LUẬN VĂN:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng
phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
2
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định rõ:
"Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo hướng thực sự dân
chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, làm việc có chương trình,
kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm.
1
Thực hiện nhiệm vụ này, trước hết các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị nước ta cần đổi mới phong cách làm việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư
tưởng, lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, dân tộc ta, việc nghiên cứu tư tưởng, phong cách
làm việc của Người để xây dựng, đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý là rất cần thiết.
Trong rất nhiều sách báo, công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng
đã có một số công trình nghiên cứu về Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Song,
chưa có công trình nào bàn sâu về tư tưởng, phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh.
Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc Học viện Chính trị Hành chính Khu vực I là
một đơn vị nghiên cứu và giảng dạy, có trách nhiệm tham gia đào tạo đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị của nước ta. Chủ yếu là các “Trưởng, phó
phòng và tương đương của các Bộ, Ban, ngành, đoàn thể, đảng ủy trực thuộc Trung
ương; cấp phó các Sở, Ban, ngành, đoàn thể tỉnh, thành phố; cấp ủy viên và trưởng
phòng, ban, ngành, đoàn thể, huyện, quận, thị xã”
2
.
Là một người nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, nên tôi lựa chọn
đề tài Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc của cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay làm đề tài khoa học cấp bộ phân cấp, sau khi
đã hoàn thành đề tài khoa học cấp cơ sở Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Việc nghiên cứu đề này trước hết là phục vụ cho việc nâng cao chất lượng
nghiên cứu, giảng dạy và tu dưỡng rèn luyện phong cách làm việc của tập thể cán bộ,
giảng viên Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X , NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, Tr. 310
2
Nghị quyết số 52/NQ/TW của Bộ Chính trị Về đổi mới, nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
3
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, vào việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo
dục về tư tưởng Hồ Chí Minh của Học viện và toàn xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có rất nhiều sách báo, công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Riêng
về lĩnh vực phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh đã có những công trình tiêu biểu
như: Sách của Giáo sư Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Chuyên đề Phương pháp cách mạng và phong
cách Hồ Chí Minh trong Tập bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh của Phân viện Hà Nội
xuất bản năm 1997; của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 2004;
Sách Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo đạo đức cách mạng, phong cách tư
duy khoa học Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005; Sách của GS,TS
Hoàng Chí Bảo: Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005; sách của TS Phạm Văn Bính: Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2007, v,v.
Trong các sách và công trình nói trên, một số nhà nghiên cứu khoa học đã đi sâu
nghiên cứu về phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh; nghiên cứu Phong cách Hồ Chí
Minh trên các lĩnh vực: Phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt,
phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt. Nhìn chung, hầu hết các sách báo, công
trình mới chỉ đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp, hoặc phong cách của
cán bộ, đảng viên nói chung, hoặc về chính phương pháp, phong cách của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Chưa có công trình nào chỉ bàn chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về phong
cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý và sự vận dụng tư tưởng của Người vào xây
dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Một là: Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc vào
xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo quản lý.
Hai là: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ
quản lý vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4
Bám sát mục tiêu nghiên cứu nói trên, đề tài này không trình bày lại những khái
niệm cơ bản nhưng đã được đề cập đến và giải quyết trong nhiều sách báo và công
trình, đề tài đã công bố trước.
Thí dụ như các khái niệm: Cán bộ; cán bộ lãnh đạo; cán bộ quản lý; cán bộ lãnh
đạo, quản lý; Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung cũng như nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý,v,v.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc
những quan điểm cơ bản của Đảng ta về Xây dựng Đảng, Nhà nước, về công tác cán bộ
để trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo quản lý
và việc vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ta hiện nay.
Trong nghiên cứu và trình bày đề tài, sử dụng các phương pháp Lôgíc-Lịch sử,
phương pháp Phân tích - Tổng hợp, Phương pháp Liên ngành, và các Phương pháp, Kỹ
thuật điều tra xã hội học, v,v.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài này không trùng lắp với bất cứ đề tài nào trong khối lượng đề tài nghiên
cứu đồ sộ về Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của đề tài khi được xã hội hoá sẽ góp
phần thiết thực vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung trong toàn xã hội. Góp phần vào việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Xây dựng Đảng, Khoa học
lãnh đạo, Khoa học quản lý, v,v trong Hệ thống học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy đề tài Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng phong cách làm việc cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay là
một đề tài cần thiết, nhưng cũng không phải là dễ dàng thực hiện một cách hoàn hảo.
Do trình độ và thời gian cũng còn có mặt hạn chế, nên trong bản Tổng quan khoa học
này chắc không tránh khỏi có thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được sự bổ khuyết của
5
của Hội đồng nghiệm thu cũng như của các bạn đọc xa gần, để chúng tôi có thể sửa
chữa, bổ sung cho bản Tổng quan này hoàn thiện hơn.
6
Chương 1
sự cần thiết vận dụng tư Tưởng hồ Chí minh về
phong cách làm việc vào xây dựng phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo quản
lý.
1.1.1. Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt,
mềm dẻo.
Người ta nói Phong cách là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng,
là bản chất của con người. Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh chính là bản chất
con người Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh là bản thân con người Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến phong cách làm việc, lãnh đạo,
quản lý của cán bộ, đảng viên. Về mặt này, Người đã để lại cho chúng ta nhiều giáo
huấn quan trọng, đặc biệt trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Sau Cách mạng
Tháng Tám, trên cương vị là người sáng lập Đảng và là Chủ tịch nước, Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, rèn luyện phong cách làm việc của cán
bộ lãnh đạo, quản lý.
Yêu cầu quan trọng đầu tiên trong phong cách làm việc của người lãnh đạo,
quản lý là phải có sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.
