1
z
LUẬN VĂN:
Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở
Nam Kỳ từ năm 1930 đến năm1945
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ
tháng 10 - 1930 đến tháng 2 - 1951 là Đảng Cộng sản Đông Dương) hơn 80 năm qua,
thời kỳ 1930 - 1945 thể hiện đậm nét bản lĩnh cách mạng kiên cường, sức sống mãnh
liệt, trí tuệ sáng tạo, sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về tư duy chính trị, năng
lực xác định đường lối cách mạng gắn kết với phương pháp chỉ đạo đấu tranh thực
tiễn sát hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam và xây dựng hệ thống tổ chức. Nhờ vậy,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta trong các cao trào đấu tranh cách mạng 1930 - 1931;
1936 - 1939; 1939 - 1945, tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám - 1945, giành độc
lập, tự do, mở đường phát triển cho dân tộc trong thời đại mới.
Hoạt động của Đảng trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền (1930 -
1945) rất phong phú, có ý nghĩa hết sức to lớn về lý luận và thực tiễn đã thu hút
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song đến nay, vẫn còn nhiều vấn đề, nhất là
công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng các cấp, trong đó có công tác xây dựng
hệ thống tổ chức các cấp bộ Đảng ở Nam Kỳ chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa
được luận giải thấu đáo.
1.2. Trong điều kiện hoạt động bí mật, chưa nắm chính quyền, phải đối phó
với sự đánh phá ác liệt của đối phương, việc xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở
Nam Kỳ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng bộ và sự thành bại của cách mạng ở khu vực này. Hiện thực cuộc vận động
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời kỳ 1930-1945 ở khu vực Nam Kỳ cho
thấy, trong khi các Đảng bộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ bị đánh phá và tan vỡ trong một
thời gian dài, Đảng bộ Nam Kỳ, nhất là cơ quan lãnh đạo cấp xứ liên tục được khôi
phục và duy trì hệ thống tổ chức. Nhờ xây dựng, khôi phục và phát triển hệ thống
tổ chức Đảng các cấp từ Xứ uỷ, liên tỉnh uỷ đến các đảng bộ địa phương, Đảng bộ
Nam Kỳ đã từng bước tạo dựng và đào luyện được đội quân cách mạng đông đảo,
3
rộng khắp trên địa bàn, lãnh đạo các phong trào đấu tranh sôi động của các tầng lớp
nhân dân, để khi thời cơ đến, phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
kịp thời ít đổ máu, góp phần to lớn vào thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa trên
cả nước, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ còn có vai trò đối với
công cuộc khôi phục của cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương cũng
như đối với công tác xây dựng Đảng ở các khu vực khác, nhất là đối với Nam
Trung Kỳ. Có nhiều thời đoạn, nhất là giai đoạn 1930-1935, các cơ quan lãnh đạo
cấp tỉnh, liên tỉnh ở Nam Trung Kỳ hoạt động dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Nam Kỳ
rồi Liên địa phương chấp uỷ Nam Đông Dương.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng hệ thống tổ chức
Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945 cũng còn một số hạn chế trong xây
dựng cơ quan lãnh đạo, trong đoàn kết thống nhất về tổ chức, trong bảo vệ Đảng
Những thành tựu, những đặc điểm của quá trình xây dựng hệ thống tổ chức
Đảng ở Nam Kỳ, sự chủ động sáng tạo cũng như những hạn chế trên đây cần phải
được nghiên cứu, luận giải, đánh giá xác đáng.
1.3. Xây dựng Đảng về tổ chức gắn kết hữu cơ với hai mặt chính trị và tư
tưởng của công tác xây dựng Đảng, là điều kiện không thể thiếu bảo đảm cho Đảng
thống nhất ý chí và hành động, là nhân tố bảo đảm các mặt lãnh đạo của Đảng, nhất
là việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong cuộc sống.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta xác định nhiệm vụ xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn
đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, cần thiết phải nghiên cứu, đúc kết, vận
dụng những kinh nghiệm lịch sử về xây dựng Đảng nói chung, về xây dựng hệt
hống tổ chức và cán bộ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong đó có
những kinh nghiệm về xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, các cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
4
Nghiên cứu đề tài “Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ từ năm
1930 đến năm1945” để phản ánh hiện thực xây dựng hệ thống tổ chức, nhân sự các
cấp uỷ ở Nam Kỳ, soi tỏ thêm đặc điểm, tổ chức, hoạt động của các cấp bộ Đảng,
của các nhân vật lịch sử của Đảng ở khu vực này trong quá trình vận động cách
mạng trước khi trở thành một đảng cầm quyền; đúc kết kinh nghiệm xây dựng, bảo
vệ hệ thống tổ chức Đảng để cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho công tác
xây dựng tổ chức Đảng hiện nay; góp phần bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, hiệu
chỉnh những nhận định sai lạc, thiên kiến về vai trò lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930
- 1945.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đây là vấn đề đã được đề cập ở những mức độ, phạm vi và góc độ khác
nhau trong các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc, ở các cơ quan
nghiên cứu Trung ương và địa phương. Nó cũng được một số nhà nghiên cứu nước
ngoài, hoặc người Việt Nam ở nước ngoài xem xét.
2.1. Ngay từ thập kỷ 30 thế kỷ XX, trong các dịp kỷ niệm thành lập Đảng
hằng năm, những nhà lãnh đạo hay lý luận của Đảng đã công bố nhiều bài viết trên
báo chí của Quốc tế Cộng sản và của Đảng Cộng sản Đông Dương phản ánh về lịch
sử và truyền thống đấu tranh của Đảng, trong đó có đề cập đến công tác xây dựng
hệ thống tổ chức, cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Nam Kỳ. Đáng chú ý nhất là tài liệu
Lược thảo Lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương của tác giả Hồng Thế Công
(tức Hà Huy Tập) thực hiện năm 1933, hàm chứa nhiều vấn đề lịch sử về sự ra đời
của Đảng, trong đó có đề cập đến Đảng bộ Nam Kỳ. Tuy nhiên, tác phẩm ít chú ý
phân tích sâu về mặt tổ chức; giới hạn nghiên cứu cũng dừng lại ở những năm đầu
của thập kỷ 30 thế kỷ XX.
