LUẬN VĂN:
Phát huy vai trũ của MTTQVN trong
thực hiện QCDC ở cơ sở
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là dân làm chủ, dân
là chủ. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vỡ dõn, nhưng đó là nhà nước
quản lý xó hội bằng phỏp luật. Xõy dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dõn, do
dõn và vỡ dõn chớnh là cỏch thức cơ bản để phát huy QLC của nhân dân.
Một trong những điểm cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy
QLC của nhân dân là phải không ngừng xây dựng và thể chế hoá mục tiêu, phương
châm, những nguyên tắc vận hành của nền dân chủ XHCN ở nước ta. Với ý nghĩa đó,
ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đó ban hành Chỉ thị
số 30/CT - TW về thực hiện QCDC ở cơ sở. Bản Chỉ thị đó quy định cụ thể trách nhiệm,
nhiệm vụ của MTTQ cùng các tổ chức chớnh trị - xó hội trong việc xõy dựng và thực hiện
quy chế này ở xó.
Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện QCDC đó quy định trách
nhiệm của UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xó hội bao gồm 3 việc: Phải làm tốt
cụng tỏc tuyờn truyền, giỏo dục rộng rói trong hội viờn, đoàn viên và nhân dân chỉ thị
này và các QCDC ở cơ sở; làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng quyền và nghĩa
vụ công dân, quyền của các tổ chức chính trị - xó hội đó được quy định trong QCDC;
phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện QCDC và giám sát thực hiện các
QCDC ở cơ sở.
Trong thời gian qua, việc thực hiện cỏc cụng tỏc nờu trờn, nhỡn về cơ sở thỡ
cụng tỏc Mặt trận tham gia thực hiện 5 khõu trong QCDC cú nhiều khởi sắc. Trong 5
khõu: Những việc cần thụng bỏo để nhân dân biết; Những việc nhân dân bàn và quyết
định trực tiếp; Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền quyết định;
Những việc nhân dân giám sát và xây dựng cộng đồng dân cư ở thôn, làng, ấp bản, thỡ
ở khõu thứ 2 và thứ 5, hoạt động của UBMTTQ là rừ nét và đạt khá nhiều kết quả.
Để tham gia thực hiện tốt cả 5 khâu trong QCDC, mấy năm qua UBMTTQ các
cấp đó tập trung chỉ đạo việc kiện toàn củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của
Ban công tác Mặt trận, Ban TTND, UBMTTQ cấp xó. Tuy nhiờn, cụng tỏc chỉ đạo
của Mặt trận các cấp là chưa đều, nhất là ở địa phương, cơ sở. Năm 1998, công tác chỉ
đạo triển khai rất rầm rộ. Chính quyền, MTTQ tập trung làm điểm ở xó, phường. Năm
1999, UBMTTQ tập trung làm công tác bầu cử đại biểu HĐND nên buông lơi, từ năm
2000 trở lại đây mới lại được tiếp tục tăng cường hơn. Nhiều nơi, Ban Thường trực
UBMTTQ bị động, lúng túng trong việc đề ra biện pháp chỉ đạo cho phù hợp với tỡnh
hỡnh, đặc điểm của địa phương mỡnh.
Kể từ khi được Chính phủ ban hành ngày 11-5-1998 đến nay QCDC đó thực
hiện được hơn 6 năm. Tuy nhiên, theo Ban chỉ đạo thực hiện QCDC TW, 100% xó,
phường đó triển khai, nhưng chỉ có 38% làm tốt; 97% cơ quan hành chính nhà nước đó
thực hiện, nhưng chỉ có 29% làm tốt; 88% doanh nghiệp nhà nước đó triển khai, song
cũng chỉ cú 32% làm tốt; tớnh hỡnh thức cũn khỏ phổ biến trong nhiệm vụ triển khai
QCDC của cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ (công tác Mặt trận tham gia thực hiện
QCDC được thực hiện chủ yếu ở xó, phường) cơ sở. Việc kiện toàn củng cố, nâng cao
chất lượng hoạt động của Ban công tác Mặt trận, Ban TTND, UBMT làm cũn chậm:
một số cỏn bộ xó, phường chưa nắm được QCDC và công tác Mặt trận tham gia thực
hiện QCDC; hoạt động giám sát của Mặt trận và đoàn thể chính trị - xó hội ở xó cũn
rất yếu; cụng tỏc tuyờn truyền vận động nhân dân học tập nắm vững các quan điểm
của Bộ Chính trị, nội dung QLC trực tiếp trong quy chế cũn làm lướt, hỡnh thức; việc
lồng ghộp nội dung cụng tỏc Mặt trận tham gia thực hiện QCDC với 3 nội dung cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" chưa chặt chẽ.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đó phối hợp với chớnh quyền cựng cấp tiến
hành sơ kết 3 năm và trong năm 2004 đó tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ
Chính trị, qua đó cũng cho thấy việc tiếp tục nghiên cứu mang tính tổng kết thực tiễn
và chỉ ra khuynh hướng phát triển, các giải pháp trong thời gian tới để Mặt trận phát
huy tốt hơn vai trũ của mỡnh trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở là việc làm mang
tính cấp bách cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đại hội IX đã tiếp tục khẳng định và
phát triển những chủ trương và quan điểm lớn về đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân
chủ trong thời kỳ đổi mới đã được đề ra tại các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng để thực
hiện mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và phát huy dân chủ - hai
mệnh đề then chốt trong đường lối chiến lược của Đảng ta để đưa đất nước đi lên.
Có thể nói, cả hiện tại và trong thời gian tới, nhu cầu và điều kiện khoa học
cũng như thực tiễn về hoàn thiện hơn nữa pháp luật về MTTQ trong thực hiện quy chế
dân chủ trong tình hình mới ngày càng chín muồi. Cho đến bây giờ vẫn chưa có một
công trình khoa học pháp lý nào khảo cứu một cách toàn diện về mặt lý luận và thực
tiễn vấn đề về phỏt huy vai trũ của MTTQVN trong thực hiện QCDC ở cơ sở và về
những bảo đảm pháp lý cho hoạt động của MTTQ để tham gia thực hiện tốt hơn nữa
quy chế. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn và pháp lý về MTTQ
trong thực hiện QCDC là vấn đề bức xúc và cần thiết. Với tất cả các ý nghĩa đó, chúng
tôi đã chọn đề tài: "Phỏt huy vai trũ của MTTQVN trong thực hiện QCDC ở cơ sở "
làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài
Thực hiện chủ trương hướng về cơ sở của Đảng đó cú một số cụng trỡnh
nghiờn cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ sở như: "Quy chế thực hiện dõn chủ ở cấp xó -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Học Viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do
PGS.TS. Dương Xuân Ngọc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000; "Thực hiện
quy chế dân chủ và xõy dựng chớnh quyền cấp xó ở nước ta hiện nay" của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông chủ
biên; "Dân chủ và việc thực hiện QCDC ở cơ sở" do TS. Lương Gia Ban chủ biên,
Nxb Chính trị quốc gia năm 2003; "Hướng dẫn triển khai quy chế dân chủ cơ sở" của
Bộ Nội vụ, Nxb Chính trị quốc gia, 2001; "Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở" của Ban Dân vận Trung ương; một số công trỡnh khỏc của MTTQVN như: đề
tài khoa học cấp bộ "Phỏt huy vai trũ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", của một số Viện Nghiên cứu và trường đại học Về đề
tài khoa học cấp bộ "Phỏt huy vai trũ của Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện quy
chế dõn chủ ở cơ sở" của MTTQ đó được triển khai dưới dạng đề án để đáp ứng nhu
cầu chỉ đạo thực tiễn của MTTQTW và hướng dẫn công tác hàng ngày của MTTQ cơ
sở trong việc tham gia thực hiện quy chế trên cơ sở kết quả tổng kết 3 năm việc thực
hiện QCDC. Đề tài này đó bước đầu giải quyết những vấn đề sau: quan điểm của Đảng
ta đối với việc MTTQ tham gia thực hiện QCDC, thực trạng 3 năm MTTQ tham gia
thực hiện quy chế và một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy vai trũ của MTTQ
trong việc thực hiện QCDC. Song vấn đề về phát huy vai trũ của MTTQ trong thực
hiện QCDC ở cơ sở dưới giác độ khoa học pháp lý với thực tiễn hơn 6 năm thực hiện
quy chế có thể nói cho đến nay chưa có công trỡnh nào. Do vậy, cú thể núi đề tài
nghiên cứu mà tác giả luận văn chọn: "Phát huy vai trũ của MTTQ trong thực hiện
QCDC ở cơ sở - xó, phường, thị trấn" là cụng trỡnh đầu tiên nghiên cứu vấn đề này
dưới giác độ khoa học lí luận về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và có hệ
thống. Tuy nhiên, luận văn cũng phát triển trên cơ sở kế thừa các công trỡnh đi trước ở
một số vấn đề, chẳng hạn phát triển trên cơ sở kế thừa đề tài khoa học cấp bộ "Phỏt
huy vai trũ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện quy chế dõn chủ ở cơ
sở" về quan điểm chỉ đạo trong tham gia thực hiện quy chế của MTTQ, về lý luận về
vai trũ của MTTQ đối với dân chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng, về số liệu
cũng như đánh giá thực trạng 3 năm MTTQVN tham gia thực hiện quy chế và về
những giải pháp phát huy vai trũ của MTTQVN trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
1. Làm rừ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trớ, vai trũ, chức năng, nhiệm vụ của
Mặt trận trong HTCT về việc thực hiện QCDC ở cơ sở, phát huy QLC của nhân dân.