"Trung với Đảng", "Trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất cơ bản
quán xuyến trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định rõ điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý là phải:
“Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường
lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên,
7
lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc”
1
.
Trong mọi công tác, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo, quản lý có
thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức trách, nhiệm
vụ của mình. Tuy nhiên, ở đây cần có sự vững vàng, không thay đổi trong những
vấn đề thuộc về nguyên tắc. Những vấn đề có tính chiến lược, quan điểm, đường
lối của Đảng, mục tiêu, chính sách, pháp luật của Nhà nước là bất biến, phải giữ
vững như sắt đá.
Để thực thực hiện những điều bất biến như những vấn đề chiến lược, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những vấn đề có tính nguyên tắc, thì sách
lược cách mạng, các hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải hết
sức mềm dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn
những người lãnh đạo quản lý phải có bản lĩnh Dĩ bất biến ứng vạn biến.
Độc lập thống nhất Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu đấu
tranh bất biến của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và dân tộc ta. Con đường đi đến mục
tiêu đó là con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi trí tuệ, sự hy
sinh, phấn đấu của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách mạng
phải đối phó với muôn vàn sự biến đổi khó lường. Người cách mạng, các nhà lãnh đạo,
quản lý phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén để linh hoạt biến đổi sách lược, có
những hình thức, biện pháp đấu tranh biến hóa thích hợp với những điều kiện lịch sử cụ
thể trong mỗi bước đi, mỗi bước tiến lên của cách mạng đặt ra.
1.1.2. Kết hợp tính cách mạng với tính khoa học
Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ lãnh
đạo. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo mới say mê, tận tuỵ với công
việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Chính lòng thiết tha yêu nước, thương dân là động lực lớn thôi thúc người lãnh đạo,
quản lý chuyên tâm lo toan công việc. Chỉ có tận tuỵ, say mê với công việc, người lãnh
đạo, quản lý mới có sự tìm tòi sáng tạo, mới đề xuất được những ý kiến hay, mới hình
thành được những phương án sáng tạo để thực thi được nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 285.
8
Hồ Chí Minh cho rằng các cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhờ có tinh thần anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau, mà đã làm
nên những thành tích rất vẻ vang. Không những vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý còn
phải là người được trang bị các tri thức khoa học. Nhiệt tình cách mạng chỉ thực sự đem
lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa học và trên cơ sở khoa học.
Nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu tri thức, không am hiểu và thành thạo công việc thì
sẽ là người cán bộ kém về năng lực công tác, chỉ có phong cách làm việc kinh nghiệm
chủ nghĩa, áp đặt giáo điều, bảo thủ, trì trệ. Thiếu tính khoa học cũng dẫn đến khó quyết
đoán công việc, thiếu tự tin, dễ nghiêng ngả, nhất là khi cách mạng chuyển giai đoạn.
Người cán bộ dễ chao đảo, lệch lạc phương hướng, dẫn tới có thể chuyển từ cực này
sang cực khác và hành động một cách tuỳ tiện, vô nguyên tắc.
Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tri thức khoa học.
Thực tiễn cho thấy, có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới sai lầm, chệch
hướng, làm hỏng đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá
hoại vô ý thức. Những chương trình, dự án, kế hoạch với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng
do thiếu tri thức dẫn đến thất bại, gây ra tổn thất nặng nề.
Hồ Chí Minh cho rằng tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học,
do vậy nếu không chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn
hoá, nghiệp vụ cũng như ít hiểu biết về tình hình trong và ngoài nước, ít nghiên cứu lý
luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm mắc phải căn bệnh
kiêu ngạo cộng sản nhưng khi gặp khó khăn dễ dao động bi quan, lập trường cách mạng
không vững, thiếu độc lập suy nghĩ, thiếu chủ động sáng tạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở các cán bộ lãnh đạo quản lý: “Học hỏi là một
việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai
có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân
ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”
1
.
“Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra
sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tri thức và chính trị của
mình.”
2
1.1.3. Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và quyết đoán
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 215.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 253.
9
Cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người có trọng trách trong một tập thể. Bởi vậy,
xây dựng phong cách làm việc đúng đắn, trước hết, phải xây dựng phong cách làm việc
dân chủ, tập thể. Thực hành nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Bởi vì một
người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng
không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. Cho nên, cần
phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập thể, của đông đảo quần
chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập thể, một đơn vị hay địa phương
mà người cán bộ lãnh đạo quản lý. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Lãnh đạo không phát
huy trí tuệ tập thể, thì sẽ dẫn đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, chuyên quyền.
Có ý thức tập thể cao, biết tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng lại không có tính quyết đoán,
không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định
kịp thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi và công việc cũng không thể tiến triển được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng:
“Nhưng không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết
được, cũng cứ đưa ra bàn mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là hiểu máy móc.
Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ.
Những việc bình thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách
cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”
1
.
Đặc biệt trong những thời điểm then chốt, người lãnh đạo, quản lý phải dám
nghĩ, dám làm, dám quyết đoán. Bởi vì, như Người khẳng định:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”
2
.
Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là phải kết
hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ tập thể với tính quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm cá nhân trước tập thể, quốc dân đồng bào, kịp thời đưa ra những quyết định đúng.
Những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không dám quyết
đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân đều làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo,
hiệu quả quản lý của người cán bộ.
1.1.4. Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói với làm
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr 505.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T3, NXB Chính trị quốc gia, 1995, tr 287.
10
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích tụ lại trong quá
trình lịch sử”
.
“Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công
việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, “làm mà không có lý
luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”
4
. Cán bộ
lãnh đạo quản lý cần phải có lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Song, Người cũng chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong
công tác. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”
5
. Lý luận mà xa rời thực tiễn thì sớm
muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở. Vì thế, việc giáo dục lý luận gắn liền với liên
hệ thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng mọi biến đổi của tình hình, của
nhiệm vụ cách mạng, là một việc làm thường xuyên của Đảng.
Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý là
không được “lý luận suông”, mà phải có năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là học tập cái tinh thần xử
trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở
nước ta.”
.
Người chủ trương “phải gắn lý luận với công tác thực tế”. Mọi chủ trương, chính
sách của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ thể, mặt khác lý luận còn phải có
nhiệm vụ giải thích cho quần chúng hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách đó.
Như thế “lý luận mới không tách rời thực tế”.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nâng cao trình độ lý luận, phải “gắn liền công tác
lý luận với thực tiễn cách mạng”, phải “đi sát thực tế”, “phải liên hệ mật thiết với quần
chúng”. Nghĩa là phải nắm vững sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, coi đó là
nguyên tắc, là phương châm, là phong cách trong suy nghĩ và hành động của mình.
ở Hồ Chí Minh, điểm nổi bật nhất lại chính là luôn luôn có sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, giữa nói và làm. Cả cuộc đời cách mạng đầy phong ba, bão táp của
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 497.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 47.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, S.đ.d, tr. 496.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 292.
11
Người là một bài học lớn sáng rõ những nguyên tắc đạo đức mà Người vạch ra, trong đó
có nguyên tắc nói đi đôi với làm.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là đạo đức gắn liền với hành động, nói để làm
nhất là nói về đạo đức phải đi đôi với thực hành đạo đức, mà phải làm có hiệu quả. Nếu
một người làm việc gì cũng không có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh không thể coi là một
người có đạo đức. Mà không có đạo đức thì không thể làm người lãnh đạo, quản lý.
Người nói: “Phải lấy kết quả thiết thực đã giúp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo
sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói
phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”
1
.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về sự nhất quán tuyệt vời
giữa nói và làm, để cho các thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta học tập và làm theo.
1.1.5. Phong cách làm việc quần chúng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, đảng viên nói chung và các cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong mọi công tác của Đảng, của Chính phủ, Đoàn thể, phong cách làm
việc tốt nhất là phải:
"Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp mọi ý kiến
rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý
kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng và làm nó thành ý
kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng
thời, nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng hay không.
Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những
khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành.
Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần
trước.
Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt"
2
.
Người cho rằng do các cán bộ lãnh đạo, quản lý không biết gom góp ý kiến của
quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của họ thành ra lý thuyết
suông, không hợp với thực tế. Vì vậy, ngay trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
trong cải cách bộ máy Nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải thực hành cách liên
hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Phải
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 312
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, S.đ.d, tr.290-291.
12
dùng cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại với quần chúng”. Biết làm như vậy mới thật
là biết lãnh đạo, quản lý.
Đứng đầu Đảng, Nhà nước, quyền cao, chức trọng, nhưng Hồ Chí Minh không
xa cách với quần chúng, Người có phong cách sống và làm việc sâu sát với thực tiễn,
gần gũi với nhân dân, thấu hiểu và chia sẻ mọi niềm vui và nỗi vất vả của người dân.
Với quần chúng, Hồ Chí Minh vừa là người đồng hành vừa là người dẫn dắt. Trong lãnh
đạo cách mạng, trong các bài nói, bài viết của mình, chưa bao giờ Người "đao to búa
lớn", nhưng mỗi lời nói của Người, mỗi mong muốn của người lại có sức thuyết phục
rất cao, đều nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của hàng triệu trái tim quần chúng.
Hồ Chí Minh dành nhiều công sức giáo dục cho các cán bộ lãnh đạo quản lý
phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, mong muốn họ trở thành những người
lãnh đạo, quản lý được dân tin, dân yêu, dân phục, dân theo, dân ủng hộ.
Cán bộ lãnh đạo quản lý không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần
chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng thực của
nhân dân ra sao? họ đang nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời nói, mỗi việc làm
của người cán bộ phải phù hợp với quần chúng, phản ánh đúng được khát vọng của
quần chúng. Cán bộ phải biết được những băn khoăn trăn trở của dân để kịp thời uốn
nắn và tháo gỡ cùng dân.
Người khuyên cán bộ không nên "Là người cán bộ phụ trách nhưng xa rời thực
tế, xa rời quần chúng. Đối với công việc thì không điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng. Chỉ
đạo thì đại khái, chung chung. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng, tác phong
không dân chủ, Sợ phê bình và tự phê bình. Không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập
thể phân công phụ trách"
1
, "Cán bộ phải đi sát thực tế thường xuyên đấu tranh chống tư
tưởng lạc hậu bảo thủ, phát huy tư tưởng tiên tiến"
2
. "Cán bộ tỉnh phải đến các huyện,
các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai
nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ, để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát rút kinh
nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và hỏi dân''
3
.
Đó là phong cách làm việc không bó mình trong văn phòng, bàn giấy; không tự
cho mình có địa vị cao hơn, không tạo cho mình vẻ quan cách, khác biệt dân. Liên hệ
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 111.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T11, Sđd trang 306.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Sđd, tr 711.
13
mật thiết với quần chúng là hoà mình vào cuộc sống của quần chúng, nắm bắt được khả
năng, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng và dẫn dắt họ, giúp họ thực hiện khát vọng
của mình.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải liên hệ mật thiết với dân để tuyên truyền giáo dục
dân, giúp dân hiểu đúng, hiểu thấu các chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước, biến
các chủ chương chính sách ấy thành hành động thực tiễn, phong trào cách mạng. Họ phải
nắm được tâm tư, nguyện vọng và cả những trăn trở, bức xúc của quần chúng, kịp thời
phản ánh với Đảng và Nhà nước để Đảng và Nhà nước có những điều chỉnh hợp lý trong
chỉ đạo, điều hành.