Từ năm 1960, thực hiện chủ trương tăng cường công tác tổng kết kinh
nghiệm và viết Lịch sử Đảng của Đại hội Đảng lần thứ III (9-1960), nhiều công
trình nghiên cứu về Lịch sử Đảng được tiến hành. Những công trình nghiên cứu
của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (nay là Viện Lịch sử Đảng), đặc
biệt là tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Sơ thảo), Tập I (1920-1954),
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, khi đề cập đến tổ chức Đảng đã nêu một số nội dung về
5
chủ trương chỉ đạo của Đảng đối với công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng,
trong đó có đề cập đến Đảng bộ Nam Kỳ.
Một số giáo trình về lịch sử Đảng của Trường Chuyên khoa lịch sử Đảng
(cũ), của Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh), của Viện Lịch sử Đảng, của Bộ Giáo dục và Đào tạo
khi trình bày thời kỳ 1930 - 1945 đã đưa ra một nhận xét khái lược về công tác tổ
chức của toàn Đảng, bao gồm cả Đảng bộ Nam Kỳ.
Nhìn chung, những công trình trên mới dừng lại ở việc nêu chủ trương chỉ
đạo của Đảng, những kinh nghiệm chung về xây dựng tổ chức; hệ thống tổ chức
Đảng ở Nam Kỳ, cơ cấu thành phần, xứ uỷ và liên tỉnh uỷ ở Nam Kỳ chưa được đề
cập hoặc rất vắn tắt; phương pháp gây dựng các tổ chức trên chưa được tìm hiểu
thấu đáo.
Một số chuyên khảo về công tác tổ chức của Đảng, như Nguyễn Hữu Tri,
Nguyễn Thị Phương Hồng, Một số vấn đề đổi mới tổ chức bộ máy Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Trung tâm nghiên cứu về tổ chức,
Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2000), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005 trong khi trình bày những vấn đề lý luận xây dựng
Đảng về tổ chức, những quan điểm, chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng về công tác
tổ chức (bao gồm cả tổ chức nội bộ Đảng, tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức
thực hiện đường lối của Đảng) qua các thời kỳ đã đề cập đến việc xây dựng các cấp
uỷ Đảng nói chung, trong đó có các cấp uỷ ở Nam Kỳ; tuy nhiên chưa đi sâu
nghiên cứu về tổ chức Đảng ở khu vực Nam Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
Trong những năm gần đây, trên Tạp chí Lịch sử Đảng - diễn đàn khoa học
của ngành Lịch sử Đảng toàn quốc, xuất hiện một số bài nghiên cứu về các xứ uỷ,
về sự xây dựng hệ thống tổ chức của các đảng bộ Nam Kỳ. Tuy nhiên, trong khuôn
khổ hạn hẹp của một bài tạp chí, các bài viết chủ yếu trình bày những nét diễn biến
chính, không đi sâu phân tích cụ thể về từng cấp bộ cũng như về phương pháp,
cách thức hay kinh nghiệm xây dựng tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
2.2. Từ khi khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri Số 91-TT/TW,
ngày 18 - 9 - 1962 Về việc thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng ở các khu, thành,
6
tỉnh, nhất là sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đến nay hầu hết các tỉnh,
thành phố thuộc khu vực Nam Kỳ trước đây đã hoàn thành việc nghiên cứu, biên
soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố thời kỳ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Những công trình này chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu tổ chức
Đảng cấp địa phương, ít đề cập tổ chức Đảng cấp xứ uỷ, liên tỉnh uỷ; một số sự
kiện và nội dung thiếu chính xác.
2.3. Một số công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc thời kỳ 1930-1945, về
30 năm chiến tranh cách mạng của nhân dân ta (từ 1945 đến 1975) phản ánh ở
những mức độ khác nhau về hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945.
Có thể nêu một số công trình: Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Lênin - Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Đảng bộ
miền Đông Nam Bộ, Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003 Tuy nhiên, những công trình này không đi sâu nghiên cứu hệ thống tổ chức
của Đảng, sự khảo cứu về tổ chức Đảng ở Nam Kỳ rất sơ lược.
Một số chuyên khảo về đấu tranh yêu nước và cách mạng trong các nhà tù
đế quốc, như Lịch sử Nhà tù Côn Đảo cũng phản ánh về công tác xây dựng Đảng
trong tù, mối quan hệ giữa cơ sở Đảng trong tù với hệ thống tổ chức Đảng Nam Kỳ
bên ngoài, qua đó nêu lên một số nội dung về công tác nhân sự của Xứ uỷ Nam Kỳ
thời kỳ 1930-1945.
2.4. Các công trình nghiên cứu, kỷ yếu hội thảo khoa học về các lãnh tụ của
Đảng, hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng cũng phản ánh một số khía
cạnh về bộ máy tổ chức của Đảng ở Nam Kỳ trong thời kỳ 1930 - 1945. Có thể kể
một số công trình: Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, một tấm gương bất
diệt (Hồi Ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Nguyễn Đức Bình, Trịnh
Nhu, Những cống hiến của Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, cho cách
mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương, cho Đảng ta, Báo Nhân dân, ngày 13, 14,
15 - 2004; Lê Hồng Phong - người cộng sản kiên cường (Hồi ký), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Nguyễn Văn Cừ - nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách
7
mạng Việt Nam (Hồi ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Trường Chinh-
một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam (Hồi ký),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 Ngoài ra còn có hàng chục bài viết về các
lãnh tụ của Đảng được đăng tải trên các tạp chí: Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xưa & Nay Các công trình trên có
đề cập đến hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời Kỳ 1930-1945, song còn tản
mạn, chưa có hệ thống.
