Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.86 KB, 84 trang )











LUẬN VĂN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và
phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam







Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
Suốt cả cuộc đời, Người phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho
nhân dân. Cùng với sự nghiệp của Đảng ta, dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu
thế một tài sản tinh thần vô giá. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng kinh tế là
mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
và những quy luật kinh tế khách quan vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những
tư tưởng đó đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng


thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và kiến
quốc thành công.
Ngày nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, nhưng
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nói riêng vẫn có ý
nghĩa lớn lao.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi
mới, tạo cho nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng cũng gặp
không ít khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của
Đảng (1994) đã xác định, trong đó có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, ngày càng biểu
hiện rõ nét. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh nhằm rút ra những bài học và vận dụng những tư tưởng đó phù hợp với bối cảnh
mới để góp phần đắc lực vào việc phát triển nền kinh tế nói chung, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thành công nói riêng.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về kinh tế, đánh giá quá trình vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong
thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tác giả chọn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và
phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là một đề tài rộng và còn khá mới mẻ. Mặc dù
vậy, đã có một số đề tài và sách chuyên khảo nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh
dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Đề tài khoa học:
- Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX02 (1991 - 1996), trong một số đề tài
nhánh KX02 - 05 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
và KX 02 - 13 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân” có đề
cập đến một số nội dung của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
- Cấp bộ năm 2001: “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh” do Tiến sĩ Phạm Ngọc Anh
làm chủ nhiệm đề tài, Viện Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì.

* Sách chuyên khảo:
- Kinh điển: + Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thông tin lý luận,
Hà Nội, 1990.
+ Hồ Chí Minh về kinh tế (trích tác phẩm kinh điển). Tài liệu tham
khảo chuyên ngành-Viện Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- Sách tham khảo:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
+ TS. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân
ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.
+ TS. Nguyễn Thế Hinh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý kinh tế,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
+ PGS.TS Nguyễn Hữu Oánh: Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
dựng kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
+ TS. Phạm Ngọc Anh (chủ biên): Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.

+ GS.Song Thành: Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2005.
- Tạp chí: Mấy suy nghĩ về phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh của tác giả Đỗ Thế Tùng,Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, năm 2002.
+ Mục đích của đường lối phát triển kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả
Nguyễn Thế Hinh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 2, năm 2003.
+ Suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý kinh tế, Tạp chí Tài chính, số 8,
năm 2003.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của tác giả
Trần Văn Phòng,Tạp chí Khoa học chính trị, số 6, năm 2002.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại, thu hút ngoại lực và phát huy nội lực
của tác giả Nguyễn Huy Oánh, Tạp chí Cộng sản số 19, năm 2003.

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị
của tác giả Vũ Đức Khiển, Tạp chí Khoa học xã hội số 2, năm 2003
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới của tác giả Lý Hoàng Mai đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 324, tháng 1 năm 2005.
+ Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động kinh tế đối
ngoại của tác giả Đặng Ngọc Lợi, Tạp chí Cộng sản, số 7, năm 2004.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết của các tác giả, của các nhà nghiên cứu về tư
tưởng kinh tế Hồ Chí Minh đăng trên các báo và tạp chí khác.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu tiêu biểu vừa nêu
mới chỉ dừng lại ở mức khai thác và hệ thống hóa tư liệu, các bài nói, bài viết của Hồ
Chí Minh về xây dựng và quản lý kinh tế; khai thác tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh ở
những khía cạnh khác nhau gắn với nghiên cứu tổng thể hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chiều sâu để rút ra các nguyên lý
mang tính phổ quát, đề cập đến sự vận động của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh qua các
thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
kết quả các công trình đã được công bố, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm

tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và vận dụng vào thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở nước
ta, nhất là ở giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích:
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, đánh giá thực trạng nền kinh tế đất nước hiện nay,
từ đó đưa ra một số phương hướng cần quán triệt trong quá trình vận dụng tư tưởng kinh tế
Hồ Chí Minh nhằm phát triển nền kinh tế nước nhà đạt hiệu quả cao, bền vững theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ làm rõ:
+ Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế
trong thời kỳ quá độ.

+ Đánh giá sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong quá trình
đổi mới.
+ Đề xuất phương hướng vận dụng quan điểm và cách làm kinh tế của Hồ Chí
Minh để đạt được hiệu quả cao hơn trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là vấn đề rộng. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi
chỉ nghiên cứu một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam và khảo sát sự quán triệt, vận dụng, phát
triển tư tưởng đó giai đoạn từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của
Đảng cộng sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu. Đồng thời,
trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng có sử dụng số liệu, nhận xét, đánh giá của
một số công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.

* Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử
dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với lôgíc, so sánh,
phân tích, tổng hợp, thống kê và phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sâu hơn và rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
triển kinh tế.
- Dựa vào phương pháp luận Hồ Chí Minh đánh giá thực trạng xây dựng và phát
triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, nhất là những năm đối mới.
- Đưa ra những phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và
phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy,
học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Cung cấp những luận chứng có cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng, Nhà nước
khi vận dụng, phát triển tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng và phát triển kinh tế đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội


1.1. Quan điểm tổng quát của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội

Một trong những phát kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác là xác lập quan niệm duy
vật về lịch sử. Theo đó, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch
sử tự nhiên. Cho đến nay, loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội:
Công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của
nó, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất
lịch sử và xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới cao hơn nó - xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Để xây dựng xã hội mới, tất yếu phải trải qua một thời kỳ lịch sử mà các nhà
kinh điển gọi là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Trong tác
phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô - ta” (1875), C.Mác chỉ rõ: “ Giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của
thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô

sản” [36, tr.47].
Trong lý thuyết về hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ăngghen, đã đặt vấn đề phân kỳ quá trình phát triển của nó với những dấu hiệu đặc
trưng tổng quát nhất. Theo các nhà kinh điển Mác-Lênin, xã hội cộng sản chủ nghĩa bao
gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn thấp và giai đoạn cao. (Sau này Lênin gọi giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản).
Đồng thời C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đưa ra dự báo về những đặc trưng cơ bản
của xã hội mới là: Có lực lượng sản xuất phát triển cao; chế độ sở hữu xã hội về tư liệu
sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn
nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch
thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa
thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay bị xóa bỏ
Nói về giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản (tức chủ nghĩa xã hội), C.Mác đã
chỉ ra rằng: Đó là một xã hội mà về phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang
dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt lòng ra. Chính vì thế mà giai đoạn này còn có những

thiếu sót, “nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những
cơn đau đẻ kéo dài” [36, tr.47]. Bên cạnh việc đề cập đến loại hình quá độ trực tiếp từ
chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến tận cùng lên chủ nghĩa cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã dự báo về khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản ở những nước lạc
hậu khi cách mạng vô sản ở các nước Tây Âu giành được thắng lợi.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã phát
triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cụ thể, có các nội dung đáng chú ý:
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào
đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả những nước có nền kinh tế phát triển.
Đây là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành
xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ được bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành
được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công
cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc

thượng tầng.
Tuy nhiên, đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn so với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế lạc hậu.
- Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần. Theo V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ tồn tại đan xen các loại hình sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, cần phải có quan niệm và chính sách phát triển kinh tế đúng
để phát huy vai trò của chúng. Bởi vì:
Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản là là
tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình
trạng phân tán của những tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện
để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong
một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự
nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; Bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ
nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà

nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm
phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản
xuất lên [32, tr.276].
Trong hoàn cảnh nước Nga thời ấy, Lênin xác định năm thành phần kinh tế là:
+ Kinh tế nông dân kiểu ra trưởng, nghĩa là phần lớn có tính chất tự nhiên.
+ Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì).
+ Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
+ Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
+ Chủ nghĩa xã hội.
- Khi phân tích đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền, phát hiện
ra quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, Lênin rút ra kết luận quan
trọng về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước hoặc ở một nước riêng
lẻ. Khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào một thời
đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, trong điều kiện

đó, các nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Lênin cũng đưa ra những điều kiện để một nước có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là:
+ Điều kiện bên trong: Có Đảng cộng sản lãnh đạo và xây dựng chính quyền nhà
nước công - nông - trí thức.
+ Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến đã
giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.
Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với
“một loạt những bước quá độ” [33, tr.189].
Những bước qua độ ấy, theo Lênin, là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã
hội. Lênin nói: “Để chuẩn bị - bằng một công tác lâu dài hàng bao nhiêu năm - việc
chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như
chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội” [32, tr.445].

Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản được thể hiện trong “
Chính sách kinh tế mới” mà việc trao đổi hàng hóa được coi là “ đòn xeo chủ yếu”, cho
nên cần thiết phải có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ với chủ nghĩa tư bản nhằm phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng bước thực hiện xã hội hóa sản xuất trong thực
tế
- Luận điểm về mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo
nguyên tắc “ai thắng ai”: Khi bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Lênin đã chỉ
ra thực chất của thời kỳ quá độ là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên là chủ
nghĩa xã hội mới ra đời còn non trẻ với một bên là các thế lực tư bản chủ nghĩa và tự
phát tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh này diễn ra theo nguyên tắc “ ai thắng ai”, nghĩa
là chủ nghĩa xã hội có thể thành công mà cũng có thể thất bại. Mặc dù Lênin đã nêu ra
những khả năng thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội, song, để giành thằng lợi hoàn
toàn và triệt để, theo Lênin, chủ nghĩa xã hội phải tạo ra được cho mình một năng suất
lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.1.2.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất
yếu lịch sử. Bởi vì, kể từ sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, thế giới đã bước
vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đi theo dòng chảy
của thời đại cũng là theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử. Hơn thế nữa, chúng ta
không thể lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, bởi vì kinh nghiệm lịch sử 80
năm sống dưới ách kìm kẹp, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, nhân dân ta không lạ gì bản
chất của chế độ đó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản hiện đại đã và đang có những điều chỉnh
để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển, song chủ nghĩa tư bản không bao giờ đặt ra mục
tiêu giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu, cùng tiến tới giàu có, mà
chủ nghĩa tư bản chỉ có một mục tiêu duy nhất là lợi nhuận tối đa cho các nhà tư bản mà
thôi.

Song, sự biến đổi từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác
đòi hỏi phải tuân theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Và giữa phương thức sản xuất bị thay thế với
phương thức sản xuất mới bao giờ cũng phải trải qua một thời kỳ quá độ mà như Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Mỗi chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu
tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái
thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới,
cái đang tiến bộ nhất định sẽ thắng” [46, tr.20].
Vận dụng sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ đặc điểm của tình hình thực tiễn Việt
Nam, một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là
phổ biến, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là: “Chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [40,
tr.1]. Tức là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân chủ
nhân dân và bước ngay vào thời kỳ quá độ để xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa. Xét về thực chất, đó là con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh: “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi
cả tự nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, mọi người đều được ấm no
và hạnh phúc” [46, tr.447] và Người cũng chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc biến đổi khó khăn nhất, sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn
toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta” [46, tr,588]. Hơn thế nữa,
chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là
chủ yếu, Hồ Chí Minh nhận rõ “ Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải
có kỹ nghệ nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình.
ở nước chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ” [41, tr.72]. Vì vậy, muốn có chủ nghĩa
xã hội phải có một thời kỳ quá độ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, công nghệ, xây
dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xây dựng cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, xây dựng cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân.

1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế xuất phát của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ

Nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở đã cơ bản hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đã được xây dựng và phát
triển. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước
ta có những đặc điểm sau:
- Về kinh tế: Tính chất lạc hậu của nền kinh tế quốc dân không chỉ ở trình độ lực
lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, mà ở quy mô tổ chức, cách thức quản lý sản
xuất, cơ cấu ngành kinh tế … Sau khi rút đi, đế quốc Pháp để lại cho ta một nền kinh tế
nghèo nàn. Trong nông nghiệp thì sản xuất nhỏ chiếm đại bộ phận, đất đai phân tán,
manh mún, một bộ phận người dân không có ruộng đất để cày cấy, sản xuất tự cung tự
cấp, kỹ thuật vô cùng lạc hậu, năng suất thấp. Công nghiệp thì nhỏ bé, rời rạc, phân bố
không đồng đều giữa các ngành. Hơn thế nữa, công nghiệp và nông nghiệp lại bị tàn phá
nặng nề trong nhiều năm chiến tranh.
Vì vậy, ở nước ta, về cơ cấu xã hội - giai cấp đại bộ phận là nông dân, tiểu tư
sản, người buôn bán nhỏ, còn giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng, đóng
vai trò quan trọng trong tiến trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chiếm tỷ lệ

rất nhỏ.
- Về đời sống văn hóa, tuyệt đại đa số nhân dân ta mù chữ (chiếm trên 90% dân
số); ý thức hệ phong kiến, tư tưởng thực dân còn ăn sâu bám rễ trong quan điểm của
nhiều người, phong tục tập quán lạc hậu còn chi phối suy nghĩ, đời sống văn hóa tinh
thần của bộ phận không nhỏ dân cư.
Từ cơ sở kinh tế - xã hội, từ đời sống văn hóa tinh thần lạc hậu đã làm xuất hiện
trong xã hội ta một hệ thống mâu thuẫn đan cài, phức tạp, vừa mang tính đối kháng, vừa
mang tính không đối kháng. Mâu thuẫn chủ yếu, mang tính đối kháng ở nước ta không
phải là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, mà chủ yếu là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam đối với đế quốc và bọn tay sai phản động. Đối với một nước
nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa thì mâu thuẫn cơ bản lại chính là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát

triển của đất nước theo xu hướng tiến bộ (chủ nghĩa xã hội) với thực trạng kinh tế - xã
hội thấp kém (tiền tư bản chủ nghĩa). Trong nhiều tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh
diễn đạt đó là “ mâu thuẫn giữa hai con đường”: con đường xã hội chủ nghĩa và con
đường tự phát tư bản chủ nghĩa. Tất cả tính chất phức tạp khó khăn trong việc giải quyết
mâu thuẫn cơ bản này là ở chỗ các mặt đối kháng và không đối kháng xâm nhập vào
nhau, do đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể dùng bạo lực
mà chủ yếu là thuyết phục, giáo dục, vận động, tổ chức.
Xuất phát từ đặc điểm lớn này, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ chức năng kinh tế -
xã hội của thời kỳ quá độ là phải tạo tiền đề kinh tế cho sự phát triển của xã hội mới.
Muốn vậy, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên
tiến, [47, tr.13]. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, được thực hiện
thông qua quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Hơn thế nữa, theo Hồ Chí Minh, xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam, phải tiến hành đồng thời, song song hai việc là cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng
nền kinh tế mới, trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài. Người viết: “ Trong

quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng
nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Và Người cũng chỉ rõ:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta phải tiến hành đồng thời việc cải tạo
và xây dựng mới trên tất cả các mặt: Chính trị và kinh tế, văn hóa và xã hội, kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
1.1.2.3. Tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm kinh tế có giá trị to lớn về
mặt lý luận và phương pháp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng nền kinh xã hội chủ nghĩa ở
một nước nông nghiệp lạc hậu, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường cải
tạo và xây dựng nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội. Người đã khẳng định: Sau
khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta nhất định tiến lên chủ

nghĩa xã hội “Bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội,
biến nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến”, [46, tr.588]. Đây là con
đường phát triển phù hợp với xu thế thời đại. Nếu hiểu thời kỳ quá độ được đánh dấu từ
khi Đảng của giai cấp công nhân giành được chính quyền, xây dựng và cải tạo đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa thì thời kỳ quá độ ở Việt Nam được bắt đầu từ năm
1945. Song, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, từ tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp trở lại
xâm lược Việt Nam, chúng ta phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9
năm (1945 - 1954). Bởi thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế
trong thời kỳ quá độ được hình thành chủ yếu từ khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1954). Tuy nhiên, nhiều ý kiến chỉ đạo về kinh tế của Người trong
thời kỳ kháng chiến 1946 - 1954, xét về tính chất cũng rất phù hợp với thời kỳ quá độ.
Vì vậy, “ Chế độ dân chủ nhân dân cũng có thể xem là một giai đoạn quá độ trong thời
kỳ quá độ” [65, tr.348].
Từ khi hòa bình lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội, như Hồ Chí Minh đã nói:
Chúng ta đã đã đánh thắng thực dân phong kiến. Hiện nay chúng ta

đang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, một cuộc cách mạng tuy trường kỳ
gian khổ, song chúng ta nhất định thắng lợi, chỉ phải đổ mồ hôi mà không đổ
máu, một cuộc cách mạng nhằm đánh thắng lạc hậu bần cùng để xây dựng
hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, con cháu ta [47, tr.292].
Do vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là quá trình dần dần, khó khăn, lâu dài, phức tạp và gian khổ. Trong lời chúc
mừng năm mới 1958, sau khi miền Bắc đã hoàn thành việc khôi phục đất nước, bước
vào giai đoạn thực hiện kế hoạch phát triển đất nước và chuẩn bị cho những kế hoạch
dài hạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người viết: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc
đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài” [46, tr.2].
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bởi các lý do sau đây:

Một là, vì tính chất to lớn, vĩ đại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi
cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta,
nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân ta. Đây là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ
vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go,
phức tạp và khó khăn nhất. Mỗi chúng ta phải chuẩn bị tư tưởng và nghị lực để vượt qua
thử thách và hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng này.
Hai là, vì điểm xuất phát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Người viết: “ Đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa” [47, tr.13]. Hơn thế nữa:
Đế quốc Pháp để lại cho ta một nền kinh tế rất nghèo nàn., trong nông
nghiệp thì sản xuất nhỏ chiếm đại bộ phận, kỹ thuật vô cùng lạc hậu. Công
nghiệp thì rất nhỏ bé và lẻ tẻ. Nông nghiệp và công nghiệp lại bị tàn phá nặng
nề trong 15 năm chiến tranh. Đã vậy khi phải rút khỏi miền Bắc, thực dân
Pháp lại ra sức phá hoại kinh tế [47, tr.40].
Do đó, với điểm xuất phát thấp, chúng ta phấn đấu đi lên chủ nghĩa xã hội thì quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ khó khăn, phức tạp, lâu dài.