Dân có tin Đảng, Nhà nước hay không? Đảng, Nhà nước có hiểu dân hay không,
có phát huy được sức mạnh của dân hay không phụ thuộc rất nhiều vào phong cách làm
việc và năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí Minh khẳng định: "Lãnh đạo tốt
nghĩa là thực hiện đầy đủ những nghị quyết của Đảng, biến quyết tâm của Đảng thành
quyết tâm của nhân dân phải đi đúng đường lối quần chúng, phải đi sâu vào cơ sở, hợp
tác xã. Phải tuyên truyền giáo dục cho mọi người thấm nhuần ý thức trách nhiệm tinh
thần làm chủ tập thể, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, xây dựng nước nhà"
1
.
Cán bộ phải có phong cách làm việc liên hệ mật thiết với quần chúng bởi cán bộ
vừa là người lãnh đạo vừa là công bộc của dân. "Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì,
chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng
ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra"
2
. Có gần dân, hiểu dân, tin dân và
được dân tin yêu mến phục, người cán bộ mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Liên hệ mật thiết với dân còn là để học hỏi dân, để làm tốt chức năng cầu nối giữa dân
với Đảng, Nhà nước. Xa rời quần chúng, người cán bộ sẽ giống như cá bị tách ra khỏi
nước, mất hết khả năng và sức sống.
1.1.6. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Chữ Cần theo cách hiểu thông thường tức là siêng năng, chăm chỉ. Song, nếu chỉ
hiểu chữ cần như thế thì dân tộc ta khó thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Học và làm theo
tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh, thì nhân dân ta, mà trước hết là cán bộ lãnh đạo
quản lý cần thực hiện chữ Cần với nhiều nghĩa mới, hiện đại phù hợp với yêu cầu xây
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T9, NXB Sự thật, Hà Nội
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T7- NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tr. 392.
14
dựng một xã hội dân giàu nước mạnh trong thời hiện đại. Cần đòi hỏi người lao động,
mà trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có sức làm việc bền bỉ, dẻo dai hết ngày
này sang ngày khác, tháng năm này sang tháng năm khác trong cuộc đời sống và làm
việc của mình. Phải biết làm việc dẻo dai, bền bỉ, vì như Hồ Chí Minh vạch rõ: Nếu 1
ngày cần mà 10 ngày không cần, thì cũng vô ích. Cần không phải là làm xổi. Cần còn
có nghĩa là phải cố gắng hết sức mình trong công tác, học tập trong suốt cả năm, trong
cả đời mỗi người; có chí tiến thủ, không coi có việc gì là khó, chỉ sợ lòng không bền;
công tác nào cũng có thể thực hiện được nếu có quyết tâm, bền bỉ dẻo dai. Hơn nữa, còn
phải phấn đấu làm việc với năng suất cao. "Cần thì việc gì dù khó khăn mấy cũng làm
được"
1
. " Cần, tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ công tác gì".
2
Trong truyền thống cần cù, người Việt Nam còn thiếu tính tổ chức và kế hoạch.
Cho nên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải học tập, rèn luyện để làm việc có sức bền, có
kế hoạch, biết phân công, đặc biệt là biết dùng người, nhất là người tài. Hồ Chí Minh
vạch rõ:
"Siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau. Kế hoạch lại đi đôi với phân công.
Trong một gia đình, một xưởng máy, một cơ quan, v,v. đã phải có kế hoạch, lại phải
phân công cho khéo. Phân công phải nhằm vào 2 điều:
1- Công việc: Việc gì gấp làm trước. Việc gì hoãn thì làm sau.
2- Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy.
Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ rèn, người
giỏi nghề rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế thì cả hai đều thất bại"
1
.
Đi đôi với Cần là Kiệm. Hồ Chí Minh cho rằng tiết kiệm không phải là keo kiệt,
bủn xỉn, coi đồng tiền bằng cái trống. Tiết kiệm là biết chi tiêu một cách khoa học, có
hiệu quả nhất.
Hồ Chí Minh vạch rõ: "Muốn tiết kiệm có kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức"
2
.
Thời gian còn quý hiếm hơn vàng bạc. Thời gian sẽ có nhiều hơn, có ích hơn nếu cán bộ
lãnh đạo, quản lý biết khéo tổ chức sắp đặt công việc, quản lý thời gian, làm việc có kế
hoạch. Sức mạnh của quần chúng tăng lên gấp bội khi cán bộ lãnh đạo, quản lý biết vận
động, tổ chức, động viên, phát huy tinh thần và năng lực làm việc của họ.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr 632.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr 392.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d. tr 633.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d. tr 638.
15
Đi đôi với thực hành tiết kiệm là chống lãng phí. Người lãnh đạo càng phải
chống lãng phí, xa xỉ. Người chỉ rõ ăn sang mặc đẹp trong lúc còn có đồng bào đang
thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ. ăn không ngồi rồi, trong lúc đang cần kháng chiến và xây
dựng là xa xỉ. Người lãnh đạo, quản lý cần khiêm tốn, giản dị và gần gũi quần chúng,
chống lãng phí.
Trước hết là chống lãng phí sức lao động của nhân dân, của cơ quan, xí nghiệp,
đơn vị sản xuất thì năng suất lao động mới cao. "Vì kém tinh thần phụ trách, vì tổ chức,
sắp xếp vụng, việc gì ít người cũng làm được mà vẫn dùng nhiều người. Trong quân
đội, các cơ quan, các xí nghiệp, đều có khuyết điểm ấy. Trong việc sửa chữa đường cầu,
phục vụ chiến dịch, lãng phí dân công khá nhiều, vì tổ chức không khéo, đó là một thí
dụ"
3
.
