Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LUẬN VĂN: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.73 KB, 92 trang )


z













LUẬN VĂN:

Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay














Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân ta bao gồm
nhiều nội dung, trong đó có các nội dung chủ yếu nhất: Xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền chủ nghĩa; xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Các nội dung đó hoà trong một
tổng thể không tách rời, không thiếu mặt nào. Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là nền tảng vật chất cho phát triển. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa bảo đảm vận hành kinh tế - xã hội theo pháp luật. Đời sống kinh tế, xã hội,
văn hoá được xây dựng và vận hành bởi văn hoá pháp lý. Văn hoá pháp lý trong xã
hội thực sự là công cụ, đồng thời là phương thức điều hành xã hội; nó vừa là mục
tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn xã hội và khoa học hiện đại, cho thấy văn hóa là một yếu tố nội
sinh của xã hội, nó không chỉ là mục tiêu và kết quả mà còn là chìa khóa và động
lực của sự phát triển. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được tầm quan
trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. ở nước ta, trong “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, trong văn kiện các kỳ
Đại hội và các Hội nghị Trung ương của Đảng, đã hết sức quan tâm đến vai trò và
vị trí của văn hóa. Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” [7,
tr.110].
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đã thu
được nhiều kết quả to lớn trong đó có sự phát triển văn hóa. Tuy nhiên, mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường cũng tác động đến môi trường văn hóa, đến một số cán bộ
lãnh đạo làm nảy sinh nhiều điều đáng lo ngại, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã chỉ ra: "Tình hình tham nhũng, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
là rất nghiêm trọng" [9, tr.176].


Sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân rất cần một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đức, có tài. Đó là những người
đảm nhiệm những trọng trách ở mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến cơ sở, đại
diện cho Đảng, Nhà nước và sự ủy quyền của nhân dân để xây dựng và thực thi các
chủ trương, chính sách, pháp luật; là nhân tố có tính chất quyết định đối với công
cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Cán bộ lãnh đạo là người đại diện cho lợi ích
của quần chúng nhân dân, lãnh đạo quần chúng nhân dân, nên phải có uy tín trước
dân. Uy tín của cán bộ lãnh đạo được tạo ra từ nhiều yếu tố, trong đó có văn hóa
pháp lý.
Tuy nhiên, trình độ văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức, viên chức, đặc
biệt là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay còn nhiều bất cập. Điều này được thể
hiện thông qua nhiều hạn chế về chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức,
các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là thông qua năng lực vận
dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Những hạn chế đó không những không
phát huy được sức mạnh và quyền lực của người lãnh đạo, mà có nơi còn gây nên
những hậu quả, tác hại to lớn về người và của, làm suy giảm uy tín của người cán
bộ lãnh đạo trong nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tích lũy kiến thức pháp
luật dưới dạng kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo là cần thiết, nhưng cũng
phải thấy rằng, đã đến lúc cần đào tạo một cách cơ bản, chính quy về kiến thức pháp
luật cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Nhu cầu công tác đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phải có trình độ văn hóa pháp lý tương ứng với cương vị mà họ đảm nhiệm.
Việc xây dựng và phát triển văn hóa pháp lý nhằm làm cho cán bộ, đảng viên
và công chức có nhận thức sâu sắc về vai trò và những giá trị xã hội của pháp luật
và biết vận dụng, thực hành văn hóa pháp lý trong thực tiễn công tác. Đó là, pháp
luật được xây dựng trên các giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, trung thực, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng, sự khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý sẽ làm cho
xã hội phát triển lành mạnh, pháp luật được tôn trọng; thức tỉnh ở mỗi con người về
danh dự để chống lại mọi cám dỗ của lợi ích vật chất không chính đáng, giúp họ từ


bỏ những động cơ xấu; không làm những điều trái với đạo đức và pháp luật. Với tất
cả những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: "Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc tìm hiểu, làm rõ bản chất, nội dung, đặc điểm của văn hóa pháp lý chỉ
có thể thực hiện được trên cơ sở của văn hóa nói chung.
Nghiên cứu văn hóa trên thế giới đã từ lâu trở thành một ngành khoa học
rộng lớn, trong đó được phân thành những lĩnh vực chuyên biệt. Đó là các công
trình nghiên cứu của E.B. Tylor – Văn hóa nguyên thủy; G,Spencer – Chức năng
thiết chế văn hóa; F.Ratxen – Vùng văn hóa; L. Phrobiniux – vùng văn hóa. Các xu
hướng trong nghiên cứu văn hóa dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, sinh học xã
hội, phát triển văn hóa; chức năng luận trong văn hóa; các lý thuyết cấu trúc văn
hóa v,v…
Có thể nói văn hóa học đã đi sâu nghiên cứu hầu hết các khía cạnh đời sống
xã hội - con người. Đó là cơ sở lý luận quý báu để đề tài này tiếp cận với văn hóa
pháp lý.
ở Việt Nam, từ những năm giữa thế kỷ XX cho đến nay mấy thập niên gần
đây đã xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa. Trong đó phải kể đến các
tác giả như: Nguyễn Văn Huyên: Góp phần tìm hiểu văn hóa Việt Nam; Nguyễn
Khánh Toàn: Đề cương lịch sử văn hóa Việt Nam; Trần Văn Giầu: Giá trị truyền
thống Việt Nam; Vũ Khiêu: Bàn về văn hiến Việt Nam; Hồng Phong - Phạm Xuân
Nam: Văn hóa và phát triển; Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt
Nam; Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới; Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Trường
Lưu: Xây dựng văn hóa mới Việt Nam; Trần Văn Bính, Thành Duy, Huỳnh Khái Vĩnh:
Văn hóa lối sống; Nguyễn Văn Huyên: Văn hóa - mục tiêu và động lực phát triển xã
hội v,v…
Cho đến nay, ở nước ta cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa
về một số lĩnh vực văn hóa chuyên ngành, thí dụ như văn hóa đạo đức, văn hóa lối
sống, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa công sở, văn hóa môi trường, văn hóa kinh doanh


