Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

LUẬN ÁN: Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.66 KB, 113 trang )





II






LUẬN ÁN:

Kế thừa và phát huy bản sắc văn
hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện
nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La)




















Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xã hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ
văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc
dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho
sự lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trình độ
phát triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là
một dân tộc thật sự hình thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thì nền văn
hóa ấy không có sức sống thật sự của nó” [9, tr.16].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ
quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng
khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân
tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy,
vùng Tây Bắc nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai,
Yên Bái. Là một vùng rộng lớn, có địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa,
xã hội bao gồm rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng,
đều sớm hình thành những nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình.
Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở
nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một
nền văn hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa
đến từng cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những

giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam.


Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa
đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng
như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường
với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa
truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn
hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa
truyền thống của người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát
triển của thời đại. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập
quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người
Thái nói chung, và người Thái ở Tây Bắc nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai
căng, không còn giữ được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta
đang phấn đấu để có được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng
miền trên cả nước. Để đạt được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn
hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như
không giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ:
"Vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [19, tr.10].
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc,
tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc
thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trước
tình hình đó thì việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây
Bắc là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần công sức
nhỏ bé vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Sơn La nói riêng, tôi chọn vấn đề
“Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (qua
thực tế ở tỉnh Sơn La)" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ khác
nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu như:
"Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994.
"Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002.
"Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc",
Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa
Thông tin, 2003.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có:
"Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn Lệ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Văn hóa truyền thống của các dân tộc Jrai và
Bahnar ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Triết học
của Lê Thị Mỹ Vân, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà Nội."Văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số trong cuộc sống hôm nay", Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 7/2000. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình:


“Nghệ thuật trang phục thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1990. "Văn hóa thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 1995. "Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 1996."Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học
trình bày tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996),
Cầm Trọng. Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa bản dân tộc Thái Đen,

trên cơ sở đó đề xuất nội dung, giải pháp xây dựng mô hình bản văn hóa", 1999,
UBND tỉnh Sơn La. "Vài nét về người Thái ở Sơn La", Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội, 2002. "Hoa Văn Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội,
2003. "Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống ở vùng núi Bắc Trung Bộ hiện nay",
Cao Văn Thanh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Và nhiều bài viết trên
các tạp chí: Dân tộc học, nghiên cứu lịch sử
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm
chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở
nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá
trị văn hóa, phong tục tập quán của người Thái (nói chung), người Thái ở Tây Bắc (nói
riêng) nhằm giới thiệu về người Thái; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa
dân tộc Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi
sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp
cho sự phát triển văn hóa các dân tộc Tây Bắc nhưng cũng chỉ là những giải pháp
mang tính định hướng chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa
dân tộc Thái ở góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới
góc độ triết học, chưa bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Thái ở Tây Bắc một cách khái quát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn


* Mục đích nghiên cứu:
trên cơ sở làm rõ thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở
Tây Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La), luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản
nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung, và
dân tộc Thái ở Sơn La nói riêng.
* Nhiệm vụ:
luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái và tính tất yếu khách quan của

việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái.
Hai là, đánh giá thực trạng vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thái ở Tây Bắc hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế khảo sát ở tỉnh Sơn La).
Ba là, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và đề ra một số giải pháp cơ bản, nhằm
kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu là văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc (nội dung chủ yếu là văn hóa dân tộc
Thái ở tỉnh Sơn La) trên góc độ triết học.


* Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong
phú Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Thái
ở Tây Bắc mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá
trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái ở Tây Bắc và ở Sơn La nhằm
kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lưý luận là chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
văn hóa và chính sách phát triển văn hóa, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa
học, sách, báo tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch,
điều tra, so sánh nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Thái ở Tây Bắc; phân
tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Thái dưới góc độ triết học. Qua đó


đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về
văn hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần khẳng định vai trò,
ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc theo hướng: Xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
các bộ môn: Triết học, Văn hóa, Dân tộc học ở các nhà trường, làm tài liệu tham
khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Tây Bắc và tỉnh Sơn La.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.


