MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 5-8-2003 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) ra Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải
Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự kiện có
ý nghĩa lịch sử mở ra giai đoạn phát triển mới của thành phố. Nghị quyết nhấn
mạnh: Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm cấp
quốc gia, đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía
Bắc, một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc, một
động lực phát triển kinh tế biển, một trong những trung tâm công nghiệp, thương
mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục, y tế của
vùng duyên hải Bắc Bộ
Trong những năm đổi mới Hải Phòng đã có bước phát triển mạnh mẽ về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
thành phố được nâng lên rõ rệt. Các hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương
mại, du lịch, dịch vụ, giáo dục, thông tin, văn hóa thể thao diễn ra sôi động,
thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư thành phố.
Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, có khu du lịch
biển, đảo (Đồ Sơn, Cát Bà ) là những địa điểm rất thuận lợi cho việc khai
thác, tổ chức các hoạt động văn hóa giải trí cho nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát
triển các phương tiện thông tin đại chúng, sự đa dạng của hệ thống thiết chế
văn hóa: Bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, cung văn hoá, nhà thi đấu TDTT, sự
sôi động trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật đã đáp ứng nhu cầu tinh
thần ngày càng phong phú và đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần giữ
ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
1
tích đã đạt được trong phát triển văn hoá, thành phố Hải Phòng cũng còn có những
tồn tại, yếu kém trong hoạt động này:
- Một số cấp, ngành thành phố chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò
của văn hoá, văn hoá giải trí, còn quá coi trọng khía cạnh kinh tế trong lĩnh vực
giải trí, coi nhẹ yếu tố văn hóa, cảnh quan, môi trường.
- Quá trình đô thị hoá nhanh khiến diện tích đất dành cho các hoạt động
giải trí công cộng (nhất là dành cho trẻ em) ngày càng bị thu hẹp lại. Một số
cấp, ngành, đơn vị, đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến việc đẩy mạnh hoạt
động văn hóa vui chơi giải trí cho người dân nên dẫn đến tình trạng thiếu điểm
vui chơi giải trí và các nội dung hoạt động phù hợp, hoặc xuất hiện các loại
hình trò chơi, cách chơi gây tổn hại tới sức khoẻ, tới kinh tế, tới việc hình
thành nhân cách, ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, nhiều doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước
ngoài ra đời, số lượng công nhân lao động tăng nhanh nhưng tại nhiều doanh
nghiệp, công nhân lao động phải làm việc trong những điều kiện hết sức khắc
nghiệt, thời gian lao động và cường độ lao động cao, thu nhập thấp, ít được
quan tâm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần, nhu cầu vui chơi giải trí nhằm tái
sản xuất sức lao động. Có thể nói văn hóa giải trí cho số công nhân lao động ở
đây còn rất ít được quan tâm, chú ý.
- Thành phố chưa phát huy hết các tiềm năng hiện có để phát triển lĩnh
vực vui chơi giải trí như các tiềm năng trong du lịch, dịch vụ văn hoá công
cộng, văn hoá nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng Chưa huy động
được tốt các nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực vui
chơi giải trí.
Những tồn tại nêu trên cần sớm được khắc phục nhằm thúc đẩy sự phát
triển văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. Việc lựa chọn
và nghiên cứu đề tài "Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ
2
đổi mới hiện nay" sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực
trạng hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua, từ
đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đưa văn hoá giải trí ở Hải Phòng
trong thời gian tới tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần đáp ứng
nhu cầu văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú của các tầng lớp nhân dân thành
phố.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu văn hóa giải trí và các hoạt
động văn hoá vui chơi giải trí đã được một số nhà nghiên cứu, lý luận văn hóa,
quản lý văn hóa quan tâm, đã có một số đề tài, công trình của các tác giả đi
trước đề cập đến những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
- Đề tài "Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở
Hà Nội - thực trạng và giải pháp" do PGS.TS Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm,
Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội là cơ quan chủ trì, thực hiện năm 2003 và công
trình "Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những vấn đề lý luận và
thực tiễn"do PGS.TS Phạm Duy Đức (chủ biên) [22] đã phân tích một số vấn
đề lý luận về văn hoá giải trí, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở
Hà Nội và đề xuất các giải pháp phát triển các hoạt động văn hoá giải trí ở Hà
Nội nói riêng, ở đô thị nước ta nói chung.
- Luận án tiến sĩ xã hội học của Đinh Thị Vân Chi, "Nhu cầu giải trí của
thanh niên. Nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu
cầu giải trí tại Hà Nội" [9] hoàn thành năm 2001 đã xác định quan niệm về
giải trí và nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội, các giải pháp đáp ứng nhu
cầu giải trí trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Công trình, Vai trò của văn hóa dân gian trong các sân chơi trên truyền
hình của PGS,TS. Trần Thị Trâm [49] đã khai thác các khía cạnh của văn hóa dân
gian trong việc tổ chức các trò chơi giải trí trên truyền hình.
3
Về xây dựng và phát triển văn hoá ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu.
Luận văn thạc sỹ Văn hoá học " Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn
hoá, Nhà văn hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay" [7] hoàn thành năm
1998 và Luận án tiến sỹ Lịch sử " Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố
văn hoá trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước" [8] của tác giả Nguyễn Văn Bính, hoàn thành năm 2003 đã lấy Hải
Phòng làm đối tượng khảo sát chủ yếu. Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị -
Học viện CTQG Hồ Chí Minh (khoá 2000 - 2004) của tác giả Hoàng Đình Thi
đã nghiên cứu "Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" [45]. Công trình "Lễ hội
truyền thống văn hoá tiêu biểu Hải Phòng" do tác giả Trịnh Minh Hiên (chủ
biên) [24] đã đề cập đến một số lĩnh vực của văn hoá giải trí ở Hải Phòng như:
Lễ hội dân gian, các phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn
hoá Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh về văn hóa
và văn hoá giải trí của thành phố Hải Phòng, đến lượt mình, chúng tôi sẽ đi sâu
hơn trong việc tái hiện bức tranh toàn cảnh về văn hoá giải trí ở thành phố Hải
Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích bản chất, chức năng của văn hóa giải trí và vai trò
của văn hoá giải trí, đề tài đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động văn hóa giải trí
ở Thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động văn
hóa giải trí, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân
dân, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy sự phát triển KT -
XH, văn hoá của thành phố Cảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
4
- Phân tích bản chất của văn hóa giải trí, vai trò của văn hóa giải trí trong
đời sống xã hội và sự phát triển, hoàn thiện con người.
- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
của văn hóa giải trí hướng tới xây dựng con người Hải Phòng năng động, sáng
tạo trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng
- Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa giải trí là một vấn đề rộng lớn. Vì vậy đề
tài chỉ tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về văn hóa giải trí và phân
tích, đánh giá thực trạng hoạt động của văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng
trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay. Các phương hướng và giải pháp được
đề xuất hướng tới năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là:
phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê và
điều tra xã hội học, phương pháp liên ngành (đô thị học, văn hoá học, xã hội
học ).
6- Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Làm sáng tỏ hơn khái niệm, đặc trưng, bản chất của văn hóa giải trí và
vai trò của văn hoá giải trí đối với việc xây dựng, hoàn thiện con người và phát
triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời
gian qua.
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa giải trí
ở Thành phố Hải Phòng trong những năm tới.
5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Về phương diện lý luận:
- Nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của văn hóa giải trí trong việc nâng cao
đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, phát triển KT - XH, xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
* Về phương diện thực tiễn :
Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo
cho việc tìm hiểu hoạt động văn hoá giải trí, và công tác lãnh đạo và quản lý
văn hóa hiện nay ở Thành phố Hải Phòng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Vai trò của văn hoá giải trí trong đời sống xã hội hiện đại.
Chương 2: Thực trạng văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời
kỳ đổi mới hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở Hải
Phòng thời kỳ 2006 - 2010.
6
Chương 1
VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA GIẢI TRÍ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HOÁ GIẢI TRÍ
1.1.1. Quan niệm về giải trí
Giải trí là một từ Hán - Việt. "Từ điển Hán - Việt" của cụ Đào Duy Anh
giải thích: Giải trí là khi làm việc rỗi, làm cho trí não được khoan khoái, gần
nghĩa với giải trí là tiêu khiển, tiêu khiển là giải muộn, khuây sầu. Giải trí còn
đồng nghĩa với vui chơi cho nên người ta thường nói vui chơi, giải trí.
Hoạt động giải trí bắt nguồn từ nhu cầu (giải trí). Nhu cầu là đòi hỏi điều
gì đó cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con
người, của nhóm xã hội hoặc toàn XH nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của
hành động. Nhu cầu không chỉ mang tính sinh học, nhằm đáp ứng những đòi
hỏi sinh học của con người, nhu cầu còn mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ: Thứ
nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân nhưng nhu cầu chỉ có thể được đáp ứng nhờ
nền sản xuất xã hội, bị nền sản xuất đó quy định, và vì vậy chúng mang tính xã
hội rõ nét. Các nền sản xuất khác nhau nên nhu cầu được thoả mãn theo sự quy
định của nền sản xuất đó cũng khác nhau. Thứ hai, cũng những nhu cầu như
nhau nhưng mỗi thời đại được đáp ứng theo những cách khác nhau, phù hợp
với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã hội đó, C.Mác đã từng nói: Cùng
là cái đói, nhưng cái đói được thoả mãn bằng dĩa và dao khác với cái đói ngốn
ngấu thịt sống bằng bàn tay, móng tay và răng, và thứ ba, nhu cầu còn được
đáp ứng trong khuôn khổ phong tục tập quán (văn hoá) của cộng đồng và bị
quy định bởi văn hoá cộng đồng.
Khi nghiên cứu về nhu cầu các tác giả đều thống nhất rằng, nhu cầu là
nguồn gốc mọi hành động của con người. Khi một nhu cầu xuất hiện, sẽ hình
7
thành trong con người một động cơ, thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu
đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng Freud khẳng định rằng mọi hiện tượng tâm lý
(trong đó có nhu cầu) đều có nguồn năng lượng nuôi dưỡng, càng nhiều nhu
cầu thì nguồn năng lượng trong cơ thể càng lớn. Nguồn năng lượng này tuân
theo quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng cần được sử dụng hết. Nếu
không được sử dụng hoặc bị dồn nén, năng lượng đó sẽ tìm cách giải toả trong
giấc mơ, trong các hành động lố lăng, phá phách Còn khi được sử dụng đúng
cách, nó có thể thăng hoa và giúp các thiên tài làm nên những kiệt tác nghệ
thuật. Và con người chỉ có thể phát triển toàn diện khi các nhu cầu của mình
được đáp ứng đầy đủ. Trong trường hợp ngược lại sẽ bị kìm hãm và không thể
phát triển hoặc phát triển lệch lạc.
Nhu cầu giải trí, với tư cách là một nhu cầu của con người, thể hiện trên
hai khía cạnh:
- Ở khía cạnh sinh học: Sự thoả mãn nhu cầu giải trí là điều kiện để cơ
thể phục hồi sức khoẻ sau quá trình lao động, lấy lại thăng bằng tâm - sinh lý
để cơ thể tiếp tục làm việc.
- Ở khía cạnh xã hội: Con người giải trí không phải chỉ để giải trí. Mọi
hoạt động của con người đều có mục đích, và bởi vậy, giải trí cũng mang lại
cho họ sự phát triển về trí tuệ và nhân cách, sự thư thái, sảng khoái và những
khoái cảm thẩm mỹ.
Như vậy khi nhu cầu giải trí được đáp ứng thoả đáng thì trí não được thư
giãn, tinh thần được thanh thản, tâm hồn thêm trong sáng, đời sống cảm xúc
thêm phong phú với nhiều rung cảm thẩm mỹ, sự phát triển của con người trở
nên toàn diện. Ngược lại, khi nhu cầu giải trí không được đáp ứng đầy đủ,
đúng đắn sẽ có nguy cơ làm con người "tha hoá " trong hoạt động sống.
