Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đoàn thể pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.62 KB, 77 trang )

LUẬN VĂN:

Một số giải pháp xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý khối đảng, đoàn thể


mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài
Các nhà tương lai học khi dự báo xu hướng phát triển của nhân loại ở thế kỷ
XXI đã nhận định: một trong những dấu hiệu nổi bật nhất của giai đoạn văn minh
đương đại là lao động trí tuệ, nguồn lực con người, phụ nữ sẽ là những động lực quan
trọng quyết định tới sự thành công trên con đường phát triển của các quốc gia và của
cả nhân loại. Việc giải phóng phụ nữ, phát huy tiềm năng của phụ nữ là đòi hỏi khách
quan và bức thiết của sự phát triển xã hội, trong đó sự bình đẳng và tiến bộ về giới sẽ
tạo điều kiện khai thác và phát huy một cách có hiệu quả hơn tiềm năng của phụ nữ ở
mức độ cao để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Chiếm 50,8% dân số và 50,6% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ Việt Nam đã
và đang tích cực tham gia vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động, góp phần đáng kể vào
phát triển kinh tế- xã hội đất nước
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước nhận thức rất rõ: “Tăng
tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội là điểm quan trọng
để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tiềm năng,
trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ”. Các quan điểm, tư tưởng cũng như
những chủ trương, phương hướng mà các chỉ thị, nghị quyết đưa ra làm kim chỉ nam
cho nhận thức và hành động của các cấp, các ngành đối với công tác cán bộ nữ, một
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong toàn bộ cơng tác cán bộ của Đảng. Những chủ
trương, chính sách của Đảng ra đời nhìn chung đã tác động tích cực đến phụ nữ và
cơng tác cán bộ nữ, đội ngũ cán bộ nữ được trưởng thành về số lượng và chất lượng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, cơng tác cán bộ nữ vẫn cịn nhiều hạn chế,
chưa tương xứng với vị thế của đội ngũ cán bộ nữ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


Báo cáo tổng kết Chỉ thị 37 ngày 6/5/2002 nêu rõ: “tỷ lệ nữ trong cán bộ cơng chức
chiếm 68,6%, trong đó cơ quan Trung ương chiếm 35,7% nhưng cán bộ lãnh đạo quản
lý nữ chưa nơi nào đạt được 10%”.Trong các cấp uỷ đảng tỷ lệ cán bộ nữ rất thấp
chưa nhiệm kỳ nào đạt 15% đặc biệt là ở cấp Trung ương và cấp Xã. Trong các tổ


chức chính trị xã hội như: Cơng đồn, Đồn thanh niên, Hội nông dân, tỷ lệ cán bộ
lãnh đạo là nữ cũng rất thấp. So với nam giới trên tất cả các lĩnh vực, ở vị trí càng cao
thì tỷ lệ nữ lãnh đạo quản lý càng thấp. Đặc biệt là các vị trí ra quyết định thì khơng
những ở vị trí cao mà ngay cả ở vị trí thấp như cấp phòng, ban, tỷ lệ cán bộ nữ cũng
rất hạn chế.
Vì vậy, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý nói chung
và xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý đảng, đồn thể nói riêng là
vấn đề cấp thiết. Việc lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đồn thể" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở khoa học vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý khối đảng, đồn thể và trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đoàn
thể đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận của vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đồn thể trong thời kỳ mới
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ
cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đoàn thể; nguyên nhân của những thành tựu và
hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
khối đảng, đoàn thể đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng,
đoàn thể.


4.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ
cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đồn thể.
5. Giả thiết khoa học
Cơng tác xây dựng đảng, đoàn thể được quyết định bởi đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý khối đảng đoàn thể nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo nữ khối đảng đồn
thể nói riêng. Nếu có những giải pháp dựa trên những yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ
cán bộ nữ lãnh đạo khối đảng, đoàn thể thì có thể nâng cao chất lượng đội ngũ này ở
cả 4 cấp từ Trung ương đến cơ sở từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: 2001 - 2010; - Khơng gian: Tồn quốc.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu hệ thống tài liệu.
- Khái quát các nhận định độc lập nghiên cứu hồ sơ.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát, khảo sát thực tế.
- Thống kê số liệu.
- Phân tích thực trạng.
- Tổng kết kinh nghiệm.
- Điều tra bằng phiếu hỏi.
- Lấy ý kiến chuyên gia (qua mạn đàm, trao đổi)
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu làm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở khoa học xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý khối đảng, đoàn thể.


Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh
đạo, quản lý khối đảng, đoàn thể.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ
lãnh đạo, quản lý khối đảng, đoàn thể đáp ứng thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.


Chương 1
Cơ sở khoa học xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối
đảng, đoàn thể

I. Một số vấn đề cơ bản về lý luận xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
nữ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đoàn thể
1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm cán bộ nữ
Cán bộ nữ chiếm một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức. Cùng một lúc
phụ nữ phải đảm nhận rất nhiều vai trò khác nhau, họ vừa phải tham gia vào quá trình
lao động xã hội, vừa phải giữ vai trị chính trong việc tái sản xuất sức lao động, do đó
họ cũng có những đặc điểm riêng biệt và có những ảnh hưởng nhất định đến q trình
cơng tác của họ. Chính vì vậy, để đảm bảo cho phụ nữ có thể thực hiện tốt hai chức
năng trên, trong lực lượng lao động nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng, người ta
đã tách lao động nữ và cán bộ nữ thành một bộ phận và qua đó để có những chính sách
đặc thù dành cho lao động nữ và cán bộ nữ nhằm tạo điều kiện cho họ có thể vừa thực
hiện tốt vai trị là người lao động vừa đảm bảo thực hiện tôt vai trò là người mẹ.
- Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý
Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý theo cách hiểu thông thường và khá phổ

biến hiện nay ở nước ta là cụm từ chỉ chung cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý, bao
gồm những người có chức vụ và trách nhiệm điều hành, cầm đầu trong các cơ quan,
các tổ chức sự nghiệp, kinh doanh. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là người được bổ
nhiệm hoặc được bầu ra để giữ một trọng trách (chức vụ) có quyền hạn và trách nhiệm
thực hiện chức năng lãnh đạo quản lý, quy tụ sức mạnh của tập thể để thực hiện mục
tiêu chung.
Theo cách hiểu trên đây, khái niệm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có nội
hàm giống nhau: cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều là chủ thể ra quyết định,