Đó là các công trình “Văn hóa và đạo đức” do tác giả, Trường Lưu chủ biên”; “Văn
hóa lối sống và xây dựng đời sống văn hóa ở Việt Nam” do tác giả Khái Vĩnh chủ
biên; “Văn hóa thẩm mỹ và phát triển con người trong thế kỷ XXI” do tác giả
Nguyễn Văn Huyên chủ biên: “Mấy vấn đề của văn hóa môi trường” của tác giả Đỗ
Huy; “Văn hóa kinh doanh” do tác giả Đỗ Minh Cương chủ biên…
Từ năm 1995, Viện Chính trị học đã thực hiện đề tài “Văn hóa chính trị và
nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo”, xuất bản sách năm 1995 do tác giả Phạm
Ngọc Quang chủ biên. Vào năm 2005 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh kết
hợp với Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương tổ chức hội thảo về “Văn hóa Đảng”, đã
có một số bài đăng trên một số tạp chí Trung ương và tạp chí chuyên ngành.
Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa liên quan chặt chẽ tới trình độ và năng lực lãnh
đạo của cán bộ như văn hóa chính trị, văn hóa đảng, ở nước ta chưa được nghiên
cứu nhiều. Đặc biệt văn hóa pháp lý đối với chúng ta còn quá mới mẻ. Mấy năm
gần đây bắt đầu xuất hiện một vài bài viết trên tạp chí chuyên ngành. Tác phẩm
"Văn hóa pháp lý Việt Nam" của Luật sư Lê Đức Tiết là một trong số ít công trình
đánh dấu sự khởi đầu lý luận và thực tiễn về văn hóa pháp lý (2005). Ngoài ra có
một số bài viết đăng trên các tạp chí, như: Một số ý kiến về xây dựng văn hóa
pháp lý ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (1999); Hoạt
động tư vấn pháp luật và vấn đề nâng cao văn hóa pháp lý, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 1 (1999) của Luật sư Trần Quang Mỹ; Văn hóa pháp lý - dòng
riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 10 (2004) của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế và luận văn thạc sĩ Luật học
của Phan Bạt Tố: Văn hóa pháp lý và xây dựng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện
nay.
Vai trò quan trọng của văn hóa pháp lý và tính bức xúc của việc nâng cao
văn hóa pháp lý cho cán bộ, viên chức nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng còn
là một lĩnh vực khoa học bị bỏ trống, cần được nhanh chóng bổ khuyết. Bản luận
văn này hy vọng góp một phần nhỏ vào việc khắc phục hạn chế đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


* Mục đích:
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của văn hóa pháp lý; trên
cơ sở thực trạng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Xác định khái niệm, phân tích kết cấu, chức năng và vai trò của văn hóa
pháp lý, từ đó làm rõ sự cần thiết và yêu cầu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ thực trạng văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn
hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo ở địa phương tỉnh và cán bộ lãnh đạo các cấp trên địa bàn tỉnh (không tính các
thành phố trực thuộc Trung ương).
- Trọng tâm của luận văn là nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực vận dụng
văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhất là những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta; các kiến thức về chính trị học, luật học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý
quản lý lãnh đạo
- Về phương pháp, luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgíc,
phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so sánh đối chiếu, điều tra xã hội học, khái
quát hóa v,v

- Luận văn sử dụng các văn kiện, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà

nước có liên quan đến văn hóa pháp lý, công tác cán bộ; các tài liệu, công trình
khoa học có liên quan của những người đi trước.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm chính xác hóa và sâu sắc thêm khái niệm văn hóa pháp lý.
- Nêu nên được những yêu cầu về văn hóa pháp lý đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và thực trạng văn hóa pháp lý của họ ở nước ta hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao văn hóa
pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở địa phương.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy ở các
trường chính trị tỉnh về lĩnh vực văn hóa pháp lý; là tài liệu tham khảo cho việc
hoạch định chính sách nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

Chương 1
Văn hóa pháp lý và yêu cầu về văn hóa pháp lý
đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay

1.1. Một số vấn đề về văn hóa pháp lý
1.1.1. Khái niệm văn hóa pháp lý
Vốn là hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được nhìn
nhận theo nhiều cách thức khác nhau. ở trình độ lí luận và yêu cầu của xã hội hiện
nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện
được sức mạnh bản chất của con người. Theo đó, có thể hiểu: Văn hóa là những
phương thức và kết quả hoạt động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm
giá trị vật chất, giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra. Với nghĩa hẹp, văn hóa
phản ánh hệ thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận, hàm chứa
những quan điểm về mục đích và lí tưởng xã hội. Văn hóa hướng con người tới các giá
trị chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa là nói đến con người, văn hóa là thuộc tính biểu

hiện bản chất xã hội của con người.
Nguyên nghĩa tiếng Latinh, khái niệm “culture” - văn hóa có nghĩa là sự
trồng trọt, vun xới. Từ nghĩa gốc của nó, ta có thể hiểu, văn hóa là quá trình
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ những cá thể sinh học trở thành những con
người. Văn hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân
mình.
Với cách hiểu trên đây, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con
người tạo ra, từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học
đến các tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa cũng đồng thời là phương thức tạo ra các sản
phẩm đó. Không chỉ có thế, văn hóa còn hiện diện và thấm sâu vào các quan hệ
giữa con người với con người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan
hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng
lực cấu thành nhân cách con người, là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao
động sáng tạo

Văn hóa tồn tại trong hai tư cách, tư cách thực thể và tư cách thăng hoa. Tư
cách thực thể của văn hóa là dạng hoạt động văn hóa đặc thù mà về thực chất là
hoạt động tinh thần. Khác với hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị-xã hội, hoạt
động văn hóa trong tư cách thực thể lấy sự thể hiện, thực hiện cũng như sự đối
tượng hóa các sức mạnh bản chất của con người làm mục đích tự thân. Các sản
phẩm, kết quả của hoạt động văn hóa (tức là các giá trị văn hóa) không đáp ứng nhu
cầu thực tiễn vật chất, mà thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, tức là các nhu
cầu về nhận thức, về đạo đức và thẩm mỹTrong trường hợp này, văn hóa hiện
diện trong khoa học, giáo dục, nghệ thuật. Với tư cách thăng hoa, văn hóa bộc lộ
hoặc thăng hoa trên tất cả các hoạt động và kết quả hoạt động của con người, là sự
thể hiện và thực hiện những sức mạnh bản chất của con người. Trong trường hợp
này, văn hóa hiện diện trước hết là kiểu trình độ, kết quả của các hoạt động kinh tế,
chính trị (trong đó có pháp luật), xã hội trước hết, mang ý nghĩa chức năng hữu
dụng, thỏa mãn các nhu cầu thực tiễn vật chất, thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội
của con người. Trong các hoạt động đó, giá trị văn hóa không phải là mục đích trực

