1
Luận văn
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
An ninh quốc gia là vấn đề cơ bản, hệ trọng của mỗi quốc gia,
là điều kiện hàng đầu để quốc gia tồn tại và phát triển.
Bảo vệ an ninh quốc gia có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.
ý thức được điều đó Đảng và Nhà nước ta luôn xác định "Tăng
cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là
nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân
trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng
cốt" [18].
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI,
kỳ họp thứ 6 cũng đã thông qua Luật An ninh quốc gia ngày 03 tháng
12 năm 2004; và chỉ rõ trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia
là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm,
nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật (Điều 8).
Nguyên tắc hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia là "Đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà
nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân
tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt"
(Điều 5, tiết 2).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhiệm
vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong những năm qua đã đạt được những
kết quả quan trọng, an ninh chính trị tiếp tục được giữ vững, ổn định,
giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Những thành quả
đó đã tạo đà cho sự ổn định và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội chung
của đất nước.
3
Tuy nhiên, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ
đối ngoại đa phương, đa dạng hoá đang đặt ra những thách thức mới,
phức tạp đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Nhiệm vụ đó đòi
hỏi cần có sự nỗ lực phát huy cao độ vai trò nhân tố chủ quan của
Đảng, Nhà nước, quần chúng nhân dân tiến bộ cùng với lực lượng
nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia.
Bởi vậy, việc nghiên cứu vấn đề " Phát huy vai trò nhân tố chủ
quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay "
có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" đã
được nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu. Ngay trong những tác
phẩm kinh điển của các nhà triết học mác xít cũng đề cập đến vấn đề
này. Cũng như ở Liên Xô (cũ) hay ở Việt Nam hiện nay có không ít
những công trình nghiên cứu liên quan.
Mỗi công trình nghiên cứu đề cập đến một góc độ riêng của
việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan, cũng như đi sâu vào những lĩnh
vực cụ thể của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, như công trình
nghiên cứu:
- "Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng
con người mới ở Việt Nam", Luận án PTS của Nguyễn Thế Kiệt, Hà
Nội, 1988.
- "Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Một số vấn đề
về lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ của Phạm
Ngọc Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
4
- "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Ninh, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001.
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây dựng nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị
Phương Thảo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2001.
- "Phát huy nhân tố chủ quan trong việc xây dựng người nữ trí
thức mới Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Hà Thái,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc tổ chức thực
hiện nghị quyết Đảng ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Vũ
Hữu Phê, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa - Vũng Tầu hiện nay", Luận án tiến
sĩ của Nguyễn Hồng Lương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà
Nội, 2005.
"Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Đinh Thị
Hoa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
Bên cạnh những công trình chuyên khảo về vấn đề này, trên các
báo, tạp chí chuyên ngành cũng đăng tải rất nhiều bài báo, công trình
nghiên cứu có liên quan đến vấn đề phát huy vai trò nhân tố chủ quan,
vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia như:
5
- "Những yếu tố cơ bản làm tăng cường chất lượng của nhân tố
chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội" của Trần Bảo, Tạp chí
Triết học số 3 tháng 9/1991.
- "Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của
nền kinh tế nhiều thành phần" của Nguyễn Chí Mỳ, Tạp chí Cộng sản,
số 10/5/1997.
- "Một cách tiếp cận về cặp phạm trù "điều kiện khách quan" và
"nhân tố chủ quan"", của Phạm Văn Nhuận, Tạp chí Triết học, số
6/1999.
- "Quán triệt, thực hiện Luật an ninh quốc gia", Tạp chí Công
an nhân dân, số chuyên đề tháng 1/2006.
- "Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội trong tình hình hiện nay" của Lê Hồng Anh, Tạp chí Công an nhân
dân,
số 5/2006.
- "Tăng cường công tác đảm bảo an ninh quốc gia khi Việt Nam
gia nhập tổ chức thương mại thế giới" của Trần Minh Thư, Tạp chí
Công an nhân dân, số 7/2006.
- Xã luận "Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng
lợi sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Công an nhân dân, số 9/2006
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây rất có giá trị.
Các tác giả đã đề cập đến nhiều góc độ khác nhau của điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan trong xã hội nói chung, cũng như làm rõ
thêm nhiều khía cạnh của mối quan hệ này và vận dụng vào giải quyết
những vấn đề cụ thể.
6
Các công trình trên cũng đề cập đến nhiệm vụ, trách nhiệm
quyền hạn trong bảo vệ an ninh quốc gia trên từng lĩnh vực cụ thể và
chủ yếu liên quan đến công tác nghiệp vụ công an.