Hoạt động giải trí thường diễn ra trong thời gian rỗi. Thời gian rỗi - đó là
khoảng thời gian riêng - được dành cho các hoạt động cá nhân, trong đó có
8
hoạt động giải trí. Theo C. Mác, quỹ thời gian của xã hội và cá nhân được phân
chia thành thời gian lao động và thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng
thời gian tất yếu mà mỗi cá nhân buộc phải thực hiện công việc lao động để
bảo đảm sự sinh tồn. Thời gian tự do là khoảng thời gian còn lại ngoài thời gian
lao động, dành cho những hoạt động mà cá nhân có quyền tự quyết định. Với C.
Mác, khái niệm "thời gian rỗi" chưa xuất hiện, bởi khi đó các hoạt động giải trí
chưa phong phú, công nghiệp giải trí chưa ra đời. Tuy vậy C.Mác cũng đã từng
coi thời gian tự do là khoảng thời gian dành cho sự thoải mái, cho giải trí, và mở
ra một khoảng không cho những hoạt động tự do của con người [dẫn theo 9, tr
23].
Theo nhà nghiên cứu văn hoá Đoàn Văn Chúc [10, tr. 224 - 225] thì
trong bất kỳ xã hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực
hiện:
- Những hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của cá nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dạy
con cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè Đó là nghĩa vụ cá
nhân của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu
nướng, ăn uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân đó là hoạt động thoả mãn nhu
cầu cá nhân của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng
thức nghệ thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo Đó là hoạt động thoả
mãn nhu cầu tinh thần của mỗi người.
Dạng hoạt động thứ nhất được thực hiện theo quy tắc chung của xã hội
không thể tuỳ tiện theo ý thích hoặc hoàn cảnh cá nhân. Nó được xác định một
9
cách nghiêm ngặt và được diễn ra trong một khoảng thời gian dành riêng, với
thời điểm và độ lớn được quy định chặt chẽ, mà C.Mác gọi là thời gian tất yếu.
Ba dạng hoạt động còn lại cũng không thể thiếu, nhưng chúng được thực
hiện một cách linh hoạt tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân. Chúng được
diễn ra trong khoảng thời gian còn lại sau khi đã trừ đi thời gian tất yếu.
Khoảng thời gian dành cho những hoạt động đó được gọi là thời gian tự do,
nghĩa là thời gian mà xã hội dành cho cá nhân quyền tự do sử dụng.
Trong ba hoạt động trên thì hoạt động thứ tư mang tính tự do hơn cả. Nó
không gắn với sự thúc bách sinh học nào, cũng không hề mang tính cưỡng bức.
Nó là hoạt động hoàn toàn tự do mà cá nhân có toàn quyền lựa chọn theo sở
thích, trong khuôn khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những
hoạt động nghĩa vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời
cũng là hoạt động không vụ lợi, nhằm mục đích giải toả căng thẳng thể chất và
tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh thản trong tâm hồn, và cao hơn nữa là
đạt tới những rung cảm thẩm mỹ. Với tính chất đặc biệt như vậy, để phân biệt
với các hoạt động trên, người ta gọi nó là hoạt động giải trí và thời gian dành
cho hoạt động giải trí được gọi là thời gian rỗi.
Thời gian rỗi được coi là khái niệm đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa
là "phần thời gian ngoài lao động của cá nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã
trừ đi chi phí thời gian cho những hoạt động cần thiết không thể thiếu" và
"Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con người không bị thúc bách bởi
các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ khách quan nào. Nó
được dành cho các hoạt động tự nguyện, theo sở thích của chủ thể nhằm thoả mãn
nhu cầu tinh thần của con ngườii (hoạt động giải trí)" [dẫn theo 9, tr.23].
Như vậy có thể thấy giải trí là một dạng hoạt động cơ bản của con
người, đáp ứng những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí
10
tuệ và thẩm mỹ. Giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu
cầu của đời sống cộng đồng, xã hội.
Giải trí - đó là sự giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt
tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ.
Giải trí là dạng hoạt động không vụ lợi, nó là hoạt động nhằm thoả mãn nhu
cầu tinh thần của con người:Thư giãn,giải thoát sầu muộn, tìm trạng thái hưng
phấn, vui thích.
Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, người nông dân lao động theo
thời vụ vì vậy các hoạt động giải trí thường diễn ra sau vụ thu hoạch hoặc
trong lúc nông nhàn.
Trong xã hội công nghiệp, giải trí thường gắn liền với các hoạt động
trong thời gian rỗi. Cho nên các từ như Leisure (tiếng Anh) hay Docur (tiếng
Nga) lúc đầu có nghĩa là thời gian rỗi, sau chuyển thành hoạt động trong thời
gian rỗi (gọi tắt là hoạt động rỗi), tức là sự giải trí hay hoạt động giải trí.
Đặc trưng nổi bật của xã hội công nghiệp là sự năng động xã hội, lao
động căng thẳng và diễn ra với tiết tấu nhanh, phân công lao động cụ thể, do
vậy hoạt động giải trí trong xã hội công nghiệp có nhiều nội dung mới. Nếu
như hoạt động vui chơi giải trí của xã hội nông nghiệp phần lớn thường nhẹ
nhàng, tiết tấu chậm rãi và thường không sôi động lắm (đánh đu, thả diều, chọi
chim, chọi gà, chọi dế ) thì các hoạt động vui chơi giải trí ở xã hội công nghiệp
thường diễn ra hết sức sôi động với tiết tấu nhanh, mạnh (Bóng đá, các cuộc thi
thể thao như điền kinh, bơi lội, quần vợt các hoạt động giải trí tìm "cảm giác
mạnh", phiêu lưu, mạo hiểm ). Những hoạt động này hoàn toàn phù hợp với
xã hội công nghiệp, góp phần giải toả những căng thẳng tâm thần, lập lại thế
cân bằng nội tại nhằm tái sản xuất sức lao động.
Chúng ta biết rằng, giải trí là hoạt động diễn ra trong thời gian rỗi,
nhưng không phải bất cứ hoạt động nào được thực hiện trong thời gian rỗi đều
11
là giải trí. Trong thời gian rỗi người ta có thể làm nhiều việc khác nhau: Có
người tranh thủ làm thêm để kiếm sống hoặc học thêm để nâng cao trình độ
(khi đó thời gian rỗi đã bị biến thành thời gian lao động); cũng có người dùng
thời gian rỗi để thực hiện những hoạt động không có tác dụng gì nhiều đối với
sự phát triển toàn diện con người, thậm chí là vô bổ hoặc có hại (la cà hàng
quán, rong chơi không mục đích hoặc sa vào các tệ nạn xã hội ) Những hoạt
động lệch chuẩn như vậy không thuộc nội hàm khái niệm giải trí. Hoạt động
giải trí là những hoạt động của con người nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh
thần và phát triển toàn diện con người.