Ba là, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc chưa có trong lịch sử
nước ta, do đó nhân dân ta chưa có kinh nghiệm trong công tác xây dựng và tổ chức
quản lý. Vì vậy, trong quá trình phát triển, chúng ta phải vừa làm vừa học.
Bốn là, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn luôn bị các thế lực thù địch
chống phá. Những lực lượng ấy, một mặt là chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc luôn tìm
cách phá hoại, mặt khác đó còn là những thói quen truyền thống lạc hậu, những tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa tiểu tư sản. Hồ Chí Minh đã nói rất rõ điều này:
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ
cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống phá lại cách mạng.
Kẻ địch gồm 3 loại: Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất
nguy hiểm.

Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn
trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó; mà phải cải tạo nó một
cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài.
Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong
mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi để góc
đầu dậy. Nó là bạn của hai kẻ địch kia [46, tr.287].
1.2. Nội dung xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
1.2.1. Về mục tiêu phát triển kinh tế ở nước ta
Bản chất kinh tế đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở mục tiêu của nó.
Hồ Chí Minh nhiều lần nói rằng mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội là để không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân. Với Người, mục tiêu hàng đầu và điều quan trọng nhất
của phát triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Toàn bộ quan tâm của Người là lo làm sao cho dân đủ ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chữa
bệnh, giải trí sao cho mỗi người dân lao động đều được ấm no, hạnh phúc. Đó là mục
tiêu đồng thời cùng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị của mỗi chính sách, biện
pháp kinh tế.
Ngay sau khi giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Người

đã phát biểu:
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì
tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành [41, tr.152].
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, khi mà nhiệm vụ phát triển
kinh tế trở thành vấn đề trọng tâm của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước ta thì Hồ Chí Minh càng nhấn mạnh: “ Phải luôn nhớ rằng: Điều quan trọng nhất
trong kế hoạch của chúng ta hôm nay là nhằm cải thiện đời sống của nhân dân” [45,
tr.157].
Xây dựng và phát triển kinh tế cũng là vì cuộc sống của nhân dân lao động nói
riêng, cũng là để giải phóng con người và xã hội nói chung. Cho nên tại Hội nghị sản
xuất cứu đói tháng 6/1955, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và chính
phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, đảng và chính
phủ có lỗi. Nếu dân đói, rét, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực
hiện được” [44, tr.572]. Cho nên cuối đời, trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh còn
căn dặn: “ Đảng ta cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [49, tr.498].
Làm cho dân giàu, nước mạnh, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không
ngừng được nâng cao là quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi, theo
Người, chủ nghĩa xã hội là “làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới
mạnh”. Vì vậy, phải phát triển kinh tế nhằm “ làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ
ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” [42, tr.65]. Do quy luật phát triển không
đều nên xã hội có bộ phận giàu lên trước, có bộ phận giàu sau, nhưng việc nâng cao dần
đời sống của dân phải là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, mục đích vì cuộc sống của nhân dân lao động, phấn đấu để thỏa mãn

nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của nhân dân lao động trong đường lối
phát triển kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ mục đích của chủ nghĩa xã hội
là: “ làm sao cho nhân dân được đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi
học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ Tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” [47, tr.591].
Để đạt được mục tiêu trên, Hồ Chí Minh đã đề ra một loạt biện pháp thực hiện.
Có biện pháp trực tiếp và gián tiếp, có biện pháp chung và cụ thể, có biện pháp thuộc
các lĩnh vực kinh tế khác nhau, có biện pháp hiện đại, có biện pháp truyền thống. Chính
sự phong phú đó cho ta thấy sự tìm tòi, tận dụng mọi cơ hội để hướng tới mục tiêu, để
hiện thực hóa mục tiêu. Cụ thể:

Một là, Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
kinh tế là cơ sở, là nền tảng để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, để
phát triển văn hóa, xã hội, để xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo
Hồ Chí Minh, phải huy động sức lực của toàn dân, của mọi cấp, mọi ngành thi đua đẩy
mạnh sản xuất. Người chỉ rõ:
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân,
nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta hôm nay là phát triển sản xuất. Tất cả
mọi người công - nông - trí thức và tất cả cán bộ, viên chức mọi cấp, mọi
ngành đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển [47, tr.336-337].
Một trong những vấn đề mà chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong những
ngày đầu nước ta mới giành được độc lập là vận động nhân dân tăng gia sản xuất để đẩy
lùi nạn đói và ổn định đời sống cho nhân dân. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ, ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đã quyết định phát động một chiến dịch
tăng gia sản xuất và cứu đói. Và sau đó Người đã viết thư “ Gửi nông gia Việt Nam”,
kêu gọi nông dân “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa !
Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền
tự do, độc lập” [41, tr.115]. Thực hiện cuộc vận động lớn đó, nhân dân cả nước đã đoàn
kết tích cực thi đua sản xuất, nhờ đó, mà nạn đói bị đẩy lùi, đời sống nhân dân được
nâng lên một bước.