Xong việc khai thác vẫn đề thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh
Quốc gia từ góc độ nhân tố chủ quan thì chưa được các đề cập.
Vì vậy, tác giả mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề phát huy
vai trò nhân tố chủ quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Quốc gia với
mong muốn có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn
góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung bảo vệ an ninh quốc gia.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích vai trò nhân tố
chủ quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, luận văn đưa ra một
số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong
sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách
quan" trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và vai trò của nó.
- Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhân tố
chủ quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung phân tích là vấn đề
phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc
gia hiện nay. Trong đó chủ yếu tập trung phân tích vấn đề phát huy vai
trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an nhân dân – lực lượng nòng
cốt bảo vệ an ninh quốc gia.
7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là dựa trên các
nguyên lý, các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, quy định của ngành và kế thừa chọn lọc những công
trình có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận chứng của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, lôgíc và lịch sử
5. Đóng góp về khoa học của luận văn.
- Góp phần luận chứng về vai trò của nhân tố chủ quan trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhân
tố chủ quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.
6. ý nghĩa lý luận thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn trước hết nhằm nâng cao nhận
thức cho tác giả.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy triết học trong các trường Công an nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
8
Chương 1
Nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan trong sự nghiệp
bảo vệ An ninh Quốc gia hiện nay
1.1. QUAN ĐIểM MáC -XíT Về NHÂN Tố CHủ QUAN
1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan
Mọi quá trình xã hội diễn ra thông qua sự tác động qua lại giữa
“điều kiện khách quan” và “nhân tố chủ quan” đó là hình thức phổ biến
của sự vận động và phát triển của xã hội.
Cặp phạm trù “Điều kiện khách quan” và “Nhân tố chủ quan”
được xác định trong hoạt động thực tiễn của con người và chính trong
quá trình đó chủ thể hoạt động là những con người có ý thức.
Khái niệm “nhân tố chủ quan” có mối quan hệ chặt chẽ với hệ
thống các khái niệm “chủ thể”, “khách thể”, “ Khách quan”, “ chủ
quan”, “điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan”… và được hình
thành phát triển trong quá trình nghiên cứu, hoạt động của con người.
Vì vậy, để hiểu nhân tố chủ quan trước hết chúng ta cần nghiên cứu các
khái niệm trên
Trong lịch sử triết học, các nhà triết học trước Mác đã nghiên
cứu vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau, liên quan đến vấn đề cơ
bản của triết học. Tuy nhiên họ chỉ dừng lại ở khuôn khổ nhất định,
chưa đưa ra những khái niệm rõ ràng, khoa học.
Hạn chế lớn nhất của các nhà triết học trước Mác là chỉ xem vấn
đề chủ thể - khách thể, chủ quan - khách quan…trong khuôn khổ hoạt
động nhận thức tách rời hoạt động thực tiến.
9
Theo quan điểm của C.Mác, để có cách nhình khoa học về các
khái niệm trên và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chúng phải
đứng trên lập trường duy vật triệt để, khoa học.
Quan điểm Mác-xít về khách thể và chủ thể được thể hiện và
phát triển trong một số tác phẩm như “ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán”, “ Bút ký triết học” của V.I. Lênin.
Theo V.I. Lênin, con người với tư cách là chủ thể, là con người
thực tiễn, con người hành động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự
nhiên, xã hội). Chỉ trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới con
người mới bộc lộ mình với tư cách là chủ thể.
“Đặc trưng chủ yếu nhất của con người với tư cách là chủ thể là
năng lực hoạt động sáng tạo, là khuynh hướng tự mình thực hiện mình,
tự cho mình, qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới
khách quan và tự hoàn thiện mình” [24, tr.228-229]
Do đó, con người với tư cách là chủ thể có thể là một cá nhân,
một nhóm người, một giai cấp hoặc một dân tộc….thực hiện việc nhận
thức hoặc cải tạo một khách thể nhất định.
Trong quá trình hoạt động, con người với tư cách là chủ thể tác
động vào hiện thực khách quan như là đối tượng bên ngoài nhằm thoả
mãn nhu cầu của mình.
Bộ phận của hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận
thức và cải tạo là khách thể.
Như vậy, khách thể là tất cả nhứng gì mà chủ thể hướng vào
nhận thức và cải tạo. Khách thể được xác định tuỳ thuộc vào chủ thể
tương ứng vì vậy khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách
quan, nó chỉ là một bộ phận của hiện thực khách quan chịu sự tác động
của chủ thể xác định. V.I. Lênin viết: “Đối với Chủ nghĩa Duy vật thì
10
khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và được phản ánh vào trong ý
thức của chủ thể một cách chính xác nhiều hay ít” [45, tr.93].