2. Làm rừ thực trạng hoạt động của MTTQVN trong việc tham gia thực hiện
QCDC ở cơ sở.
3. Xác định nội dung nhiệm vụ và đề ra những giải pháp khả thi nhằm phát huy
vai trũ tớch cực của UBMTTQ cỏc cấp, nhất là cấp cơ sở trong việc thực hiện QCDC
ở xó, phường, tăng cường đoàn kết, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên nhiệm vụ của luận văn là:
1. Nghiờn cứu về vị trớ, vai trũ, chức năng của Mặt trận với vấn đề dân chủ,
đoàn kết trong thời kỳ mới; trong việc tham gia thực hiện QCDC ở xó.
2. Nghiên cứu về việc UBMTTQ tham gia thực hiện QCDC ở xó, phường -
thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm thực tiễn.
3. Nghiên cứu về chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trũ của Mặt trận
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Ngoài những phương pháp chung như: phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh chú trọng
phương pháp điều tra xó hội học, phương pháp định tính, định lượng trong qúa trỡnh
phân tích ảnh hưởng của MTTQ đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
Một số phương pháp chuyên ngành như mô hỡnh húa, khảo sỏt tổng kết dựa vào
thụng số từ nghiờn cứu thực tiễn cơ sở để xây dựng những luận điểm có tính lý luận - đây
là phương pháp quan trọng để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc phỏt huy vai trũ của
MTTQ trong thực hiện QCDC, luận văn: 1. Lần đầu tiên trỡnh bày một cỏch cú hệ
thống dưới giác độ khoa học pháp lý vấn đề MTTQ trong tham gia thực hiện QCDC;
2. Nêu những quan điểm chỉ đạo phát huy vai trũ của MTTQ trong thực hiện quy chế;
3. Đưa ra các giải pháp nhằm phát huy vai trũ của MTTQVN trong thực hiện quy chế.
6. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc phát triển và hoàn thiện
các căn cứ khoa học và thực tiễn để hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện QCDC ở nước ta hiện nay.
Mặt trận các cấp có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của luận văn để thực hiện có hiệu
quả hơn vai trũ của mỡnh đối với quy chế ở xó.
- Các trường Đảng, trường luật, trường hành chính, các viện nghiên cứu có
thể sử dụng kết quả nghiên cứu làm tài liệu tham khảo
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 10 tiết.
Chương 1
DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
VAI TRề CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở XÃ
1.1. DÂN CHỦ VÀ QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1.1. Khái niệm về dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Khái niệm "dân chủ" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "demos", nghĩa là nhân dân và
"kratos" - chính quyền, quyền lực. "Demokratia" có nghĩa là quyền lực của nhõn dõn,
chớnh quyền của nhõn dõn. Dõn chủ là một chớnh quyền "của dõn, do dõn và vỡ dõn".
Như vậy, dân chủ là một thể chế do dân làm chủ và dân chủ trước hết là chế độ chính trị
trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi, tự bản thân thực thi
hoặc thông qua các đại biểu mà mỡnh bầu ra. Dõn chủ gồm cú dõn chủ trực tiếp và dõn
chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hỡnh thức dõn chủ với những thiết chế, quy chế để
người dân thảo luận và biểu quyết những vấn đề chung của cộng đồng. Dân chủ đại diện
là hỡnh thức dõn chủ trong đó nhân dân cử ra (chủ yếu bằng bầu cử) người thay mặt
mỡnh nắm giữ quyền lực nhà nước. Cũn cú dõn chủ bỏn trực tiếp là hỡnh thức dõn chủ
thụng qua cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội, tổ chức xó hội, tổ chức nghề nghiệp của các
tầng lớp nhân dân. Dân chủ có dân chủ tư sản và dân chủ XHCN. Đặc trưng của dân chủ
XHCN là quyền dân chủ của công dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước, của xó hội mà cơ bản nhất là dân chủ về kinh tế. Trờn lĩnh
vực chớnh trị- xó hội, quyền tham gia quản lý nhà nước của dân và các đoàn thể nhân dân
ngày càng được mở rộng về phạm vi, về độ sâu và phong phú đa dạng về các hỡnh thức.
Dân chủ có thể hiểu là một cách thức và những điều kiện kèm theo để mọi người
dân tham gia bỡnh đẳng vào các công việc chính trị, kinh tế, xó hội với vai trũ là người
chủ xó hội. Khi một người nông dân cầm lá phiếu đi bầu cử một cách tự nguyện để lựa
chọn một cách tự do người đại biểu của mỡnh trong HĐND xó - cú nghĩa là quyền dân
chủ về chính trị được thực hiện. Khi các hộ nông dân được tham gia ý kiến vào việc quy
hoạch đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng làng xó, và những ý kiến này được lắng nghe, trở
thành quyết định và hành động của chính quyền và nhân dân xó cú nghĩa là các hộ nông
dân thực hiện một cách thực sự quyền dân chủ trong đời sống kinh tế của làng, xó. Khi
người dân đặt ra những yêu cầu đũi hỏi chớnh quyền cú cỏc biện phỏp nhằm cải thiện
chất lượng y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, trật tự an ninh xó hội - đây cũng là lúc
người dân đang thực hiện QLC của mỡnh.
Đũi hỏi của người dân được biết về các hoạt động của chính quyền, đũi hỏi về
trỏch nhiệm của chớnh quyền đối với dân trong việc thực thi các thủ tục hành chính liên
quan đến đất đai, xây dựng, hộ tịch, khai sinh, kinh doanh, sản xuất, - đây là biểu hiện
của quyền dân chủ của nhân dân.
Dõn chủ cũn cú thể được hiểu như một nhu cầu tất yếu, đũi hỏi đương nhiên của
dân cần có một vị thế thực sự bỡnh đẳng trong quan hệ giữa nhà nước và dân. Đồng thời,
dân chủ cũn được hiểu là trách nhiệm của chính quyền, của cán bộ, công chức cấp TW
cũng như cấp xó, thực hiện quyền hạn của mỡnh một cỏch chớ cụng vụ tư, không quan
lại, hách dịch, tham nhũng, vụ lợi.
Bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp, là nhà nước của dân,
do dân, vỡ dõn. Tuy vậy, trong thực tế, cỏn bộ, cụng chức nhà nước chưa thực sự là người
công bộc của dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đó mong muốn. Nếu khụng thực hiện dõn
chủ, Nhà nước sẽ trở nên độc tài, chuyên chế, và do đó dân phải học để làm chủ; Nhà
nước phải bảo đảm cơ chế để lắng nghe dân. Do vậy, nói tới dân chủ có nghĩa là nói đến
mối quan hệ giữa dân và chính quyền mà ở đó chính quyền phải lắng nghe dân, phải tạo
điều kiện để người dân được quyết định hoặc tham gia quyết định những vấn đề liên quan
đến cuộc sống và sự phát triển của mỗi người dân, của cả cộng đồng. Điều này có ý nghĩa
thực tiễn rất quan trọng ở cấp xó, phường, thị trấn.