điều khiển hoạt động của một tổ chức; người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện chức
năng quản lý và người cán bộ quản lý cũng phải thực hiện chức năng lãnh đạo, nên
khó có thể phân biệt rạch ròi đâu là người lãnh đạo, đâu là người quản lý.
Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hồn tồn đồng nhất với nhau.
Trong q trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng cho khách thể thơng qua hệ
thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng hoạt động của đối tượng
và xã hội. Lãnh đạo là một quá trình thúc đẩy nhiều người đi theo một chiều hướng
nhất định nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Cịn hoạt động quản lý mang tính điều khiển,
vận hành thơng qua những thiết chế có tính pháp lệnh được quy định từ trước. Quản lý
là điều hành một tổ chức, một nhóm người thực hiện các nhiệm vụ nhằm đạt được mục
tiêu đề ra. Xét về tổng thể, hoạt động quản lý là sự nối tiếp của hoạt động lãnh đạo, là
khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo.
ở cả hai phạm vi, người cán bộ lãnh đạo, quản lý đều phải là người giỏi chun
mơn nghiệp vụ, phải có đủ năng lực và phẩm chất để định hướng, điều khiển, chỉ huy,
phải có khả năng tổ chức cơng việc và đồn kết cộng đồng. Cụ thể là, người cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải hội tụ 3 đặc điểm:
+ Có khả năng phân tích xác định vấn đề trong các tình huống, ngay cả khi tình
huống chưa rõ ràng.
+ Có khả năng quan hệ rộng, gây ảnh hưởng, có khả năng hướng dẫn, kiểm sốt
người khác thực hiện cơng việc có hiệu quả.

+ Có khả năng giao tiếp, xúc cảm với trạng thái tâm lý người khác.
- Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đoàn thể
Cán bộ lãnh đạo, quản lý khối đảng, đồn thể là một bộ phận khơng thể tách rời
của đội ngũ đông đảo cán bộ, công chức nói chung và cán bộ lãnh đạo và quản lý của
hệ thống chính trị nói riêng. Theo quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm
1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2003), thì đây là đội ngũ cán bộ tham gia lãnh đạo và quản
lý trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là Đảng và các đoàn
thể).


- Khái niệm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý được hiểu là tạo
dựng lên một đội ngũ cán bộ đông đảo các nhà lãnh đạo, quản lý nữ đồng bộ về cơ
cấu, có số lượng và chất lượng đảm bảo, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
- Khái niệm bình đẳng giới
Bình đẳng giới là khơng có sự phân biệt về vị thế, điều kiện, cơ hội phù hợp và
sự khác nhau về gíơi tính giữa nam và nữ trong q trình thực hiện quyền con người,
quyền cơng dân, đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình và đất nước.
- Khái niệm lồng ghép giới trong phát triển
Lồng ghép giới là việc bảo đảm sự tham gia, kiểm soát các nguồn lực và hưởng
lợi của nam, nữ được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính
sách, chương trình, kế hoạch, dự án và trong mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
địa phương, gia đình và cá nhân.
- Khái niệm tiềm năng trí tuệ, năng lực, năng lực cán bộ nữ
+ Tiềm năng trí tuệ của con người là vơ tận, thể hiện ở chỗ có khả năng tự sản
sinh, đổi mới và không ngừng phát triển, nếu biết chăm lo, bồi dwoxng và khai thác
hợp lý. Nhà tương lai học người Mỹ ALvin Toffler đã nhận xét: tri thức có tính chất
lấy không bao giờ hết. Vấn đề là cần phải biết chăm lo và khai thác tốt nhất nguồn

tiềm năng trí tuệ ở mỗi con người và ở cả cộng đồng để phục vụ cho công cuộc đổi
mới của đất nước và cho quá trình phát triển tiếp theo. Phụ nữ chiếm 50% dân số, có
tiềm năng trí tuệ rất lớn, thực sự trở thành động lực mạnh mẽ đối với phát triển của
mỗi quốc gia. Mỗi bước tiến của dân tộc, nhân loại không thể tách rời việc sử dụng và
phát huy khả năng trí tuệ của người phụ nữ.
+ Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt là: 1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo
cho con người khả năng hồn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.


+ Khái niệm năng lực cán bộ về cơ bản là nội hàm của khái niệm “Tài” trong
nhân cách của người cán bộ. Năng lực lãnh đạo quản lý (nhất là năng lực tổ chức) không
phải do bẩm sinh mà nó được hình thành, phát triển nhờ giáo dục, tự giáo dục và rèn
luyện, học tập, tu dưỡng của chính bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Theo L.I.Menxki và A.N.Lutônxkin, một người cán bộ lãnh đạo, quản lý được
coi là có nhân cách hồn thiện khi năng lực của người đó hội tụ đủ 3 yêú tố sau đây: 1.
Yếu tố cần như: xu hướng nhân cách, quá trình đào tạo về quản lý và các phẩm chất
tâm lý cá nhân như sự nhanh trí, tháo vát, có khả năng vận dụng kiến thức, kinh
nghiệm vào thực tiễn; tính cởi mở, tích cực giao tiếp; tự lập, kiên trì, tự chủ...; 2. Yếu
tố khơng thể thiếu đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý là năng lực tổ chức; Yếu tố
cá nhân, bao gồm những đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân như lứa tuổi, sức khoẻ, khí
chất, phong cách...tạo nên nét riêng của mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Khi bàn
về năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, A.I. Kitốp nhấn mạnh tới ba nhóm
năng lực sau đây: những năng lực chuẩn đoán; những năng lực sáng tạo và những năng
lực tổ chức. A.V.Beluaviskij cho rằng, năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý thể hiện ở
khả năng tiếp cận cơng việc phù hợp với hồn cảnh xuất hiện và có cách giải quyết
nhanh nhất để đạt được mục tiêu mọt cách sáng tạo với hiệu quả cao bao gồm hai yếu
tố ấu thành là uy tín và năng lực tổ chức. Tóm lại tuy các cách tiếp cận có khác nhau,
nhưng các tác giả đều thống nhất ở cấu trúc năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý như sau:

1. Tầm hiểu biết sâu rộng;
2. Có trình độ chuyên môn cần thiết trong hoạt động lãnh đạo, quản lý;
3. Có tri thức và kinh nghiệm về quản lý;
4. Có năng lực xác định mục tiêu, định hướng, dự đoán, vạch kế hoạch;
5. Khả năng liên kết, làm việc với con người;
6. Khả năng am hiểu tâm lý và tác động tâm lý tới người khác;
7. Có một số kỷ năng hiện đại ở mức độ cần thiết (giao tiếp, vi tính, ngoại ngữ).