2.5. Một số cơ quan trấn áp hay quan chức của chính quyền thuộc địa, khi
tìm kiếm kế sách đàn áp phong trào cộng sản Việt Nam đã tìm hiểu lịch sử hình
thành và cấu tạo của tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương đầu những năm 30 thế
kỷ XX. Đáng chú ý là tài liệu Contribution à l’histoire des mouvements politiques
de l’Indochine Francaise, 1925-1933 (Góp phần nghiên cứu lịch sử phong trào
chính trị ở Đông Dương thuộc Pháp, 1925 - 1933) do Chánh mật thám Đông
Dương L.Marty tổ chức biên soạn ở Hà Nội năm 1933, trong đó có một số nội dung
về nhân sự, tổ chức Đảng Đảng Cộng sản Đông Dương, bao gồm cả Đảng bộ Nam
Kỳ. Do quan điểm, lập trường thực dân chi phối nên các tài liệu kể trên chứa đựng
những nội dung xuyên tạc về nguyên tắc tổ chức và mục đích của Đảng. Tuy nhiên,
với mục đích nghiên cứu phục vụ việc trấn áp, nên các tài liệu đó cũng phản ánh
một số khía cạnh về cơ cấu tổ chức, các cơ quan lãnh đạo và nhân sự của Đảng mà
mật thám Pháp thu nhận thông qua các biện pháp nghiệp vụ.
Một số công trình của các nhà nghiên cứu, sử học trên thế giới như: Histore
du Vietnam de 1940 - 1952 (Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952) của Philippe
Devillers, do Édition du Seuil xuất bản, Paris, 1952; Révolutionaires Vietnamiens et
Pouvoir colonial en Indochine (Những nhà cách mạng Việt Nam và chính quyền
thuộc địa ở Đông Dương) của Daniel Hémery, Nxb Francois Maspero, Paris, 1975;
Vietnamese Communism (1925-1945) (Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam 1925 -1945)
của Huỳnh Kim Khánh, do Cornell University Press xuất bản, Ithaca, London,
1982; La repression coloniale au Vietnam (1908-1940) (Sự trấn áp thuộc địa ở Việt
Nam) của Patrice Morlat, Nxb L’Harmattan, Paris, 1990; Why Vietnam? Tại sao
Việt Nam? của Archimedes L.A. Patti, Nxb Đà Nẵng, 1995; Vietnam 1945, The
quest for power (Việt Nam 1945, Cuộc tìm kiếm chính quyền) của David G.Marr,
8
xuất bản bởi University of California Press, Berkeley - Los Angeles - London,
1995 khi nghiên cứu về phong trào cộng sản ở Việt Nam, về Cách mạng Tháng
Tám, có đề cập và đưa ra những đánh giá về hệ thống tổ chức, về các cơ quan lãnh
đạo cấp Trung ương, cấp xứ uỷ của Đảng thời kỳ 1930-1945, trong đó có các cấp
uỷ Đảng ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, các tác giả nêu trên không đi sâu khảo cứu về hệ
thống tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung cũng như Đảng bộ Nam Kỳ.
Mặt khác, do lập trường, quan điểm, do phương pháp nghiên cứu, không tìm hiểu
thấu đáo về hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng, nên có những tác giả đưa ra
những nhận định sai lệch với thực tiễn lịch sử, cần phải tiếp tục trao đổi, thảo luận
và bác bỏ bằng sự thật lịch sử khách quan.
Như vậy, đến nay, nhiều công trình khoa học bước đầu phản ánh và thống
nhất khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm, trong chủ trương, trong chỉ đạo
của Đảng về xây dựng tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945, tuy nhiên chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về Xây dựng hệ thống tổ
chức Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945. Nhiều vấn đề lịch sử, nhiều sự
kiện và nhân vật lịch sử liên quan đến tổ chức của Đảng ở Nam Kỳ chưa được phản
ánh, hoặc nhìn nhận chưa xác đáng.
Tuy mức độ liên quan đến đề tài có khác nhau, những công trình nêu trên là
những tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo và kế thừa trong việc thu thập, xử lý
nguồn sử liệu và phương pháp luận vào quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ những quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Trung ương Đảng,
của Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ;
quá trình hình thành, phát triển, đặc điểm và phương thức xây dựng hệ thống tổ
chức Đảng ở Nam Kỳ và vai trò của nó trong công tác xây dựng Đảng cũng như
trong công cuộc vận động cách mạng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945; đúc
kết kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-
1945.
- Sản phẩm của đề tài góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử
Đảng toàn diện và sâu sắc hơn; góp phần bác bỏ những luận điệu xuyên
9
tc, hiu chnh nhng nhn nh sai lc, thiờn kin v vai trũ lónh o ca ng
thi k 1930 - 1945.
- Kt qu nghiờn cu cung cp thờm nhng lun c khoa hc, gi m mt s
kinh nghim trong cụng tỏc xõy dng ng v mt t chc hin nay.
4. Nội dung nghiên cứu
4.1. Bối cảnh lịch sử, yêu cầu cách mạng thời kỳ 1930-1945, tác động chi
phối đến công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ.
4.2. Quan im c bn ca ch ngha Mỏc - Lờnin v nguyờn tc t chc
ca chớnh ng vụ sn. Quan điểm, chủ tr-ơng, đ-ờng lối của Đảng và của đồng
chí Nguyễn ái Quốc về công tác xây dựng tổ chức Đảng ở Nam Kỳ, qua các giai
đoạn 1930-1935, 1935-1939, 1939-1945.
4.3. Sự chỉ đạo của Trung -ơng Đảng đối với công tác xây dựng hệ thống
tổ chức Đảng ở Nam Kỳ qua các giai đoạn 1930-1935, 1935-1939, 1939-1945.
4.4. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc
Kỳ từ Xứ uỷ, Liên tỉnh uỷ, Tỉnh uỷ Huyện uỷ, chi bộ Đảng ở Nam Kỳ (theo các
giai đoạn lịch sử 1930-1935, 1936-1939, 1939-1945).
4.5. Đặc điểm, vai trò, ph-ơng thức xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở
Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945.
4.6. Một số kinh nghiệm về xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ thống tổ
chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945.
5. Phng phỏp nghiờn cu
ti s dng phng phỏp lch s v logic, thng kờ, so sỏnh, i chiu,
h thng t chchi tho khoa hc, to m ly ý kin chuyờn gia tỏi hin v
bt s lónh o sỏng to ca ng trong quỏ trỡnh xõy dng h thng t chc ng
Nam K t nm 1930 n 1945.
ti chỳ trng s dung phng phỏp c trng ca khoa hc Lch s ng
l ly cỏc ch th, ngh quyt ca ng lm c s soi ri, ỏnh giỏ v cụng tỏc t
10
chức, nhân sự của Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến 1945. Đề tài cũng chú trọng
phương pháp sử liệu học để phân tích, thẩm định các loại tài liệu khác nhau để tái
hiện công tác xây dựng hệ thống tổ chứcĐảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến 1945.