Trong thực tế chưa có một xó hội nào đạt được tỡnh trạng dõn chủ tuyệt đối do
nhiều lý do khách quan và chủ quan, như: trỡnh độ phát triển kinh tế - xó hội, năng lực
nhận thức của dân và của chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hoá pháp quyền, Vỡ
thế, dõn chủ cũn được hiểu như một mục tiêu phấn đấu của dân tộc Việt Nam như đó ghi
rừ trong Hiến pháp là: thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dân
chủ, văn minh. Những mục tiêu đó đều có mối liên hệ gắn bó với nhau. Dân có giàu thỡ nước
với mạnh. Có dân chủ thỡ mới cú cụng bằng xó hội. Cú dõn chủ thực sự thỡ dõn mới giàu và
quốc gia mới mạnh. "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong" [57,
tr.554]. Đất nước giàu mạnh, xó hội cụng bằng và dõn chủ là những yếu tố khụng thể
thiếu được của một nền văn minh. Với mục tiêu phấn đấu như vậy, việc phát huy dân chủ,
nhất là dân chủ ở cơ sở, được coi là chủ trương, biện pháp và là hành động tất yếu của
nhân dân và chính quyền trong quá trỡnh phỏt triển của đất nước ta.
Dân chủ được đảm bảo và phát huy bằng nhiều biện pháp. Việc thực thi dân chủ
luôn gắn liền với mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Ở nước ta hiện nay, HTCT
dựa trên thiết chế "Đảng lónh đạo, Nhà nước quản lý, nhõn dõn làm chủ". Việc phỏt huy,
thực hiện dõn chủ được tiến hành không tách rời thiết chế này.
Dõn chủ mang lại những lợi ớch to lớn cho xó hội. Phỏt huy dõn chủ là phỏt huy
sức mạnh vật chất và tinh thần trong dõn vỡ sự phỏt triển và giảm nghốo. Khi nhõn dõn
thực hiện quyền quyết định các công việc của làng, xó, ý thức làm chủ của dõn được
khẳng định rừ rệt. Với ý thức làm chủ, mọi sỏng kiến, nguồn lực của mỗi người dân, mỗi
gia đỡnh trong cộng đồng làng, xó được phát huy một cách tốt nhất để vượt qua những
thách thức và khó khăn nhằm đạt tới sự phồn thịnh, phát triển của cộng đồng. í thức làm
chủ sẽ là động lực quan trọng giúp họ gỡn giữ bảo quản tốt hơn thành quả đạt được. Một
ví dụ minh chứng là trường hợp xây dựng hệ thống thuỷ lợi nhỏ nội đồng. Các hộ sử dụng
nước được quyền tự quyết định đóng góp, tự quyết định mức thu thuỷ lợi phí, tự tiến hành
bảo quản và duy trỡ hệ thống cụng trỡnh tưới tiêu nội đồng. Với QLC trong việc khai thác
và quản lý việc sử dụng nước cho nông nghiệp như vậy, bà con nông dân thực sự thực
hiện QLC của mỡnh, nhiệt tỡnh đóng góp kinh phí, tổ chức quản lý hệ thống tưới tiêu một
cách hiệu quả nhất, giảm thiểu tối đa những chi phớ khụng cần thiết. Với ý thức làm chủ
thực sự, bà con nụng dõn cựng nhau gỡn giữ, bảo dưỡng công trỡnh được hoàn thành với
sự đóng góp tiền của và công sức của mỡnh, độ bền của công trỡnh được bảo đảm tốt hơn.
Khi thực hiện QLC người dân biết chăm lo và cú ý thức hơn về cuộc sống cộng đồng,
cùng nhau đoàn kết để giải quyết những vấn đề phát triển kinh tế, xó hội cộng đồng. Với
truyền thống "lá lành đùm lá rách" bầu không khí dân chủ, công khai ở làng xó là điều
kiện thuận lợi và thúc đẩy những hoạt động của cộng đồng tự giúp đỡ lẫn nhau xoá đói,
giảm nghèo. Đây là một thực tế đang diễn ra và ngày càng được nhân rộng ở những địa
phương thực hiện tốt QCDC ở cơ sở.
Dân chủ thúc đẩy sự minh bạch, hạn chế sự lạm quyền, tham nhũng. Sự minh
bạch, rừ ràng trong các hoạt động kinh tế xó hội được đảm bảo khi người dân được thực
hiện quyền được biết, được kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, nhất là trong
lĩnh vực thu, chi tài chính. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng làm hạn chế những hành vi
lạm dụng quyền hạn, tham nhũng của cán bộ, công chức chính quyền.
Dân chủ thúc đẩy quan hệ gần gũi và hợp tác giữa chính quyền với dân. Khi dân chủ
được phát huy, tệ tham nhũng, lạm dụng quyền lực, quan liêu sẽ bị hạn chế và dần bị loại bỏ
khỏi đời sống xó hội; chớnh quyền trở nờn minh bạch, thực sự trở thành chớnh quyền phục
vụ dõn và vỡ dõn. Sự tin cậy của dõn đối với chính quyền sẽ ngày càng tăng. Dân sẽ quan hệ
chặt chẽ và hợp tác với chính quyền.
Dân chủ tăng cường kỷ cương và ổn định xó hội. Với những thành quả như đó nờu
trờn do phỏt huy và tăng cương dân chủ, cộng đồng dân cư ở cơ sở sẽ đoàn kết và ổn
định. Kỷ cương xó hội sẽ được tăng cường không chỉ bởi ý thức tụn trọng phỏp luật, mà
cũn do sự tự nguyện, tự giỏc của nhõn dõn với tư cách là những người chủ cộng đồng.
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản
xuất, công tác, của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận lónh đạo cấp
trên [65, tr. 209]. Như vậy, cấp cơ sở là cấp xó trong quan hệ với cấp địa phương (gồm
cấp tỉnh và cấp huyện) và với cấp TW. chính quyền cơ sở là chính quyền cấp xó. Bởi vỡ,
căn cứ vào việc phân bổ dân cư và lónh thổ thành đơn vị hành chính thỡ chớnh quyền cấp
xó và cấp tương đương là cấp chính quyền cơ sở. Vỡ đây là cấp chính quyền cuối cựng,
gần và sỏt dõn nhất. Cũn thụn, làng, ấp, bản, tổ dõn phố và tương đương là theo đơn vị
dân cư - với tư cách là những cộng đồng người nhỏ nhất sinh sống cùng nhau. Ở đây, đời
sống dân cư diễn ra tự quản là chính. Dân chủ ở cơ sở là dân chủ ở cấp xó, phường, thị
trấn và thôn, làng, ấp, bản, khóm, tổ dân phố (là các hỡnh thức cộng đồng dân cư như đó
nờu). Dõn chủ ở cơ sở chủ yếu là thực hiện hỡnh thức dõn chủ trực tiếp (mặc dự cú cả
dõn chủ đại diện), và các hỡnh thức tự quản của cộng đồng dân cư. Dân chủ cơ sở có ý
nghĩa vụ cựng to lớn, vỡ cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một
cách trực tiếp và rộng rói nhất.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Trải qua 60 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vỡ dõn dưới sự lónh đạo của
Đảng, nhân dân ta đó đạt được nhiều thành quả quan trọng: đất nước đó được độc lập tự
do, thống nhất và ngày nay toàn Đảng, toàn dân đang ra sức phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong
quá trỡnh xõy dựng cũng bộc lộ những yếu kộm, khuyết điểm. Về tỡnh hỡnh đó, đồng chí
Đỗ Mười đó nờu rừ:
trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta, tỡnh hỡnh tiờu cực, suy thoỏi phẩm
chất vẫn cú chiều hướng phát triển, nhất là tệ quan liêu và nạn tham nhũng, tác
hại không nhỏ đến việc củng cố nhà nước, làm nhân dân lo lắng, đang thực sự
là một nguy cơ đối với chế độ xó hội chủ nghĩa, đối với con đường mà nhân
dân ta đó lựa chọn [59, tr.4].