Hiện thực khách quan vô cùng phong phú và khách thể với tư
cách là bộ phận của nó cũng rất đa dạng. Khách thể có thể là những
hiện tượng, quá trình thuộc giới tự nhiên cũng có thể là những hiện
tượng quá trình thuộc về lĩnh vực đời sống xã hội như những quan hệ
kinh tế, quan hệ chính trị – xã hội, những quan hệ tư tưởng, những tổ
chức xã hội hay những con người cụ thể.
Tuy nhiên, khái niệm khách thể khác với khái niệm đối tượng.
Đối tượng có thể là khách thể nhưng cũng có thể chỉ là một phần của
khách thể mà chủ thể trực tiếp tác động đến.
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Không thể xác định một khách thể cụ thể nếu chưa xác định rõ một chủ
thể tương ứng và ngược lại. Khách thể và chủ thể luôn luôn gắn liền
với nhau, không có chủ thể, khách thể trừu tượng.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể luôn luôn tìm cách nhận thức
và cải tạo khách thể theo mục đích của mình. Ngược lại, tuy chủ thể có
vai trò nhận thức và cải tạo khách thể, nhưng khách thể lại quy định
chủ thể. Khi chủ thể nhận thức đúng quy luật vận động của khách thể
thì chủ thể có thể vận dụng quy luật đó một cách tích cực, sáng tạo, tác
động vào khách thể. Trong quá trình đó, khách thể được cải tạo,được
“nhận thức”, còn tư tưởng của chủ thể cũng được “khách thể hoá”
Khi xem xét hoạt động cuả con người , người ta không chỉ
nghiên cứu các khái niệm chủ thể, khách thể mà còn quan tâm đến các
khái niệm “nhân tố chủ quan” “điều kiện khác quan”. Bởi lẽ những
khái niệm này được dùng để chỉ những mỗi quan hệ giữa các yếu tố ý
thức của con người và hoàn cảnh trong đó con người hoạt động.
11
Khi nói đến cái “ Chủ quan” có quan điểm đồng nhất nó với khái
niệm chủ thể. Có nghĩa là đồng nhất chủ quan với con người, trong đó
có cả yếu tố vật chất lẫn yếu tố tinh thần của con người.
Quan điểm khác lại coi “cái chủ quan” chính là yếu tố tinh thần
của con người bao gồm tri thức, tình cảm, tâm trạng, năng lực tổ chức.
Ngoài ra còn quan điểm coi chủ quan chính là hoạt động có ý
thức của con người.
Nhìn chung các quan điểm trên đều cho rằng khái niệm chủ quan
đều nói lên thuộc tính chung của chủ thể.
Qua đó có thể hiểu: Cái “chủ quan” là tất cả những gì thuộc về ý
thức của chủ thể.
Cái “khách quan”là những tính chất yếu tố không phụ thuộc vào
chủ thể tồn tại ngoài chủ thể.
Tuy nhiên, không thể đồng nhất khái niệm cái khách quan và
khái niệm hiện thực khách quan hay thế giới vật chất nói chung. Vì
khách quan là thuộc tính của vật chất nhưng không phải cái khách quan
nào cũng có thể quy về vật chất. Bởi lẽ cái khách quan được xem xét
trong sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Vì vậy, nó có thể
bao hàm cả những yếu tố thuộc về ý thức, khi nó nằm ngoài chủ thể và
tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể.
Trong hoạt động cụ thể, khi chủ thể tác động lên khách thể và
biến đổi nó theo mục đính của mình, không phải lúc nào chủ thể hoạt
động cũng dùng tất cả những năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của
mình, mà có thể chỉ huy động một phần, một bộ phận các yếu tố tạo
thành cái chủ quan trong quá trình tương tác với khách thể. Cái đó gọi
là nhân tố
chủ quan.
12
Khái niệm nhân tố chủ quan được hiểu là những yếu tố, những
phẩm chất của chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể,
tạo ra khả năng tích cực, sáng tạo trong hành động của chủ thể, cùng
bản thân hoạt động của chủ thể nhằm cải tạo khách thể.
Do đó, sẽ là sai lầm khi đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt
động có ý thức hay hoạt động tự giác của con người.
Những quan niệm này đã chỉ ra vai trò của ý thức, tính tự giác
trong hoạt động của con người. Nhấn mạnh vai trò của ý thức trong
phản ánh điều kiện khách quan.
Chính sự nhấn mạnh này rất dễ dẫn đến tình trạng “chủ quan
hoá” hoạt động của con người. Bởi lẽ, hoạt động của con người không
chỉ thuần tuý thuộc về nhân tố chủ quan mà còn bị chi phối, quy định
của điều kiện khách quan.