Giải trí hoàn toàn không phải sự nghỉ ngơi thụ động của con người mà là
những hoạt động mang tính chủ động. Nó là những hoạt động hoàn toàn tự do,
do mỗi cá nhân tự lựa chọn và tham gia một cách chủ động. Nhân tố quyết
định mang tính tiên quyết là sở thích cá nhân (với điều kiện phù hợp hệ chuẩn
mực và hoàn cảnh thực tế khách quan của xã hội) Bởi vậy, sự nghỉ ngơi thụ
động không phải là giải trí. " Nghỉ " là sự ngừng làm việc, ngừng hoạt động
nhằm lấy lại sức lực vật chất, sự thăng bằng tâm sinh lý để có thể tiếp tục làm
việc sau đó. Tất nhiên, lúc nghỉ có thể đọc báo, nghe nhạc nhưng đó chỉ là
phụ, điều chính yếu là để cơ thể không hoạt động (nhưng nghỉ cũng khác với
ngủ vào ban đêm). Nghỉ thuộc dạng hoạt động thứ ba và mang tính thụ động,
trong khi giải trí thuộc dạng thứ tư (nằm trong phạm vi hoạt động tinh thần)
mang tính chủ động và tích cực.
Vui chơi giải trí là nhu cầu văn hoá cơ bản của con người (cá nhân và
cộng đồng) nhằm giải toả những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù
đắp những thiếu hụt và mất mát về sức khoẻ và tinh thần, tạo điều kiện để con
người phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tình cảm thẩm mỹ, thoả mãn nhu
cầu tinh thần ngày càng cao của con người.
12
Trong vòng đời của con người, vui chơi giải trí gắn bó suốt đời người.
Lịch sử phát triển của loài người đã cho thấy các hoạt động vui chơi giải trí
gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người và xã hội ngày càng phát triển,
các hoạt động vui chơi giải trí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội. Không một dân tộc nào, dù trình độ phát triển cao thấp đến đâu,
lại không có các hoạt động vui chơi giải trí. Sử sách đã nói nhiều về tính chất
đam mê kỳ diệu của các lễ hội, dù đó là hội Fiesta - đấu bò tót hàng năm tại
thành phố Pamplona ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, là lễ hội Carnavan mê
say, điên cuồng thâu đêm ở Italia hay Braxin, là lễ hội Thai Pusam của người
Đơ - ra - vi -điêng (Đravidiens) ở miền Nam Ấn Độ, hoặc như lễ hội nhảy múa
của cư dân Châu Phi. Người da đen châu Phi thường đắm mình trong những
điệu múa rực lửa, ngây ngất như hoà điệu với tiết tấu của vũ trụ Góp vào
tiếng nói đam mê của lễ hội, có thể kể đến những ngày hội đâm trâu ở vùng đất
Tây Nguyên hùng vĩ, ở hội "chọi trâu" Đồ Sơn (Hải Phòng), ở những đêm
quan họ thâu đêm ở làng Lim (Bắc Ninh), hay những cuộc "đua trải" sôi động
vùng sông nước Nam Bộ.
Bước sang xã hội công nghiệp, các hoạt động vui chơi giải trí không hề
giảm đi mà còn phát triển rầm rộ cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế.
Đuy -ma -dơ-đi-ê - nhà xã hội học người Pháp coi giải trí như là sự biến đổi về
chất của xã hội công nghiệp, từ chỗ bị bóc lột thô bạo bằng việc kéo dài thời
gian lao động, người công nhân đã có quyền nghỉ ngơi mà vẫn hưởng lương.
Ông tiên đoán về triển vọng của xã hội hậu công nghiệp sẽ là một " xã hội giải
trí", trong đó thời gian lao động được rút ngắn một cách tối thiểu, thời gian rỗi
được tăng lên, mối quan tâm của xã hội không phải là làm gì để sống, mà là
làm thế nào để giải trí tốt hơn [dẫn theo 9, tr.24].
Có thể hiểu được Đumagdier thông qua dự đoán của C Mác, rằng trong
xã hội tương lai, lao động không còn là cực nhọc, mà là lao động sáng tạo, lao
13
động mang lại niềm vui và trở thành một hình thức giải trí. Nhờ có những tiến
bộ của khoa học công nghệ mà năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động
ngày càng cao, tạo điều kiện cho con người thoát khỏi sự nặng nhọc, vất vả của
lao động, thời gian rỗi nhiều hơn, con người có nhiều hơn các hoạt động giải
trí nhằm phát triển nhân cách hài hoà và toàn diện.
Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ những tham vọng
muốn đạt lợi nhuận tối đa, các nhà tư bản đã thúc ép công nhân gia tăng cường
độ làm việc, khiến họ bị suy kiệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, đã
xuất hiện các phong trào đấu tranh của công nhân đòi được giảm giờ làm và
tăng thời gian giành cho hoạt động nghỉ ngơi, giải trí. Năm 1883, Pôn La
-phac-gơ - con rể của C.Mác viết cuốn sách "Quyền được hưởng nhàn" (Le
droit à la paresse) để ủng hộ cuộc đấu tranh của những người lao động. Ở
Pháp, vào năm 1900 có Luật Min-lơ-răng (Millerand) thiết lập chế độ ngày
làm việc 10giờ. Năm 1906 mới đề ra chế độ nghỉ bắt buộc 1 ngày trong tuần.
Năm 1910 có luật hưu trí đối với công nhân. Cũng vào thời gian này, quốc tế
XHCN phát động cuộc đấu tranh với khẩu hiệu: 8 giờ lao động, 8 giờ nghỉ ngơi
và 8 giờ giải trí. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi, bắt đầu từ đây, người lao động
mỗi ngày làm việc 8 giờ [dẫn theo 22, tr.17].