Tháng 3/1998, đồng chí Lê Khả Phiêu, cũng đó nờu bật tớnh cấp thiết của việc xõy
dựng QCDC cơ sở, đồng chí chỉ rừ:
quyền làm chủ của nhõn dõn cũn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều
lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây
phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn
chặn, đẩy lùi được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành pháp luật, cho nên chậm đi vào
cuộc sống. Tỡnh trạng mất dõn chủ, khụng để dân bàn bạc và quyết định
những công việc cụ thể liên quan trực tiếp đến đời sống của dân, bắt dân đóng
góp nhiều khoản vượt quá khả năng, lại không minh bạch về tài chính, thậm
chí xà xẻo vào những khoản tiền do dân đóng góp như ở một số xó thuộc tỉnh
Thỏi Bỡnh và vài nơi khác; tỡnh trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị
đùn đẩy không giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời, không đúng; tỡnh
trạng quan liờu, quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong một số ngõn hàng hoặc
gõy lóng phớ lớn trong xõy dựng, chẳng những làm suy giảm lũng tin của
nhõn dõn đối với Đảng và chính quyền mà cũn làm triệt tiờu nguồn động lực
của nhân dân và xâm phạm vào bản chất tốt đẹp của chế độ [66, tr. 4].
Trước tỡnh hỡnh đó, Nghị quyết TW 3 khoá VIII (6/1997) nêu rừ yờu cầu: Tiếp
tục phỏt huy tốt hơn và nhiều hơn QLC của dân qua các hỡnh thức dõn chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước CHXNCNVN đảm bảo trong sạch, vững
mạnh và tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN,
phát huy QLC của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước [13]. Mở rộng dân chủ
XHCN, phát huy QLC của nhân dân phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh
tế, xó hội, quốc phũng, an ninh, từ việc xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ
chức bộ máy, phong cách làm việc, bao quát mọi hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, từ
TW đến địa phương và cơ sở. Vấn đề dân chủ, bảo đảm QLC của nhân dân để phát huy
động lực, thực hiện mục tiêu CNH, HĐH, làm cho dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng
bằng, dõn chủ, văn minh phải được đặt ra cho cả HTCT, phải tác động hai chiều dưới lên,
trên xuống, cả trong Đảng và trong nhân dân.
Thực tiễn cho thấy, muốn phát huy được QLC trực tiếp của dân ở cơ sở, Đảng phải
lónh đạo, phải có quan điểm chính sách lớn để định hướng, đồng thời phải xây dựng được
thiết chế dân chủ ở cơ sở một cách cụ thể, phù hợp với từng đối tượng dân cư. Đó là
những quy định có giá trị pháp lý do N nhà nước ban hành mang tính bắt buộc mọi người,
mọi tổ chức nghiêm chỉnh thực hiện. Do vậy, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đó ra Chỉ thị số
30/CT-TW về xõy dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm "giữ vững và phát huy QLC của
dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước,
khắc phục tỡnh trạng suy thoỏi, quan liờu, mất dõn chủ và nạn tham nhũng" [3, tr.3]. Chỉ
thị nhấn mạnh: khõu quan trọng và cấp bỏch trước mắt là phát huy QLC của nhân dân ở
cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi
cần thực hiện QLC của dân một cách trực tiếp và rộng rói nhất. Vỡ cơ sở là nơi đông đảo
nhân dân (bao gồm nông dân, công nhân, cán bộ, công chức, viên chức, quân nhân và các
thành phần lao động khác) sinh sống hàng ngày. Cơ sở là nơi sản xuất, kinh doanh, lao
động, học tập, nơi nảy sinh nhiều yêu cầu bức xúc hàng ngày về đời sống kinh tế, xó hội,
chớnh trị, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Cơ sở
là nơi nhân dân đang có nhiều đũi hỏi về làm chủ và cũng là nơi có điều kiện thực hiện
quyền dân chủ một cách trực tiếp và rộng rói nhất. Bộ Chớnh trị cũng chỉ rừ, thực hiện dõn
chủ ở cơ sở sẽ thúc đẩy cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế chính sách và thủ tục
hành chính không phù hợp với cuộc sống. Nhân dân ở cơ sở thực hiện QLC, tham gia kiểm
kê, kiểm soát sẽ tích cực xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tích
cực đấu tranh bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lóng phớ, thực hành tiết kiệm. Muốn vậy,
cần ban hành QCDC ở cơ sở có tính phỏp lý, yờu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều
phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Thực hiện Chỉ thị 30/CT-TW, UBTV Quốc hội (khoỏ X) ra Nghị quyết số 45-
1998/NQ-UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dõn chủ ở xó. Nghị
quyết giao Chớnh phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ với các định hướng nội dung
cụ thể. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của UBTV Quốc hội, ngày
11/5/1998, Chính phủ đó ban hành NĐ số 29/1998/NĐ-CP (nay là NĐ số 79/2003/NĐ-
CP) về việc ban hành QCDC. NĐ nêu rừ: "Điều 1: Ban hành kèm theo NĐ này bản quy
chế thực hiện dân chủ ở xó. Điều 2: quy chế này áp dụng đối với cả phường và thị trấn"
[60]. QCDC ở cơ sở cũn bao gồm cả dõn chủ trong cơ quan hành chính nhà nước và đơn
vị doanh nghiệp nhà nước với các văn bản qui định riêng.
Những văn bản trên đây từ chủ trương của Đảng đến việc thể chế hoá bằng các văn
bản pháp luật của Nhà nước thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với việc xây
dựng thể chế về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra" thể hiện bản chất Nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vỡ dõn.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm các văn bản quy phạm pháp luật qui định
những biện pháp làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở xó, phường, cơ quan hành chính
nhà nước và đơn vị doanh nghiệp nhà nước. Đó là những điều nhân dân phải được biết,
những việc nhân dân được bàn để nhà nước quyết định hoặc nhân dân được quyết định
và những việc nhân dân được giám sát, kiểm tra, nhằm phát huy QLC, sức sáng tạo của
nhân dân.
Quy chế thực hiện dõn chủ ở xó là văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể
những việc HĐND và UBND xó phải thụng tin kịp thời và cụng khai để dân biết; những
việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểm tra và các hỡnh thức thực hiện
QCDC ở xó nhằm phỏt huy QLC, sức sỏng tạo của nhõn dõn ở xó, động viên sức mạnh
vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xó hội, cải thiện dõn
sinh, nõng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng đảng bộ, chính
quyền và các đoàn thể ở xó trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tỡnh trạng
suy thoỏi, quan liờu, tham nhũng của một số cỏn bộ, đảng viên và các tệ nạn xó hội, gúp
phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh, theo
định hướng XHCN. quy chế thực hiện dân chủ ở xó, vỡ vậy, thực chất là một định chế
pháp lý bảo đảm QLC của dân.
Quy chế thực hiện dõn chủ ở xó cú những đặc điểm sau:
Thứ nhất, khác với các quy chế thông thường, quy chế thực hiện dân chủ là một
văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể hoá và luật hoá phương châm "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" bằng một NĐ của chính phủ căn cứ vào Nghị quyết của UBTV Quốc
hội (Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện
dõn chủ ở xó, phường, thị trấn).
Thứ hai, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hoá dân chủ XHCN ở cơ
sở, phát huy QLC của nhân dân gắn liền với cơ chế "Đảng lónh đạo, Nhà nước quản lý,
nhõn dõn làm chủ".
Thứ ba, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng
cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyềnđịa phương, cơ sở, quy định những
nghĩa vụ cụ thể của chính quyền trong việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ
sở.
Thứ tư, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ
sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực,
gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân
Thứ năm, có sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở mọi khâu trong
thực hiện quy chế ở cơ sở để phát huy mạnh mẽ vai trũ làm chủ của nhõn dõn trong việc
thực thi nền dõn chủ XHCN.