Hồ Chí Minh chỉ ra hàng loạt những hiện tượng lãng phí thời gian và tiền của của
nhân dân mà cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải khắc phục.
- Lãng phí thời giờ: việc gì có thể làm trong một ngày một buổi, cũng kéo dài
đến mấy ngày. Thí dụ: Những cuộc khai hội, vì người phụ trách chuẩn bị chương trình
không đầy đủ, người đến dự hội thì không chuẩn bị ý kiến, đáng lẽ chỉ một ngày thì bàn
bạc và giải quyết xong vấn đề, song cuộc khai hội kéo dài đến 5, 3 ngày.
- Lãng phí tiền của: Có rất nhiều hình thức, đây chỉ nêu vài thí dụ:
- Các cơ quan dùng vật liệu một cách phí phạm.
- Các xí nghiệp dùng máy móc và nguyên liệu không hợp lý.
- Cục vận tải giữ gìn xe cộ, tiết kiệm dầu mỡ không triệt để.
- Sở kho thóc làm kho tàng không cẩn thận; người giữ kho kém tinh thần trách
nhiệm, để thóc ẩm ướt, hao hụt, hư hỏng.
- Mậu dịch không khéo tính toán sắp xếp, để hàng hoá hao hụt, lỗ vốn.
- Ngân hàng không khéo sử dụng tiền bạc, để tiền bạc ứ đọng lại, không bổ ích cho
việc tăng gia sản xuất.
- Cơ quan kinh tế làm kế hoạch không thiết thực, không sát với hoàn cảnh, để Chính
phủ phải lỗ vốn.
- Bộ đội không biết quý trọng giữ gìn quân trang, quân dụng và chiến lợi phẩm.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, N.X.B Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.488 .
16
- Nhân dân bỏ hoang ruộng đất, đốt vàng mã, bán trâu, cầm ruộng để làm đám cưới,
đám ma, v.v
"Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả
cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô"
1
. Cho nên
phải thực hành tiết kiệm và chống lãng phí.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về chống lãng phí, thực hành cần kiệm sẽ thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển một cách bền vững.
Cán bộ lãnh đạo quản lý phải liêm khiết, không được tham ô, phải luôn tôn trọng
giữ gìn của công và của nhân dân. Hồ Chí Minh phân tích: Liêm là trong sạch, không
tham lam. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét
dân, thì gọi là liêm. Chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp. Nay tất cả mọi công dân đều phải
liêm. Song, cán bộ lãnh đạo, quản lý "Phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu
cho dân"
2
. Nhân dân có hiểu biết,
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T 6, S.đ.d. tr 489 .
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T 5, S.đ.d. tr 640.
17
không chịu đút lót, thì dù cán bộ không liêm cũng phải hoá ra liêm. Dân phải biết quyền
hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện
chữ liêm. "Quan tham vì dân dại".
Cán bộ lãnh đạo, quản lý bất liêm là những người cậy quyền thế mà đục khoét
dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh
tiếng của mình. Gặp những công việc chính đáng, nhưng sợ khó nhọc, nguy hiểm nên
không dám làm. Cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp trong Đảng, Nhà nước, các Đoàn thể:
"Cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương
tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vong tư"
Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào,
làm nghề nghiệp gì”
1
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng
thắn, đứng đắn, trung thực. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Người làm
việc thiện là chính. Người làm việc ác là tà.
Bất kỳ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp nào, ngành nào đều phải đạt được sự chính
đáng, đúng đắn, đàng hoàng trong các mối quan hệ: Một là: Mình đối với mình. Hai là:
Mình đối với người. Ba là: Mình đối với công việc.
- Đối với mình: Chớ tự kiêu, tự đại. Tự kiêu, tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn
nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu, tự đại
tức là thoái bộ. Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó
rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó
hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn.
- Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại
thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.
Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
- Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã
làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải
hoan nghênh người khác phê bình mình.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý có đứng đắn, mới quản lý được gia đình mình, mới tham
gia quản lý xã hội có hiệu quả và có thể hội nhập với thế giới hiện đại. Bởi vì, như
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, S.đ.d. tr 641.
18
Người khẳng định:
"Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà
muốn người khác chính là vô lý"
1
.
- Đối với người, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người.
Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên
quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ.
Làm cán bộ lãnh đạo, quản lý, chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới.
Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp
người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác ái.
- Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách
việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ
nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận,
phải quyết làm cho thành công. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ
mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu
không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý có Liêm Chính thì mới có thể chí công vô tư. Nếu đã nhận
hối lộ, ăn của đút thì không còn chí công vô tư trong xử lý mọi việc công, những việc
đòi hỏi sự công bằng chính trực vì con người, vì tập thể, vì nhân dân và đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là phong cách
làm việc và cũng chính là phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu, là nhân cách của con
người.
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời,
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người.”
1
Cần kiệm liêm chính, Chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong
phong cách làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong Bản Di
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d. tr 643; tr.645.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr 631.
19
chúc thiêng liêng bất hủ, Người căn dặn tất cả các cán bộ, Đảng viên, đặc biệt là những
người làm lãnh đạo, quản lý: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân’’
2
.
Để cho Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư trở thành mỹ đức và phong cách làm
việc phổ biến của không chỉ cán bộ lãnh đạo, quản lý mà của toàn xã hội, cần học tập và
làm theo một cách sáng tạo phương châm xây đi đôi với chống của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Sinh thời, Người rất kịp thời biểu dương những cán bộ lãnh đạo, quản lý, những
anh hùng chiến sĩ thi đua trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có tinh thần
gương mẫu chí công vô tư. Những người đã đặt lợi ích chung của dân tộc lên trên lợi
ích riêng của cá nhân. Họ toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, chứ không nửa tâm nửa ý.