tiếp, chính yếu. Các sản phẩm và kết quả của các hoạt động vật chất, hoạt động chính
trị - xã hội chỉ là giá trị văn hóa trong chừng mực chúng thể hiện hoặc biểu trưng cho
các năng lực nhận thức, sáng tạo, cho tình cảm, thị hiếu của con người. Nói cách
khác, trong tư cách thăng hoa, văn hóa tồn tại như là phương diện hoặc nhân tố văn hóa
cấu thành các lĩnh vực hoạt động xã hội.
Sự phân chia văn hóa thành tư cách thực thể và tư cách thăng hoa chỉ mang
tính chất tương đối. Vì rằng, trong bất kỳ tư cách nào, con người (với tổng thể năng
lực nhân cách của họ) cũng là chủ thể của sáng tạo văn hóa và mọi thành tựu văn
hóa đều phục vụ sự phát triển nhân cách của con người. Bởi vậy, chức năng chủ yếu
của văn hóa là điều tiết sự phát triển của con người, nó lấy phát triển, tiến bộ làm
mục đích tối hậu. Đó cũng là lý do tại sao văn hóa ngày càng thâm nhập, ngày càng
thăng hoa, ngày càng có vai trò to lớn trong mọi quá trình phát triển, mọi hoạt động
vì tiến bộ của con người.

Trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa tồn tại với tư cách là sự thăng
hoa trong một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị đặc thù. Mức độ thăng hoa là
khả năng đối tượng hóa những năng lực nhân tính trong hoạt động pháp luật, nó quy
định hiệu quả và phát huy hết vai trò của pháp luật trong xã hội. Ngược lại, hiệu quả
của pháp luật trong xã hội là một chỉ số, một thước đo trình độ phát triển của một
nền văn hóa. Yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật, là sự thống nhất hữu cơ giữa
quá trình hoạt động sống của con người trong quan hệ pháp lý và hiệu quả đối t-
ượng hóa năng lực của con người trong lĩnh vực đó. Do đó, phát triển yếu tố văn
hóa trong lĩnh vực pháp luật không những bảo đảm nâng cao hiệu quả của pháp luật
mà còn bảo đảm cho sự phát triển nhân cách của con người. Nó biến hoạt động
pháp luật với tư cách là một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị thành một lĩnh vực
hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
Như mọi lĩnh vực hoạt động xã hội khác, lĩnh vực pháp luật ở nước ta hiện
nay, hơn lúc nào hết đòi hỏi phải tính đến vai trò và vị trí của nhân tố văn hóa. Nói
khác đi, trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, vai trò của pháp luật đòi hỏi phải thể
hiện được tối đa sức mạnh văn hóa. Hoạt động của bộ máy pháp luật với tính cách

là một bộ phận, một mắt khâu của hoạt động xã hội- chính trị, cố nhiên không lấy
văn hóa làm mục đích trực tiếp. Nhưng khi là địa bàn, là phương thức để con người
thể hiện và thực hiện những năng lực nhân tính, đồng thời đối tượng hóa những
năng lực ấy thì trong hoạt động pháp luật cũng hiện diện như một tư cách đặc thù
của văn hóa.
Trước hết, văn hóa trong lĩnh vực pháp luật được thể hiện như một phương
thức quản lý để hoàn thiện một xã hội ngày càng vì con người, ngày càng đảm bảo
cuộc sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện như kết quả hoạt
động sáng tạo của con người trong việc xây dựng các bộ luật, các đạo luật và trong
các lĩnh vực hoạt động pháp luật khác hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Tính chất nhân đạo, tiến bộ và tính hướng thiện của các đạo luật không chỉ
phản ánh tính chất tiến bộ của giai cấp thống trị mà còn phản ánh xu hướng phát
triển của các quan hệ xã hội ngày càng hoàn thiện những giá trị nhân bản hơn.

Trong bài: "Văn hóa pháp lý- dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc
Việt Nam” tác giả Hoàng Thị Kim Quế cho rằng:
Văn hóa pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc
lĩnh vực tác động của pháp luật được thể hiện trong ý thức và hành vi của
con người. Văn hóa pháp lý là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của
con người trong lĩnh vực pháp luật, thể hiện trong việc xây dựng, khẳng định
và giữ gìn những giá trị pháp lý… [32, tr. ].
Trong quan niệm của mình, tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã nhìn nhận, văn
hóa pháp lý vừa là kết quả vừa là phương thức hoạt động sáng tạo của con người
trong lĩnh vực pháp luật, biểu hiện trong ý thức, hành vi của con người và trong
những giá trị pháp lý đã được xây dựng. Gần với quan điểm trên, tác giả Lê Minh
Tâm cũng cho rằng, văn hóa pháp lý là:
Tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng
tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật
được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm,
luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật,

những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng
và thực thi pháp luật [35, tr.18].
Theo chúng tôi, nói tới văn hóa pháp lý cần phải nhấn mạnh tới những mặt
tiến bộ của một nền pháp luật, nghĩa là một nền pháp luật có những đóng góp tích
cực vào sự phát triển, tiến bộ xã hội và sự hoàn thiện nhân cách của con người.
Nếu xét từ giác độ cá nhân, người có trình độ văn hóa pháp lý là người có
đầy đủ ba yếu tố, tồn tại trong thể thống nhất là tri thức, tình cảm và hành vi tích
cực pháp luật. Nếu ai đó, có tri thức pháp luật nhưng lại không có tình cảm đúng
đắn với pháp luật, và do đó, không có hành vi tích cực đối với pháp luật thì người
đó không thể gọi là người có văn hóa pháp lý theo nghĩa đầy đủ của nó.
Với tất cả những điều trình bày trên đây, có thể nói: Văn hóa pháp lý là những
giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của hệ thống pháp luật trong xã hội được thể hiện
trong các bộ luật, đạo luật và thiết chế xã hội nhằm bảo đảm cho xã hội vận hành