Về vấn đề này A.K.U Le đôp đã phê phán:
Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói chung
(cũng hệt như là hoạt động), mà là cái ý thức đã trở thành sự
chỉ đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Nói
cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của
hành vi, của hoạt động của chủ thể [50, tr.69].
Như vậy, giữa nhân tố chủ quan và chủ thể có sự thống nhất
nhưng không đồng nhất. Sự thống nhất thể hiện ở chỗ nhân tố chủ quan
là thuộc về chủ thể, nhưng khác nhau ở chỗ: nhân tố chủ quan là khái
niệm chung để chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của
chủ thể, được chủ thể huy động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như
động lực của chủ thể nhằm để nhận thức hoặc biến đối khách thể cụ
thể.
13
Do đó, đặc trưng cơ bản của “nhân tố chủ quan” chính là “tính
tích cực sáng tạo” của chủ thể hoạt động .
Vì vậy A.K.U Le Đôp đã có lý khi cho rằng:
Vấn đề nhân tố chủ quan trong lịch sử dù người ta tiếp
cận việc giải quyết nó về mặt nào và ở bình diện nào đi nữa
cũng chỉ có thể được vạch ra thông qua sự phân tích đặc
trưng về chất của những chủ thể của lịch sử: Các tập đoàn xã
hội, các giai cấp và những tổ chức của chúng, các quốc gia,
các dân tộc. Nhưng không phải chính bản thân các giai cấp,
các đảng phái, các nhà nước, v.v mà là những thuộc tính,
những phẩm chất, những trạng thái của chúng biểu hiện trong
hoạt động đóng vai nhân tố chủ quan [50, tr.67].
Về mặt cấu trúc, nhân tố chủ quan bao gồm: Tri thức, ý thức,
tình cảm và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của chủ thể, được
biểu hiện ra trong hoạt động của chủ thể. Những phẩm chất này bao
giờ cũng có tính hai mặt tích cực hoặc tiêu cực.
Như vậy, nhân tố chủ quan chỉ là một bộ phận của cái chủ quan
được chủ thể huy động , sử dụng trực tiếp trong quá trình tác động lên
khách thể cụ thể-nó là một phần ý thức của chủ thể.
Hơn nữa, trong quá trình hoạt động của chủ thể thì những yếu tố
như năng lực thể chất hay trạng thái của chủ thể đều có ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình này.
Nói đến nhân tố chủ quan là nói đến hoạt động có ý thức của chủ
thể, là nói đến quá trình chủ thể sử dụng các sức mạnh vật chất, công
cụ vật chất của con người và hoàn cảnh để nhận thức hoặc cải tạo hiện
thực.
14
Trong bản thảo kinh tế - triết học, C.Mác đã chỉ rõ: “Tư tưởng
căn bản không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực hiện được tư
tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”.
Trong cấu trúc của nhân tố chủ quan, các nhân tố cấu thành đều
có vai trò rất quan trọng và quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, đa số
các nhà nghiên cứu cho rằng nhân tố tri thức là cơ bản nhất vì nó là
nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của ý thức chủ thể.
Tri thức là yếu tố căn bản của ý thức con người, là yếu tố đặc
trưng của ý thức con người.
Theo Mác: "Người ta chỉ có ý thức về cái gì đó khi có tri thức về
nó".
ý thức của con người nếu không được trang bị tri thức khoa học
thì chỉ là ảo tưởng, lòng tin mù quáng. Vai trò của tri thức, của khoa
học là yếu tố đặc biệt quan trọng đảm bảo vai trò chủ động tích cực
sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của chủ thể.
Tình cảm, ý chí là sự định hướng thôi thúc bên trong để chuyển
hoá hiểu biết thành quyết tâm hành động.
Khái niệm nhân tố chủ quan có quan hệ mật thiết với khái
niệm điều kiện khách quan. Bất cứ một chủ thể lịch sử xã hội nào
trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với một hoàn cảnh cụ thể - đó
là điều kiện khách quan.
Các nhà nghiên cứu có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
điều kiện khách quan nhưng chủ yếu đều thống nhất ở một điểm là “
Tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và chi phối hoạt
động của chủ thể”.
Vì vậy, có thể nói: điều kiện khách quan là tổng thể những
mặt,những nhân tố, những mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài chủ thể,
15
độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, trong đó chủ
thể sống và thực hiện mọi hoạt động ở những thời điểm nhất định.
Điều kiện khách quan luôn mang tính cụ thể, bao gồm những yếu
tố vật chất, tinh thần, những quy luật khách quan…nó sẽ là những điều
kiện cụ thể tạo nên môi trường hoàn thành, ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động của chủ thể.