Thứ sáu, mục đích của việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xó là nhằm phỏt
huy QLC, sức sỏng tạo của nhõn dõn ở xó, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to
lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xó hội, cải thiện dõn sinh, nõng cao dõn trớ, ổn
định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xó
trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tỡnh trạng suy thoỏi, quan liờu, tham
nhũng của một số cỏn bộ, đảng viên và các tệ nạn xó hội, gúp phần thực hiện mục tiờu
dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh, theo định hướng XHCN.
Thứ bảy, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ phải trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đi đôi với trật tự, kỷ cương; quyền đi đôi với nghĩa
vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dõn chủ, vi phạm Hiến phỏp, phỏp luật, xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của
công dân.
1.1.3. Nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ở xó
Quy chế thực hiện dõn chủ ở xó do Chớnh phủ ban hành ngày 15/5/1998 (nay là
NĐ số 79/2003/NĐ-CP) gồm Lời nói đầu, 7 chương và 25 điều. Về nội dung, quy chế quy
định những quyền của nhân dân ở cơ sở được biết và hỡnh thức biết những thụng tin liờn
quan đến pháp luật, chủ trương chính sách của nhà nước, đặc biệt là những thông tin liên
quan trực tiếp đến đời sống dân sinh. quy chế cũng quy định những việc để nhân dân bàn
và quyết định cũng như những hỡnh thức thực hiện; quy định những việc nhân dân ở cấp
xó cú quyền giỏm sỏt, kiểm tra và những phương thức để thực hiện giám sát, kiểm tra;
việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp và những hỡnh thức tổ chức. Đặc
biệt, để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", quy chế quy
định cơ chế thực hiện dưới hai hỡnh thức dõn chủ trực tiếp và dõn chủ đại diện, trong đó ở
cấp cơ sở, dân chủ trực tiếp là quan trọng.
Quy chế dân chủ cơ sở quy định cụ thể các loại công việc để: dân biết, dân bàn,
dân giám sát, kiểm tra. Điều 1 Quy chế quy định: "quy chế này quy định cụ thể những
việc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xó phải thông tin kịp thời và công khai để
dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến
trước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểm tra và các hỡnh
thức thực hiện quy chế dõn chủ ở xó".
Về dân biết, quy chế quy định quyền của mọi người dân được thông tin về những
chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời
sống hàng ngày của nhân dân tại cơ sở và nghĩa vụ của chính quyền phải thông tin kịp
thời và công khai cho người dân, bao gồm 14 điểm sau:
1. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích của nhân dân trong xó, bao gồm: a) Cỏc nghị quyết của HĐND, quyết định của
UBND xó và của cấp trờn liờn quan đến địa phương; b) Các quy định của pháp luật về thủ
tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến dân; c) Những quy định của Nhà
nước và chính quyềnđịa phương về đối tượng, mức thu các loại thuế, phí, lệ phí và các
nghĩa vụ khác đối với nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành;
2. Kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội dài hạn và hàng năm của xó;
3. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai;
4. Dự toỏn và quyết toỏn ngõn sỏch xó hàng năm;
5. Dự toán, quyết toán thu chi các quỹ, chương trỡnh, dự ỏn, cỏc khoản huy động
nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trỡnh phỳc lợi cụng cộng của xó,
thụn và kết quả thực hiện;
6. Các chương trỡnh, dự ỏn do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ
trực tiếp cho xó;
7. Chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo;
8. Điều chỉnh địa giới hành chính xó và cỏc đơn vị hành chính liên quan đến xó;
9. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết cỏc vụ việc tiờu cực, tham nhũng của cỏn
bộ xó, thụn;
10. Công tác văn hoá, xó hội, phũng, chống tệ nạn xó hội, giữ gỡn an ninh, trật tự,
an toàn xó hội của xó;
11. Sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xó;
12. Phương án dồn điền, đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
nông nghiệp, kinh tế trang trại, hợp tác xó;
13. Bỡnh xột cỏc hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất và xây dựng nhà tỡnh
thương; thực hiện chính sách đối với gia đỡnh cú cụng với cỏch mạng, gia đỡnh liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh được tặng nhà tỡnh nghĩa, sổ tiết kiệm, thể bảo hiểm y tế;
14. Kết quả lựa chọn, thứ tự ưu tiên và tổ chức thực hiện các công trỡnh thuộc cỏc
chương trỡnh, dự ỏn của Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho
xó.
Về dân bàn có 2 loại gồm:
- Một loại công việc do dân bàn và quyết định trực tiếp
- Một loại công việc do dõn bàn và tham gia ý kiến, HĐND và UBND xó quyết
định.
Các việc dân bàn và quyết định trực tiếp là các loại việc có huy động sự đóng góp
của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng hương ước, quy ước nội bộ. Đây là quy
định rất mới không những thực hiện QLC của nhõn dõn mà cũn chống được tệ nạn tham
nhũng, lóng phớ.
Loại công việc do dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm 5 điểm:
1. Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trỡnh phỳc lợi
cụng cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, cỏc cụng trỡnh văn hoá, thể
thao);
2. Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hoá, nếp sống văn minh, giữ gỡn an
ninh trật tự, bài trừ cỏc hủ tục, mờ tớn dị đoan, tệ nạn xó hội;
3. Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy định của
pháp luật hiện hành;
4. Thành lập Ban Giỏm sỏt cỏc cụng trỡnh xõy dựng do dõn đóng góp;
5. Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gỡn an ninh trật tự, an toàn giao thụng,
vệ sinh mụi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xó, thụn
Loại cụng việc do dõn bàn và tham gia ý kiến, HĐND và UBND xó quyết định bao
gồm 9 điểm:
1. Dự thảo nghị quyết của HĐND xó;
2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội dài hạn và hàng năm của
xó, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát triển ngành
nghề;
3. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở địa phương và việc quản lý, sử
dụng có hiệu quả quỹ đất công ích của xó;
4. Phương án quy hoạch khu dân cư; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới;
kế hoạch, dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng do xó quản lý;
5. Dự thảo đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính xó, đề án chia tách,
thành lập thôn;
6. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trỡnh mục tiờu quốc gia trờn địa bàn
xó;
7. Chủ trương, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng cơ sở, tái
định cư;
8. Giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn xó;
9. Những cụng việc khỏc mà chớnh quyền xó thấy cần thiết.
Về dân giám sát, kiểm tra quy chế quy định dân giám sát, kiểm tra các loại công
việc từ hoạt động của HĐND, UBND đến các việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân, kết quả quyết toán công trỡnh do dõn đóng góp, việc quản lý sử dụng đất đai, thu chi
các quỹ, việc thực hiện chính sách đối với người có công với nước Dân giám sát, kiểm
tra tức là thực hiện quyền lực của mỡnh trong quỏ trỡnh quản lý đất nước. Lênin đó từng
núi: nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và
phõn phối cỏc sản phẩm thỡ chớnh quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ
không thể duy trỡ được. Những việc nhân dân ở xó giỏm sỏt, kiểm tra được quy định
trong quy chế gồm có 11 điểm sau:
1. Hoạt động của chính quyền xó, cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội, tổ chức xó hội và
tổ chức nghề nghiệp ở xó;
2. Kết quả thực hiện nghị quyết của HĐND và quyết định, chỉ thị của UBND xó;
3. Hoạt động và phẩm chất đạo đức của Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND, hoạt
động của đại biểu HĐND xó, của cỏn bộ UBND xó và cỏn bộ, cụng chức hoạt động tại
địa phương;
4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại địa phương;
5. Dự toỏn và quyết toỏn ngõn sỏch xó;
6. Quỏ trỡnh tổ chức thực hiện cụng trỡnh, kết quả nghiệm thu và quyết toỏn cụng
trỡnh do nhõn dõn đóng góp xây dựng và các chương trỡnh, dự ỏn do Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xó;
7. Cỏc cụng trỡnh của cấp trờn triển khai trờn địa bàn xó cú ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất, an ninh, trật tự, văn hoá - xó hội, vệ sinh mụi trường và đời sống của nhân
dân địa phương;
8. Quản lý và sử dụng đất đai tại xó;
9. Thu, chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của Nhà nước, các khoản đóng góp
của nhân dân;
10. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng liên
quan đến cán bộ xó;
11. Việc thực hiện chế độ, chính sách ưu đói, chăm sóc, giúp đỡ thương binh, bệnh
binh, gia đỡnh liệt sĩ, những người và gia đỡnh cú cụng với nước, chính sách bảo hiểm xó
hội, bảo trợ xó hội.