8. Năng lực tổ chức (gồm năng lực tổ chức chung và năng lực tổ chức đặc biệt).
Trong đó, năng lực tổ chức là loại năng lực chuyên biệt của người làm cơng tác
lãnh đạo, nếu thiếu nó người cán bộ sẽ khó mà hồn thành được nhiệm vụ. V.I.Lênin
đã từng nói, năng lực tổ chức của người cán bộ bao gồm sự nhạy cảm về tổ chức, sự
thấu đáo và năng lực điều khiển, sự am hiểu về con người, tính cởi mở, óc sáng suốt,
óc tháo vát, tính kiên nghị, khả năng chan hoà với mọi người, khả năng thu hút quần
chúng.
- Khái niệm vị thế, vai trò của người cán bộ nữ
+ Vị thế trước hết là một vị trí xã hội, là vị trí của một cá nhân trong cơ cấu tổ
chức theo sự thẩm định, đánh giá của tổ chức xã hội đó. Vị thế xã hội được hiểu là chỗ
đứng của một cá nhân trong xã hội và mối quan hệ của cá nhân đó với người khác. Vị
thế xã hội của một cá nhân luôn gắn liền với những trách nhiệm và quyền hạn nhất
định của cá nhân đó. Vị thế xã hội cịn là giá trị, mức độ đánh giá uy tín của một cộng
đồng người hay toàn xã hội đối với một cá nhân cụ thể.
Vị thế của người nữ cán bộ quản lý nhà nước là chỗ đứng của họ trong cơ cấu
quyền lực nhà nước nhất định theo sự đánh giá của tổ chức nhà nước đó.
+ Khái niệm vai trò được xem như một yếu tố căn bản để lý giải các quan hệ xã hội
và tương tác xã hội, giữa cá nhân và tập thể, giữa cá nhân với cá nhân...đồng thời để
tìm hiểu sự phát sinh, phát triển của nhân cách. Có thể coi vai trị như tập hợp những
ứng xử của mỗi cá nhân mà người khác chờ đợi họ. Vai trò là tập hợp các chuẩn mực,
hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với vị thế nhất định.

Nói cách khác, vai trị là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn mẫu
tác phong mà xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một nhóm cá nhân hay một nhóm xã hội
nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế xã hội của họ. Theo các nhà xã hội học, hành vi
con người thay đổi khác nhau tuỳ theo bối cảnh gắn liền với vị trí xã hội của người
hành động và “ hành vi phần nào được tạo ra bởi sự mong đợi của người hành động
và những người khác”.


Vai trò xã hội tập hợp như vai trò trên sân khấu, sự khác biệt là ở chỗ trong vai trị
xã hội “cá nhân tự đóng vai mình”. Vai trị chính là mặt động của vị thế xã hội vì vị thế
thuộc phạm trù cấu trúc, còn vai trò thuộc phạm trù hành động.
Vai trò xã hội được phân thành nhiều loại: Vai trò đơn giản, vai trò phức tạp,
vai trò chỉ định, vai trò lựa chọn...Tùy mức độ cao hay thấp của giá trị xã hội mà có
những vai trò cao hoặc thấp khác nhau.Trong phức hợp vai trò của một người ln nổi
lên vai trị then chốt, vai trị then chốt này khơng cố định bất biến mà có thể thay đổi
theo thời gian.
+ Khái niệm vai trị của nữ cán bộ quản lý. Nói đến vị thế của nữ cán bộ quản
lý tức là nói đến “chỗ đứng” của họ trong tương quan so sánh với nam giới. Cịn nói
đến vai trị của nữ cán bộ quản lý là xem xét họ đang làm gì, với lối cư xử của họ như
thế nào để được mọi người chấp nhận.
2. Một số vấn đề lý luận về công tác cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý khối
đảng, đoàn thể
2.1. Quy hoạch và đào tạo cán bộ nữ một cách tồn diện
- Các cấp uỷ Đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch toàn diện đối
với cán bộ nữ. Quy hoạch cán bộ nữ khối đảng, đoàn thể phải đặt trong quy hoạch tổng
thể về cán bộ của Đảng thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Cơng tác quy hoạch cần được triển khai đồng bộ ở tất cả các cấp, các ngành, phát huy
dân chủ, làm từng bước, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, ưu tiên những ngành, lĩnh vực,
vùng miền mà ở đó tỷ lệ cán bộ nữ cịn thấp. Quy hoạch phải gắn với kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng, luân chuyển và đề bạt cán bộ nữ trên cơ sở phát huy thế

mạnh, ưu điểm và phù hợp với đặc điểm riêng của cán bộ nữ. Quy hoạch cán bộ nữ
phải được rà soát, bổ sung và điều chỉnh hàng năm.
- Các cấp uỷ Đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ
nữ theo từng lĩnh vực, trong các cơ quan đảng, các tổ chức đoàn thể... Kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch và việc bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ nữ. Cần


đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các khố đào tạo tại các trường lý luận chính trị,
quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên.
Trong quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cần chú trọng đội ngũ cán bộ nữ trong
các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, pháp luật, quản lý nhà nước và
hoạt động chính trị; cán bộ nữ dân tộc ít người, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa.
- Đa dạng hố các hình thức đào tạo phù hợp với đặc điểm giới; đào tạo bồi
dưỡng có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn; chủ trọng
nâng cao chất lượng đào tạo. Khuyến khích phong trào học tập trong cán bộ nữ để
nâng cao trình độ bằng nhiều hình thức: đào tạo tại chỗ, tập trung, tại chức, từ xa, từ
thực tiễn.
2.2. Lựa chọn, tạo nguồn cán bộ nữ và phát triển đảng viên nữ khối đảng,
đoàn thể
- Lựa chọn cán bộ là hoạt động của Đảng, đồn thể nhằm tìm kiếm những người
có đủ phẩm chất và năng lực theo tiêu chuẩn nhất định để bố trí sử dụng hoặc dự nguồn
sử dụng cho một tổ chức nào đó của khối đảng, đồn thể, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của tổ chức đó, cũng như để xây dựng, củng cố tổ chức vững mạnh.
Là hoạt động của Đảng, đoàn thể do vậy lựa chọn cán bộ khối đảng, đoàn thể
phải tuân thủ nghiêm ngặt những quan điểm, nguyên tắc, quy chế của Đảng, đoàn thể:
phát hiện những người thực sự có tài, có đức phải rất cơng phu, tn theo những quy
trình có tính khách quan, khoa học; phải chọn trong thực tế công tác, trong lao động
sản xuất, từ nhiều người, nhiều ngồn, qua nhiêu khâu khác nhau. Những biện pháp chủ
yếu là: thu thập thơng tin để tìm hiểu những đối tượng cần lựa chọn; tổ chức thi tuyển
công khai, dân chủ, khách quan, đúng luật; bầu để chọn nhân sự cho cơ quan lãnh đạo

của Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở qua con đường bầu cử dân chủ; những
người có trách nhiệm, có năng lực và kinh nghiệm làm công tác tổ chức cán bộ phát
hiện, đề cử, tiến cử cán bộ cho Đảng và đồn thể.
- Cơng tác tạo nguồn cán bộ nữ khối đảng, đoàn thể đạt trong chiến lược phát
triển nguồn nhân lực của quốc giá. Cần ưu tiên tuyển dụng cán bộ nữ, lao động nữ có


trình độ đại học, trên đại học. các cơ quan đảng, đoàn thể cần đảm bảo tỷ lệ nữ được
tuyển dụng từ 35% trở lên. Chăm lo bồi dưỡng tài năng nữ, đặc biệt là các tài năng trẻ,
các nhân tố điển hình là nữ, phụ nữ dân tộc. Bồi dưỡng phát triển đảng viên nữ cân đối
giữa các khu vực, hàng năm đạt tỷ lệ từ 40% trở lên trong tổng số đảng viên mới kết
nạp; có kế hoạch bố trí, phân cơng cơng tác để đảng viên nữ phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành.
2.3. Về chính sách tạo điều kiện phát triển đội ngũ cán bộ nữ khối đảng,
đoàn thể
a) Tuổi bổ nhiệm:
Thực hiện theo quy chế bổ nhiệm cán bộ ban hành kèm theo quyết định số 51
QĐ/TW, ngày 03/5/1999 của Bộ Chính trị tại mục 3, điều 5 quy định:
- Cán bộ các cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
tuổi bổ nhiệm lần đầu nói chung khơng q 50 tuổi đối với nữ.
- Cán bộ các cơ quan quận, huyện và tương đương, tuổi bổ nhiệm lần đầu nói
chung khơng quá 45 tuổi (cả nam và nữ).
b) Về tuổi nghỉ hưu: Thực hiện theo Luật Lao động: 60 tuổi đối với nam, 55
tuổi đối với nữ.
c) Về tuổi tham gia cấp uỷ:
Chỉ thị 54/CT/TW, ngày 22/3/2000 của Bộ Chính trị nêu rõ, các cấp uỷ cần có 3
độ tuổi và tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ là 15% trở lên. Hớng dẫn 14-HD/TCTW, ngày
01/6/2000 của Ban Tổ chức Trung ương cũng nêu cụ thể: trong điều kiện hiện nay 3 độ
tuổi ở cấp tỉnh là: dưới 40, từ 40 đến 55 và trên 55 tuổi; ở cấp huyện là: dưới 35, từ 35
đến 50 và trên 50; ở cấp cơ sở nói chung độ tuổi phải trẻ hơn cấp trên cơ sở.
Chính sách đối với cán bộ nữ là vấn đề lớn, cần sớm ban hành những chính

sách cụ thể. Trước hết cần nghiên cứu để xây dựng, bổ sung hồn thiện các chính sách
ưu đãi, hỗ trợ cán bộ nữ trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và ln chuyển;
đặc biệt cần có chính sách thoả đáng đối với cán bộ nữ công tác ở vùng sâu, vùng xa,


biên giới, hải đảo, dân tộc thiểu số, cán bộ nữ đi học có con nhỏ. Nâng tuổi nghỉ hưu
của cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý và nghiên cứu khoa học. Nhà nước cần
xây dựng chế độ chính sách chung về những vấn đề trên để áp dụng thống nhất trong
cả nước.
2.4. Cơ chế đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác cán bộ nữ khối đảng, đoàn
thể
- Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, đặc biệt trong kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chủ trương của Đảng về công tác cán bộ nữ.
- Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức các tỉnh, thành uỷ, Ban Cán sự Đảng,
Đảng đoàn, Đảng uỷ trực thuộc trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình, chú
trọng làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ chỉ đạo cơng tác cán bộ nữ.
- Đảng đồn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam chủ động tích cực tham mưu giới thiệu cán bộ nữ, xây dựng quy
hoạch đội ngũ cán bộ Hội, tạo nguồn cán bộ nữ giới thiệu cho Đảng.
3. Vai trò của phụ nữ trong lịch sử dân tộc và trong đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội của đất nước
3.1. Vai trị của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc
Từ trước tới nay phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Theo truyền thuyết và những ghi chép trong các thư tịch cổ, thì tổ tiên của
nghề chăn ni và trồng trọt, dệt vải...phần lớn là phụ nữ. Công lao sáng tạo ngành
nghề thời cổ đại chủ yếu thuộc về phụ nữ chứ không phải nam giới. Lịch sử Việt Nam
ghi nhận chuyện mẹ âu Cơ cùng cha Lạc Long Quân khởi nghiệp ra lịch sử Việt Nam.
Các di tích của việc thờ các nữ thần nông nghiệp như chùa “Bà Dâu”, nghị lễ cúng
“mẹ Lúa”...đã phản ánh công lao và vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong
nghề nơng thời cổ. Trong gia đình truyền thống Việt Nam, người phụ nữ có một quyền