Chương 1
Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát
huy nó
1.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái
1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái
1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự nhận
mình bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái.
Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống kê năm 1973 là trên 36
vạn người. Đến năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725 người sống trải khắp
vùng quê miền Tây và Tây Bắc Việt Nam. Bắt đầu từ phía Đông với miền đất người

Thái gọi là mường Lò quê tổ ở Tây Bắc tỉnh Yên Bái (nay chia thành ba huyện thuộc
tỉnh Yên Bái: Văn Chấn, Mù Căng Chải, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ). Sang phía Tây
gồm toàn bộ địa phận ba tỉnh Lai Châu, Điện Biên và Sơn La. Phía Nam người Thái
sinh sống ở miền Tây Bắc Hòa Bình (nay là huyện Đà Bắc và Mai Châu) và miền Tây
hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Cuối cùng còn thấy những nhóm sống rải rác trong các
tỉnh thuộc vùng núi Tây Nguyên, trong đó huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng là nơi họ
ở đông hơn cả.
Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt Nam, dân
tộc Thái đã cùng các dân tộc anh em khác, tham gia dựng nước và giữ nước. Đây cũng


chính là quá trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày nay. Hiện nay, chưa có
cách nào khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá lịch sử tộc người Thái, ngoài việc rút ra
và đúc kết những hiểu biết mới về đời sống tâm linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết
luận về nguồn gốc hình thành của dân tộc này.
Người Thái ở Việt Nam không theo một tôn giáo chính thống nào trên thế giới
mà theo một trong những tục có nghi thức thờ Nước (nặm) và Đất gọi là Cạn (bốc). Nước
có biểu tượng Thần chủ là con Rồng (Tô Luông) mang tên chủ nước (chảu nặm), và đất
có biểu tượng thần chủ là loài Chim ở núi mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng
thần chủ Rồng, Chim cũng là Mẹ, Cha của Mường và tục thờ này nằm trong toàn bộ
nghi lễ cúng mường (xên mương).
Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ Mẹ- Cha gắn với biểu
tượng thần linh Rồng- nước và Chim- cạn trong cúng Mường chéo ngược như sau:
Mường Thái Đen thờ: Mẹ - Rồng - nước > < Cha - Chim - Cạn
Mường Thái Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn > < Cha - Rồng - Nước
Điều này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa biểu tượng cội nguồn giữa người
Thái với truyền thuyết thủy tổ người Việt (Kinh): “Mẹ thủy tổ người Kinh là bà Âu Cơ
thuộc giống Tiên (Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là ông Lạc Long Quân thuộc loài
Rồng- nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con
trai, khi khôn lớn thì năm mươi con trai theo cha xuống biển và năm mươi con trai

theo mẹ về núi” [41, tr. 23]. Từ đây, ta có thể hình dung được bức tranh có thể có về
sự hình thành, và phát triển văn hóa cội nguồn của hai ngành Người thuộc nhóm nói
tiếng Thái có liên hệ với Người Việt (Kinh) trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và
phát triển:


Trong khi Mẹ thủy tổ hay thần Mẹ của ngành người Thái Trắng ở
cùng nhóm nữ với bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim -
cạn thì Mẹ thủy tổ, hay thần Mẹ của ngành người Thái Đen sẽ ở nhóm Nữ
của tập đoàn người có đại diện nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang
biểu tượng Rồng - nước. Ngược lại, Cha thủy tổ hay thần Cha của ngành
người Thái Trắng cùng nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng
Rồng Nước thì Cha của ngành Thái Đen sẽ ở nhóm Nam có đại diện nhóm
Nữ là Bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn [69].
Theo các nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của người Thái đã sinh cơ lập nghiệp tại
một vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ trước công
nguyên đã có một phần người Thái cư trú chủ yếu là ở vùng Mường Thanh bây giờ.
Sang những thế kỷ đầu công nguyên, một bộ phận Thái Trắng ở đầu sông Đà, sông
Nậm Na đã di cư xuống phía Nam cư trú ở các huyện phía Bắc như mường Tè, mường
Xo (Phong Thổ), mường Lay, Quỳnh Nhai (Sơn La). Đến thế kỷ thứ XI theo “Quăm
Tô Mương” cho rằng: khởi thủy từ thời đại của anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa
ngành Thái Đen xuôi theo dòng sông Hồng xuất phát từ mường Ôm, mường Ai (Vân
Nam, Trung Quốc) đến mường Lò (Nghĩa Lộ). Sau đó hậu duệ Tạo Xuông, Tạo Ngần
đã khai “Mường” lập “Tạo” tạo ra cả một vùng rộng lớn gồm rất nhiều huyện. Vùng
giữa ngày nay: Thuận Châu (Mường Muổi) thuộc tỉnh Sơn La là thủ phủ của ngành
Thái Đen. Cho đến cuối thế kỷ XIII, người Thái ở Việt Nam đã ổn định về cư trú chủ
yếu ở Tây Bắc Việt Nam.
Dân tộc Thái chia thành nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm
khác nhau:
Thái Đen (Táy Đăm): Cư trú chủ yếu ở các tỉnh Sơn La (hầu như toàn tỉnh).

Nghĩa Lộ (mường Lò) thuộc tỉnh Yên Bái; ở tỉnh Điện Biên; Tuần Giáo tỉnh Lai Châu
và một số ở phía Tây Nam tỉnh Lào Cai.


Thái Trắng: (Táy Đón hay Táy Khao) tập trung ở Mường Lay, mường So
(Phong Thổ, Lai Châu); mường Chiến (Quỳnh Nhai); một số khác tự xưng là Thái
Trắng nhưng có nhiều nét giống Thái Đen sống tập trung ở Mường Tấc (Phù Yên),
Bắc Yên; mường Sang, Mộc Châu (Sơn La).
Nhóm Thái Hòa Bình (Mai Châu, Đà Bắc) có nét giống với các nhóm Thái ở
Thanh Hóa. Nhóm Thái ở Thanh Hóa cư trú ở mường Một- mường Đeng tự nhận mình
thuộc ngành Đeng (Tay Thanh), ngành Trắng (Tay Mường- Hàng Tổng, Tay Dọ).
Nhóm Thái Nghệ An với việc chia ngành Đen, Trắng đã mờ nhạt, họ chỉ quan tâm đến
thời gian và quê hương xuất xứ của mình khi đến nơi này.
Lịch sử phát triển của người Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn năm,
nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa lưỡng phân,
lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất.
1.1.1.2. Người Thái ở Tây Bắc
Là dân tộc có số dân khá đông ở miền Tây Bắc, năm 1955 người Thái ở miền Tây
Bắc nước ta mới có 22 vạn người, thì đến năm 1989 riêng người Thái ở tỉnh Sơn La đã có
khoảng 40 vạn người, năm 2005 có khoảng 52 vạn người. Có thể thấy rõ điều này khi
khảo sát sự phân bố dân cư của tỉnh Sơn La (phụ lục).
Người Thái ở Tây Bắc là bộ phận tiêu biểu của người Thái. Mặc dù có những
đặc trưng cơ bản, nhưng người Thái ở Tây Bắc vẫn chia hai ngành: Thái Trắng và Thái
Đen.
Thái Trắng có thể chia thành hai nhóm địa phương: Nhóm thứ nhất cư trú ở phía
Bắc ở các huyện Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, một phần ở Tuần Giáo (Lai