Đối với những tài liệu của mật thám Pháp, nhất là các bản cung, đề tài sẽ rất
cẩn trọng trong sử dụng và chủ yếu dùng làm tài liệu tham khảo.
6. Lực lượng nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu đề ra, chủ nhiệm đề tài đã mời một số cán bộ nghiên
cứu của Viện Lịch sử Đảng, một số nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu thời kỳ
1930-1945 tham gia viết chuyên đề và góp ý bản thảo.
7. Sản phẩm của đề tài
- Bản báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, danh mục
tài liệu tham khảo, bao gồm 3 chương và kết luận với tổng số 117 trang.
- Bản Kiến nghị rút ra từ kết quả nghiên cứu, 8 trang.
8. TriÓn väng øng dông
- Đề tài góp phần làm rõ hơn hiện thực công tác xây dựng Đảng, những sáng
tạo của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc trước khi trở thành một Đảng
cầm quyền; góp phần đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, hiệu chỉnh những
nhận định sai lạc về vai trò lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
- Sản phẩm của đề tài góp phần vào việc nghiên cứu, tuyên truyền và giảng
dạy Lịch sử Đảng thêm toàn diện và sâu sắc.
- Kết quả nghiên cứu góp phần gợi mở một số kinh nghiệm trong công tác
xây dựng Đảng về mặt tổ chức, cung cấp thêm những luận cứ bổ sung lý luận về
xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
9. Kết cấu của Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, Báo cáo tổng hợp kết
quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương và kết luận
Chương I
11
QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG, HỒ
CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC
ĐẢNG Ở NAM KỲ THỜI KỲ 1930 - 1945
1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh
1
về xây dựng hệ
thống tổ chức Đảng thời kỳ 1930-1945
1.1.1.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng hệ thống tổ chức
của Đảng Cộng sản
Khi đề cập đến vấn đề tổ chức và vai trò của nó, những nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ tổ chức là “vũ khí” chủ yếu của giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa cộng
sản. Lê nin viết: “Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không
có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Bị phân chia vì sự cạnh tranh vô chính phủ
đang thịnh hành trong thế giới tư bản, bị đè nặng dưới sự lao động nô lệ cho tư
bản, luôn luôn bị dìm sâu dưới “ tận đáy” của cảnh khổ cực, của sự cùng quẫn và
của sự thoái hoá, nhưng giai cấp vô sản vẫn có thể trở thành – và tất nhiên sẽ trở
thành- một lực lượng vô địch, chỉ vì một lý do này: sự thống nhất tư tưởng của giai
cấp vô sản dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác được củng cố bằng
sự thống nhất vật chất của tổ chức tập hợp hành triệu người lao động thành một
đạo quân vô địch của giai cấp công nhân ”
2
.
Sự “ thống nhất vật chất” của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chỉ
có thể thực hiện được và biến thành sức mạnh vô địch khi do chính Đảng vô sản
kiểu mới của chủ nghĩa Lênin lãnh đạo.
Xuất phát từ luận điểm, Đảng cộng sản là đội tiên phong có tổ chức và là tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin đã
xác lập các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính Đảng vô sản, bảo đảm đủ
1
Trong cuộc đời hoạt động, Hồ Chí Minh có nhiều danh xưng, bí danh, bút danh khác nhau. Để
tiện trình bày, chúng tôi dùng danh xưng Hồ Chí Minh. Tương tự, trong lịch sử hình thành và phát
triển Đảng Cộng sản Việt Nam mang nhiều danh xưng khác nhau; để tiện trình bày chúng tôi dung
danh xứng là Đảng.
2
Lênin Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ Maxcơva, 1978, tr. 490.
12
sức lãnh đạo giai cấp vô sản đảm đương và thực hiện thắng lợi sứ mệnh được lịch
sử nhân loại giao phó. Trong đó, nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất là nguyên tắc
tập trung dân chủ
Trên cơ sở cho rằng không có một đảng chính trị nào có thể tồn tại nếu
không có tổ chức, trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản, Mác và Ăngghen
đã quy định rõ hệ thống cơ cấu tổ chức của Liên đoàn là một chỉnh thể thống nhất,
tế bào cơ sở của Liên đoàn là công xã có từ 30 đến 20 đảng viên; các công xã hợp
thành các khu và cơ quan tối cao của Liên đoàn là Đại hội, giữa hai kỳ đại hội là
Ban Chấp hành Trung ương. Các Ban Chấp hành được bầu cử ra và có thể thay thế
bất cứ lúc nào. Trong Thư gửi Liên đoàn những người cộng sản, Mác và Ăngghen
đã không chấp nhận tình trạng mỗi thôn xã, mỗi thành phố và mỗi tỉnh lợi dụng cái
gọi là tự trị, tự do của địa phương đã gây ra nhiều trở ngại cho sự hoạt động thống
nhất của Liên đoàn.
Về phương diện lý luận, Mác và Ăngghen chưa dùng khái niệm nguyên tắc
tập trung dân chủ, nhưng về phương diện thực tiễn thì hai ông đã chỉ đạo xây dựng
Liên đoàn những người cộng sản và Hội liên hiệp công nhân quốc tế theo tinh thần
của nguyên tắc đó. Một số nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ như
vấn đề bầu cử, dân chủ, bình đẳng; quyền thảo luận, thông qua cương lĩnh, điều lệ;
cấp dưới phục tùng cấp trên; thiểu số phục tùng đa số; mọi thành viên đều có trách
nhiệm thực hiện kỷ luật bắt buộc như nhau đã được Mác và Ăngghen đề cập.
Là người kế tục xuất sắc sự nghiệp của Mác - Ăngghen, Lênin đã vận dụng
sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng của hai ông về vấn đề tập trung dân chủ.
Lênin nhấn mạnh rằng chính đảng của giai cấp vô sản phải là một chỉnh thể thống
nhất “hết sức có tổ chức”
3
và tập trung dân chủ là một nguyên tắc tổ chức cơ bản
của đảng.
Khái niệm “tập trung dân chủ” được Lênin sử dụng từ năm 1905, sau đó
được đưa vào Điều lệ của Đảng công nhân dân chủ – xã hội Nga (Đại hội IV -
1906) và được các đảng trong Quốc tế III thừa nhận. Theo đó, Đảng tổ chức và
3
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 286.