Việc nắm bắt được điều kiện, hoàn cảnh khách quan có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động của chủ
thể.
Đặc điểm chủ yếu phân biệt điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan là ở chỗ, điều kiện khách quan hình thành và phát triển không phụ
thuộc vào ý chí và ý thức của chủ thể. Còn nhân tố chủ quan hình
thành và phát triển không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ
thể hành động mà còn phụ thuộc vào khách thể, vào điều kiện khách
quan.
Cùng một khách thể, một hiện tượng, trong mối quan hệ này
thuộc vào những điều kiện khách quan còn trong những điều kiện và
mối quan hệ khác lại thuộc vào nhân tố chủ quan.
Việc xác định điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan phụ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào việc xác định chủ thể
hành động.
Do đó, ranh giới giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
chỉ là tương đối, tuỳ thuộc vào chỗ xác định đâu là chủ thể, đâu là
khách thể
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định mối quan hệ giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan là mối quan hệ biện chứng. Sự tác
16
động lẫn nhau giữa chúng tạo nên động lực thường xuyên thúc đẩy sự
phát triển của xã hội.
Điều kiện khách quan đóng vai trò quyết định đối với nhân tố
chủ quan, không có điều kiện khách quan cần thiết thì mọi cố gắng chủ
quan cũng không thể đem lại những thành công, hoạt động của con
người không thể bất chấp những điều kiện khách quan.
Mặt khác không được xem nhẹ vai trò chủ động, tích cực sáng
tạo của nhân tố chủ quan đối với tiến trình phát triển xã hội. Trong
những điều kiện khách quan chín muồi thì vai trò của nhân tố chủ quan
có tính chất quyết định đối với việc biến những khả năng đang có
thành hiện thực. Bởi lẽ những khả năng khách quan không thể thực
hiện được nếu không thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Do
đó, trong những hoàn cảnh nhất định, ý thức của con người có ảnh
hưởng trực tiếp và to lớn đến việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
của xã hội.
1.1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong hoạt động của con
người
Lịch sử xã hội là lịch sử của con người, do con người. Để đáp
ứng nhu cầu của mình con người tiến hành tác động, cải tạo với tự
nhiên: “Thế giới không thoả mãn con người và con người quyết định
biến đổi thế giới bằng hành động của mình” [24, tr.229].
Chính trong quá trình đó con người xác lập nên mối quan hệ
khách quan giữa người với người - đó là quan hệ xã hội và tạo thành xã
hội. “Xã hội với tính cách là hệ thống là tổng thể những hình thức hoạt
động khác nhau của con người, các quan hệ xã hội, các hình thức cộng
đồng của con người…” [5, tr.106].
17
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển, quá trình phát triển đó
bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan,
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Theo quan điểm Mác–
xít, trong mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan thì điều kiện khách quan là tính thứ nhất, nhân tố chủ quan
là tính thứ hai. Điều kiện khách quan quyết định nhân tố chủ quan, điều
kiện khách quan quy định mục đính , phương tiện và phương pháp
hành động của chủ thể. Tuy bị điều kiện khách quan quy định nhưng
nhân tố chủ quan không phải hoàn toàn bị thụ động, lệ thuộc mà nó có
tình độc lập tương đối . Nhân tố chủ quan có thể chuyển hoá được các
điều kiện khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của
mình.
Thực chất vai trò nhân tố chủ quan ở đây là sự phát hiện ra khả
năng khách quan, trên cơ sở những điều kiện phương tiện vật chất của
hoàn cảnh khách quan để tác động và biến đổi nó theo quy luật. Như
vậy, vai trò nhân tố chủ quan chính là tính tích cực sáng tạo của chủ
thể trong quá trình nhận thức và cải tạo khách thể.
Trong hoạt động của con người, con người không thụ động ngồi
chờ điều kiện khách quan chín muồi mà chủ động chuyển hoá điều
kiện khách quan tạo ra sự chín muồi đó. Trong sự vận động và phát
triển của hiện thực có rất nhiều khả năng có thể xảy ra, vai trò nhân tố
chủ quan là thực hiện sự lựa chọn khả năng vào đáp ứng nhu cầu, lợi
ích của mình, phù hợp với lịch sử cũng như việc áp dụng, sử dụng
những quy luật khách quan phù hợp trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, trong đời sống xã hội, quy luật tự nhiên và quy luật xã
hội bao giờ cũng đan xen với nhau. Quy luật tự nhiên ảnh hưởng đến
xã hội thông qua tác dụng của chính quy luật xã hội. Vì vậy, vai trò của
18
nhân tố chủ quan còn thể hiện ở việc, dựa vào năng lực nhận thức các
quy luật khách quan (tự nhiên – xã hội), các chủ thể điều chỉnh một
cách tự giác tác động tổng hợp của nhiều quy luật khách quan, làm cho
các quy luật phát huy tác dụng có lợi nhất cho chủ thể.