Tuy nhiên, trong 8 giờ giải trí, người ta còn phải làm một số công việc
tất yếu như: nấu ăn, tắm rửa, săn sóc con cái Các công việc trên đã tiêu tốn
hết 4 - 5 giờ/ngày, còn lại 3 - 4 giờ/ngày gọi là thời gian tự do. Đây mới thực là
thời gian dành cho các hoạt động giải trí.
Đương thời, C.Mác rất quan tâm đến khái niệm "thời gian tự do" của
người lao động. Ông cho rằng:
Tiết kiệm thì giờ lao động là tăng thêm thì giờ tự do, tức là thì
giờ dành cho sự phát triển toàn diện cá nhân, sự phát triển tác dụng
trở lại sức lao động và làm tăng sức lao động, về phương diện sự sản
14
xuất trực tiếp, thì giờ tiết kiệm được có thể coi là dùng để sản xuất ra
vốn cố định, một vốn cố định làm nên con người [dẫn theo 22, tr.18].
Năm 1936 thoả ước Ma-ti-nhông (Matignon) ra đời, quy định mỗi tuần
làm việc 40 giờ, cuối tuần có hai ngày nghỉ. Trong xã hội xuất hiện từ ("Week
end" - Những ngày nghỉ cuối tuần, như một phong tục mới, ra đời và vận hành
tại một số nước công nghiệp phát triển). Từ đó, người ta bắt đầu ý thức về
phương thức sử dụng vốn thời gian tự do của mỗi con người. Các nhà xã hội
học đã chia ra như sau:
- Thời gian tự do cấp ngày: 3 - 4 giờ.
- Thời gian tự do cấp tuần: 2 ngày nghỉ.
- Thời gian tự do cấp năm: những ngày nghỉ phép và những ngày nghỉ
vào dịp lễ, tết.
- Thời gian tự do cấp đời người: Số năm về hưu sau khi đã hết tuổi làm việc.
Ở nước ta, tuy năng suất lao động chưa thật cao, ngân sách nhà nước
cũng còn nhiều khó khăn, nhưng từ năm 1999 Chính phủ đã có quyết định cán
bộ, công chức, viên chức mỗi tuần làm việc 5 ngày (40 giờ), nghỉ cả ngày thứ
bẩy và chủ nhật. Cùng với việc tăng lượng thời gian rỗi cuối tuần, Nhà nước đã
giành những khoản ngân sách lớn cho việc xây dựng các khu công viên, các
khu du lịch, các trung tâm văn hoá - thể thao và các thiết chế văn hoá giải trí
khác. Nhà nước cũng đã gia tăng mức lương tối thiểu của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức Đến thời điểm tháng 10/2006 mức tăng đã là 450.000đ.
Những việc này đã góp phần cải thiện và nâng cao hơn về mức sống của nhân
dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia ngày càng nhiều hơn vào
các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí.
Có thể nói, vui chơi giải trí hiện nay đã trở thành một hoạt động xã hội
khá phổ biến, hơn thế, nó còn trở thành một hướng đi đầy triển vọng trong hoạt
động kinh tế của đất nước Chính vì vậy, hoạt động vui chơi giải trí đã được
15
Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X đã nêu rõ:
Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật,
tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây
dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng
công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống nhà văn hoá, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện, phòng
đọc, điểm bưu điện - văn hoá xã, khu vui chơi, giải trí [19, tr.106 -
107].
Như vậy, có thể nói rằng: Giải trí là một dạng hoạt động xã hội của con
người, diễn ra trong thời gian rỗi nhằm giải toả những căng thẳng về trí não,
thể lực; đáp ứng các nhu cầu về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ , tạo ra sự
cân bằng tâm-sinh lý, nâng cao năng lực tinh thần và thể chất cho con người.
1.1.2. Quan niệm văn hoá giải trí
Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và ngừng
được mở rộng cả về nội hàm cùng ngoại diên của nó. Theo người Trung Hoa
cổ đại thì “văn hoá" là sự kết hợp giữa "vẻ đẹp” và "giáo hoá " đựơc dùng để
chỉ một triều đại có sự thống trị "đẹp đẽ" dùng "văn trị” và "giáo hoá", tức là
sự thống trị dựa trên sự giáo dục, thuyết phục con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại
thì thuật ngữ "cultus " tức là gieo trồng, ban đầu có nghĩa gieo trồng ngoài
đồng ruộng, (cultus agree) sau được dùng với nghĩa là gieo trồng tinh thần
(cultus animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu, nuôi dưỡng bản chất, phẩm giá
của con người theo những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ, cái văn minh
Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phong phú. Năm 1952
A.L Kroeber và C.L Kluckhohn đã trích lục được khoảng ba trăm định nghĩa
văn hoá của các tác giả ở nhiều nước khác nhau. Đến nay đã có thêm hàng
trăm định nghĩa nữa về văn hoá. Nhưng hầu như tất cả đều quan niệm văn hoá
16
gắn liền với bản chất, năng lực của con người, với con người, nói cách khác, hệ
thống các giá trị tinh thần và giá trị vật chất do con người sáng tạo ra - văn hoá,
trở thành một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội.
"Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa: "Văn hoá - toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trrình thực
tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã
hội. Theo nghĩa hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật,
kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất ) và văn hoá tinh thần (khoa học, nghệ
thuật và văn hoá, triết học, đạo đức, giáo dục ). Văn hoá là một hiện tượng lịch
sử, phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội" [35, tr.656].
Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO)
nhìn nhận văn hoá với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một phức thể, tổng thể các
đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm khắc hoạ nên
bản sắc của một cộng đồng: "Văn hoá là tổng thể những biểu trưng (ký hiệu)
chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy
có đặc thù riêng Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự
việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay
sai ) theo cộng đồng ấy" [dẫn theo 44, tr.14].
Đại Bách khoa thư Xô Viết [16] đã coi văn hoá là: Trình độ phát triển về
mặt lịch sử của xã hội và con người trong các dạng thức tổ chức đời sống và
hoạt động của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra. Khái niệm văn hoá dùng để phân định trình độ phát
triển vật chất và tinh thần của các thời đại lịch sử nhất định, các hình thái kinh
tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (chẳng hạn văn hoá cổ đại,
văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá Maya ) cũng như chỉ một đặc thù hay lĩnh
vực của đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ thuật, văn hoá đời sống )
17
Theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ “văn hoá "chỉ liên quan tới lĩnh vực đời sống
tinh thần của con người.