13
hoạt động theo nguyên tắc “cấp dưới phải phục tùng cấp trên”
4
, “bộ phận phục
tùng toàn bộ và thiểu số phục tùng đa số (…) phân công, dưới quyền lãnh đạo của
một cơ quan Trung ương”
5
.
Lênin viết: “cần phải thừa nhận để thực hiện thống nhất: 1) Thiểu số phải
phục tùng đa số (không nên nhầm lẫn với đa số và thiểu số giữa ngoặc kép! đây là
nói về nguyên tắc tổ chức của đảng nói chung, chứ không phải về sự thống nhất
của “phái thiểu số” với “phái đa số” mà sau này nói đến ). 2) Cơ quan tối cao
của đảng phải là đại hội, tức là cuộc họp của những người được tất cả các tổ chức
có thẩm quyền bầu ra, và các nghị quyết của những người ấy phải có tính chất tối
hậu quyết định 3) Bầu cử cơ quan trung ương của đảng phải trực tiếp và tiến
hành tại đại hội. Bầu cử ngoài đại hội, bầu cử qua hai cấp, .v.v., đều không thể
chấp thuận được. 4) Tất cả mọi thứ sách báo đảng, của trung ương cũng như của
địa phương, tuyệt đối phải phục tùng đại hội của đảng và phục tùng tổ chức tương
đương của đảng ở trung ương hay địa phương. Không thể cho phép tồn tại những
sách báo nào của đảng không có liên hệ về mặt tổ chức với đảng. 5) Khái niệm tư
cách đảng viên phải được qui định thật rõ ràng. 6) Quyền hạn của mọi phái thiểu
số trong đảng cũng phải được qui định rõ ràng như thế trong điều lệ đảng đó là
những nguyên tắc tổ chức tuyệt đối không thể thiếu, nếu không thừa nhận thì không
thể thống nhất ”
6
.
Về mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung, Lênin chỉ rõ “Để cho sự phát
triển và thống nhất của đảng dân chủ – xã hội thu được kết quả thì cần nhấn mạnh,
phát triển, đấu tranh cho nguyên tắc dân chủ rộng rãi trong tổ chức của đảng, điều
này trở nên đặc biệt cần thiết ”
7
. Song, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng
phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung. Lênin phê phán những tư tưởng muốn tách
khỏi sự lãnh đạo thống nhất của trung ương, đòi thiết lập chế độ tự trị địa phương ở
trong đảng. Người nêu rõ: “ở đây, tôi cần phải vạch rõ cái xu hướng không thể chối
4
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 429
5
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, , tr.460-461
6
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 11, tr.207-208.
7
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1975, tập 6, tr.176.
14
cãi được nhằm bênh vực chế độ tự trị, chống lại chế độ tập trung, là một đặc điểm
có tính nguyên tắc của chủ nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức”
8
.
Lênin cho rằng: Cần phải hiểu chế độ tập trung dân chủ, một mặt thật khác
xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô
chính phủ.
Đi liền với nguyên tắc tập trung dân chủ là việc xây dựng và thực hành
nghiêm túc kỷ luật đảng. Lênin viết: “đảng cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm
vụ của mình nếu đảng được tổ chức một cách tập trung nhất, nếu trong đảng có
một kỷ luật sắt, gần giống như kỷ luật quân sự, và nếu Trung ương Đảng là một cơ
quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi, được toàn thể đảng viên tin cậy”
9
.
Việc thi hành kỷ luật trong Đảng phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Lênin
chỉ rõ: “Bất kỳ ai đã nắm được những nguyên tắc của mọi tổ chức đảng nói chung,
cũng đều thấy rõ kỷ luật đối với cấp dưới là do kỷ luật đối với cấp trên quyết định;
kỷ luật đối với Hội đồng đảng là do sự phục tùng của Hội đồng đảng đối với những
người ủy thác nó, tác là đối với toàn bộ các ban chấp hành, đối với đại hội đảng
quyết định”
10
.
Đồng thời với việc xác lập nguyên tắc tập trung dân chủ, những nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác- Lênin cũng xác định hệ thống tổ chức của Đảng xây dựng theo
nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc nghề nghiệp và nguyên tắc dân tộc.
Lênin chỉ rõ, tổ chức đảng phụ trách từng vùng lãnh thổ là tổ chức cao nhất
trong mối quan hệ đối với tất cả các tổ chức đảng phụ trách từng bộ phận trong
vùng lãnh thổ đó. Người đưa nội dung này thành nguyên tắc trong Đại hội III của
Quốc tế cộng sản để phân biệt với các đảng của Quốc tế II mà họ xây dựng hệ
thống tổ chức của Đảng theo vùng dân cư là chủ yếu cho phù hợp với tính chất cải
lương để đạt mục đích giành nhiều phiếu bầu trong các cuộc bầu cử. Lênin viết:
“Cần phải có sẵn các chi bộ, phân chi, khu bộ, được thành lập theo nguyên tắc
lãnh thổ, tức là tập hợp các đảng viên theo nơi ở của họ, theo địa điểm của các
công xưởng trong một khu vực hành chính nào đó Các khu, phân khu, chi bộ cơ
8
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 8, tr.466.
9
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 41, tr. 253.
10
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 10, tr.240.
15
sở đều được thành lập không phải chỉ theo nguyên tắc lãnh thổ (địa phương), mà
còn theo nguyên tắc nghề nghiệp ( ) và theo nguyên tắc dân tộc (dân tộc khác
nhau, ngôn ngữ khác nhau)”
11
.
Những quan điểm trên của Chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng hệ thống tổ
chức của Đảng là những nguyên tắc cơ bản, mang tính khoa học và cách mạng,
được tất cả các Đảng cộng sản theo chủ nghĩa Lênin trên thế giới, trong đó có
Đảng Cộng sản Việt Nam (từ 10-1930 đến 2-1951 là Đảng Cộng sản Đông Dương)
quán triệt và thực hiện trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
thực dân, giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp, giải phóng con người.