đúng yêu cầu của nó. Đồng thời, các giá trị đó còn được thẩm thấu vào nhận thức và
hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực trong hoạt động pháp
lý, trong đời sống xã hội, trong ứng xử của họ.
Rõ ràng, văn hóa pháp lý là toàn bộ các giá trị tinh thần và giá trị vật chất
được hình thành nên trong lĩnh vực hoạt động chính trị- pháp lý, nó vừa là phương
thức vừa là kết quả hoạt động sáng tạo của con người; chi phối hành vi của các cá
nhân, chi phối hoạt động của các tổ chức xã hội và của các cơ quan nhà nước. Chính
vì thế để hành động được một cách đúng đắn, đầy đủ về văn hóa pháp lý, chúng ta
phải có quan điểm toàn diện khái quát toàn bộ các giá trị tư tưởng của hệ thống
pháp luật đã được thiết lập và sự thể hiện tư tưởng đó trong hoạt động pháp luật.
Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp lý là thể thống nhất của tư tưởng, tri thức
pháp luật, phương thức tổ chức thực hiện pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và
hành vi xử sự tích cực của người công dân đối với pháp luật. Trước hết cần phải
làm rõ văn hóa pháp lý từ mặt kết cấu. Để hiểu rõ hơn nội hàm của khái niệm văn
hóa pháp lý.
1.1.2. Kết cấu của văn hóa pháp lý

1.1.2.1. ý thức, hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật
Văn hóa là những giá trị xã hội được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi là ý thức
(các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ); hiện thực hóa ý thức (các giá trị vật chất
do con người lao động sáng tạo ra), và yếu tố hành vi, lối sống (năng lực, cách thức
sử dụng các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần của con người). Các yếu tố này được giữ gìn, phát huy và lưu truyền qua nhiều
thế hệ, hình thành bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng lĩnh vực hoạt động xã
hội. Theo đó chúng ta xác định, văn hóa pháp lý được cấu thành từ các yếu tố: ý
thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế xã hội bảo đảm pháp luật, hành
vi pháp luật và lối sống theo pháp luật.
ý thức pháp luật là sự thống nhất của tư tưởng và tâm lý pháp luật. Đó là
tổng hòa các quan điểm tư tưởng, các trạng thái tâm lý thể hiện mối quan hệ của con
người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp

trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức hoạt động của các cơ
quan nhà nước và các tổ chức xã hội.
ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Nó hình thành và phát triển
cùng với sự hình thành và phát triển của các kiểu, hình thức pháp luật trong lịch sử
nhân loại. ý thức pháp luật phản ánh điều kiện tồn tại xã hội. Xã hội nào thì ý thức
pháp luật đó, ý thức pháp luật thể hiện sâu sắc tính giai cấp.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có
tính chất lý luận, khoa học về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu
sắc, tự giác dưới dạng khái niệm, phạm trù. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ
nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề có tính chất bản chất của pháp luật và
các hiện tượng pháp luật. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật phổ biến, các
tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội.
ý thức pháp luật nói chung, tâm lý pháp luật nói riêng có quan hệ mật thiết
với pháp luật. Điều đó không có nghĩa là khi ban hành pháp luật mọi người đều có ý
thức và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Thái độ đúng đắn đối với pháp luật chỉ
có thể hình thành, xây dựng trên cơ sở ý thức pháp luật đã được định hướng phù

hợp với nội dung của pháp luật.
Trong đời sống pháp luật, trước hết phải nói đến nhu cầu điều chỉnh hành vi
xử sự của con người nhằm tạo lập một xã hội ổn định. Hành vi của con người không
diễn ra một lần mà thường lặp đi, lặp lại nhiều lần. Từ đó, nảy sinh nhu cầu điều
chỉnh các hành vi xử sự của con người. Nhu cầu sử dụng các quy tắc để điều chỉnh
hành vi con người trong đời sống cộng đồng vốn tồn tại khách quan, nhưng các cá
nhân khác nhau lại nhìn nhận và nảy sinh tâm lý về nhu cầu đó khác nhau. Do đó,
tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm
xúc đối với đời sống pháp lý.
Tâm lý pháp luật là những yếu tố có tính chất tự phát nhưng nó chịu sự chi
phối của tư tưởng pháp luật. Không hình thành tâm lý pháp luật thì cũng không có ý
thức pháp luật, không có ý thức pháp luật thì không thể có hành vi tuân thủ pháp
luật một cách nghiêm minh.

Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng,
cảm xúc của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật cũng như các hiện
tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện cấp độ
nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh
nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Nói cách khác, ở cấp độ này, ý thức pháp
luật mới chỉ thể hiện sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu
điều hay lẽ phải, việc nên làm, điều cần tránh, theo tình cảm hướng thiện.
Ngoài hai bộ phận nói trên, sự kết hợp hài hòa giữa tâm lý pháp luật và tư
tưởng pháp luật trong ý thức pháp luật thể hiện mối quan hệ của con người đối với
pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi
xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước và tổ chức xã hội.
Với tư cách là yếu tố cơ bản và quan trọng của văn hóa pháp lý, ý thức pháp
luật tích cực và tiến bộ là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội
và bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Củng cố và nâng

cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội cần định hướng và bảo đảm tính tiên tiến
và bản sắc dân tộc, là hai tính chất đặc trưng cơ bản của nền văn hóa pháp lý mà
chúng ta xây dựng.
Tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của ý thức pháp luật Việt Nam được quy
định bởi những tư tưởng, quan niệm, học thuyết pháp lý tiến bộ, nhân đạo của nhân
loại và của lý tưởng XHCN kết hợp với những tình cảm pháp lý truyền thống của
dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Đó là sự coi trọng và giữ gìn lối sống có kỷ
cương, chuẩn mực, có tôn ti trật tự trên dưới từ trong gia đình đến ngoài xã hội, yêu
chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, đạo lý, thật thà và lương thiện; ghét xa hoa,
không cam chịu sự áp đặt bằng vũ lực, tiền tài và dám đối mặt với bạo quyền; cũng
có nghĩa là phù hợp với quy luật cuộc sống hướng tới chân - thiện - mỹ.
1.1.2.2. Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật

Hệ thống pháp luật và các thiết chế xã hội bảo đảm pháp luật là những thành
tố cơ bản và quan trọng cấu thành văn hóa pháp lý. Trong trường hợp này, văn hóa
hiện diện trước hết là kiểu trình độ, kết quả của các hoạt động pháp luật có ý nghĩa
thỏa mãn các nhu cầu thực tiễn hoạt động chính trị - pháp lý của con người. Trong
các hoạt động đó, giá trị văn hóa như đã nói ở trên, không phải là mục đích trực
tiếp, chính yếu. Các sản phẩm và kết quả của các hoạt động chính trị - pháp lý chỉ là
giá trị văn hóa trong chừng mực chúng thể hiện hoặc biểu trưng cho các năng lực
nhận thức, sáng tạo, cho tình cảm, thị hiếu của con người. Xét theo phương diện
hoạt động thực tiễn xã hội thì hoạt động văn hóa pháp lý là quá trình hiện thực hóa
yếu tố ý thức pháp luật, là quá trình con người sáng tạo ra các giá trị pháp luật, đến
lượt mình, các giá trị pháp luật lại nhằm đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu lợi ích về
vật chất hay tinh thần của con người và xã hội.
Hệ thống pháp luật được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối
liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật,
các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo trình
tự, thủ tục và hình thức nhất định.
Có thể nói, hệ thống pháp luật là một biểu hiện rất cao của văn hóa pháp lý,

có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành và phát triển một nền văn hóa pháp lý. Các
giá trị văn hóa pháp lý phải được kết tinh từ tính chặt chẽ, cụ thể và chính xác của
từng quy phạm pháp luật; từ việc xác định rõ ràng giới hạn và nội dung của các chế
định pháp luật, cũng như việc tính tới tính hoàn chỉnh và thống nhất của mỗi ngành
luật. Mỗi bộ luật hay đạo luật được ban hành là sản phẩm trí tuệ tập thể, và phải
được nhìn nhận như là những tác phẩm văn hóa pháp lý.
Hệ thống pháp luật, ở chừng mực nhất định, được coi là thước đo, là chuẩn
mực để đánh giá trình độ phát triển của nền văn hóa pháp lý ở mỗi quốc gia hay của
một dân tộc. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa là một đòi hỏi
khách quan của xã hội và văn hóa, vừa có tác dụng tạo cơ sở cho sự phát triển văn
hóa pháp lý. Muốn có hệ thống pháp luật ở mức độ ngày càng hoàn thiện thì cần
phải xuất phát từ những tiêu chuẩn cơ bản của nó: đó là tính toàn diện, tính đồng bộ,

tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp luật cao; đồng thời cũng mang tính tiên tiến
và thấm đượm bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
Các thiết chế pháp luật được hiểu là một tổng thể các tổ chức, cơ quan nhà
nước được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và được giao những quyền
hạn, trách nhiệm nhất định nhằm thực hiện các chức năng soạn thảo, phê chuẩn và
ban hành pháp luật; hoạt động giám sát, xét xử, bảo vệ pháp luật cũng như đưa pháp
luật vào thực tiễn cuộc sống.
Các thiết chế pháp luật là công cụ rất quan trọng để thực hiện và bảo vệ pháp
luật, chúng được xây dựng dựa trên các quy định của pháp luật, chịu sự chi phối của
pháp luật. Đến lượt mình, các thiết chế pháp lý lại là phương tiện để cho các chủ thể
sử dụng nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Điều đó tạo ra các ưu thế của thiết
chế pháp lý trong việc thúc đẩy sáng tạo ra các giá trị văn hóa pháp lý và sử dụng
những giá trị đó trong đời sống xã hội.
ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân
cấp và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước. Theo đó, một cách tương đối,
thiết chế pháp luật được chia thành ba loại: thiết chế lập pháp, thiết chế hành pháp
và thiết chế tư pháp. Mỗi loại thiết chế đó theo tính năng của nó, đã và đang tham

gia một cách tích cực vào sự phát triển văn hóa pháp lý. Chẳng hạn, theo thiết chế
hành pháp, các nhà quản lý xã hội sử dụng pháp luật, các nguyên tắc, phương tiện
pháp luật và quyền lực được trao để quản lý các mặt của đời sống xã hội, trong đó
có lĩnh vực văn hóa.
Các thiết chế pháp luật với tư cách là một thành tố của văn hóa pháp lý có
vai trò hết sức quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hóa pháp lý,
đối với sự sáng tạo các giá trị pháp lý. Sở dĩ như vậy là vì, thiết chế pháp luật có sức
mạnh vật chất và tinh thần để xúc tiến sự sáng tạo, giáo dục và cổ vũ cho sự phát
triển văn hóa pháp lý.
1.1.2.3. Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật
Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người diễn ra trong môi
trường điều chỉnh của pháp luật. Nói một cách khác, hành vi pháp luật là hành động

có ý nghĩa tích cực của công dân, của cơ quan , tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội
được xác định trước bằng các quy phạm pháp luật. Vì vậy, trong mọi trường hợp,
các hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc hành vi bất hợp pháp.
Từ giác độ văn hóa, hành vi tích cực pháp luật không bao hàm nghĩa hợp
pháp hay không hợp pháp của hành vi xử sự pháp luật. Hành vi tích cực pháp luật
được hiểu theo một nghĩa rộng hơn, đó là hành vi xử sự phù hợp với đòi hỏi của
pháp luật tiến bộ, là hành động đấu tranh bảo vệ pháp luật tiến bộ. Đồng thời, hành
vi tích cực pháp luật còn là hành vi đấu tranh xóa bỏ tư tưởng và tâm lý pháp luật
lạc hậu lỗi thời, phản động góp phần xây dựng chế độ xã hội ngày càng tốt đẹp hơn,
văn minh hơn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử nhân loại.
Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật là yếu tố cấu thành của văn hóa
pháp lý. Nó thể hiện cách thức, khả năng, trình độ sử dụng pháp luật và các công cụ
pháp luật của từng cá nhân, của cộng đồng và nhà nước trong quá trình đấu tranh vì
sự bình đẳng xã hội và công lý theo định hướng Chân - Thiện - Mỹ.
Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của công dân, của cơ quan, tổ chức
nhà nước và tổ chức xã hội diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Hành
vi pháp lý có thể mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực, nhưng với tư cách là yếu tố

cấu thành văn hóa pháp lý, hành vi pháp luật phải được hiểu là hành vi xử sự tích
cực đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật; tức là hành vi dựa trên cơ sở
những tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với sự tiến bộ xã
hội.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, hành vi pháp luật tích cực là hành vi hợp
pháp có ý nghĩa văn hóa, một mặt, nói lên động cơ chi phối hành vi của chủ thể;
mặt khác, nó phản ánh nhu cầu phát triển tiến bộ của xã hội nói lên sự hài hòa ở
những mức độ khác nhau giữa lợi ích xã hội mà pháp luật phản ánh với lợi ích cá
nhân, giữa nhu cầu của nhà nước và công dân, có tác dụng làm ổn định xã hội và
tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật. Vì vậy, hành vi hợp pháp thể hiện trình độ
văn hóa pháp lý và được pháp luật bảo vệ.