Một nội dung quan trọng của quy chế là quy định hết sức cụ thể: a) Đối với những
việc cần thông báo cho dân biết, chính quyền xó cú trỏch nhiệm phối hợp với UBMTTQ,
cỏc thành viờn của MTTQ cựng cấp và Trưởng thôn cung cấp các thông tin để nhân dân
biết bằng các hỡnh thức cụ thể tại Điều 6 quy chế; b) Đối với những việc dân bàn và quyết
định trực tiếp quy chế quy định các phương thức cụ thể thực hiện những việc nhân dân
quyết định trực tiếp tại Điều 9; c) Đối với những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến,
chớnh quyền xó quyết định quy chế quy định phương thức thực hiện tại Điều 11; d) Đối
với những việc nhân dân giám sát, kiểm tra quy chế quy định phương thức thực hiện tại
Điều 13 và quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với việc giám
sát và kiểm tra của nhân dân tại Điều 14.
Quy chế dành hẳn một chương (chương VI) về việc xây dựng cộng đồng dân cư
thôn, làng, ấp, bản, khóm, tổ dân phố (gọi chung là thôn) quy định các hỡnh thức hoạt
động tự quản của cộng động dân cư, việc tổ chức hội nghị nhân dân thôn (Điều 16), nhiệm
vụ và quyền hạn của Trưởng thôn (Điều 17), việc xây dựng hương ước, quy ước về công
việc thuộc nội bộ cộng đồng dân cư (Điều 18), việc thành lập các tổ chức của thôn như:
các tổ hoà giải, an ninh, bảo vệ sản xuất, kiến thiết (Điều 19).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đó từng núi: "Trong bầu trời khụng gỡ quớ bằng nhõn dõn.
Trong thế giới khụng gỡ mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" [55, tr.125]. Lấy
dân làm gốc là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó được quán triệt trong quy
chế. Việc thực hiện quy chế sẽ thúc đẩy việc phát huy QLC của nhân dân, thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân; nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công
dân; khơi dậy tiềm năng, trí sáng tạo, sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân để phát
triển kinh tế - xó hội, cải thiện đời sống cộng đồng; giữ vững kỷ cương phép nước, ngăn
chặn tiêu cực, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ mỏy chớnh quyền; xõy dựng niềm tin và
mối quan hệ chặt chẽ giữa dõn với Đảng và chính quyền.
1.1.4. Vai trũ của Quy chế thực hiện dõn chủ cơ sở ở xó
Nước ta quá độ đi lên CNXH từ một chế độ phong kiến nửa thuộc địa, ở đó mang
nặng dấu ấn của chế độ chuyên chế quân sự. Mặc dù trong xó hội lỳc bấy giờ đó cú yếu tố
dõn chủ truyền thống làng xó và yếu tố sơ khai của dân chủ tư sản nhưng chưa đáng kể.
Do vậy, nền tảng dân chủ ở cơ sở của ta thiếu hụt truyền thống trong lịch sử. Điều đó gây
không ít khó khăn cho việc xây dựng một nước dân chủ theo định hướng XHCN.
Trước đây, do tư tưởng duy ý chí, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể nên chúng ta chưa
coi trọng đúng mức vấn đề "lấy dân làm gốc", vỡ thế chưa có nhận thức đúng đắn về vấn
đề dân chủ ở cơ sở. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế
trước thời kỳ đổi mới do chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động sáng tạo của nhân dân,
nhất là từ cơ sở.
Hiện nay, ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, cũng có nghĩa là chấp nhận sự
phân hoá xó hội diễn ra, bất cụng trong xó hội cũn tồn tại, dẫn đến quá trỡnh thực hiện
quyền lực chớnh trị của nhõn dõn lao động khó khăn. Cơ sở kinh tế làm nền tảng cho
quyền lực chính trị của nhân dân lao động chưa thực sự đảm bảo; kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể nói chung đang rơi vào tỡnh trạng làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, sức
cạnh tranh yếu.
Thực trạng tỡnh hỡnh hiện nay ở cơ sở nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn, tiêu cực,
những yếu kém. Người dân ở cơ sở vốn có trỡnh độ dân trí và trỡnh độ học vấn thấp (kể
cả cán bộ xó), vỡ thế gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ những thành tựu
văn hoá, khoa học, kỹ thuật hiện đại. Đa số các cơ sở do đời sống kinh tế khó khăn (nhất
là vùng núi, vùng sâu, vùng xa) dân chỉ lo kiếm sống, ít quan tâm đến vấn đề chính trị,
văn hoá, xó hội, họ thậm chớ khụng biết hưởng quyền dân chủ, không biết dùng quyền
dân chủ. Trong khi đó bộ máy chính quyền các cấp chưa thực sự vững mạnh, tỡnh trạng
tham nhũng, buụn lậu, lóng phớ, quan liờu cũn khỏ phổ biến. Hiệu lực quản lý, điều hành
kinh tế - xó hội và phỏp luật chưa nghiêm, kỷ cương xó hội bị buụng lỏng, niềm tin của
nhõn dõn vào sự lónh đạo của Đảng bị giảm sút. QLC của nhân dân bị vi phạm ở nhiều
nơi trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, đất đai, thu chi ngân sách, đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, huy động vốn đóng góp của dân có nhiều biểu hiện tiêu cực.
Một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hoá, biến chất, lợi dụng chức quyền, lợi dụng những
kẽ hở trong quản lý của nhà nước để tham ô, tham nhũng. Ở nông thôn là tỡnh trạng cỏn
bộ cơ sở bất chấp pháp luật, cấp bán đất trái thẩm quyền, chi tiêu tài chính sai mục đích và
lóng phớ. Mõu thuẫn nội bộ ngày một tăng dẫn đến hiện tượng khiếu kiện tập thể, gây ra
không khí rất căng thẳng phức tạp. Trong khi nhân dân đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng, đũi quyền tự do dõn chủ, đũi đảm bảo công bằng xó hội thỡ kết quả khiếu kiện lại
chậm được giải quyết và giải quyết không thoả đáng làm cho xuất hiện các điểm nóng,
như ở Thái Bỡnh năm 1996 - 1997 có 208/285 xó dõn tổ chức khiếu kiện tập thể. Ở
những điểm nóng đó, tổ chức đảng mất vai trũ lónh đạo, bộ máy chính quyền bị tê liệt, sản
xuất bị đỡnh trệ, cỏc nghĩa vụ đóng góp với nhà nước không hoàn thành. Nội bộ nhân dân
bị chia rẽ, mất đoàn kết, tỡnh hỡnh an ninh trật tự, an toàn xó hội mất ổn định.
Đảng và Nhà nước ta đó nhận thấy những yếu kộm của dõn chủ ở cơ sở và nhận
thức được vai trũ quyết định của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trong sự ổn định chính trị
và phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Và, khi QCDC được ban hành dưới hỡnh thức
là một văn bản có tính pháp lý thỡ hiệu lực của nú sẽ cao hơn. Sự ra đời của quy chế là
một bước đột phá quan trọng trong việc hiện thực hoá bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Nó đó cụ thể hoỏ QLC của nhõn dõn ở cơ sở - nơi thực thi dân chủ một cách trực tiếp và
rộng rói nhất, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
QCDC ở cơ sở là nội dung cơ bản nhất của dõn chủ trực tiếp cú ý nghĩa thiết thực và
quan trọng đối với toàn bộ nền dân chủ XHCN ở nước ta bởi đó là một phần của tiến
trỡnh mở rộng và thực hiện quyền dõn chủ trờn cả hai hỡnh thức: dõn chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp.