1.1. 2 Đảng và Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm của chủ nghãi Mác-
Lênin vào thực tiễn xác lập qui định, đề ra những chủ trương về xây dựng hệ
thống tổ chức Đảng thời kỳ 1930-1945
Quán triệt những nguyên tắc về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Lênin, ngay
từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10-1930 đến 3-1951 là Đảng
Cộng sản Đông Dương) đã xác định công tác xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức
Đảng từ Trung ương đến địa phương là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn
lịch sử và điều kiện cụ thể của từng địa bàn, Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra chủ
trương chỉ đạo về công tác xây dựng hệ thống tổ chức cho toàn Đảng, cho từng địa
phương, đảm bảo cho Đảng lãnh đạo thắng lợi công cuộc đấu tranh giành chính
quyền.
Những chủ trương, nguyên tắc, định hướng về công tác xây dựng tổ chức
Đảng được thể hiện qua các bản Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam cho công tác xây dựng,
khôi phục, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức cho toàn Đảng và cho các Đảng
bộ.
11
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 14, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1980, tr.336.
16
Đầu năm 1930, tại Hồng Kông (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc triệu tập và
chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng
Điều lệ vắn tắt quy định hệ thống tổ chức của Đảng gồm 4 cấp như sau:
“Chi bộ gồm tất cả đảng viên trong một nhà máy, một công xưởng, một
hầm mỏ, một sở xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một đường phố…
Huyện bộ, thị bộ hay là khu bộ:
Huyện bộ gồm tất cả các chi bộ trong một huyện.
Thị bộ gồm tất cả các chi bộ trong một châu thành nhỏ.
Khu bộ gồm tất cả các chi bộ trong khu của một thành phố lớn như “Sài
Gòn, Chợ Lớn, Hải phòng, Hà Nội” hay một sản nghiệp lớn như mỏ Hòn Gai.
Tỉnh bộ, Thành bộ hay đặc biệt bộ:
Tỉnh bộ gồm các huyện bộ, thị bộ trong một tỉnh.
Thành bộ gồm tất cả các khu bộ trong một thành phố.
Đặc biêt bộ gồm tất cả các khu bộ trong một sản nghiệp lớn.
Trung ương”
12
Cấu trúc hệ thống của tổ chức trên đây thể hiện tính chỉnh thể, sự liên hệ
chặt chẽ giữa các bộ phận ấy trong một chỉnh thể. Điều lệ trên đặt cơ sở cho sự
hình thành hệ thống tổ chức các cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi hợp
nhất.
Tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại
Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị ra án Nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông
Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng.
12
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 2, tr. 7, 8.
17
Hội nghị nêu những sai lầm, khuyết điểm của Hội nghị hợp nhất, như chỉ lo
hợp nhất mà không chú ý đến việc bài trừ những tư tưởng, hành động biệt phái của
các đảng phái trước kia, do đó mà Đảng tuy đã hợp nhất nhưng tư tưởng và hành
động của các đảng phái chưa thống nhất; công việc của Đảng không thảo luận
trong các Đảng bộ; các cấp Đảng bộ không có sự liên lạc mật thiết với nhau; chỉ
đạo theo lối mệnh lệnh;… Đặc biệt, Hội nghị cho rằng một trong những sai lầm
lớn của Hội nghị hợp nhất là trong hệ thống tổ chức bỏ mất cấp Xứ bộ, “bắt T. Ư
[T.G] (bảy người) trực tiếp chỉ huy các tỉnh bộ, làm cho T. Ư đã không chu đáo
được đến mỗi việc ở các tỉnh; mà lại không còn thì giờ mà lo đến việc quan trọng
chung cho toàn thể Đảng nữa”
13
.
Hội nghị chủ trương “chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng Bônsơvích hoá”; căn
cứ vào Điều lệ của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị định ra Điều lệ Đảng, tổ chức ra
các xứ uỷ cho vững vàng để “chỉ huy công việc trong một xứ. T. Ư vì có công việc
toàn thể Đảng không thể trực tiếp chỉ huy các tỉnh bộ (…) các Đảng bộ thượng
cấp (từ thành và tỉnh uỷ trở lên) phải tổ chức cả các ban chuyên môn nề giới để
vận động(…) Đảng bộ thượng cấp và hạ cấp phải liên lạc mật thiết luôn luôn thì
Đảng với quần chúng mới khỏi xa nhau. Phải tổ chức cho nhiều cách giao thông
để cho các cấp đảng bộ xa nhau thường không tin tức cho mau và chuyên (tỉnh ủy
với xứ ủy, xứ ủy với Trung ương, xứ ủy này với xứ ủy khác, Trung ương với các
đảng huynh đệ như Pháp và Tàu, Trung ương với Quốc tế Cộng sản”
14
.
Án Nghị quyết Hội nghị cũng nêu rõ cần tổ chức nhiều cách giao thông để
quan hệ giữa các cấp bộ Đảng được liên tục; tranh thủ phong trào đấu tranh để phát
triển tổ chức, tích cực thu nạp đảng viên mới, lập ra các chi bộ làng; chú ý lấy phụ
nữ, thợ thuyền vào Đảng; tăng cường và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Hội nghị thông qua Điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương, quy định rõ
hệ thống tổ chức Đảng có 6 cấp: Trung ương, Xứ bộ, Tỉnh bộ hoặc Thành bộ,
Huyện bộ, Tổng bộ và Chi bộ, gồm:
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, sđd, tr.111.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, sđd, tr.113-114.
18
“a, Chi bộ: Mỗi cái sản nghiệp, nhà buôn, hoặc đường phố, làng, trại lính…
có ban cán sự chi bộ chỉ huy.
b, Tổng bộ (ở nhà quê) có một ban tổng ủy chỉ huy.
c, Huyện bộ (ở các tỉnh), khu bộ (các thành phố, các vùng đồn điền, các
vùng mỏ) có một ban huyện ủy hay khu ủy chỉ huy.
d, Tỉnh bộ hoặc thành bộ (thành bộ Hà Nội, Hải Phòng, Vinh - Bến Thủy,
Huế, Tourane [Đà Nẵng- TG] Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Vang) hoặc đặc biệt bộ các
địa phương đồn điền, mở rộng như một tỉnh) có ban tỉnh, thành ủy, hoặc đặc ủy chỉ
huy.