Nhân tố chủ quan biết vận dụng sự liên hệ lẫn nhau của các quy
luật từ đó tăng cường tác dụng cuả mỗi quy luật bằng cách tạo ra
những điều kiện khách quan làm cho sự thích ứng phát huy tác dụng
tổng hợp của các quy luật đó.
Sự vận động và phát triển của xã hội biểu hiện trên những nấc
thang phát triền của nó. Tương ứng với mỗi nấc thang phát triển đó là
một chế độ kinh tế – xã hội. Trong sự phát triển xã hội thì lực lượng
sản xuất là yếu tố quyết định. Lực lượng sản xuất là sự liên kết giữa
người lao động và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động .
Con người (người lao động) với tư cách chủ thể của sản xuất vật
chất luôn tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất,
sáng tạo ra công cụ. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân tố chủ yếu
hàng đầu của lực lượng sản xuất. Đúng như Lê Nin đã chỉ rõ “ Lực
lượng sản xuất thứ nhất của loài người là người công nhân, người lao
động”. Nói đến người lao động là nói đến sức lao động, nói đến tri thức
cũng như những kinh nghiệm đúc kết trong quá trình sản xuất và cùng
với những yếu tố tinh thần, như tình cảm, kỹ năng, kỹ xảo… tạo nên
trình độ của lực lượng sản xuất- trình độ chinh phục tự nhiên của con
người. Chính vì thế mà vai trò của nhân tố chủ quan là hết sức quan
trọng, ngay cả trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Vai trò của nhân tố chủ quan còn được thể hiện đặc biệt rõ trong
việc để ra những mục tiêu, phương thức phát triển của toàn xã hội.
19
Điều này liên quan đến vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị trong quá
trình phát triển của xã hội có giai cấp. Do đó, vai trò nhân tố chủ quan
ở đây chính là việc xác định những mục tiêu phát triển chiến lược và
các giải pháp kinh tế – chính trị thích hợp trong từng thời kỳ. Đồng
thời với việc tổ chức, huy động các lực lượng xã hội để thực hiện các
nhiệm vụ to lớn do lịch sử đặt ra, mà vai trò của nhân tố chủ quan ngày
càng tăng
Thực chất của quá trình này, để phát huy vai trò nhân tố chủ
quan trong sự phát triển xã hội nói chung thì trước hết phải nâng cao
trình độ, tri thức của con người, khả năng nhận thức và vai trò cải tạo
thế giới của con người. Sự vận động xã hội bao giờ cũng gắn liền với
việc giáo dục, vận động quần chúng tham gia vào các công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước với tư cách là lực lượng cơ bản. Bởi lẽ sức
mạnh của quần chúng là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử
đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng".
Chính điều này đã làm cho quần chúng nhân dân ngày càng thể
hiện rõ vai trò chủ thể của họ và do đó vai trò của nhân tố chủ quan
ngày càng được nâng lên.
1.2. Vai trò của nhân tố chủ quan trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc
gia hiện nay
1.2.1.Thực chất của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia hiện
nay
Bảo vệ An ninh Quốc gia là một loại hình hoạt động xã hội đặc
thù, do đó hình thức biểu hiện của điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan của loại hình hoạt động này cũng có những nét riêng biệt.
20
Theo Công pháp quốc tế, quốc gia được xác định bởi một lãnh
thổ, một cộng đồng dân cư và một hệ thống quyền lực công cộng, được
đảm bảo bởi một thể chế chính trị trên lãnh thổ đó. An ninh Quốc gia
được hiểu là sự an toàn bất khả xâm phạm của Quốc gia.
Trên thực tế, mỗi quốc gia có quan niệm và có khái niệm về An
ninh Quốc gia không giống nhau, tuỳ thuộc vào bản chất, đường lối đối
nội, đối ngoại của mỗi nước và đặc biệt là tiềm lực kinh tế và sức mạnh
quân sự. Đối với những nước lớn mạnh cả về kinh tế và quân sự thì chủ
yếu họ hướng hoạt động bảo vệ An ninh Quốc gia ra khỏi phạm vi
quốc gia của mình để tấn công tiêu diệt, xoá bỏ những nguy cơ hoặc
cái mà họ cho là đe doạ đến An ninh Quốc gia của họ. Thậm chí họ có
thể tìm mọi cách can thiệp vào nội bộ hoặc tiến hành xâm lược vũ
trang các nước khác vì các mục tiêu chính trị cụ thể.