Họ không sợ khó nhọc, ra sức vượt mọi khó khăn để hoàn thành và hoàn thành vượt
mức nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho họ, chứ không suy bì hơn thiệt của cá
nhân, không ganh tị về địa vị và hưởng thụ. Họ không giấu nghề, không dìm những anh
em chung quanh mình; họ giúp đỡ mọi người cùng tiến bộ. Họ không tự mãn, tự tư tự
lợi.
Kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi ích riêng của
mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ muốn tự tư tự lợi. Phải khắc phục chủ
nghĩa cá nhân có trong mỗi con người cán bộ lãnh đạo, quản lý, mới có thể có phong
cách làm việc cần kiệm liêm chính chí công vô tư.
Để xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có phẩm chất và phong cách làm
việc cần kiệm liêm chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo cuộc vận động Nâng
cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống
tham ô, lãng phí quan liêu. Cuộc vận động này còn đuợc gọi tắt là "ba xây, ba chống".
Tại sao phải có cuộc vận động này? Người chỉ rõ: Bên cạnh những cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong sạch với những thành tựu to lớn trong xây dựng xã hội mới, thì trong
hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn còn có một số không tốt. Họ quan liêu, tham ô,
lãng phí của Nhà nước và của nhân dân. Mặt khác: "Chế độ và phương pháp quản lý
kinh tế tài chính của chúng ta còn nhiều thiếu sót và lỏng lẻo. Kỷ luật lao động chưa
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 498.
20
được thật nghiêm túc, sử dụng lao động chưa được hợp lý. Khả năng thiết bị máy móc
tuy có khá nhiều nhưng chưa được sử dụng đầy đủ. Bởi những khuyết điểm đó, mà năng
suất lao động bình quân tăng rất chậm, sản xuất phát triển chưa được mạnh mẽ, vững
chắc và cân đối. Do đó mà đời sống vật chất của nhân dân chưa được cải thiện nhiều"
1
.
Cho nên đã là cán bộ lãnh đạo quản lý, thì phải nâng cao tinh thần trách nhiệm
cần kiệm xây dựng nước nhà. Phải nâng cao trình độ, phương pháp quản lý kinh tế tài
chính. Đó là phong cách làm việc cực kỳ quan trọng. Nếu quản lý không chặt chẽ, thì
cái gì thiếu không biết, cái gì thừa không hay, công việc sẽ bị bế tắc. Trong hoạt động
lãnh đạo, quản lý nói chung và trong hoạt động kinh tế phải có những quy định cụ thể
làm cho các quan hệ quyền lực, trách nhiệm, quyền lợi, lợi ích phải có tính minh bạch,
công khai.
Cán bộ lãnh đạo quản lý phải nâng cao năng lực quản lý các mặt. Từ quản lý sản
xuất, quản lý vật tư cho đến quản lý lao động, quản lý kỹ thuật, quản lý tiền bạc, v.v
Phải nâng cao năng lực quản lý của cán bộ các cấp từ trung ương đến địa phương, cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong các xí nghiệp, công trường, nông trường, v,v.
Đồng thời với việc tăng cường, củng cố chế độ quản lý, năng lực quản lý của cán
bộ, đồng thời phải đẩy mạnh chống quan liêu, tham ô, lãng phí trong đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát. Dựa vào quần chúng nhân dân để giám
sát kiểm tra nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến của công
thành của riêng,v,v.
Người khẳng định: "3 xây" và "3 chống" quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm “3
chống" triệt để nhằm bảo đảm cho công việc "3 xây" thành công. "3 xây" phát triển
mạnh mẽ thì đối tượng "3 chống" sẽ được xoá bỏ tận gốc"
1
.
1.2. Thực trạng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong
hơn 20 năm đổi mới vừa qua
1.2.1. Những thành tựu trong xây dựng và đổi mới phong cách làm việc của cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.11, N.X.B Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.110.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, S.đ.d, tr 111.
21
Đội ngũ cán bộ sau 20 năm đổi mới ngày càng được củng cố, phát triển và lớn
mạnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đã có sự kế tiếp 3 độ tuổi; đã, đang xuất
hiện nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Ngày càng có nhiều hơn cán bộ nữ tham gia trong các cấp uỷ đảng và ở tất cả các vị trí
lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là
người dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về số lượng và chất lượng;
nhiều cán bộ là người dân tộc thiểu số được tín nhiệm bầu vào những cương vị trọng
yếu trong các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng ngày một nâng cao. Nếu khóa IX có
138/150 (92%) số uỷ viên Trung ương có trình độ đại học trở lên thì đến khoá X là
174/181 (96,13%). Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ lý luận chính trị
(LLCT) từ trung cấp đến cao cấp ngày càng tăng. Nếu khoá VIII, số uỷ viên Trung
ương có trình độ LLCT từ cao cấp trở lên chiếm 88,23%, thì đến đầu Đại hội X là
97,23%. Nhiệm kỳ 2001-2005, số uỷ viên ban chấp hành tỉnh (thành) uỷ có trình độ
LLCT sơ cấp chỉ còn 0,19%, trung cấp 1,96%; trình độ cao cấp, cử nhân chính trị chiếm
97,72% (tăng 10,96% so với nhiệm kỳ trước).