Ở Việt Nam, từ năm 1942 -1943, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan
niệm về văn hoá như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [30, tr.431].
Chúng ta đã biết rằng: Giải trí là một nhu cầu, một hoạt động văn hoá của
con người. Giải trí mang ý nghĩa bao trùm là các hình thức vui chơi, thưởng
thức. Hơn thế nữa, cái đích cuối cùng của giải trí là giải toả những căng thẳng
về thể chất và tinh thần, đạt tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là
những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu
tinh thần lành mạnh và bổ ích của con người. Có những hoạt động thoạt nhìn
có vẻ là giải trí nhưng vì lý do nào đó mà không đạt được tới mục đích trên,
đều không phải (hoặc không còn là) giải trí. Ví dụ, hoạt động chơi bài, nếu đó
là hoạt động không vụ lợi, chỉ để tiêu khiển, giải toả căng thẳng tinh thần hoặc
thể chất thì là hoạt động giải trí. Nhưng nếu lại gắn với mục đích kinh tế (ăn
tiền) hoặc vụ lợi (cá cược) thì không còn là giải trí nữa. Như vậy, hoạt động
giải trí là những hoạt động tạo cho cá nhân một đời sống tinh thần trong sáng,
lành mạnh, phấn chấn giúp họ phát triển toàn diện. Giải trí là những hoạt
động thuộc đời sống văn hoá - tinh thần. Như vậy có thể coi " Văn hoá giải trí"
18
(văn hoá vui chơi giải trí) là một trong những yếu tố của cấu trúc chỉnh thể của
văn hoá cộng đồng.
Nói "văn hoá giải trí" cũng tức là “văn hoá vui chơi", "văn hoá vui chơi
giải trí" cũng có thể hiểu là hoạt động vui chơi, giải trí có văn hoá, bằng các
hoạt động và sản phẩm văn hoá và thông qua hoạt động giải trí nhằm xây
dựng, hoàn thiện nhân cách con người.
Ở đây, ta có thể phân loại các hoạt động văn hoá giải trí theo nhiều tiêu
chí khác nhau:
+ Theo chức năng của các hoạt động: Có hoạt động giải toả căng thẳng
thể chất (thể dục thể thao ) hoạt động giải toả căng thẳng tinh thần (nghe
nhạc, dạo chơi, giao tiếp ), hoạt động nhằm đạt khoái cảm thẩm mỹ (thưởng
thức nghệ thuật).
+ Theo chủ thể tổ chức hoạt động: Có hoạt động cá nhân (nghe nhạc,
làm thơ, đọc sách báo ) hoạt động trong nhóm hạn chế (giao lưu với bạn bè,
tham gia các hoạt động cùng với họ ) hoạt động tập thể (hoạt động cùng các
bạn đồng nghiệp hoặc trong một tổ chức đoàn thể nào đó ), hoạt động công
cộng ngoài xã hội.
+ Theo địa điểm hoạt động: Có hoạt động giải trí tại gia đình, hoạt động
giải trí tại nơi làm việc, hoạt động giải trí ngoài xã hội.
+ Theo hình thức hoạt động: Có những hoạt động chơi (chơi các trò chơi,
dạo chơi ) hoạt động TDTT, tham quan, du lịch, những hoạt động thoả mãn
nhu cầu thưởng thức nghệ thuật (xem phim, ca nhạc, sân khấu ) những hoạt
động sáng tạo nghệ thuật (tham gia các CLB năng khiếu hoặc các hoạt động
nghệ thuật nghiệp dư ); những hoạt động thoả mãn nhu cầu giao tiếp (gặp gỡ
bạn bè, trò chuyện, tâm sự ) những hoạt động thoả mãn nhu cầu niềm tin
19
(tham gia các sinh hoạt tôn giáo, tham gia các lễ hội hoặc các hoạt động tôn
giáo tín ngưỡng khác ).
Để thấy rõ hơn rõ khái niệm “văn hoá giải trí" hay “văn hoá vui chơi giải
trí” cần nhận thức hơn về nội dung bản chất của vui chơi giải trí.
Trò chơi - đó là hoạt động mang tính tự nguyện nhưng có ý nghĩa xã hội.
Trong các hoạt động giải trí của con người, hoạt động vui chơi chiếm một vị trí
hết sức quan trọng. Phân tích sự chơi theo lý thuyết hoạt động, nhận thấy có ít
nhất 4 dạng hoạt động chơi là:
Hoạt động chơi không đối tượng - là hoạt động ngẫu hứng, chơi một
mình, đối tượng của sự chơi là nhằm vào bản thân người chơi như "đi dạo”,
"du xuân”, "câu cá ""đánh cờ một mình ", đối thoại với bản thân mình.
Hoạt động chơi với đối tượng là đồ vật hoặc động vật. Ví dụ: chơi đàn ghi
ta, trẻ em chơi búp bê, người già chơi cây cảnh, chơi chim
Chơi với đối tượng là máy điện tử. Gọi là “trò chơi ảo”, nin-ten-đo, chơi
trên máy vi tính, chơi trên mạng là thuộc dạng này.
Chơi với đối tượng là con người - một hay nhiều người: Ví dụ: Chơi cờ,
chơi bóng chuyền, bóng đá đây là sự chơi bằng trò chơi - một hình thức phát
triển đa dạng nhất trong lĩnh vực giải trí của con người.
Nếu như ba dạng trên là chơi một mình, thì dạng thứ tư là chơi tập thể
(giao tiếp tập thể), cuộc chơi có nội dung thi đấu, nên phải xây dựng thể chế và
có trọng tài điều khiển.
Hoạt động chơi về bản chất là mang tính vô tư, đặc điểm của nó là ngẫu
hứng, bất ngờ và đôi khi nghịch lý, nó chống lại tính máy móc trong cuộc sống
thường nhật và sự áp đặt của tập quán xã hội.
