghĩa là phương
tiện thực hiện ý đồ chính trị của họ. Về cơ bản, nó cũng không mâu thuẫn, đối lập với
tầng lớp thống trị.
Đối với tầng lớp nông dân, Phật giáo trở thành điểm tựa về mặt tinh thần. Mặc
dù, họ không hoàn toàn hiểu sâu triết lý về Đạo Phật, nhưng vẫn mong ước được Phật
giáo phù hộ cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn. Họ tin rằng, kiếp này có liên hệ với kiếp
trước và có ảnh hưởng đến kiếp sau, điều đó đã tác động đến tư tưởng hướng thiện của
người dân trong cuộc sống của mình.

×