Quy chế ra đời là một đũi hỏi tất yếu của quỏ trỡnh thực hiện dõn chủ ở nước ta.
quy chế không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước
những tỡnh hỡnh phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà thể hiện cái nhỡn hướng tới
cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên mang tính chiến lược, căn bản, lâu dài. Lần đầu tiên
định hướng chính trị về dân chủ, phương châm để thực hiện dân chủ như "dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" đó được cụ thể hoá trong một văn bản quy phạm pháp luật.
Vỡ vậy, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở có vai trũ hết sức to lớn.
Một là, thực hiện QCDC góp phần bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao
động, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vỡ dõn ngay ở
cấp chớnh quyền cơ sở ở nước ta hiện nay. Trong một thời gian dài trước đây, nhiều địa
phương đó khụng thật sự quan tõm đến tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong việc giải
quyết các vấn đề của làng xó. Do vậy, khi QCDC được triển khai, người dân rất phấn khởi
và nhiệt tỡnh hưởng ứng.
Nơi nào làm tốt việc xây dựng và thực hiện quy chế, nơi ấy sẽ tạo ra được một
phong trào sinh hoạt chính trị rộng lớn, có tác động đến nhiều mặt của đời sống xó hội.
Thụng qua quỏ trỡnh học tập, xõy dựng và thực hiện quy chế, cỏn bộ, nhõn dõn đó thấy
rừ hơn quyền cũng như trỏch nhiệm của mỡnh trong việc xõy dựng đời sống dân chủ ở cơ
sở, ý thức làm chủ, ý thức cụng dõn của người dân đó cú sự chuyển biến khỏ rừ. Ngay từ
trong cộng đồng dân cư nhỏ hẹp như xó, phường, người dân đó cú thể trực tiếp bày tỏ
chớnh kiến của mỡnh, trực tiếp quyết định và giám sát các công việc của cộng đồng xó
hội.
Với những thông tin về chính sách, pháp luật, về nội dung các hoạt động của địa
phương, của cơ sở được đưa ra kịp thời và công khai, với những điều người dân được bàn
bạc thảo luận và quyết định trực tiếp hoặc tham khảo cho sự quyết định của cấp chính
quyền cơ sở, người dân đó từng bước học làm chủ, tập làm chủ và dần dần biết làm chủ.
Vậy là, nhân dân đó khụng chỉ tồn tại với tư cách là một người công dân thông
thường mà cũn với tư cách là người chủ thực sự về tư liệu sản xuất, người chủ thực sự về
chính trị và quyền lực chính trị. QLC của nhân dân biểu hiện trong việc thực thi chính trị,
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xó hội ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương và của
mỗi cá nhân cụ thể. Người dân vừa là khách thể vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Lợi ích của mỗi thành viên, của từng tổ chức xó hội, giai cấp, tầng lớp đều nằm trong lợi
ích của toàn xó hội. Chớnh thực hiện tốt dõn chủ ở cơ sở tạo ra một cơ chế phát huy QLC
cho mọi công dân nhằm bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động và góp phần
làm phong phú hơn hỡnh thức thực hiện quyền lực chớnh trị của nhõn dõn lao động. Rừ
ràng khụng thể chỉ nõng cao chất lượng của dân chủ đại diện là đủ mà cũn phải thực hiện
chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực và có hiệu quả mới bảo đảm tốt cho nhân dân
lao động làm chủ đích thực quyền lực của mỡnh.
Mặc dù cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp đều phản ánh nguyện vọng, ý chớ,
quyền lực của nhõn dõn, là phương thức thể hiện dân chủ XHCN, nhưng mỗi phương
thức lại có những ưu, nhược điểm khác nhau. Dân chủ đại diện dễ tổ chức thực hiện, dễ
tập trung thống nhất, nhưng lại khó bao quát hết thực tiễn đời sống cũng như ý chớ,
nguyện vọng của cỏc tầng lớp nhõn dõn. Dõn chủ trực tiếp thỡ ngược lại, khó tổ chức một
cách tập trung, khái quát nhưng lại bao quát được mọi khía cạnh của thực tiễn cũng như ý
chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Do đó dân chủ trực tiếp có khả năng thể hiện
một cách khách quan ý chí nguyện vọng của nhõn dõn khụng qua một hỡnh thức trung
gian nào, thể hiện một cỏch ưu việt nhất quyền lực của nhân dân lao động trong việc quản
lý xó hội, đúng theo quan điểm của Mác là khi đó quyền lực thực tế mới thuộc về dân,
nhân dân tự quản lý xó hội của mỡnh và xó hội được quản lý bởi nhõn dõn và vỡ nhõn
dõn.
Hai là, thực hiện dân chủ ở cơ sở là một giải pháp hạn chế sự tha hoá của quyền
lực nhà nước. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động được thể hiện tập trung thông
qua quyền lực nhà nước. Với hỡnh thức dõn chủ đại diện, quyền lực nhà nước sẽ được
giao cho một số người đảm nhận, chịu trách nhiệm quản lý, điều hành công việc chung.
Nhưng quy luật chung là khi tập trung quyền lực thỡ dễ dẫn đến lạm quyền, lộng quyền.
Những người đại diện cho quyền lực của nhân dân rất dễ rơi vào sự tha hoá, độc đoán,
quan liêu nếu không có một cơ chế kiểm soát quyền lực.
Trong thời gian qua ở nước ta, hiện tượng những người có chức, có quyền đó lợi
dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích riêng cho mỡnh khụng phải là ớt. Họ đó dựa vào địa vị
của mỡnh, mặc dự địa vị mà họ có được là do nhân dân bầu ra, để nhận hối lộ, tham
nhũng, làm trái với mục tiêu của Đảng. Họ trở nên những người xa lạ với dân, với Đảng,
với Nhà nước. Bộ máy chính quyền trở thành quan liêu, bảo thủ và trỡ trệ, nú khụng cũn
đại diện được cho lợi ích của nhân dân, của toàn xó hội nữa mà chớnh nú lại vi phạm đến
lợi ích của nhân dân lao động, đến lợi ích mà nó đại diện.
Để hạn chế sự tha hoá của quyền lực nhà nước, cần phải làm trong sạch bộ máy
lónh đạo của Đảng và chính quyền ngay ở từng cơ sở. Từ khi triển khai thực hiện quy chế,
người dân đó biết sử dụng QLC của mỡnh để đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực ấy.
Chính nhờ những quy định rừ ràng cỏc việc cần thụng bỏo cho dõn biết, những
việc dõn được bàn, những việc dân được giám sát, kiểm tra, tài chính được công khai,
minh bạch đó làm hạn chế rất nhiều cỏc biểu hiện tha hoỏ của cỏc cỏn bộ, đảng viên trong
bộ máy quyền lực nhà nước. Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ làm cho nhân dân lao
động từng bước thể hiện QLC mà cũn làm cho cỏc cấp uỷ đảng, chính quyền, đảng viên
nhận thức rừ hơn về QLC của nhân dân cũng như ý thức được trách nhiệm phục vụ nhân
dân, phát huy dân chủ, giữ gỡn kỷ cương, phép nước.
Ở những nơi làm tốt việc triển khai thực hiện quy chế, ý thức xây dựng cộng đồng,
xây dựng đảng, xây dựng chính quyền được nâng lên. Nó không chỉ góp phần nâng cao ý
thức của cán bộ, đảng viờn và nhõn dõn về thực hiện và phỏt huy dõn chủ và QLC của
nhõn dõn mà cũn làm chuyển biến một bước về phương thức lónh đạo của cấp uỷ đảng,
phương thức điều hành và lề lối làm việc của các cấp chính quyền, nhất là ở cơ sở. Nhân
dân đó mạnh dạn thẳng thắn, cởi mở, chõn thành phờ bỡnh cỏn bộ, đảng viên, đóng góp
xây dựng tổ chức đảng, giúp tổ chức đảng loại được nhiều cán bộ, đảng viên kém phẩm
chất, năng lực, thoái hoá, biến chất. Nhiều tổ chức đảng biết gắn với việc xây dựng chỉnh
đốn đảng (theo tinh thần Nghị quyết TW sáu lần hai) làm cho mối quan hệ giữa đảng viên
và dân gắn bó với nhau hơn, Đảng và dân gần nhau hơn, tin nhau hơn, nhờ vậy tổ chức
đảng thêm vững mạnh.