Đến nay, theo tổng kết của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa
X, tháng 12 năm 2008, 96,3 % cán bộ cấp thứ trưởng và tương đương trở lên có trình độ
đại học và trên đại học, trong đó có 43,3 % trên đại học, 935 có trình độ cử nhân và cao
cấp chính trị. 100% cán bộ cấp vụ và tương đương ở các cơ quan trung ương có trình độ
đại học và trên đại học. Có 805 trong tổng số gần 64.000 cán bộ cấp trưởng phòng và
cấp tương đương ở các tỉnh, thành phố có trình độ đại học trở lên.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ ngày càng hợp lý hơn. Tỷ lệ cán bộ nữ ở một số ngành
tăng khá. Tỷ lệ cán bộ trẻ cấp trưởng phòng và tương đương trở lên dưới 40 tuổi ở cấp
tỉnh đạt khoảng 14%. Tỷ lệ cán bộ nữ cấp trưởng phòng và tương đương trở lên ở cấp
tỉnh đạt 18%, ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương đạt 21%, cấp huyện đạt 16%; trong
các doanh nghiệp nhà nước đạt gần 15%, trong đó cán bộ nữ là ủy viên thường vụ đảng
ủy chiếm trên 20%.
Trên thực tế sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức
của toàn Đảng, toàn dân ta về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, về đổi mới
phong cách làm việc của cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng có
những bước tiến, đạt được nhiều kết quả về số lượng và chất lượng.
22
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta từ Trung ương đến địa
phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng,
kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây là
yêu cầu hàng đầu đối với mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý dù ở cương vị, chức danh nào
cũng phải quán triệt.
Trong công cuộc đổi mới, qua thử thách, được đào tạo và tự rèn luyện phấn đấu
đội ngũ này đã ngày càng trưởng thành về mọi mặt, là lực lượng nòng cốt cùng với nhân
dân làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Phần lớn cán bộ lãnh đạo,
quản lý có đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, đó là những con người sống cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư, có nhân cách. Họ được rèn luyện tính tổ chức, kỷ luật,
tôn trọng tổ chức, tôn trọng tập thể, không lạm quyền, lộng quyền.
Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý có ý thức xây dựng, đổi mới phong cách làm việc
để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc cho nên đã xuất hiện một lực lượng cán bộ
lãnh đạo, quản lý có năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, có khả năng tiếp cận và
tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong điều kiện mới. Họ năng động, sáng tạo trong
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, có phương pháp tư duy khoa
học, đặc biệt là đổi mới phong cách làm việc theo hướng linh hoạt, khoa học, dân chủ,
thực tế, coi trọng chất lượng và hiệu quả.
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có những chuyển biến kịp thời về đổi mới
phong cách làm việc một cách khoa học. Trong lãnh đaọ và quản lý họ đã quán triệt
nguyên tắc: Có chương trình, có kế hoạch sát hợp, có tính mục đích rõ ràng, xác định
đúng việc, đúng thẩm quyền, khắc phục dần phong cách làm việc tuỳ tiện, được chăng
hay chớ, không nhìn xa trông rộng, thiếu trách nhiệm. Tác phong thụ động trong phong
cách làm việc từng bước được khắc phục.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có ý thức ham học hỏi, lăn lộn với công
việc, lăn lộn trong phong trào quần chúng, cho nên trình độ học vấn, chuyên môn
nghiệp vụ và năng lực lãnh đạo, quản lý được nâng cao một bước rõ rệt. Vì có trình độ,
có kiến thức, hiểu biết nhiều, có tư duy khoa học và có kỹ năng hoạt động thực tiễn cho
nên trong lãnh đạo, quản lý họ biết nhìn nhận vấn đề một cách thông tỏ, thấu tình đạt lý,
có tầm nhìn xa trông rộng, biết phân tích tình hình thực tiễn, xác định phương hướng
hành động, điều hành công việc nhanh nhạy, giải quyết vấn đề một cách khoa học và đạt
23
hiệu quả hơn trước. Nhất là bước đầu của cuộc cải cách hành chính, nhiều địa phương
đang tiến hành thí điểm giải quyết công việc theo quy chế “một cửa, một dấu” làm cho
công việc các cơ quan, các tổ chức được giải quyết khẩn trương hơn và bớt phiền hà
hơn.
Trong phong cách làm việc họ luôn coi trọng việc tổng kết thực tiễn để rút kinh
nghiệm. Có thái độ làm việc trung thực, khách quan, biết đánh giá đúng thực chất tình
hình, xem xét, cân nhắc kỹ hoàn cảnh cụ thể từng sự việc, từng vấn đề để tìm ra những
phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Trong công việc đã xuất hiện nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý có lòng nhiệt tình,
năng động, tự tin, tận tuỵ trong công việc. Họ đã lăn lộn với phong trào, sâu sát với cơ
sở và nhân dân, học hỏi những kinh nghiệm thực tiễn phong phú; nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân và biết khơi dậy tinh thần dân chủ trong công việc, tôn
trọng, biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến, sáng kiến của đồng nghiệp, của tập thể cơ quan,
đơn vị, cho nên khai thác được trí tuệ sáng tạo của tập thể, của cá nhân và quy tụ được
sức mạnh, sự đồng tình của đông đảo mọi người, tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực
trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình lãnh đạo, quản lý họ luôn khiêm tốn,
cầu thị, đầy lòng nhân ái, vị tha, tin tưởng cấp dưới. Dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước tập thể về các quyết định và việc làm của mình trong chức trách và nhiệm vụ do
mình đảm đương.
Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý có sự thống nhất giữa nhận thức và hoạt động
thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm, miệng nói tay làm, có phong cách chỉ đạo thực tiễn
cụ thể, sâu sát thực tế, có sức thuyết phục với cán bộ cấp dưới và quần chúng.