đ, Xứ bộ (Trung, Nam, Bắc, Cao Miên, Lào) có Ban Xứ ủy chỉ huy.
e, Trung ương”
15
.
Điều lệ chỉ rõ: chi bộ là tổ chức căn bản của Đảng. Do đó, nơi nào có ba
đảng viên trở lên thì được tổ chức một chi bộ mới. Nơi nào chỉ có một, hai đảng
viên thì phải vào chi bộ gần đó. Còn những đảng viên khác như thủ công nghiệp,
trí thức, người đi ở thì phải lấy địa phương mình làm gốc mà tổ chức ra chi bộ
đường phố, ở nhà quê có công xưởng nhỏ thì được tổ chức ra chi bộ riêng.
Điều lệ quy định trong các tỉnh (thành, đặc biệt) bộ có ban thường vụ để
làm việc hàng ngày. Trong những trường hợp cụ thể, Xứ uỷ đóng ở thành phố nào
thì chỗ ấy không cần có thành uỷ. Công việc chỗ ấy do Xứ uỷ trực tiếp chỉ huy.
Đặc biệt, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930) còn vận dụng sự
chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản để lập ra Đảng đoàn trong các tổ chức cách mạng
như Công hội, Nông hội)
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng hệ thống tổ
chức Đảng, đồng thời cũng là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động tổ
chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng theo chủ nghĩa Lênin.
Trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, nguyên tắc tập trung càng cần được Đảng nhấn
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, sđd, tr. 120-121.
19
mạnh và chú trọng. Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930) ấn định rõ:
a) Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như các chi bộ của Quốc tế Cộng sản
phải tổ chức theo lối dân chủ tập trung, nghĩa là:
- Đảng bộ hạ cấp cho đến thượng cấp do các Đảng bộ hội nghị và Đảng Đại
hội cử ra.
- Các Đảng bộ mỗi cấp cử ủy viên thì phải báo cáo là thượng cấp.
- Đảng bộ hạ cấp thì phải nhất định thừa nhận Nghị quyết của thượng cấp,
phải giữ kỷ luật Đảng, phải chấp hành các Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và các
cơ quan chỉ huy của Đảng một cách thiết thực và mau mắn.
- Cơ quan chỉ huy một địa phương tức là thượng cấp các bộ phận trong địa
phương đó.
- Các đảng viên đối với các vấn đề trong Đảng chỉ có quyền thảo luận trong
Đảng bộ mình khi các vấn đề ấy chưa có Nghị quyết ra. Các Nghị quyết của Quốc
tế Đại hội hoặc Đảng Đại hội, hoặc của các cơ quan chỉ huy thì các Đảng bộ phải
nhất định chấp hành, dầu có một bộ phận đảng viên hoặc mấy địa phương Đảng bộ
không đồng ý với Nghị quyết ấy cũng cứ phải chấp hành.
b) Trong hoàn cảnh bí mật, khi cần kíp thì thượng cấp cơ quan có quyền chỉ
định hạ cấp cơ quan. Nếu được thượng cấp cơ quan phê cho thì có phép chỉ định ủy
viên mới gia vào Đảng bộ ủy viên.
c) Ở trong phạm vi Nghị quyết Quốc tế và Đảng thì Đảng bộ địa phương nào
có quyền giải quyết các vấn đề trong địa phương ấy.
d) Cơ quan cao nhất của các cấp Đảng bộ là toàn hội chi bộ hoặc hội nghị
của các cấp ấy hoặc Đảng Đại hội.
Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930) cũng xác định chi bộ là nền
tảng của Đảng, là một trong những khâu quan trọng trong hệ thống tổ chức và trong
việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Điều lệ nêu ra rằng:
a) Căn bản tổ chức của Đảng là chi bộ (lò máy, mỏ, công sở, nhà buôn,
trường học v.v ). Tất cả đảng viên làm ở chỗ ấy đều phải vào chi bộ. Nơi nào có ba
20
đảng viên trở lên, được tổ chức một chi bộ mới, nhưng phải do cơ quan chỉ huy kề
đó chuẩn y.
b) Nơi nào chỉ có một, hai đảng viên ở trong một chỗ, thì những đảng viên
ấy phải vào chi bộ gần đó, hoặc cùng với đảng viên trong một, hai sở gần đó mà tổ
chức ra chi bộ. Còn những đảng viên khác như thủ công nghiệp, trí thức, người đi ở
thì phải lấy địa phương mình ở làm gốc mà tổ chức ra chi bộ đường phố, ở nhà quê
mà có công xưởng nhỏ thì được tổ chức ra chi bộ riêng.
Điều lệ cũng ấn định rõ nhiệm vụ của chi bộ:
- Tuyên truyền và cổ động cộng sản một cách có kế hoạch, thực hành
khẩu hiệu và nghị quyết của Đảng trong quần chúng công nông cho họ theo
Đảng.
- Phải lấy lực lượng của Đảng mà tham gia các cuộc chánh trị và kinh tế
của công nông, phải lấy ý nghĩa cách mạng giai cấp tranh đấu mà thảo luận
những điều yêu cầu của họ mà tổ chức hành động cách mạng của quần chúng để
giành lấy quyền lãnh đạo. Phải ra sức làm việc để đem công nông tham gia vào
các cuộc tranh đấu cách mạng của vô sản giai cấp ở xứ mình và trong thế giới.
- Tìm thêm và huấn luyện đảng viên mới; phát đồ tuyên truyền của Đảng,
huấn luyện đảng viên và công nông về mặt văn hóa và chính trị.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (3-1931) bàn sâu về công
tác tổ chức. Hội nghị nhấn mạnh: “Công việc tổ chức là một phần công việc rất
quan trọng của Đảng. Nếu công việc đó làm không đúng thì nguy hại cho Đảng rất
lớn”
16
.
Nghị quyết Hội nghị nêu rõ các nguyên tắc của việc củng cố, phát triển hệ
thống tổ chức Đảng cho các xứ uỷ, các đảng bộ thực hiện là: Đảng phải có kỷ luật
sắt; phải lấy công nhân làm lực lượng căn bản; phải tổ chức theo cách dân chủ, tập
trung; gắn công tác tổ chức với đáu tranh…
Về nguyên tắc tập trung dân chủ, Nghị quyết Hội nghị viết: “Đảng Cộng
sản là một đội tiền phong lãnh đạo hành động cách mạng chớ không phải là một
16
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 1999, tập 3, tr. 104.