Châu), Quỳnh Nhai, Sình Hồ, Tủa Chùa và xã Ngọc Chiến thuộc Mường La, Sơn La.
Về đại thể, nhóm này có những đặc trưng văn hóa của một nhóm địa phương thống

nhất như: cùng một vùng thổ ngữ, cùng một loại hình sinh hoạt phong tục tập quán,
văn học, nghệ thuật, tôn giáo…Nhóm thứ hai, phân bố ở phía Nam trong các huyện
Mộc Châu, Phù Yên (Sơn La) và một phần ở Văn Chấn (Yên Bái). Nhóm này do ảnh
hưởng của nhiều luồng văn hóa khác nhau, nên chỉ có thể thống nhất trên các nét như:
Cùng chung một câu chuyện kể về nguồn gốc của sự thiên di, cùng một phong tục tập
quán, một loại hình văn nghệ dân gian. Riêng về ngôn ngữ, có hai vùng thổ ngữ: Mộc
Châu và Phù Yên.
Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần nhất.
Hiện phân bố ở các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái); Mường La, Thuận Châu,
Mai Sơn, Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên. Ngoài ra, còn có một phần phân
bố ở các huyện Phong Thổ, Sình Hồ, Quỳnh Nhai. Một nhóm Thái Đen có hơi khác
một số điểm về tập quán và thổ ngữ, hiện đang cư trú ở huyện Yên Châu nên thường
gọi là Thái Yên Châu.
Sự phân chia hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở miền Tây Bắc hiện nay, là kết
quả của một quá trình thiên di, xáo động trên những diễn biến lịch sử lâu dài và phức
tạp. Cho dù hiện nay có hai ngành Thái, chẳng qua cũng là sự chuyển hóa từ một
nhóm Thái cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người một ngả. Rồi đến địa vực cư trú mới
của mình, từng nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên và chịu ảnh hưởng của các
dân tộc xung quanh rồi xa dần cái nguyên gốc của mình. Tuy vậy, người Thái ở Tây
Bắc vẫn mang trong mình những nét văn hóa riêng, độc đáo cần được giữ gìn, kế thừa
và phát huy.
Sự hình thành nhóm Thái ở Tây Bắc:


Đơn vị cư trú của người Thái được gọi là Bản và Mường. Nhiều bản hợp thành
một mường nhỏ, nhiều mường nhỏ hợp thành một Châu mường. Ngay từ đầu, các bản
mường đã phân bố tương đối đông đúc trên những vùng cư trú của ba nhóm địa
phương:
ở phía Bắc- những bản mường của người Thái Trắng tập trung trong các thung
lũng ruộng đồng màu mỡ. Khoảng thế kỷ thứ VIII, Mường Lay dưới thời Lô Lạnh Lạt

Ma đã trở thành trung tâm của vùng này. Lợi dụng sự phát triển của người Thái, quưý
tộc thống trị Mường Lay đã bành trướng thế lực khắp nơi. Phía Bắc phát triển tới giáp
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Từ Mường Tè ở phía Đông kéo sang đầu Nặm U
(Thượng Lào) ở phía Tây. Phía Nam phát triển dọc theo sông Đà từ Mường Chiên
(Quỳnh Nhai) xuống đến miền đất thuộc huyện Mường La ngày nay.
Phía Nam, sau đợt thiên di của người Thái Trắng từ Lào sang, bản mường bắt
đầu xuất hiện. Khoảng cuối thế kỷ thứ VIII đầu thế kỷ thứ IX dưới thời chúa Nhọt
Cằm, Mường Sang đã trở thành trung tâm của vùng này. Thế lực của quưý tộc Mường
Sang đã ảnh hưởng khắp khu vực rộng lớn. Phía Bắc đến vùng đất thuộc Mường Vạt
(Yên Châu), Phia Đông là đất Mường Tấc (Phù Yên, Sơn La). Phía Tây và miền Tây
Nam là miền đất thuộc Mường ét, Chiềng Cọ (Sầm Nưa- Thượng Lào), và phía Nam
là vùng đất thuộc hai huyện Đà Bắc, Mai Châu thuộc Hòa Bình ngày nay.
Khu vực giữa- sau khi Lạng trượng thu phục đất Mường Thanh, con cháu ông đã
nối nghiệp nhau thống trị đất này. Càng về sau anh em trưởng thứ của quưý tộc càng
trở nên bất hòa. Lợi dụng tình thế đó, các thế lực của quưý tộc Mường Lay và người
Lự ở Thượng Lào đã đánh đuổi quưýư tộc Thái Đen ở Mường Thanh. Con cháu Lạng
Trượng phải dần về ở Mường Muổi. Sau khi ổn định tại Mường Muổi, họ lại bắt đầu
bành trướng khắp vùng cư trú của người Thái Đen, kéo suốt từ vùng hữu ngạn sông
Hồng sang sông Mã. Từ đó, trung tâm Mường Muổi thời chúa Lò Lẹt đã nổi tiếng
khắp vùng Tây Bắc. Theo nhà nghiên cứu Cầm Trọng trong cuốn “Người Thái ở Tây