Đồng thời, để nâng cao đời sống phải nâng cao năng suất lao động, giữ gìn máy
móc, bảo vệ xí nghiệp, thi hành đúng kỷ cương kỷ luật, đẩy mạnh tập thể hóa, đồng thời
phải phân phối công bằng, hợp lý và thực hành tiết kiệm. Trong đó tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội. “ Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến
thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân” [45, tr.349].
Người đã chỉ rõ: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là xem đồng tiền
to bằng cái nống” [43, tr.485]; “ Khi không nên tiêu sài thì một xu cũng không nên tiêu.
Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công,

tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không
tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm” [42, tr.637].
Tiết kiệm với mục đích là giúp sản xuất phát triển, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, để phục vụ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã
đề ra nội dung cụ thể của tiết kiệm: “Phải tiết kiệm sức lao động, thì giờ, phải tiết kiệm
tiền của để tăng gia. Tiết kiệm giúp cho tăng gia, tăng gia giúp cho tiết kiệm, để đi đến
kết quả tốt” [43, tr.393-394].
Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ tác động qua lại giữa sản xuất, tiết kiệm và đời
sống. Người viết: “Sản xuất và tiết tiệm cũng như dòng nước, cải thiện đời sống cũng
như chiếc thuyền, nước càng sâu thì thuyền càng cao. Muốn cải thiện không ngừng thì
phải không ngừng tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm”[47, tr.660]
Thực tế cho thấy, trong điều kiện nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta không cách nào khác là, một mặt, phải huy động sức lực của mọi người, mọi
ngành để thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm trong cả sản xuất
và cả tiêu dùng để tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế đủ điều kiện thực hiện tái sản xuất
mở rộng xã hội chủ nghĩa, để xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Muốn thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng tăng, phải do
nhân dân lao động tự làm lấy là chính. Bởi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Nguyên lý đó của chủ nghĩa Mác - Lênin không những được Hồ Chí Minh vận dụng một
cách thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn cả trong công cuộc xây dựng và

phát triển nền kinh tế nước nhà. Hồ Chí Minh luôn ý thức rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể
xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lãnh đạo sáng tạo của hàng triệu người dân.

Sự nghiệp xây dựng cơ sở kinh tế cho chế độ mới rất khó khăn, gian khổ, đòi hỏi
nguồn nhân lực, vật lực, tài lực to lớn. Muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp trọng đại đó,
cần phải đưa tiền của dân và sức của dân để làm việc ích lợi cho dân thì bao giờ dân
cũng hăng hái, việc cũng thành công. Việc gì to lớn tốn kém mấy, nếu dân đồng sức
đồng lòng thì làm cũng được.

Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng xác định rất rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước
trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người viết: “ Cải thiện
đời sống cho nhân dân cũng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là chính. Tất cả những
việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà
không nhằm mục đích ấy là không đúng” [45, tr.15]. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh cụ
thể hơn:
Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân
không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các cháu bé không có trường học,
Đảng phải lo. Tôi lo chuyện này lắm: các cháu mắt choét, da bủng. Tất cả
mọi việc, Đảng phải lo. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản,
đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng phải lo. Ngay đến cả tương, cà,
mắm, muối của dân, Đảng phải lo [47, tr.463-464].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ, cán bộ và đảng viên có trách
nhiệm giáo dục, lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, ổn
định và cải thiện cuộc sống.
Ba là, Phải xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế đúng đắn. Để phát triển nền kinh
tế cân đối, thì kế hoạch là vấn đề cần thiết cho mọi nền kinh tế. Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm chỉ đạo xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước, kể cả kế hoạch
ngắn hạn và dài hạn. Người coi đây là biện pháp hàng đầu, mang tính phổ quát để phát
triển nền kinh tế nước ta. Nếu không xây dựng được một kế hoạch kinh tế đúng đắn,
phù hợp làm định hướng thì chúng ta không thể phát triển kinh tế được. Hồ Chí Minh

yêu cầu kế hoạch không những được đề ra ở những cơ quan, Nhà nước mà còn ở hộ gia
đình, không những ở Trung ương mà còn cả ở địa phương. Vì vậy, trong bài nói chuyện
nhân dịp tết Nhâm Thìn, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ tăng gia sản xuất phải có kế hoạch thiết
thực, từ Chính phủ Trung ương đến mỗi gia đình đều phải có kế hoạch”[ 43, tr.393].
Trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở những người làm công tác xây dựng kế hoạch phải thiết thực, phù hợp với khả năng
thực tế đất nước, địa phương, nhà máy. Hồ Chí Minh cũng phê phán việc cán bộ đóng
cửa mà viết kế hoạch, rồi cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng nghe theo. Theo Hồ Chí