Hoạt động chơi còn nhằm rèn luyện, tập dượt con người. Nó rất cần thiết
để con người vượt qua những trở ngại, khó khăn, nó còn là bài học về chữ
"nhẫn ", "thắng không kiêu, bại không nản", nó làm cho con người trầm tĩnh,
thư thái hơn. Khía cạnh quan trọng nhất của nhu cầu chơi là nhằm bù đắp
20
những cái mà con người không thể tìm thấy trong đời sống thực tiễn. Chẳng
hạn như, khi con người có nhu cầu sống với quá khứ tổ tiên thì không gì hơn là
tham gia vào vai diễn của các nhân vật lịch sử
Các giá trị mà mỗi cuộc chơi mang lại là sự công bằng, bình đẳng và
minh bạch (công khai). Sự công bằng biểu thị ở chỗ mọi người tham gia cuộc
thi đều có thể thắng, hoặc có thể thua, không hề có sự ưu tiên cho bất cứ đối
tượng nào. Sự bình đẳng trong cuộc chơi biểu hiện ở chỗ mọi người tham gia
cuộc chơi đều có điều kiện ngang nhau trong cuộc tranh tài. Trong cuộc đua
tranh quyết liệt này, người giỏi sẽ thắng, người kém sẽ thua; đối với những trò
chơi có sự may rủi thì: vận may sẽ thắng, vận rủi sẽ thua, không có ngoại lệ.
Đây là một chân lý hiển nhiên mà mọi người trong cuộc chơi đều thừa nhận.
Sự minh bạch ở đây còn là sự giám sát xã hội. Những người được cử ra
làm "trọng tài” cho cuộc chơi phải thật “công tâm”, mọi xử lý phải trình ra
công khai trước sự chứng kiến của mọi người. Sự khuất tất sẽ làm cho cuộc
chơi trở nên mất hết ý nghĩa.
Tóm lại, trong cuộc chơi những người tham gia chơi hết mình theo
đúng luật chơi, những người trọng tài xử lý công tâm theo luật định, các
“Fan” (khán giả) cổ vũ “vô tư”, làm cho cuộc chơi đạt tới giá trị công bằng,
bình đẳng và minh bạch. Đó là cái đẹp vĩnh hằng, làm cho ấn tượng của
cuộc chơi sống mãi trong lòng mọi người. Có thể hình dung hoạt động của
mỗi cuộc chơi giống như hoạt động của một hội thu nhỏ, ở đó các nguyên
tắc công bằng, bình đẳng và minh bạch như những chân lý bình dị, đã được
thực thi một cách nghiêm túc.
Chúng ta thấy rằng giải trí tự nó không phải là cái gì gắn liền với sự thấp
kém, kém cỏi. Giải trí là nhu cầu thực sự cần thiết cho con người sau những
giờ lao động cực nhọc, căng thẳng. Giải trí là một trong những hình thức sử
21
dụng thời gian rỗi một cách có lợi (ích), là cách mà con người nghỉ ngơi một
cách tích cực. Giải trí là hoạt động mang tính tự do cá nhân cao độ, tuỳ ý thích
và không giống với hoạt động ở cơ quan, đơn vị nơi mình đang làm. Trong số
những hoạt động được sử dụng khi con người rảnh rỗi thì nghệ thuật - bao gồm
cả sáng tác và tiếp nhận là một trong những loại được ưa chuộng rộng rãi nhất.
Tuy nhiên, mặc dù có tính độc lập tương đối, chức năng giải trí không bộc lộ
như nhau ở mỗi loại hình văn hoá nghệ thuật. Nó phụ thuộc vào động cơ sáng
tác của tác giả và thị hiếu, nhu cầu của từng cá nhân người tiếp nhận tác phẩm.
Tuyệt đối hoá chức năng giải trí thường dẫn tới sự tước bỏ ý nghĩa xã hội tích
cực của văn nghệ. Giải trí trong ý nghĩa lành mạnh nhất, có tác dụng phát triển
trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của công chúng bao giờ cũng gắn liền với chức
năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức và chức năng giáo dục. Tách biệt chức
năng giải trí, đẩy nó lên như một chức năng cơ bản là hạ thấp vai trò tích cực
của nghệ thuật trong đời sống. Ngược lại, không quan tâm tới khía cạnh giải trí
là bỏ sót một khả năng tác động và tự giới hạn tầm ảnh hưởng của nghệ thuật
trong đời sống thực tiễn.
Chính vì nghệ thuật đem lại nhiều cái vui mắt. vui tai, nhiều cái hấp dẫn,
lôi cuốn. Một tiếng đàn, một điệu múa, những lời hát, những bộ quần áo biểu
diễn đẹp đẽ, những câu chuyện hồi hộp, cảm động, những bộ phim nhiều tình
tiết căng thẳng, gay cấn, hấp dẫn tất cả những cái đó có sức hấp dẫn rất lớn và
thường đem lại cho con người những niềm vui, niềm say mê. Có người lúc
rảnh đi chơi cờ, xem đá bóng, dạo phố, có người lại thích đi nghe (xem) hát,
đọc sách. Mỗi người có một sở thích riêng và mỗi loại cũng có cái hay riêng.
Nghệ thuật lôi cuốn ở chỗ nó vừa vui tai, đẹp mắt, có sức thu hút, giúp con
người có thêm những giá trị tinh thần bổ ích.
Đến đây có thể nêu lên một định nghĩa về văn hoá giải trí như sau: Văn
hoá giải trí là một bộ phận của đời sống văn hoá xã hội, bao gồm toàn bộ
22
những hoạt động giải trí của các cá nhân, các cộng đồng diễn ra một cách
tích cực, chủ động, lành mạnh và tiến bộ. Thông qua những trò chơi và những
hoạt động giải trí tạo nên cho các cá nhân và cộng đồng một đời sống tinh
thần phong phú và lành mạnh, hoàn thiện và phát triển.