lực rộng lớn và là người “cai quản” chính trong gia đình.
Mở đầu cho trang sử chống ngoại xâm, giành độc lập, tự do cho đất nước là
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Đây là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử thế giới


cổ đại. Trưng Trắc là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đứng lên lãnh đạo và quản lý
đất nước. Bà đã khẳng định được vị trí của người phụ nữ Việt Nam, với sắc thái bình
đẳng và được in đậm trong nền văn hoá dân tộc.
Bên cạnh các nữ tướng cầm quân đánh giặc, thời kỳ này chúng ta cịn có những
tấm gương phụ nữ tham gia quản lý đất nước tài giỏi, đó là Thái hậu Dương Vân Nga,
Nguyên Phi ỷ Lan... Nối tiếp truyền thống anh hùng bất khuất của các bạc tiền bối, các
thế hệ phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã có những đóng góp to lớn vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là các chị Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn
Thị Thập, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình…là các nữ anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân, anh hùng lao động mà tên tuổi cuả họ mãi mãi còn vang.
Với trách nhiệm là người vợ, người mẹ, phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến
xuất sắc trong việc nuôi dưỡng các thế hệ công dân của đất nước, chăm lo cho các gia
đình Việt Nam theo chuẩn mực “ ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Phụ nữ còn là
nhân tố quan trọng trong sự nghiệp giữ gìn và phát triển văn hố mang bản sắc dân tộc
Việt Nam và mang nhiều vinh quang về cho đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực: kinh tế,
quân sự, văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế, thể thao, nghệ thuật.
3.2. Vị thế, vai trò của phụ nữ Việt Nam thời đại ngày nay
Ngày nay, phụ nữ đã được giải phóng hơn, bình đẳng hơn, có điều kiện bộc lộ
tài năng hơn nhiều so với phụ nữ trước đây. Trong môi trường thuận lợi, phụ nữ đã
phát huy khả năng to lớn của mình cho xã hội. Cùng với xu thế chung của thời đại, thế
giới, chưa bao giờ người phụ nữ Việt Nam lại có được vị thế cao, khẳng định vai trị
lớn lao của mình trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội như hiện nay.
- Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế
Trên thế giới phụ nữ chiếm trên 50% dân số và trên 55% lực lượng lao động xã
hội. Đặc biệt đối với nước ta là nước nông nghiệp, lực lượng lao động nông nghiệp và

nông thôn chiếm trên 80% lao động xã hội, trong đó lực lượng lao động nữ chiếm vai
trị chủ yếu. Bên cạnh lao động nơng nghiệp, lao động nữ có mặt và giữ vai trị nhất


định trong tất cả các nghành kinh tế như : thương mại dịch vụ, công nghiệp, khoa học
kỹ thuật và quản lý.
ở nước ta, 78,7% phụ nữ Việt Nam sống ở nông thôn. Đây là lực lượng lao
động to lớn và thực sự không thể thiếu được trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và
nông thôn nước ta.
Trong suốt 2 cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp
và chống đế quốc Mỹ, phụ nữ đã gánh vác gần như tồn bộ cơng việc sản xuất nông
nghiệp. Phụ nữ không chỉ lo toan và xây dựng một hậu phương vững chắc làm ấm
lòng các chiến sỹ nơi tiền tuyến mà còn cung cấp lương thực, thực phẩm và cả nhân
lực cho chiến trường, nhất là cho chiến trường miền nam. Với khẩu hiệu : “ Thóc
khơng thiếu một cân, quân không thiếu một người “, Đảm bảo cho bộ đội ăn no, đánh
thắng, phong trào “ Phụ nữ 3 đảm đang “, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “ Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả vì miềm Nam ruột thịt”, phong trào “ Hũ gạo chống Mỹ”...Đã
dấy lên một cao trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước, đặc biềt đối với phụ
nữ.
Sau chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam được hồn tồn
giải phóng, đất nước ta được thống nhất, non sông thu về một giải. Phụ nữ lại tiếp tục
lao vào mặt trận sản xuất nông nghiệp với vai trò là mặt trận hàng đầu trong nền kinh
tế nước ta, để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng nhằm thực hiện
cơng nghiệp hố đất nước trong thời kỳ quá độ (NQ đại hội Đảng lần thứ IV năm
1988). Một thành tích kỳ diệu trong nông nghiệp giai đoạn này là từ năm 1989 đến
nay, nước ta từ một nước thường xuyên nhập khẩu lương thực đã trở thành một cường
quốc xuất khẩu gạo, đứng vào hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Thành tích vĩ đại đó
có sự đóng góp to lớn của lực lượng lao động nữ và các nhà khoa học nữ trong nông
nghiệp nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, chị em phụ

nữ lại một lần nữa thông minh, sáng tạo, nỗ lực, vượt mọi khó khăn. Tiếp thu khoa học
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến tạo ra các giống cây, con mới, sản phẩm chất lượng cao,
đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong khu vực và quốc tế. Điển hình là hàng loạt các