Lối sống theo pháp luật gắn liền với hành vi pháp luật, là thành phần không
thể thiếu tạo nên văn hóa pháp luật. Lối sống là tổng thể những nét cơ bản đặc trưng
cho hoạt động sống và phương thức hành động của các giai cấp, các dân tộc, các
nhóm xã hội hay cộng đồng xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định. Hoạt
động sống và phương thức hành động của cộng đồng như thế nào thì sẽ tạo ra lối
sống như thế ấy. Lối sống theo pháp luật là một hình thức biểu hiện của lối sống,
trong đó, dựa trên nền tảng ý thức pháp luật xã hội tiên tiến, các nhóm xã hội và
cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống, sản xuất, sinh hoạt và hành động sao
cho phù hợp với các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu của hệ thống pháp luật.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sống theo pháp luật là một biểu hiện cao của
lối sống có văn hóa. Lối sống theo pháp luật mang tính cộng đồng, nó có tác dụng
tạo ra môi trường tích cực cho quá trình xã hội hóa hành vi pháp luật của các cá
nhân, của các cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội. Sự tích lũy và phát triển các giá
trị văn hóa là kết quả bền vững nhất, mang tính chất nền tảng nhất của tiến bộ xã
hội. Lối sống theo pháp luật vừa có tác dụng đóng góp vào quá trình sáng tạo ra các
giá trị pháp lý, lại vừa là quá trình tiếp nhận và phát huy các giá trị pháp lý trong
thực tiễn cuộc sống của cộng đồng xã hội, đỉnh cao của quá trình đó là “Sống, học
tập, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.

Xây dựng lối sống theo pháp luật là mục tiêu và là nhiệm vụ cấp bách trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong phát triển Nền văn
hóa pháp lý xã hội chủ nghĩa. Với tư cách là một bộ phận cấu thành văn hóa pháp
lý, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật phải được thấm sâu trong từng hành
vi; tuân thủ, thi hành pháp luật tự giác của mỗi người dân, trở thành thói quen; lối
sống trọng tín, trọng tình, trọng lý của người Việt, tìm đến với nhau bằng thương
lượng và hòa giải trước khi kiện tụng ra tòa, dù đó là tranh chấp trong gia đình, làng
xóm hay trong sản xuất, kinh doanh; trong hành vi áp dụng đúng đắn pháp luật từ
phía cán bộ, công chức nhà nước trên cơ sở lương tâm và chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp.
1.1.3. Vai trò của văn hóa pháp lý

Văn hóa pháp lý thực sự là một bộ phận quan trọng trong đời sống của xã hội
hiện đại, chính là nhờ sự kết hợp hài hòa và ngày càng hoàn thiện các giá trị cơ bản
chân - thiện - mỹ. Văn hóa pháp lý là sự định hướng hoạt động pháp luật tuân theo
cái Chân, củng cố và xác lập ý thức pháp lý theo quy luật hướng Thiện, từ đó mà
vươn tới cái Mỹ.
Sự phát triển của văn hóa pháp luật đánh dấu sự tiến bộ mang tính chất nhân
văn trong đời sống của một cộng đồng, của một thời đại. Các thế hệ sinh ra và lớn
lên muốn thích ứng được với đời sống cộng đồng, phải được giáo hóa bằng chính
nền văn hóa của cộng đồng, trong đó có văn hóa pháp lý. Nếu tự nhiên là môi
trường thứ nhất nuôi dưỡng con người lớn lên về thể xác, thì văn hóa là môi trường
thứ hai nuôi dưỡng con người lớn lên về tinh thần, trí tuệ và nhân cách. Văn hóa
pháp lý đã và đang góp phần tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, mang tính nhân
văn để các thế hệ hôm nay và mai sau dựa trên công lý mà vươn tới hạnh phúc, tới
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình xã hội hóa cá nhân để hình thành ý thức, năng lực pháp luật
và nhân cách không thể thiếu được hoạt động giáo dục về vai trò của văn hóa pháp
lý. Dựa trên cơ sở củng cố và xác lập một hệ thống giá trị pháp lý cho xã hội với các
khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi của con người sao cho phù hợp với quy tắc,

yêu cầu của pháp luật; văn hóa pháp lý có tác dụng định hướng cho các thành viên
của xã hội vươn tới tiếp thu, vận dụng các giá trị đó, đồng thời sáng tạo nên những
giá trị mới, tiến bộ cho một hệ thống pháp lý tiến bộ, phù hợp với thực tiễn xã hội.
Giữa các lĩnh vực văn hóa thường có sự thẩm thấu và tương tác lẫn nhau.
Văn hóa pháp lý thông qua các đặc trưng và cơ chế tác động của nó, có tác động tới
các lĩnh vực khác của nền văn hóa nói chung như văn hóa đạo đức, văn hóa chính
trị, văn hóa nghệ thuật v,v
Đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước
phải phù hợp với nhu cầu, lợi ích của nhân dân lao động, với truyền thống chính trị
- đạo đức pháp lý của cộng đồng và của dân tộc. Văn hóa pháp lý tác động tích cực
tới các chính sách của Đảng và Nhà nước với yêu cầu hệ thống pháp luật phải ngày

càng hoàn thiện hơn, đem lại lợi ích và giá trị cho nhân dân lao động, sự phồn vinh
và thịnh vượng cho đất nước. Đảng và Nhà nước không chỉ cần đề ra chính sách,
pháp luật đúng đắn, kịp thời mà còn phải tổ chức thực hiện tốt các chính sách, pháp
luật đó để mang lại hiệu quả xã hội cao trên cơ sở những biện pháp mang tính nhân
văn.
Phát triển văn hóa pháp lý là cơ sở, nền tảng quan trọng và cần thiết để hình
thành và xây dựng lối sống có văn hóa, lối sống theo pháp luật.
1.1.4. Các chức năng cơ bản của của văn hóa pháp lý
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của một nền văn hóa, văn hóa pháp lý
tuân theo quy luật vận động và phát triển của nền văn hóa đó. Tuy nhiên, văn hóa
pháp lý cũng tồn tại một cách tương đối độc lập, với những giá trị, chuẩn mực, biểu
hiện riêng trong lĩnh vực hoạt động pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp lý cũng có
những chức năng nhất định của nó. Từ vai trò đã nêu chúng ta thấy, văn hóa pháp lý
có ba chức năng cơ bản, đó là chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức
năng thực tiễn.
Chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của bất kỳ hoạt động văn hóa
nào, trong đó có văn hóa pháp lý. Một bộ luật, đạo luật nào đó với tư cách một sản
phẩm văn hóa pháp lý, trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò

và hiệu lực điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của các cá nhân
trong xã hội, thì nó phải được mọi người hiểu về các bộ luật, các đạo luật; trên cơ sở
hiểu biết đó, những khái niệm, phạm trù, nguyên tắc lại trở thành công cụ để con
người nhận thức các hệ thống pháp luật, các quan hệ và hành vi pháp luật.
Các công trình nghiên cứu về văn hóa pháp lý cung cấp và trang bị cho mọi
người những kiến thức, thông tin lý luận cần thiết, những hiểu biết đầy đủ hơn, cụ
thể hơn về văn hóa pháp lý, như một bộ phận cấu thành hữu cơ của văn hóa nói
chung; tạo ra các tiền đề và cơ sở khoa học để nhận thức văn hóa pháp lý như là hệ
thống các giá trị vật chất và tinh thần mà nhân loại đã sáng tạo ra trong các lĩnh vực
hoạt động pháp luật, được kết tinh thành những giá trị pháp lý, thể hiện trong hệ
thống các quy phạm pháp luật đã được ban hành qua các thời kỳ lịch sử, trong các

quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc pháp lý, trong các tác phẩm văn hóa pháp lý, trong
hành vi pháp lý của con người  và phát triển theo quy luật hướng tới chân - thiện -
mỹ. Dù còn có những ý kiến khác nhau, nhưng tìm hiểu cấu trúc của văn hóa pháp
lý với các bộ phận cấu thành của nó là cơ sở quan trọng để nhận thức xu hướng phát
triển một nền pháp luật nói chung và của văn hóa pháp lý nói riêng.
Dưới giác độ văn hóa pháp lý, mỗi con người chúng ta có được sự nhận thức
rõ ràng về mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật. Văn hóa, nếu xét dưới khía cạnh
là nền tảng tinh thần của xã hội, là một mặt cơ bản của đời sống xã hội thì chủ nhân
của văn hóa lại chính là yếu tố đầu tiên khởi nguồn cho mọi giá trị. Nhà nước, một
sản phẩm cao của tư duy con người - là sản phẩm cao của những giá trị văn hóa.
Quá trình sáng tạo, quá trình ứng xử của con người đối với tự nhiên, đối với các vấn
đề nảy sinh của xã hội như: sự bất bình đẳng về vị thế xã hội, về sự phân chia quyền
lực, về tài sản đưa con người đến một sự nhận thức cần thiết phải kiến tạo một
thiết chế quyền lực nhằm duy trì trật tự xã hội (trong vòng lợi ích của một giai cấp)
để các giai cấp không đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau và làm hủy hoại cả xã hội. Trong
lịch sử xã hội ta thấy có một thiết chế xã hội ra đời từ xã hội, nhưng dường như lại
đứng trên xã hội - đó là nhà nước. Pháp luật là phương tiện mà con người sử dụng
để giữ gìn thiết chế nói trên. Hiểu theo nghĩa đó, chúng ta thấy pháp luật cũng là sản

phẩm của tư duy văn hóa, là sản phẩm của văn hóa. Với tư cách là sản phẩm của
văn hóa, pháp luật biểu hiện những quy tắc mà con người sử dụng để định hướng và
ảnh hưởng tới sự sáng tạo những giá trị văn hóa khác như văn hóa đạo đức, văn hóa
thẩm mỹ, văn hóa tôn giáo v,v
Nghiên cứu văn hóa pháp lý đòi hỏi phải đặt nó trong mối tương quan và sự
liên hệ với các hình thức văn hóa khác, với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Sự
định hướng và phát triển văn hóa pháp lý đặt ra vấn đề nhận thức lý luận về trình độ
lập pháp nói chung. Trình độ lập pháp là một biểu hiện rất cao của văn hóa pháp lý.
Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng chỉ có thể được hình thành khi các
nhà làm luật nhận thức một cách sâu sắc các quy luật của đời sống xã hội trên các
mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Những quan hệ xã hội mới phát sinh cần

phải có luật điều chỉnh, phạm vi và mức độ điều chỉnh? Văn hóa pháp luật với chức
năng nhận thức của nó, giúp cho các nhà làm luật hiểu biết và xử lý tốt các tình
huống mà cuộc sống đặt ra.
Nâng cao trình độ nhận thức của con người cũng chính là phát huy những
tiềm năng, năng lực bản chất của con người. Đó là bước đầu rất quan trọng để hoàn
thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý
nói riêng luôn luôn chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa pháp lý cũng là khát vọng hướng tới cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ -
ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa, ba giá trị phổ quát của mọi nền văn
hóa.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc dĩ nhiên cần chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa pháp lý - một đòi hỏi
mang tính khách quan và cấp thiết. Phát triển văn hóa pháp lý mang lại một sự nhận
thức mới mẻ về các quy tắc, chuẩn mực, quan điểm pháp luật theo định hướng chân
- thiện - mỹ như là những giá trị xã hội, chứ không phải chỉ thuần túy là pháp luật.
Giá trị pháp lý là nhân tố quan trọng đối với hành vi của cá nhân, điều chỉnh các
nguyện vọng và hành động của con người, là tiêu chuẩn pháp lý để đánh giá hành
động và nghĩa vụ của mỗi công dân, để xác định lợi ích của các thành viên xã hội;

do đó giá trị pháp lý xác định các chuẩn mực của thang bậc xã hội, làm nền tảng
cho cuộc sống chung. Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, yêu cầu
xây dựng xã hội văn minh, dân chủ, kỷ cương, công bằng, bình đẳng; xây dựng nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh đang đòi hỏi
nhiều ở chức năng nhận thức của văn hóa pháp lý. Đã đến lúc cần khẳng định rằng:
việc phát huy chức năng nhận thức của văn hóa pháp lý, đặc biệt đối với các tầng
lớp nhân dân lao động, sẽ là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa pháp lý, tạo ra sự nhận thức
sâu sắc về vai trò và các giá trị xã hội của pháp luật; là tiền đề cần thiết để thực hiện
các chức năng giáo dục và chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý.