Bắc Việt Nam”, ông đã dựa trên các tài liệu lịch sử và cho rằng: Vào khoảng thế kỷ X
cho đến thế kỷ XIV, do quưý tộc Thái Đen đã sớm quy thuận triều đình và được triều
đình tin dùng, nên đã tạo điều kiện cho thế lực này ở trung tâm Mường Muổi phát triển
nhanh chóng. Vào cuối thế kỷ thứ XIV, nơi đây đã trở thành trung tâm thống nhất bộ
tộc Thái ở phía Tây. Đây là bước phát triển rất quan trọng của xã hội người Thái ở Tây
Bắc, nó đã bước đầu xóa bỏ ranh giới giữa ba vùng cát cứ với các thế lực quưý tộc
khác nhau. Thời kỳ này còn được tăng cường thêm một bước, nhờ sự giao lưu văn hóa
giữa dân tộc Thái với các dân tộc anh em khác trên miền Tây Bắc và các vùng lân cận

khác. Từ đó trở đi, cho dù người Thái có bị phân thành từng châu mường, dù cho núi
non hiểm trở và kinh tế chậm phát triển, sự giao lưu giữa các châu mường còn hạn chế.
Xã hội Thái cũng trải qua những năm tháng bị bọn đế quốc, phong kiến chia
rẽ…Nhưng lịch sử người Thái ở Tây Bắc vẫn phát triển thành một khối. Đến nay, mặc
dù người Thái vẫn có các nhóm địa phương với hai ngành Thái Đen, Thái Trắng ở
phía Bắc và phía Nam. Nhưng tựu trung lại chỉ là một dân tộc mà tên thường gọi là
“Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”
1.1.2. Văn hóa của dân tộc Thái - bản sắc của nó
1.1.2.1. khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa
- Văn hóa: Là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ này
không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các ngành khoa học khác
nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó cũng còn nhiều ưý kiến, vì thế trên thế giới
hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn
hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội
trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối,
điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện
diện của con người.Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:


Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở,
mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [35, tr. 431].
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp
(21/1/1998), Tổng thư kưý UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ,

cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [72, tr. 23].
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí
trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự
phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con
người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này
khác dân tộc khác.
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa
khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt
động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và
thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ
mai sau” [28, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm
vật chất và các hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề


cần được nhấn mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được
thừa nhận hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được
truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng.
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người
trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật
chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử
xã hội của mình.” [24, tr.13-14]
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của
con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở
thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi
cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn
hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó
trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó,
văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy

nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về
thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh
thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật
thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới
dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các
lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán…
ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai
nghĩa, hai cấp độ khác nhau: ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa
của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh, là một chi tiết của
văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc
người (Nation) sống trong cùng một quốc gia.


Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những
quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người,
phản ánh những nhận thức, tâm lưý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành
trong lịch sử của tộc người đó. ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người
đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng
dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó.
Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so sánh nền
văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để xác định bản sắc
văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong tục, tập quán, lối
sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân, thiện, ích, mỹ” [60, tr.19]
Bản chất đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát
vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc. Mục
đích của giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản, hướng tới sự hoàn
thiện của mỗi cá nhân và của cộng đồng, dân tộc. Mặc dù, tiêu chuẩn của các giá trị
văn hóa của các cộng đồng, dân tộc là không như nhau. Giá trị văn hóa còn mang tính
khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì từ bên ngoài áp đặt vào để trở thành
văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc. Không thể căn cứ vào văn hóa của một dân

tộc nào đó để làm tiêu chí xem xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc còn lại là cao
hay thấp, phát triển hay không…điều đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch
hay sự áp đặt về văn hóa.
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền
xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy
lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên
bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc.
Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là
nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc


ấy sẽ mất tất cả” [65, tr.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh
mất chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc
của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc
văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi
dân tộc.
- Bản sắc văn hóa:
Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành phẩm
cách đặc biệt của một vật [42].
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền văn
hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một dân tộc. Những
nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, vật thể
và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với chính điều kiện môi sinh mà dân
tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát triển khác nhau của một dân tộc.
Những giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó
không những không mất đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái
đẹp, cái phù hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn
hóa dân tộc mình, làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác. Khi nói đến một trong
những nét đặc trưng văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân tộc nào mà
không cần phải gọi tên.

Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân
năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản
sắc văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình:
Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào
đó có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ


được tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và
phát triển được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc
trong tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập [6, tr.
48].
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái riêng
(văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong quá trình giao
lưu văn hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho tàng văn hóa chung.
Đồng thời tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá trị của mình, tạo ra sự khác biệt
trong cái đồng nhất đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản sắc văn hóa dân
tộc không phải là một biểu hiện nhất thời, nó có mối liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền
vững trong lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc.
Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông qua văn
hóa. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn hóa dân tộc:
“Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp
vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng
văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [64, tr.13].
“Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong sáng
tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với
điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…trong quá trình
vận động không ngừng của dân tộc đó” [18, tr. 37].
Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới bản sắc
riêng của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân
tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét hơn ở văn hóa.

Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại của một dân tộc,
khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.


Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên trong và biểu
hiện bên ngoài của bản sắc dân tộc có mối quan hệ khăng khít củng cố thúc đẩy nhau
phát triển. Văn hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để có bản lĩnh, trở thành
sức mạnh tiềm tàng bền vững thì bản sắc dân tộc của văn hóa sẽ mờ phai. Ngược lại,
nếu văn hóa tự mình làm mất đi những màu sắc riêng biệt, độc đáo của mình, sẽ làm
vơi chất keo gắn kết tạo thành sức mạnh bản lĩnh của văn hóa.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do nhiều yếu tố như: hoàn
cảnh địa lưý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lưý, phương thức hoạt động kinh tế.
Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không xuất phát từ những yếu tố tạo thành
dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phải hiểu theo khái niệm phát
triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng
đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ các dân tộc Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW
lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ưý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ưý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét
trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [16, tr.56].
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống
của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa
là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy trong thời
đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được
hình thành, truyền thống mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá,
điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa
không phải là sự bất biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch



sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo
lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống cũng không
phải chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ
bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực
nội sinh của dân tộc.
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều tầng,
nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to lớn là
nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc. Nguồn nuôi dưỡng vô tận tâm hồn và đời sống
tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là kho của cải vô giá, di sản vô cùng quý báu
của văn hóa Việt Nam. Việc nhận diện đúng về bản sắc văn hóa mỗi dân tộc và các
dân tộc thành viên là việc làm hết sức có ưý nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế thừa và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có sự chặt chẽ, hài hòa và thực hiện theo định
hướng, đường lối của Đảng, Nhà nước và ưý thức dân chủ tự nguyện của nhân dân.
1.1.2.2. Văn hóa của dân tộc Thái
Nói đến văn hóa của dân tộc Thái là ta nói đến hệ thống những giá trị văn hóa
do chính cộng đồng tộc người đó tạo ra và là sản phẩm của con người bao gồm nhiều
lĩnh vực khác nhau: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa thiết chế xã
hội Như đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ trình bày những giá trị văn
hóa đặc trưng thuộc về văn hóa của dân tộc Thái:
Trước hết, nói đến văn hóa của dân tộc Thái là phải nói đến một loại hình văn
hóa thung lũng. Bởi lẽ, với những đặc điểm đặc thù về điều kiện tự nhiên của miền
Tây Bắc đã hình thành nên một nền văn hóa tương ứng, đó là loại hình văn hóa thung
lũng.