nông sản xuất khẩu như: cà phê, điều, tiêu, cao su, chè và thuỷ sản...đã làm tăng kim
ngạch xuất khẩu, từng bước giảm tỷ lệ chênh lệch xuất, nhập khẩu và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của nước ta. Riêng năm 1995 giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản chiếm
51% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước, đây là nguồn thu ngoại tệ quan trọng để cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
Bên cạnh ngành nơng, lâm, thuỷ sản thì các ngành cơng nghiệp, thương mại và
dịch vụ cũng phát triển mạnh mẽ. Trong đó có những nghành lao động nữ chiếm tới
80- 90% như công nghiệp dệt may, da giày và thương mại, dịch vụ. Những ngành này
không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cịn góp phần xuất khẩu quan
trọng. Riêng ngành dệt may hàng năm xuất khẩu 2-3 tỷ đồng.
- Vai trị phụ nữ trong phát triển văn hố xã hội
Cùng với phát triển về kinh tế, đời sống văn hoá ở nước ta trong những năm
qua cũng phát triển mạnh mẽ đáp nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Giáo dục và y tế là hai ngành quan trọng vừa chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân
vừa nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước cả trước mắt và lâu dài.
Có thể nói Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác phát triển giáo dục. Sau năm
1945 nước ta có tới 95% dân số khơng biết chữ. Bác Hồ đã coi giặc dốt là kẻ thù nguy
hiểm lâu dài, Bác kêu gọi phải tiêu diệt giặc dốt bằng phong trào “ Bình dân học vụ “.
Phong trào này được toàn dân ủng hộ và tham gia, trong đó phụ nữ lại là lực lượng dẫn
đầu. Đến nay cả nước ta đã thanh toán xong nạn mù chữ, nhiều tỉnh thành phố đã phổ
cập tiểu học và trung học cơ sở.
Quy mô các ngành học và cấp học đều tăng lên đáng kể, cấp đại học và trên đại
học cũng phát triển ngày càng nhiều, phụ nữ và học sinh gái cũng được tham gia ở tất cả
các cấp học và bậc học. Ngành giáo dục,lao động nữ chiếm tới 85-90% nên kết quả

trong ngành giáo dục cũng chính là kết quả đóng góp quan trọng của phụ nữ.
Ngành y tế, chăm sóc sức khoẻ, tỷ lệ nữ cũng chiếm phần lớn và đạt được
những thành tựu rất đáng phấn khởi. Tất cả các xã, phường trong cả nước đều có trạm


xá, để chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh cho người dân. Tất cả các huyện, thị đều có
bệnh viện. Trong đó bệnh viện chuyên khoa, phát triển mạnh với phương tiện và công
nghệ cao đã làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân, nâng
cao tuổi thọ trong cả nước…
Đặc biệt các tổ chức phụ nữ từ Trung ương đến địa phương đã phát động
phong trào “nuôi con khoẻ dạy con ngoan, không sinh con thứ 3, chống suy dinh
dưỡng ở trẻ em và chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển
kinh tế gia đình, góp phần xố đói giảm nghèo …
Trong cơng tác nghiên cứu khoa học phụ nữ cũng đóng góp rất quan trọng và
đã có nhiều nhà khoa học nữ trên nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội. Trong
tổng số cán bộ có trình độ từ đại học, cao đẳng thì phụ nữ chiếm trên 28%, trình độ
tiến sỹ nữ chiếm 15,1%
- Vai trò của phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phụ nữ có cơng lao to lớn, đóng góp quan trọng trong các cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm. Với hàng triệu nữ thanh niên xung phong trực tiếp đi mở đường,
đảm bảo thông suốt tuyến đường Trường Sơn cho đồn qn tiến vào giải phóng miền
Nam. Biết bao những tấm gương hy sinh cao cả để giữ vững tuyến đường mà tiêu biểu
là 12 cô gái ở ngã ba Đồng Lộc. Với hàng vạn cô gái xung phong đi tải đạn và trực tiếp
lái xe cung cấp lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, cho tiền tuyến lớn
Miền Nam. Đã có hàng trăm tấm gương anh hùng, bất khuất, như anh hùng Võ Thị Sáu,
Mạc Thị Bưởi, Bùi Thị Cúc, anh hùng Nguyễn Thị Chiên, Lê Thị Hồng Gấm,Tạ Thị
Kiều, Ngô Thị Tuyển và Má út Tịch …Không chỉ trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu
mà ngay trong xây dựng tổ quốc cũng có biết bao tấm gương anh hùng trên mọi lĩnh vực
như trong lĩnh vực thương mại du lịch, trong giao thông vận tải, trong nghiên cứu khoa
học đến văn hoá giáo dục...

Phụ nữ Việt Nam, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và trong
công cuộc xây dựng đất nước đã có 232 nữ anh hùng trên mọi lĩnh vực trong tổng số
1896 anh hùng của cả nước.


Điển hình là các bà Nguyễn Thị Bình phó chủ tịch nước, Nguyễn Thị Định, anh
hùng Hồ Thị Bi đại tá quân đội nhân dân Việt Nam, anh hùng Đoàn Thị Thu đại tá,
trưởng cơng an quận Tân Bình TP HCM … anh hùng Phạm Thị Vách, vắt đất ra nước
thay trời làm mưa, anh hùng Phạm Thị Liên công nhân nhà máy dệt Nam Định, anh
hùng Nguyễn Thị Ngời công nhân cạo mủ cao su, công ty cao su Đồng Nai, anh hùng
Lê Thị Ngừng công nhân lái máy xúc BKG tổng cơng ty xây dựng thuỷ điện Hồ
Bình, anh hùng Cao Thị Ngỗn thợ hàn nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, anh hùng
Hồng Thị Miên cung giao thơng Cao Sơn, Cao Bằng, anh hùng Phí Vân Khanh hiệu
trưởng trường Mẫu giáo Chim Non quận Hai Bà Trưng Hà Nội, anh hùng Phạm Thị
Việt Nga giám đốc xí nghiệp dược phẩm Hậu Giang, anh hùng Nguyễn Thị Lệ Hoa
giám đốc cơng ty du lịch Hồ Bình Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt nam. Anh hùng Đoàn
Hồng Hoa thứ trưởng bộ y tế, anh hùng Nguyễn Thị Ngọc Phượng giám đốc bệnh viện
Từ Dũ TP Hồ Chí Minh và anh hùng Trần Thu Hà PGS - TS nhà giáo ưu tú giám đốc
nhạc viện Hà Nội. Phụ nữ Việt Nam thật xứng đáng được Bác Hồ tặng Tám chữ vàng :
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
vai trò, vị thế của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị thế của phụ nữ trong lãnh đạo,
quản lý
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam đầu tiên đặc biệt quan
tâm đến vai trò, vị thế của phụ nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự
nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng.
Trong Hồ Chí Minh tồn tập (12 tập), đã có 100 bài viết trên tổng số 1941 bài
Bác nhắc khá nhiều đến phụ nữ. Người khẳng định: “Nói đến phụ nữ là nói đến phân
nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người.

Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng CNXH chỉ một nửa”. Người còn đưa ra
nhận xét: “Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là khơng có đàn bà, cơ gái
tham gia, và An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”.
Trong dịp kỷ niệm 56 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Người nói:


“Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu dân cho đến
nay, mỗi khi đất nước gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc...”. Trong thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm
Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế Phụ nữ năm 1952, Bác đã ca ngợi: “Non sông gấm vóc
nước Việt Nam do phụ nữ nước ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp,
rực rỡ”.
Đánh giá cao vai trò của phụ nữ, Bác còn nhìn thấy khả năng lao động của phụ
nữ trên các lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý: “Dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, hàng vạn phụ nữ trở thành chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm giám
đốc và phó giám đốc các xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, chủ tịch uỷ ban
kháng chiến, bí thư chi bộ Đảng”. Người cũng đã nhận xét: “Từ ngày nước ta được
giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ rõ về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội. Nhưng một tíên bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày
càng nhiều”. Bác khơng dừng ở việc đánh giá cao vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam
mà quan trọng hơn, Người xác định trách nhiệm của đảng đối với sự nghiệp giải phóng
phụ nữ: “Từ nay, các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ
nữ, phải căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều
hơn nữa”, “ Phải thật sự giải phóng phụ nữ và tơn trọng quyền lợi của phụ nữ”, “ Đảng
và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để
ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”.
Trong cuốn “Đường cách mệnh”, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã nói:
“muốn thế giới cách mệnh thành cơng thì phải vận động đàn bà, con gái cơng nơng các
nước. Vì vậy đệ tam Quốc tế tổ chức phụ nữ quốc tế... Mỗi đảng cộng sản phải có một
bộ phụ nữ trực tiếp thuộc về phụ nữ quốc tế”.

Đề cao vai trị của phụ nữ, tơn trọng phụ nữ song Bác cũng luôn nhắc nhở chị
em phải ý thức vai trị, vị thế của mình mà phấn đấu cho mình, cho dân tộc. Bác viết:
“Đảng, Chính phủ và Bác mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa. Hiện nay trong các
ngành, phụ nữ tham gia cịn ít”, Người lưu ý phụ nữ: “Khơng nên ỷ lại vào Đảng,
Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến tin tưởng vào khả năng của


mình, nâng cao tinh thần tập thể, đồn kết giúp đỡ nhau để giải quyết khó khăn trong
cơng tác chính quyền, “Phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập phấn đấu xoá
bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ty, phát triểnt ý chí tự cường, tự lập ”. “ Phải đấu tranh để bảo
vệ quyền lơi của mình”
2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vai trò, vị thế của phụ nữ
trong lãnh đạo, quản lý
Ngay từ những năm 1930, Luận cương Chính trị của Đảng đã đề ra mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình
quyền. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương cũng đề ra:
“Muốn thâu phục cho hết các phần tử phụ nữ thì ngồi sự cơng tác của phụ nữ công
nông ra, Đảng cần phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ, phụ nữ hiệp hội, mục đích
chính là mưu quyền lợi cho phụ nữ, là cho phụ nữ triệt để được giải phóng”. Trên quan
điểm đó, Đảng đã lãnh đạo việc thành lập tổ chức đại diện cho phụ nữ, đó là Hội Liên
Hiệp phụ nữ Việt Nam.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời một năm, Hiến pháp năm
1946, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của Nhà nước đã quy định:
Điều 1: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hịa. Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo.
Điều 9: Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.
Từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi), mặc dù được ban hành vào
những thời điểm khác nhau nhưng quyền bình đẳng nam nữ đã trở thành một nguyên
tắc Hiến pháp và là nội dung xuyên suốt quá trình lập hiến, lập pháp của Việt Nam.

Nguyên tắc này không chỉ được quy định ở một điều luật mang tính chất chung mà
còn đề cập ở rất nhiều điều luật quy định về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, gia đình. Nhà nước và xã hội khơng thừa nhận sự phân biệt, đối xử giữa nam và
nữ trong gia đình cũng như xã hội.


Trên cơ sở quy định của hiến pháp về vấn đề bình đẳng nam nữ và cơng ước
Quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết gần 60 năm qua, đặc biệt là trong
những năm gần đây, một hệ thống các văn bản luật và dưới luật đã khẳng định cả nam
và nữ được hưởng quyền bình đẳng mọi mặt. Quyền bình đẳng của phụ nữ được đặt
trong mối quan hệ với các quyền công dân, quyền con người và trên cơ sở đặc trưng
riêng của phụ nữ. Mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm của
phụ nữ đều bị ngăn cấm.
Tháng 12-1960, lần đầu tiên Đảng ta triệu tập Hội nghị cán bộ phụ nữ để khơi
dậy sức mạnh của phong trào phụ nữ. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III
cũng khẳng định: “Phụ nữ nước ta là một lực lượng quan trọng trong cách mạng và
trong sản xuất. Đảng ta có trách nhiệm lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ’’.
Năm 1967, để đào tạo, đề bạt cán bộ nữ và tăng cường khả năng tham gia quản
lý Nhà nước, khả năng đóng góp của phụ nữ trong xây dựng và phát triển đất nước,
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 152 ngày 10/1/1967 về: “Một
số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận” và Nghị quyết 153 về: “ công tác cán bộ
nữ”.
Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đảng ta lại ban hành chỉ thị số 44-CT/TW ngày
7-6 -1984: "về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”, yêu cầu các cấp, các
ngành thường xuyên quan tâm đến công tác cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ phụ nữ tham gia
công tác lãnh đạo, tăng cường đội ngũ cán bộ nữ.
Năm 1988 Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định 163;
ngày 7/3/2003 được sửa đổi thành nghị định 19/2003 NĐ/CP quy định trách nhiệm của
cơ quan hành chính Nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội LHPN Việt
Nam tham gia quản lý Nhà nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Ban chấp hành Trung ương khóa VI lại ban hành Nghị
quyết số 8B/NQ-TW ngày 23/9/1990 về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cương mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”. Tiếp đó, Bộ chính trị ra Nghị quyết số
04 NQ/TW về: “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình


mới” nhằm khẳng định lại vai trị và vị trí của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội mới: “đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có
tính chiến lược trong tồn bộ cơng tác cán bộ của Đảng và Nhà nước.Trên cơ sở quy
hoạch, có kế hoạch tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ nữ
cống hiến và trưởng thành, phấn đấu tăng tỷ lệ nữ trong các cấp ủy Đảng, cơ quan Nhà
nước, trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, khoa học, nghệ
thuật...Chống coi thường, phân biệt đối xử khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán
bộ nữ”.
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: Phương thức lãnh đạo của Đảng
với nhà nước, đồn thể chính trị - xã hội là bằng cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính
sách, chủ trương, bằng công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra giám sát việc thức hiện.
Tiếp đó, ngày 15/6 1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành chỉ thị số
37/CT-TW “về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” nhằm nhấn
mạnh việc tăng cường cán bộ nữ vào các cương vị lãnh đạo quản lý. Chỉ thị nêu rõ:
“Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội là
một yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của người phụ
nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của người phụ
nữ chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh
giá, đề bạt phụ nữ”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề cập đến nhiệm vụ
xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc IX(2001) cũng xác định :” có cơ chế, chính sách để phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành”.

Có thể nói, xun suốt q trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, dân
chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn quan tâm đến sự phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý cũng như sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.


Trong điều kiện nhà nước pháp quyền, để chủ trương của Đảng đi vào cuộc
sống, Nhà nước ta đã cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng thơng qua các hệ
thống luật pháp, chính sách nhằm khẳng định vai trị, tầm quan trọng của phụ nữ trong
cơng tác lãnh đạo, quản lý.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản có
liên quan đến cơng tác lãnh đạo, quản lý nói chung và cơng tác nữ lãnh đạo quản lý nói
riêng. Về chính sách cán bộ nữ, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm nâng cao tỷ lệ cán
bộ nữ trong các ngành, các đơn vị như: Quy định 51 ngày 3/5/1999 về tuổi bổ nhiệm:
“Cán bộ các cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tuổi bổ
nhiệm lần đầu không quá 50 tuổi đối với nữ”, “Cán bộ các cơ quan huyện, quận và
tương đương, tuổi bổ nhiệm lần đầu nói chung khơng q 45 tuổi đối với cả nam và
nữ”; các chỉ thị số 54 ngày 22/5/2000, chỉ thị số 46 ngày 6/12/2004 của Bộ chính trị quy
định tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ viên các cấp không dưới 15% và về tuổi tham gia cán bộ
chủ chốt nữ (Bí thư, Phó Bí thư) ở cấp tỉnh và Trung ương thực hiện như nam giới.
Hướng dẫn số 07 HD/TC của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn công tác
nhân sự Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999-2004 “về nhân sự đại biểu Hội
đồng nhân dân là nữ tăng khoảng 10% so với hiện nay và đạt ít nhất khơng dưới 20%,
ở các thành phố, tỷ lệ này không dưới 25%”. Quan điểm từ nhiều năm nay của Đảng ta
tiếp tục được khẳng định trong báo cáo chính trị Đại hội IX: “Thực hiện đúng nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về cơng tác cán bộ” và
“thưc hiện tốt luật pháp, chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp,
nâng cao học vấn, có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các
cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em; tạo
điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình

đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã ra Nghị
quyết về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất


nước. Bộ Chính trị ra các Nghị quyết quy định phân cấp quản lý, đánh gía cán bộ, bổ
nhịêm cán bộ trong đó có cán bộ nữ.
Ngày 21 tháng 7 năm 1997 Bộ Chính trị có quy định 07 về quy chế làm việc
của đảng đoàn và ngày 30 tháng 7 năm 1997 có Quy chế làm việc của ban cán sự
đảng....Cách làm này vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được trách
nhiệm của Nhà nước và các đồn thể chính trị xã hội trong cơng tác cán bộ. Để thực
hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, Thủ
tướng chính phủ ra Quyết định số 27/2003 QĐ-TTg ngày 19/2/2003 về quy chế bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại đối với cán bộ công chức làm cơ sở cho các bộ, ngành, UBND các
tỉnh, thành phố thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý cho phù hợp với
điều kiện thực tế.
Cấp ủy đảng các tỉnh, thành phố đã căn cứ vào các Nghị quyết, chỉ thị của
Trung ương để cụ thể hóa cơng tác cán bộ nữ trong các nghị quyết, chỉ thị, trong công
tác vận động quần chúng, công tác tổ chức, cán bộ của Đảng; trong một số luật pháp,
chính sách của Nhà nước, trong chiến lược hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến
năm 2010...
Đảng lãnh đạo thống nhất về quan điểm, đường lối, chính sách, tiêu chuẩn cán
bộ, đảm bảo cho những tư tưởng chỉ đạo đó được nhận thức, quán triệt, chấp hành,
trong công tác cán bộ ở mọi ngành, mọi địa phương trong cả nước, Đảng thống nhất
lãnh đạo, quản lý cán bộ nói chung, cán bộ nữ nói riêng ở chỗ: chỉ đạo phương hướng:
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt và thực hiện
chính sách cán bộ nữ.
Đảng lựa chọn bố trí cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt trong bộ máy chính
quyền, mặt trận tổ quốc, đoàn thể các cấp các ngành theo đúng nguyên tắc, thủ tục của
pháp luật, điều lệ của mặt trận và các đoàn thể.

III. Những điều kiện cần thiết để phụ nữ tham gia tích cực vào đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
1. Được xã hội tôn trọng và nam giới quan tâm


×