ở Việt Nam, thuật ngữ An ninh Quốc gia bắt đầu xuất hiện từ
những năm 70 của thế kỷ XX trong các sách báo nghiệp vụ của ngành
Công an. Trong từ điển nghiệp vụ Công an 1977 có viết: “An ninh
Quốc gia là sự yên ổn về chính trị và trật tự xã hội trong phạm vi quản
lý một Nhà nước, để đảm bảo chống xâm lược và chống mọi hành vi
gây rối, phá hoại, lật đổ”.
Có quan niệm cho rằng An ninh Quốc gia không chỉ là sự ổn
định phát triển vững mạnh của chế độ, của Nhà nước, toàn vẹn lãnh thổ
mà bao gồm cả vấn đề an toàn xã hội, tài nguyên môi trường, an ninh
cá nhân, an ninh lương thực nói chung là tất cả những gì an ninh, an
toàn của một quốc gia và xã hội.
Ngược lại, cũng có quan niệm cho An ninh Quốc gia chỉ là an
ninh chính trị.
Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam, thuật ngữ An ninh
Quốc gia xuất hiện chính thức tại Điều 36 luật Tổ chức toà án nhân dân
21
ngày 13/7/1982. Tuy nhiên, trước khi luật An ninh Quốc gia ra đời,
khái niệm An ninh Quốc gia chưa được một văn bản pháp luật nào của
Nhà nước đề cập, làm rõ.
Cho đến kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam khoá XI, khi luật An ninh Quốc gia được chính thức thông qua
ngày 3/12/2004 thì định nghĩa pháp lý của khái niệm An ninh Quốc gia
mới được làm rõ tại điều 3: "An ninh Quốc gia là sự ổn định, phát triển
bền vững của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam,
sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh tổ
của tổ quốc”.
Như vậy, nội hàm của khái niệm An ninh Quốc gia bao gồm 2
nội dung:
Thứ nhất là: “Sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội
chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Thứ hai là: “Sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Nội dung thứ nhất ở đây đề cập không gì khác ngoài vấn đề thể
chế chính trị. Đó là hệ thống chính trị, là Nhà nước CHXHCN Việt
Nam, là đường lối chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh, ngoại giao và các thành quả cách mạng nói chung của
quốc gia,
dân tộc.
Nội dung thứ hai trong khái niệm An ninh Quốc gia là nhằm
nhấn mạnh, khẳng định độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nước CHXNCN Việt Nam không thể bị chia cắt, không thể bị xâm
lược. Mọi hoạt động xâm lược vũ trang, chia cắt đất nước, ly khai dân
22
tộc, sắc tộc, hay lập “chính quyền Nhà nước mới” đều là những hành
động xâm phạm đến An ninh Quốc gia.
Khoản 3 điều 3 luật An ninh Quốc gia đã đưa ra định nghĩa pháp
lý của khái niệm hoạt động xâm phạm An ninh Quốc gia: “Hoạt động
xâm phạm An ninh Quốc gia là những hành vi xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà
XHCN Việt
Nam” [25].
Trên cơ sở khái niệm An ninh Quốc gia và khái niệm xâm phạm
An ninh Quốc gia, khoản 2 điều 3 luật An ninh Quốc gia đưa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm Bảo vệ An ninh Quốc gia: “Bảo vệ An
ninh Quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm
thất bại các hoạt động xâm phạm An ninh Quốc gia” [25].
Mục đích của nhiệm vụ bảo vệ An ninh Quốc gia là làm thất bại
các hoạt động xâm phạm An ninh Quốc gia và để làm được điều đó
phải đồng thời thực hiện việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và
đấu tranh. Bốn nội dung này có mối quan hệ biện chứng với nhau
trong đó nội dung phòng ngừa các hoạt động xâm phạm An ninh Quốc
gia có vị trí đặc biệt quan trọng.
Nếu làm tốt công tác phòng ngừa sẽ làm thất bại mọi âm mưu
của địch, xoá bỏ cơ sở xã hội phát sinh các tội xâm phạm An ninh
Quốc gia. Để làm tốt công tác phòng ngừa phải đồng thời làm tốt
công tác phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động
xâm phạm An ninh
Quốc gia.