Minh: “ Đặt kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Kế
hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao 30 phần. Có
như thế mới chắc chắn hoàn thành kế hoạch” [43, tr.434]. Trong quá trình xây dựng kế
hoạch, Hồ Chí Minh đưa ra yêu cầu, kế hoạch phải có phần nhìn xa, thấy rộng nhưng khi đi
vào thực hiện thì mỗi ngành, mỗi nghề phải rất tỉ mỉ, chu đáo và thật sát với mỗi cơ sở. Hồ
Chí Minh coi đây là “bộ ba” để hoàn thành kế hoạch.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị công nghiệp toàn miền Bắc ngày 26/1/1961,
Người chỉ rõ: “ Có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ mà phải có biện pháp cụ thể, vững
chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ
tiêu kế hoạch một phần, biện pháp hai phần, cố gắng phải ba phần” [47, tr.261].
Muốn có được một kế hoạch thiết thực, phù hợp phải dựa trên nguyên tắc tập
trung dân chủ, đặc biệt là những góp ý đông đảo của quần chúng nhân dân, phản ánh
những tâm tư, nguyện vọng của dân chúng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Kế hoạch sản xuất và
tiết kiệm là một kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên” [43,
tr.434] hay “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn
trong mọi công việc, ngay từ khi lập kế hoạch và suốt cả thời gian thực hiện, phải mạnh dạn
phát động quần chúng, làm cho mọi người thấm nhuần tinh thần làm chủ tập thể” [49,
tr.249].
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về xác lập vai trò làm chủ của nhân dân
lao động
1.2.2.1. Vai trò của con người trong quá trình sản xuất của cải vật chất

Sản xuất của cải vật chất là quá trình tác động giữa con người với tự nhiên, trong
đó con người biến đổi những vật thể tự nhiên để tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu
cầu của mình.
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là hoạt động cơ bản
nhất của xã hội loài người, là điều kiện tiên quyết, tất yếu và vĩnh viễn đối với sự sống
còn, sự phát triển của mọi chế độ xã hội.

Nhờ có quá trình lao động, còn người biến đổi giới tự nhiên, phát hiện ra các quy
luật của tự nhiên, xã hội, hoàn thiện các công cụ lao động và hoàn thiện luôn cả bản
thân mình. Ph.Ăngghen đã viết: “Lao động là vấn đề cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói:
lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [6, tr.251-252].
Để tiến hành lao động sản xuất, con người phải giải quyết hai mối quan hệ tác
động lẫn nhau, đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất bao gồm hai mặt là
mặt tự nhiên biểu hiện ở lực lượng sản xuất và mặt xã hội biểu hiện ở quan hệ sản xuất.
Với tính cách là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, con người với những năng lực,
kinh nghiệm nhất định đã sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để
tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình đó con người giữ vai trò quyết định, là nhân tố
hàng đầu của lực lượng sản xuất. Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động” [30, tr.430].
Để tiến hành sản xuất, con người không những phải quan hệ với tự nhiên mà còn
phải quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ
cũng mang tính xã hội. C.Mác viết: “ Người ta chỉ sản xuất được bằng cách hợp tác với
nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có
mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có trong phạm vi những mối quan hệ và
quan hệ đó mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất” [35, tr.4].
Đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của con
người trong quá trình sản xuất của cải vật chất, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá
trình lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta luôn đề cao vai trò của con

người, coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định sự phát triển của sản
xuất nhằm mục đích tất cả vì con người, tất cả cho con người và tất cả cũng do con
người. Hồ Chí Minh viết:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ

trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [42, tr.698].
Vì vậy, Người chỉ rõ: “Vô luận việc gì, đều do con người làm ra, từ nhỏ đến
to, từ gần đến xa đều thế cả” [42, tr.241] hay “lực lượng quần chúng nhiều vô cùng
… dân chúng biết giải quyết vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [42, tr.295]. Từ đó
Người đi đến khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác
ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người” [45, tr.494].
1.2.2.2. Phát huy động lực và khắc phục những lực cản
Để hoàn thành được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là
phải nhận thức, vận dụng phát huy tất cả các động lực của chủ nghĩa xã hội thông qua
con người với tư cách là cộng đồng và cá nhân.
Trước hết, đó là những động lực về nhu cầu và lợi ích. Là nhà duy vật Mác - xít,
Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích.
Người thường nói: “ Tục ngữ có câu: Dân dĩ thực vi thiên, lại có câu: Có thực mới vực
được đạo; nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được gì cả” [44, tr.572]; hay “Bởi vì dân
lấy ăn làm gốc, có thực mới vực được đạo. Nếu bụng đói thì các cô các chú nói gì hay mấy
cũng không ai
nghe” [45, tr.411]. Do vậy, theo Người phải biết kích thích đến lợi ích cá
nhân chính đáng của người lao động, coi trọng lợi ích cá nhân, tìm tòi cơ chế chính
sách để kết hợp hài hòa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân như khoán, thưởng, phạt
trong kinh tế. Hồ Chí Minh thấy rất rõ, lợi ích cá nhân là “ phải thực hiện ba khoán
một thưởng. Nếu ai thực hiện vượt mức quy định thì được thưởng. Có như thế mới