Nói đến văn hóa thung lũng, nghĩa là muốn nói đến mối quan hệ giữa tộc người
này với môi trường sinh sống là thung lũng lòng chảo. Điều này cũng nói lên khả năng
thích nghi của con người với tự nhiên bằng văn hóa của mình. Văn hóa thung lũng của

dân tộc Thái có các đặc trưng sau:
Cảnh quan địa lý là những thung lũng lòng chảo lọt vào vùng núi cao, rừng sâu,
dầy khe, vực, sông suối cắt xẻ địa hình. Khí hậu hai mùa rõ rệt.
Từ lâu dân tộc này đã tạo lập các cánh đồng lúa, đối tượng tác động chính của lao
động xã hội.
Vùng sườn dốc nằm ở vành đai của các lòng chảo thì làm nương theo các
phương pháp phát, đốt, chọc lỗ, tra hạt, có tác dụng bổ sung vào hệ thống trồng trọt.
Đây là đặc trưng chủ yếu nhất trong toàn bộ hệ thống văn hóa thung lũng của dân tộc.
Các nóc nhà cư trú thành từng cụm theo hình thức mật tập gọi là bản, được tự do
khai thác tự nhiên. Ngoài việc chính làm ruộng và làm nương, mỗi một hộ gia đình
đều tiến hành nuôi gia súc, gia cầm, làm các nghề thủ công, trong đó nổi lên là nghề
trồng bông dệt vải và tiến hành hái lượm, săn, thu bắt hải sản ở sông suối.
Các bản nằm trên đường vành đai thung lũng và nhiều bản hợp thành mường.
Bản là lãnh thổ cộng đồng tộc người, trong khi mường thì thường có nhiều cộng đồng
tộc người. Trong một mường, người Thái bao giờ cũng chiếm đa số và tiêu biểu.
Giao thông vô cùng cách trở vì thung lũng nọ cách thung lũng kia là cả chiều dầy
của núi non, bị che chắn bởi núi cao, vực sâu, rừng dầy, suối khe


Đây là nền văn hóa tiền công nghiệp, được hình thành từ lao động tự cung tự cấp,
chưa đạt tới trình độ trong đó chứa đầy chất men cần thiết để kích thích sự phát triển
xã hội.
Tóm lại, người Thái là một trong những dân tộc có khả năng thổi vào tự nhiên
một sức sống mới khác với tự nó. Khả năng ấy chính là chiều dầy của văn hóa phát
triển thành truyền thống. Giờ đây, khi mà khoa học phát triển mạnh và cơ chế thị
trường thì liệu có thể giữ gìn và phát huy được dòng truyền thống này không? Điều
này còn phụ thuộc vào khả năng phát huy bản lĩnh và bản sắc dân tộc đã tạo ra được
các mô hình thích nghi mới trong hệ sinh thái nhân văn của mình.
- Các giá trị văn hóa vật chất:
+ Văn hóa nông nghiệp Thái: Sống với điều kiện tự nhiên môi sinh có nhiều