Chức năng giáo dục là hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và qua đó mà tác
động tới, con người, xã hội và có sức giáo hóa con người và xã hội.
Con người sinh ra và lớn lên phải tiếp nhận sự tác động, ảnh hưởng của môi
trường tự nhiên và xã hội là nhà nước và pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật,
phong tục tập quán, các sinh hoạt tinh thần khác và chịu sự tác động của quá trình
giáo dục. Văn hóa pháp lý là sản phẩm của hoạt động pháp luật của con người.
Trong môi trường xã hội có sự điều chỉnh của pháp luật, toàn bộ các hành vi, hoạt
động xã hội của con người thể hiện ra qua các tình huống ứng xử. ở đó, con người
tiếp xúc với nhau, tác động đến nhau, trao đổi với nhau, yêu cầu và tiếp nhận ở nhau
một điều gì đó trong khuôn khổ luật định. Văn hóa pháp lý với các yếu tố chân -
thiện - mỹ, chỉ đường cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự để tránh xung
đột với các cá nhân khác, mỗi người sẽ phải tự giải quyết vấn đề của mình khi lợi
ích xã hội và lợi ích cá nhân bị xâm hại mà không vi phạm pháp luật. Các cách xử
sự được chọn lọc, được kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu ứng xử;
thẩm thấu vào ý thức của mỗi người; biểu hiện ở tư tưởng, quan điểm về pháp luật ở
thái độ, tình cảm đối với pháp luật. Như vậy, văn hóa pháp lý tạo ra "môi trường văn
hóa" giáo dục và nuôi dưỡng đời sống tinh thần, ý thức pháp luật của con người.
Nói đến chức năng giáo dục của văn hóa pháp lý là nói tới việc định hướng
văn hóa cho hành vi pháp luật của con người. Hành vi pháp luật, như chúng ta đã

biết, là hành động có ý thức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của
pháp luật; trong mọi trường hợp, hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp
hoặc là hành vi bất hợp pháp. Tuy nhiên, ý nghĩa giáo dục từ định hướng văn hóa
cho hành vi pháp luật nổi bật ở chỗ giáo dục cách xử sự tích cực đối với pháp luật
dựa trên tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các giá trị
văn hóa pháp lý. Bản thân mỗi cá nhân, theo quy luật hướng thiện, không muốn
thực hiện các hành vi vi phạm, phá vỡ các quy tắc, yêu cầu hay đòi hỏi của chuẩn
mực pháp luật. Nhưng để đạt được điều này, bên cạnh ý thức tự giác tích cực của
mỗi người còn cần đến chức năng giáo dục. Định hướng giá trị văn hóa pháp lý là
xu hướng của con người muốn vươn lên chiếm lĩnh hoặc tiếp cận các giá trị văn hóa

cao đẹp của pháp luật, nhờ đó mà dần dần hoàn thiện nhân cách của mình; định
hướng giá trị đó, xác định thái độ lựa chọn hành động của con người trước mỗi tình
huống cụ thể của cuộc sống, quy định hành vi pháp luật của cá nhân, quy định
khuynh hướng và tính tích cực xã hội của nó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử riêng nên
đã hình thành những truyền thống văn hóa pháp lý riêng phù hợp với truyền thống
văn hóa, đạo đức, pháp luật, phong tục tập quán của dân tộc. Lịch sử đấu tranh
dựng nước và giữ nước của cha ông ta qua các thời kỳ lịch sử đã tạo dựng nên nền
văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Các công trình nghiên cứu về văn hóa pháp lý
phải hướng vào các di sản văn hóa pháp lý mà cha ông ta đã sáng tạo ra trong các
thời kỳ lịch sử; từ đó mà phát hiện những giá trị pháp lý, phát huy những giá trị
truyền thống trong xã hội hiện đại. Điều đó cũng có nghĩa là văn hóa pháp lý góp
phần vào việc giáo dục lòng tự hào dân tộc, giáo dục thái độ tôn trọng, giữ gìn các
giá trị văn hóa pháp lý của dân tộc. Nó cũng chứng minh rằng: việc giáo dục con
người bằng văn hóa, bằng các giá trị và truyền thống văn hóa có vai trò hết sức quan
trọng.
Dĩ nhiên, quan tâm đến chức năng giáo dục của văn hóa và văn hóa pháp lý
không có nghĩa là biến các hoạt động văn hóa đó thành những bài giáo huấn khô
khan hay giáo điều và trừu tượng. Chức năng giáo dục được thực hiện trong mối liên

hệ với chức năng nhận thức và thực tiễn của nó. Tức là thông qua các chức năng cụ thể,
các hoạt động văn hóa tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách, tới sự phát triển
toàn diện của con người. Đặc trưng của chức năng giáo dục của văn hóa là ở đó. Sức
mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa và văn hóa pháp lý là ở chỗ, nó huy động được
toàn bộ các năng lực tinh thần, tác động tới nơi sâu kín nhất đời sống tinh thần của mỗi
cá nhân con người.
ở nước ta hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, cùng với quá
trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bên cạnh những thành tựu tích cực, tiến
bộ đã đạt được cũng còn nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra, trong đó có lĩnh vực văn
hóa. Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương khóa VIII “Về xây dựng

và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã chỉ rõ thực
trạng những mặt yếu kém của văn hóa nước ta:
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo
lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ  đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình,
quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma
túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến.
Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội [8,
tr.46].
Thực trạng nêu trên có nhiều khía cạnh liên quan đến pháp luật. Trong tình
hình như vậy, đề cao và phát huy chức năng giáo dục của văn hóa pháp lý là một
vấn đề cấp thiết. Cần phải thông qua các hoạt động văn hóa pháp lý để tăng cường
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và
ý thức tôn trọng pháp luật trong các tầng lớp nhân dân đi đôi với giáo dục đạo đức
và nhân cách; giáo dục nếp sống, lối sống có văn hoá với phù hợp với các quy định
của pháp luật.
Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý có mối quan hệ mật thiết với chức
năng nhận thức và chức năng giáo dục, vì mọi hoạt động thực tiễn chỉ có thể đạt
hiệu quả cao dựa trên cơ sở nhận thức và tiếp nhận sự giáo dục nâng cao nhận thức.

Nói đến chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý, trước hết, là nói đến sự
vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu văn hóa pháp lý vào hoạt động thực
tiễn của việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước;
chính sách pháp luật là khâu quan trọng đối với hoạt động lập pháp nói chung và
việc ban hành các bộ luật, đạo luật nói riêng. Chính sách pháp luật có ảnh hưởng
quan trọng tới tâm lý và ý thức của con người, góp phần hình thành ý thức pháp lý
mang tính tích cực của các cá nhân và các nhóm xã hội. Dưới tác động của văn hóa
pháp lý, việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật đúng đắn là định hướng
quan trọng cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. ở đó phải có sự
phù hợp của nội dung hệ thống pháp luật thực định so với những đòi hỏi khách quan

×