23
Cùng với quá trình đổi mới, chúng ta từng bước nhận thức sâu
sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ tổ
quốc XHCN, giữa kinh tế và quốc phòng an ninh, phải có cách nhìn
toàn diện hơn đối với khái niệm An ninh Quốc gia. An ninh Quốc gia
không chỉ là an ninh chính trị mà còn là an ninh văn hoá, an ninh tư
tưởng, an ninh xã hội
Do đó, để An ninh Quốc gia được giữ vững, trước hoàn cảnh
mới, nhiệm vụ đặt ra trước hết là phải đảm bảo các yếu tố cơ bản, cốt
lõi của An ninh Quốc gia, đồng thời phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,
đấu tranh làm thất bại những nguy cơ đối với An ninh Quốc gia, phá
hoại An ninh Quốc gia. Vì vậy, bảo vệ an ninh quốc gia có nhiều nội
dung khác nhau.
Thứ nhất: Bảo vệ An ninh Quốc gia là bảo vệ chế độ chính trị
và nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.
Bảo vệ An ninh Quốc gia trước hết là bảo vệ đường lối cách
mạng đi lên CNXH, bảo vệ hệ thống chính trị XHCN, bảo vệ Đảng
Cộng sản Việt Nam. Bảo vệ An ninh Quốc gia hướng vào mục tiêu
chung là bảo vệ Tổ quốc XHCN trên cả các phương diện từ chủ quyền
lãnh thổ chính trị, văn hoá, xã hội. Vì thế, Đảng ta đã xác định:
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ An ninh Quốc
gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới
và lợi ích quốc gia, dân tộc [17, tr.117].
Bảo vệ Nhà nước XHCN là bảo vệ tổ chức bộ máy, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
24
Đảm bảo cho chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng
đắn.
Bảo vệ độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc là bảo vệ đất đai, vùng trời, vùng biển, các tài nguyên thiên
nhiên của đất nước, đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hoá, đối nội, đối ngoại nói chung được thực hiện một cách độc lập, tự
chủ không bị tác động chi phối, can thiệp từ bên ngoài. Đó còn là
nhiệm vụ bảo vệ sự thống nhất một chế độ chính trị, một chế độ kinh
tế, một hệ thống pháp luật, một hệ thống quản lý Nhà nước trên cả
nước, từ Trung ương đến địa phương. Đảm bảo chủ quyền đất nước
không bị chia cắt, xâm lược
Nhiệm vụ này càng trở nên trọng yếu khi hiện nay các thế lực
phản động trong và ngoài nước đang ra sức cấu kết, thúc đẩy hoạt động
phá hoại chính trị – tư tưởng gây chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc với
âm mưu “quốc tế hoá vấn đề dân tộc thiểu số”, “tin lành hoá các dân
tộc thiểu số”, “thành lập quốc gia tự trị” như kiểu “nhà nước Đề Ga”,
“Khơme Krôn” hòng chia cắt lãnh thổ của nước ta.
Thứ hai: Bảo vệ An ninh Quốc gia là bảo vệ an ninh về tư tưởng
và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá là bảo vệ nền tảng tư
tưởng của chế độ, là bảo vệ sự ổn định và phát triển của tư tưởng và
văn hoá XHCN trên nền tảng tư tưởng Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá yêu
nước của dân tộc, đồng thời phải biết thẩm định, chắt lọc, bảo tồn vận
dụng và không ngừng bổ sung cái mới, làm phong phú thêm những
giá trị đã có cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới, góp phần tạo
25
những động lực tinh thần mới, nhân lên sức mạnh khối đại đoàn kết,
góp phần thắng lợi sự nghiệp bảo vệ An ninh Quốc gia. Nhiệm vụ này
còn đòi hỏi phải chủ động phòng ngừa và tích cực đấu tranh loại bỏ
những sản phẩm lỗi thời, xấu độc, phản văn hoá xâm nhập vào đời
sống tinh thần của xã hội, nhằm phá hoại tư tưởng, chiến tranh tâm lý.
Cùng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hoá, việc bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn cuộc sống ổn định
tiến bộ và phát triển của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam cũng
là một nhiệm vụ cơ bản.
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy mạnh mẽ sẽ
tạo cho đất nước thế ổn định về chính trị, dân chủ rộng rãi, an ninh
quốc phòng đảm bảo.
Bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
theo đúng luật pháp quy định, phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp
luật đối với những hành động xâm hại tới lợi ích hợp pháp của các cơ
quan, tổ chức cá nhân đó cũng là những nhiệm vụ cơ bản của bảo vệ an
ninh quốc gia.
Thứ ba: Bảo vệ An ninh Quốc gia là: bảo vệ an ninh trong các
lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc
gia.
Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế là bảo vệ chủ chương,
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, bảo vệ cơ sở vật chất của
nền kinh tế Thực chất là bảo vệ đường lối, chủ trương phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường công
tác nắm tình hình, chủ động phát hiện âm mưu, hoạt động phá hoại của
các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế cũng như những sơ hở thiếu
sót trong quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Kiên quyết đảm bảo