Cùng với phẩm chất chính trị, phong cách làm việc thái độ phục vụ, các thủ tục
hành chính của cán bộ lãnh đạo, quản lý có những bước tiến đáng kể, tình trạng chủ
quan, tuỳ tiện, cửa quyền hách dịch nhũng nhiễu dân đã giảm nhiều, cách làm việc theo
kiểu áp đặt mệnh lệnh hành chính cứng nhắc, máy móc, quan liêu, độc đoán chuyên
quyền, chủ quan duy ý chí, dân chủ hình thức, hay dân chủ cực đoan đang dần dần bị
đẩy lùi đã góp phần vào thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua.
1.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu
Sở dĩ việc đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hơn
20 năm qua đạt được những kết quả như vậy là do nhiều nguyên nhân. Trong đó, phải
khẳng định rằng: đường lối đổi mới về nhiều mặt do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là
24
đúng đắn, hợp quy luật và được mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng, hưởng ứng thực hiện.
Đặc biệt là yêu cầu đổi mới về phong cách làm việc. Với phương châm: dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra đã khơi dậy và đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý đã tạo ra được bầu không khí làm việc dân chủ, khai thác được trí
tuệ sáng tạo tập thể, đó là “chìa khoá vàng” góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy công
cuộc đổi mới phát triển. Thực tế cho thấy, nơi nào cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện tốt
phong cách làm việc dân chủ, tập thể thì được ủng hộ, tháo gỡ được khó khăn, vướng
mắc, vượt qua được mọi thử thách và ngược lại.
Bản thân đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có ý thức trau dồi phẩm chất chính
trị và đạo đức cách mạng. Đây là tố chất hàng đầu, quán xuyến trong mọi hoạt động của
người cán bộ. Có được phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng cho nên làm bất cứ
công việc gì, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào người cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng
đặt lợi ích dân tộc, Tổ quốc lên trên hết. Từ mục tiêu đúng đắn đó buộc cán bộ lãnh đạo,
quản lý trăn trở, tận tâm với công việc, tìm tòi sáng tạo, luôn đề xuất những ý kiến hay,
những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý đã được chú trọng; trình
độ, kiến thức về mọi mặt được của họ nâng cao do được trang bị tương đối đầy đủ, cơ
bản, hệ thống về lý luận, về chuyên môn, nghiệp vụ.
Công tác lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý được đổi mới một cách căn
bản. Về cơ bản những người đứng ở các vị trí lãnh đạo, quản lý đều có uy tín.
Công tác kiểm tra, quản lý, giám sát được tăng cường trên tất cả các khâu, các
hoạt động, góp phần quan trọng vào việc phát hiện ra những cán bộ lãnh đạo, quản lý có
phong cách làm việc khoa học, nguyên tắc, hợp lý hợp tình để khen thưởng, đề bạt; phát
hiện ra những cán bộ có phong cách làm việc được chăng hay chớ, quan liêu, nhũng
nhiễu, gây khó dễ cho mọi người để kịp thời xử lý.
1.2.3. Những yếu kém, bất cập trong phong làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý
Phải thừa nhận một cách khách quan rằng, trong những năm đổi mới, phong
cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đã có những chuyển biến
tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những thành quả đạt được trong phong
cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta trong 20 năm dổi
mới, vẫn còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới, yêu
25
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và yêu cầu của sự phát triển đất nước.
Sự bất cập đó biểu hiện ở những mặt sau:
Một thực trạng đáng buồn hiện nay là có một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý
thoái hoá, biến chất về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và phong cách, lề
lối làm việc. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp còn chưa quan tâm
đến công tác chính trị, tư tưởng, chưa coi trọng lợi ích quốc gia. Phẩm chất chính trị và
đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đó là niềm tin vào đường lối, chủ trương
của Đảng, Nhà nước, là lòng trung thành với lý tưởng cách mạng. Đó là những yếu tố
đảm bảo cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý vượt qua mọi cám dỗ của chức quyền và
thế lực của đồng tiền. Chính vì sa sút những phẩm chất đó cho nên không ít cán bộ đã
thờ ơ với nỗi khổ của dân, mất đi lòng nhân ái trước cộng đồng. Thậm chí có một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý có chức có quyền thoái hoá, biến chất ngày càng nghiêm
trọng nhất là những cán bộ trực tiếp lãnh đạo, quản lý về tài chính, tiền tệ, đất đai, đầu
tư, xây dựng, cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhiều người vi phạm pháp pháp luật, trở thành
tội phạm đã phải ra hầu toà chịu sự xử lý của Pháp luật.
Tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm các quy tắc quản lý hoặc lợi dụng
những sơ hở trong cơ chế quản lý của Nhà nước để lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn
lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, vi phạm lối sống có chiều gia tăng. Trên thực
tế một bộ phận tha hoá, tham nhũng xa rời quần chúng, giảm sút ý chí chiến đấu, phai
nhạt lý tưởng, dao động mất lòng tin. Số cán bộ lãnh đạo, quản lý thoái hoá, biến chất
tuy không phải là đa số, nhưng những “con sâu bỏ rầu nồi canh” đó đã gây tác hại rất
lớn về chính trị, tư tưởng, gây bất bình trong nhân dân.
Phong cách làm việc của cán bộ quản lý cũng còn nhiều bất cập như: tùy tiện, xử
lý, giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan, hoặc vi phạm pháp luật, chính sách của
Đảng, Nhà nước một cách vô ý thức. ở một số nơi cán bộ lãnh đạo quản lý tự đặt ra
những quy định về xử phạt, về đóng góp của nhân dân và chi tiêu tùy tiện, không đúng
nguyên tắc.
Tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu dân, thiếu dân chủ,
thiếu kỷ cương, kỷ luật vẫn tồn tại trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Không ít cán
bộ lãnh đạo, quản lý đã lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để tham ô, chiếm đoạt tài
sản của nhân dân, tập thể và Nhà nước. Tình trạng quản lý lỏng lẻo để thất thoát, gây