1.1.3. Các loại hình văn hoá giải trí
Ngày nay, các loại hình giải trí ngày càng phát triển rộng rãi, phong phú
về hình thức, đa dạng về nội dung (không chỉ giải trí bằng đọc sách, báo mà
còn tham gia vào quá trình sáng tạo, biểu diễn văn hoá, văn nghệ, thể thao )
Hoạt động giải trí không dừng lại ở trạng thái thụ động tiếp nhận, mà phát triển
đến trạng thái chủ động tham gia hoạt động sáng tạo. Hoạt động giải trí không
chỉ ở trong trạng thái tĩnh (đọc, xem, nghe, nhìn) mà cả ở trạng thái vận động:
Vận động cơ thể (thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật) hay du lịch, tham
quan Tuy nhiên, phân loại các loại hình văn hoá giải trí không phải là điều
đơn giản, bởi vì vui chơi giải trí là một dạng hoạt động xã hội, nếu căn cứ vào
hình thái của hoạt động thì rất khó thực hiện, vì rằng, chỉ cần đổi phương tiện
thành mục đích thì hoạt động nào cũng có thể trở thành hoạt động vui chơi giải
trí, ví du: Chèo thuyền là lao động của người thuỷ thủ, còn chèo thuyền trong
cuộc đua "trải” là tham gia cuộc vui của lễ hội. Bóng đá chuyên nghiệp là dạng
hoạt động nghề nghiệp, còn bóng đá phong trào mang tính nghiệp dư là hoạt
động vui chơi giải trí. Biểu diễn nghệ thuật không chỉ là hoạt động nghề
nghiệp của các nghệ sỹ chuyên nghiệp mà còn là hoạt động có tính chất vui
chơi, giải trí của đội ngũ văn nghệ nghiệp dư trong các hội diễn nghệ thuật
quần chúng.
Chúng ta thấy có các loại hình văn hoá giải trí chủ yếu sau đây:
1.1.3.1. Loại hình văn hoá giải trí gắn với các trò chơi
Các loại trò chơi là những hoạt động vừa mang tính thể lực, vừa mang
tính tinh thần nhằm rèn luyện sức khoẻ, năng lực tinh thần cho những người
tham gia chơi và cả những người cổ vũ cuộc chơi, như:
23
+ Trò chơi thể lực: kéo co, đấu vật, bơi lội.
+ Trò chơi khéo léo - thể lực - trí tuệ: đánh đu, thi nấu cơm.
+ Trò chơi trí tuệ: Đánh cờ, đố chữ, câu đối.
+ Trò chơi rèn luyện ý thức, sự ứng xử: câu cá, thả diều, chọi gà, hát đối.
Các loại trò diễn là hoạt động vui chơi giải trí dựa vào đặc trưng thẩm mỹ
và kỹ thuật của tác phẩm văn hoá nghệ thuật, như:
+ Ngôn ngữ - động tác: chèo, tuồng, hát ả đào.
+ Động tác, âm thanh: Múa rối, võ thuật, xiếc.
+ Hỗn hợp - tích hợp: Lễ hội, hội thi.
1.1.3.2. Loại hình văn hoá giải trí gắn với sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật
Trong nghệ thuật, với sự hư cấu tưởng tượng nghệ thuật, người nghệ sỹ
cuốn hút người đọc, người xem, người nghe vào trò chơi của các năng lực tinh
thần. Trò chơi là mô hình của sáng tạo, dự báo trước hoạt động sáng tạo. Nghệ
thuật giúp con người phát triển các năng lực cảm thụ, thể nghiệm chủ quan.
Người đọc khi đọc các tác phẩm thường giả định mình là nhân vật, và như vậy
là đã tham gia vào trò chơi rèn luyện tình cảm con người, phát huy năng lực trí
tuệ. Các hoạt động nghệ thuật giúp phát triển toàn diện các năng lực của con
người. Nó làm cho đầu óc con người nhạy bén, linh hoạt, sắc cạnh trước các
biểu hiện sinh động và phức tạp của đời sống.
Trong các khoái cảm mà nghệ thuật đem lại có loại khoái cảm tiếp nhận,
thưởng thức một cách vô tư. Vì vậy có thể khẳng định tác dụng giải trí như
một chức năng độc lập của văn chương và nghệ thuật nói chung. Thật ra, giải
trí là một nhu cầu tự nhiên của con người trước nghệ thuật. Trong sự cảm thụ
tác phẩm, cùng với sự tiếp nhận nội dung tư tưởng của tác phẩm, công chúng
còn tìm thấy sự khoái cảm trong nếm trải các tình huống tâm lý, những trạng
thái xúc cảm vốn có trong cuộc sống con người.
1.1.3.3. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thể dục thể thao
24
Hoạt động thể dục thể thao là hoạt động văn hoá thể chất, rèn luyện thể
chất làm con người trở nên khoẻ đẹp. Thể thao là thao diễn thân thể, phô bày
vẻ đẹp của con người và sức mạnh thể lực của con người.
+ Vui chơi giải trí bằng các hoạt động thể dục thể thao, như: Tập thể dục
hàng ngày, dưỡng sinh, võ vật, bóng bàn, bóng đá, bóng chuyền và các loại
thể thao khác (thăng bằng trên dây, nhảy dù, leo núi, lướt ván ).
+ Vui chơi giải trí bằng biểu diễn, thi đấu TDTT: Xem biểu diễn thể dục
dụng cụ, thi đấu bóng các loại, đấm bốc, đấu vật, chọi trâu, chọi gà
1.1.3.4. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thông tin đại chúng
Thông tin đại chúng vừa là một loại hình văn hoá vừa là một phương
thức chuyển tải văn hoá. Vì vậy nó là một hoạt động giải trí cơ bản của con
người và xã hội.
+ Vui chơi giải trí bằng đọc (xem): Sách, báo, tranh, ảnh, triển lãm, intenet
+ Vui chơi giải trí bằng nghe: Nghe radio, casseet
+ Vui chơi giải trí bằng nghe - nhìn: xem truyền hình, thông tin, quảng
cáo, VCD, DVD
1.1.3.5. Loại hìnhvăn hoá giải trí gắn với du lịch, dịch vụ
Du lịch dịch vụ là một hoạt động văn hoá mang tính tổng hợp, nguyên hợp
nhưng cũng mang tính chuyên biệt. Con người tham gia các hoạt động du lịch,
dịch vụ vừa để đáp ứng nhu cầu thực dụng, vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí.
+ Vui chơi giải trí bằng du lịch: Du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, thương
mại chữa bệnh, hội thảo, thám hiểm
+ Vui chơi giải trí bằng dịch vụ: mua sắm. may mặc, ăn uống, thư giãn,
trang điểm
1.1.3.6. Loại hình văn hoá giải trí gắn với lao động sản xuất
Có thể chia loại hình này thành các hoạt động chính là:
25