điểm đặc thù cho nên, định hướng tác động trong khai thác tự nhiên truyền thống của
người Thái là đồng ruộng lòng chảo và nương rẫy trên sườn núi. Hàng ngàn năm nay,
dân tộc này đã có những biện pháp dẫn thuỷ nhập núiđiền, đúc rút được tập quán làm
thuỷ lợi bằng biểu tượng ngôn ngữ (điều mà không phải bất cứ cộng đồng người làm
ruộng nào cũng làm được). Người Thái có bốn chữ nói lên bốn giải pháp: Mương,
Phai, Lái, Lin. “Đây là mặt biểu hiện cụ thể của văn hóa lúa nước có cội nguồn từ cư
dân nói tiếng Tày- Thái cổ, trải qua các giai đoạn lịch sử của nó, không những đọng lại
trong ngôn ngữ Thái mà còn có ở ngôn ngữ văn hóa Việt - Mường” [10]. Yếu tố đầu
tiên trong văn hóa mưu sinh của tộc người Thái là việc làm ruộng nước, nó trở thành
động lực phát triển lịch sử cộng đồng tộc người theo mạch vừa tụ cư, vừa định cư, lan
tỏa chung cho cả nhóm nói tiếng Thái. Việc khai khẩn vùng đất hoang vu thành cánh
đồng trồng lúa trở thành hàng đầu trong hệ thống kinh tế cổ truyền Thái. Trong đó,
cùng với việc vỡ đất phải giải quyết ngay khâu dẫn nước từ các dòng chảy tự nhiên
vào tưới tiêu, sao cho cánh đồng trồng lúa hợp lý với vùng tự nhiên của nó. Từ đó,
dòng nước thiên nhiên gắn chặt với các khâu của công trình thủy lợi truyền thống, mà


người Thái quen lấy Mương làm tiêu biểu chung “có nước mới có mương, có mường
mới có Tạo”. Nước đã sinh ra tổ chức xã hội mang tên Mường, mường xưa có người
đứng đầu mang tên Tạo. Tạo lại trở thành pháp nhân đứng ra tổ chức xã hội, tác động
và biến tự nhiên thành ruộng lúa, cung cấp cho con người thóc gạo. Giải pháp nước
(văn hóa Thủy lợi) được người ta đặt lên hàng đầu trong việc làm ruộng nước.
Qua hệ thống Mương, Phai, Lái, Lin, người Thái đã sớm tích lũy được một số
kinh nghiệm để dẫn nước tưới ruộng theo phương pháp thủ công và thu được những
hiệu quả nhất định, cho cuộc sống lao động sản xuất của dân tộc Thái trong một thời
gian dài. Song song với việc sản xuất lương thực trên ruộng nước, người Thái còn làm
nương rẫy. Trên một diện tích nương, tập quán Thái chỉ thực hiện ba vụ cũng là ba năm
hay ba mùa, đến năm thứ tư phải phá rừng làm nương mới. Một gia đình nông dân Thái
chỉ cần phá rừng làm bốn đám nương luân chuyển đã khép kín trong chu kỳ 12 năm.
Thời gian đó là khoảng thời gian đủ cho rừng nhiệt đới tái sinh và người dân có thể trở

lại canh tác trên diện tích ban đầu. Trong cấu trúc văn hóa mưu sinh, hình thức canh tác
nương rẫy chiếm phần quan trọng sau làm ruộng, nằm trong lãnh thổ bản.
+ Công cụ lao động: Dân tộc Thái trên bước đường phát triển của mình không thể
không biết sử dụng các công cụ kim loại, trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt. Tuy
nhiên, trong chế tác những kim loại đó, họ chưa có kỹ thuật nấu, đúc, khoan mà chỉ
biết rèn, gò ở trình độ thô sơ, đơn giản. Như đã nói đến ở trên, trong tổng thể văn hóa
thung lũng với nền nông nghiệp phức hợp thì việc sản xuất các công cụ lao động tinh
xảo, hầu như chưa được chú ý lắm. Trong sáng tạo văn hóa trên cánh đồng lòng chảo
và làm nương rẫy trên các sườn dốc, dân tộc này chỉ cần có bốn công cụ kép có lưỡi
kim loại là: Dao (mịt hay pạ), rìu (khoan), cày (thay), và mai (lủa).
Từ rất lâu dân tộc này đã coi con dao là công cụ lao động quan trọng bậc nhất
trong việc tạo ra những giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Có nó, người ta
lấy gỗ, tre dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày, dùng

×