Nhiều cấp chính quyềnđịa phương đó rà soỏt, loại bỏ cỏc văn bản quy định không
cũn phự hợp với QCDC, cản trở QLC của dõn và cụng tỏc quản lý của cơ quan nhà nước,
công khai hoá các văn bản thủ tục hành chính, phí, lệ phí, thời gian giải quyết công việc,
lịch tiếp dân Tăng cường xuống cơ sở để nghe trực tiếp ý kiến dân, đối thoại, tháo gỡ
những vướng mắc của dân một cách kịp thời, làm cho mối quan hệ của dân với chính
quyền ngày một gắn bó, uy tín của chính quyền cơ sở được nâng lên và hoạt động của bộ
máy chính quyền có hiệu quả hơn trước.
Có thể nói, thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cuộc cách mạng có tác dụng sâu sắc
đến ý thức và phong cỏch, phương thức lónh đạo của cấp uỷ, sự điều hành của chính
quyền cơ sở đối với sự tôn trọng QLC của người dân. Từ đó cán bộ sát dân hơn, bớt đi
thái độ hống hách, cửa quyền, nhũng nhiễu dân. Không những thế, cán bộ cũn chăm lo
giữ gỡn phẩm chất đạo đức của mỡnh, từ đó làm cho mối quan hệ giữa dân với chính
quyền cởi mở hơn, góp phần làm cho chính quyền hoạt động có hiệu quả hơn.
Ba là, thực hiện dân chủ ở cơ sở khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân lao
động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trỡnh xõy dựng nhà
nước và xó hội, giải quyết những vấn đề lớn từ quốc kế dân sinh đến những việc của đời
sống cộng đồng, đời sống dân cư. Thông qua hỡnh thức hoạt động dân chủ trực tiếp tại cơ
sở, người dân có điều kiện tham gia ý kiến, có điều kiện tập dượt, trưởng thành trong vai
trũ của người làm chủ đích thực. Khi Đảng và Nhà nước quan tâm, biết lắng nghe và học
hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao đời sống của dân thỡ nhõn dõn khụng chỉ núi lờn điều
mỡnh mong muốn mà cũn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng Đảng và Nhà nước cần phải
hành động như thế nào, bằng phương pháp công cụ nào để giải quyết các vấn đề kinh tế -
xó hội. Chớnh những sỏng kiến đầy tâm huyết của dân đó tạo nờn nguồn trớ tuệ quý giỏ
khụng gỡ thay thế được cho những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, tạo ra những bước phát triển vững chắc của đất nước trên con đường phát triển và
hội nhập.
Qua hoạt động dân chủ ở cơ sở, Đảng và Nhà nước có thể nhận được những thông
tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương đó ban hành. Nhờ vậy,
Đảng và Nhà nước sẽ kiểm nghiệm được đường lối, chính sách có xa rời thực tế hay
không từ đó mà khắc phục bệnh quan liêu, duy ý chí, xa rời thực tế, nhằm tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân.
Ở địa bàn xó, quy chế đó được sự nhiệt tỡnh hưởng ứng của nhân dân và sự chỉ
đạo sát sao của các cấp chính quyền nên đem lại nhiều kết quả thiết thực trong lĩnh vực
phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng. Khi tài chính được công khai, dân được tham
gia góp ý kiến về những cụng việc cụ thể, người dân sẵn sàng đóng góp tiền của, công sức
để xây dựng các công trỡnh phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Vớ như những căn nhà
tỡnh nghĩa, nhà tỡnh thương, trường học, nghĩa trang liệt sĩ, các công trỡnh thuỷ lợi,
đường liên thôn, liên xó với giỏ trị hàng trăm triệu đến hàng chục tỷ đồng đó được xây
dựng. Nhiều công trỡnh trước đây chờ xin ngân sách cấp trên nhưng nay đưa ra dân bàn,
dân quyết định thỡ lại triển khai nhanh gọn. Phong trào cứng hoỏ kờnh mương, nhựa hoá,
bê tông hoá đường giao thông nông thôn, được dân đồng tỡnh, tớch cực, tự giỏc tham gia.
Cỏc cụng trỡnh hoàn thành nhanh gọn và đạt hiệu quả cao. Kể cả việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, chuyển đổi hợp tác xó, quản lý đất đai được nhân dân giám sát chặt chẽ nên góp
phần vào ổn định nông thôn, kinh tế phát triển theo chiều hướng tiến bộ.
Bốn là, thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển văn hoá xó hội. Từ khi cú
Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) và Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, các địa phương
đó kết hợp chặt chẽ cả hai nội dung: triển khai QCDC với "Phong trào toàn dõn đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" nhằm khắc phục những vấn đề nhức nhối về tư
tưởng đạo đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hoá, văn minh lành mạnh trong từng
gia đỡnh, làng xó, vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, lối sống lành mạnh,
bài trừ hủ tục, tệ nạn xó hội và mờ tớn dị đoan.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" huy
động mọi nguồn lực nhân dân và cả HTCT từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan nhà
nước, các đoàn thể đến toàn xó hội, gồm cỏc phong trào như: Người tốt việc tốt, Uống
nước nhớ nguồn, Đền ơn đáp nghĩa, Xoá đói giảm nghèo, Xây dựng gia đỡnh văn hoá,
làng văn hoá, khu phố văn minh. Tất cả các phong trào ấy được hưởng ứng vào công cuộc
thi đua yêu nước: "Tất cả vỡ mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ,
văn minh".
Năm là, thực hiện dân chủ ở cơ sở tạo ra cơ sở pháp lý để MTTQ các cấp và cỏc tổ
chức chớnh trị-xó hội thực hiện được vai trũ cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân trong
phát huy dân chủ XHCN. MTTQ, các tổ chức thành viên thông qua hoạt động phối hợp
tuyên truyền vận động nhân dân, chỉ đạo triển khai xây dựng, thực hiện và giám sát việc
thực hiện QCDC, đó phỏt huy tốt vai trũ đại diện QLC của nhân dân, góp phần tạo ra môi
trường dân chủ lành mạnh ở cơ sở, góp phần củng cố, kiện toàn tổ chức đảng, chính
quyền các cấp.
Như vậy, việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở là một cách thiết thực nhất, là
cơ sở cho nhân dân lao động được làm chủ một cách thực sự trên mọi phương diện: kinh
tế, chính trị, văn hoá xó hội. Đó cũng chính là một cách làm hiệu quả nhất để cho nhân
dân lao động đảm bảo được quyền lực chính trị của mỡnh, gúp phần quan trọng vào sự
nghiệp xõy dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vỡ dõn ở nước
ta hiện nay.
1.2. VAI TRề CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA VÀ TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ THỰC
HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ
1.2.1. Khái niệm về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong hệ thống chính trị nước ta
Điều 9 Hiến pháp 1992 khẳng định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liờn minh chớnh trị, liờn hiệp tự
nguyện của tổ chức chớnh trị, cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội, tổ chức xó hội và
cỏc cỏ nhõn tiờu biểu trong cỏc giai cấp, cỏc tầng lớp xó hội, cỏc dõn tộc, cỏc
tụn giỏo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử
và cán bộ, viên chức nhà nước [18].
Cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992, Điều 1 Luật MTTQVN qui định: " Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt
Nam" [21]. Đây là quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng ta về MTTQ trong thời kỳ đổi
mới, tiến hành CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được thể chế hóa và bảo
đảm bằng pháp luật của Nhà nước.
Trước hết cần thấy rằng, ở nước ta HTCT là hệ thống về mặt tổ chức và chức
năng của các cơ quan, các tổ chức như Đảng - Nhà nước - MTTQ, các tổ chức chính trị -
xó hội là thành viờn của MTTQ (như Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Tổ chức công đoàn,