kích thích mọi người cố gắng hơn nữa. Thưởng, phạt phải công bằng” [47, tr.411]. Trái
lại, “nếu làm xấu, làm hỏng, có khi lại bồi thường lại cho nhà nước. Chính phủ không phát
lương cho những người ăn không” [45, tr.338].

Coi trọng vai trò động lực của các đòn bẩy kinh tế, nhưng Hồ Chí Minh cũng
thấy đó không phải là phương thức bách bệnh có thể giải quyết được tất cả mà Người
còn đánh giá cao vai trò các động lực chính trị-tinh thần của nhân dân ta, như:
+ Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động. Hồ Chí Minh
nhắc nhở: Các hợp tác xã phải làm cho người nông dân xã viên thấy “mình là người chủ
tập thể của hợp tác xã, có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của hợp tác xã.
Có như thế thì xã viên sẽ đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và hợp tác xã sẽ tiến bộ
không ngừng” [49, tr.195]. Muốn vậy, người cán bộ phải thực hành dân chủ mà theo Hồ
Chí Minh “Dân chủ là thứ của quý báu nhất của nhân dân” [45, tr.279], là chìa khóa vạn
năng để giải quyết mọi khó khăn. Nó trực tiếp đáp ứng nhu cầu vật chất của từng chủ
thể, nó là một trong những động lực quan trọng, chủ yếu thúc đẩy con người hoạt động.
Nếu lợi ích cá nhân không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu. Khi lợi ích cá nhân
được đảm bảo sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ nhất kích thích họ phát huy sáng kiến, cải tiến
khoa học - kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Đồng thời, khi lợi
ích cá nhân được đáp ứng, nó sẽ tạo điều kiện để thực hiện lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, bởi
dân có giàu thì nước mới mạnh. Mặt khác, Người yêu cầu phải đấu tranh kiên quyết
chống mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, “cái gì cũng
mệnh lệnh
ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân
chúng, bắt dân chúng theo…”[42, tr.293]. Người cho rằng, nếu quần chúng thật sự có
quyền dân chủ, cán bộ, đảng viên xung phong gương mẫu thì mọi kế hoạch sản xuất sẽ
thực hiện thành công.
Song song với việc phát huy quyền làm chủ, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải quan
tâm bồi dưỡng ý thức làm chủ, tâm lý làm chủ cho người lao động: Đã là người làm chủ
thì phải coi “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”, “yêu xe như con quý xăng như máu”,
“quý trâu như bạn”, phải là người tự lực, biết lo toan, gánh vác công việc, không trông

chờ, ỷ lại…
+ Thực hiện công bằng xã hội. Hồ Chí Minh thấy do đã thiếu công bằng và mất
dân chủ mà dẫn tới hậu quả bùng nổ những xung đột xã hội căng thẳng. Theo Người,

thực hiện công bằng xã hội chính là giải quyết mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng
thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong xã hội.
Ngay trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở vào giai đoạn
quyết liệt, nhân dân miền Bắc phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn để dồn hết tài lực,
vật lực cho tiền tuyến lớn miền Nam, Hồ Chí Minh phát biểu trước hội đồng Chính phủ:
“ Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” [49, tr.185].
Trước lúc đi xa, Người đã để lại những lời căn dặn cho toàn Đảng, toàn dân
những việc cần làm khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi là:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi
ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với
mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với cha mẹ, vợ
con (của thương binh và liệt sĩ) và thiếu sức lao động và túng thiếu, thì
chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp,
quyết không để họ bị đói rét [49, tr.503-504].
Đây cũng chính là biện pháp để từng bước thực hiện công bằng xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhưng công bằng, theo Hồ Chí Minh, không phải là cào bằng một cách bình
quân, giỏi kém như nhau, làm triệt tiêu mất động lực kinh tế - xã hội. Người viết: “Phân
phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động dễ thì
được phân phối ít. Không nên có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ
cũng công điểm như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân”
[47, tr.410].
+ Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục,
chính trị, đạo đức, pháp luật và coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ

nghĩa xã hội.
Trước hết là lý tưởng chính trị. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, như
Hồ Chí Minh thường nói: “ cần có ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao, một lòng một

×