21
hội thảo luận nghiên cứu suông, cho nên Đảng không phải là một bầy bè phái,
Đảng phải thành một đoàn thể có tư tưởng và hành động thống nhất (…) Đảng tổ
chức theo cách dân chủ tập trung. Dân chủ trong Đảng nghĩa là các cơ quan chỉ
huy từ dưới lên trên đều do đảng viên cử ra, các đảng bộ ở các địa phương có
quyền tự trị về việc địa phương, nghĩa là trong phạm vi nghị quyết chung của
Đảng thì các đảng bộ địa phương có thể phát sinh hết sáng kiến và tự động của họ.
Còn tập trung nghĩa là hết thảy cơ quan dưới phải phục tùng cơ quan trên mà cơ
quan chỉ huy cao hơn hết là Trung ương. Tuy nhiên Đảng Cộng sản không phải cứ
sùng bái hai chữ dân chủ, khi nào cũng thực hành mà không kể gì đến thời buổi và
điều kiện làm việc. Trái lại, gặp lúc khủng bố dữ dội, khó khăn cản trở nhiều mà
công việc lại cấp bách thì không thể theo dân chủ được, không phải bầu cử gì hết
mà chỉ phải trên chỉ định xuống mà thôi. Nếu hoàn cảnh thuận tiện thì tất nhiên
phải thực hành hoàn toàn dân chủ. Vậy cho nên ý nghĩa dân chủ không phải là
một quy tắc nhất định, nhưng phải tùy theo từng lúc mà mở rộng hay thâu hẹp"
17
.
Về xây dựng chi bộ sản nghiệp, Hội nghị yêu cầu các đảng bộ phải coi chi
bộ sản nghiệp là căn bản tổ chức, là tổ chức cơ sở căn bản, phải xoay hướng về
chi bộ, nhất là chi bộ nhà máy. Hội nghị chỉ thị các đảng bộ căn cứ vào sản
nghiệp mà tổ chức căn bản - nghĩa là theo chỗ làm việc của quần chúng công
nhân mà đặt chi bộ, chứ không phải theo chỗ ở của đảng viên. Nghị quyết viết:
"Đảng Cộng sản là cái tổ chức cách mạng, phải liên lạc mật thiết với quần chúng
công nhân. Đảng chỉ là một bộ phận giác ngộ tiên tiến nhất của giai cấp công
nhân, vậy muốn ảnh hưởng đến toàn thể giai cấp công nhân, truyền bá chiến lược
chương trình và khẩu hiệu của Đảng, tổ chức giai cấp công nhân và kéo họ đi
tranh đấu thì chỉ có tới tận những nơi mà quần chúng tụ họp sẵn rồi mà hoạt
động, tức là tới các nhà máy, các trại rẫy, các đồn điền, các mỏ v.v Vì vậy phải
theo sản nghiệp mà tổ chức ra chi bộ nhà máy, chi bộ đồn điền"
18
.
Nghị quyết nhấn mạnh: "Chi bộ là cơ sở của Đảng. Nếu chi bộ mà không
biết làm việc thì Đảng không phát triển được; cho nên chi bộ cần phải tổ chức sanh
hoạt cho náo nhiệt và cho có kế hoạch. Ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, sđd, tr. 107 -108.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, sđd, tr.108.
22
mạnh hay yếu, trình độ chánh trị và hoạt động của đảng viên cao hay thấp cũng
theo trình độ sinh hoạt của chi bộ cao hay thấp"
19
.
Điều lệ Đảng do Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 thông qua, cùng với
những chỉ đạo về công tác xây dựng tổ chức của Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành
Trung ương và của Hồ Chí Minh về cơ bản đã định hình về hệ thống tổ chức của
Đảng trong suốt quá trình đấu tranh giành chính quyền.
Cuối 1931, đầu 1932, đế quốc Pháp tiến hành khủng bố đẫm máu, hàng
ngàn cán bộ, đảng viên bị bắt, hầu hết các tổ chức Đảng bị phá vỡ. Trước tình hình
đó, Quốc tế Cộng sản đã tăng cường chỉ đạo giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương
khôi phục tổ chức, ổn định tư tưởng cho cán bộ, đảng viên.
Được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của
Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1934, do đồng chí Lê Hồng
Phong đứng đầu. Sau khi thành lập, Ban Chỉ huy ở ngoài bắt tay ngay vào việc tiếp
tục chỉ đạo việc khôi phục, củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng;
thống nhất lực lượng trong cả nước; chuẩn bị Đại hội đại biểu lần thứ nhất của
Đảng.
Từ 27 đến 31-3-1935, Đảng Cộng sản Đông Dương tiến hành Đại hội đại
biểu lần thứ nhất tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội hoạch định đường lối, chính
sách trong tình hình mới và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức để lãnh
đạo phong trào toàn xứ
Đại hội nhận định, hệ thống tổ chức của Đảng bị địch phá vỡ đã được khôi
phục. Tuy nhiên, Đảng vẫn chưa phát triển mạnh ở những vùng công nghiệp tập
trung; công nhân ra nhập hàng ngũ Đảng còn ít; hệ thống tổ chức của Đảng chưa
được thống nhất; sự liên lạc giữa cấp trên và cấp dưới chưa thật thông suốt
Đại hội đề ra những nhiệm vụ chính của toàn Đảng, trong đó củng cố, phát
triển Đảng là nhiệm vụ hàng đầu. Đại hội chỉ rõ: nhiệm vụ của các Đảng bộ lúc
này là củng cố lực lượng đảng viên hiện tại; tìm và lập mối liên lạc với các cơ sở
Đảng, các đảng viên lẻ tẻ ở khắp các miền như miền trung châu Bắc Kỳ, các tỉnh
19
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, sđd, tr.110.
23
miền Trung Trung Kỳ, các mỏ ở Bắc Kỳ, các đồn điền ở Nam Kỳ mà Đảng chưa
khôi phục được mối liên lạc; tập trung lực lượng vào các vùng công nghiệp; biến
mỗi sản nghiệp thành một thành luỹ của Đảng; đưa nông dân và những người trí
thức thật sự cách mạng vào Đảng, tăng nhanh số lượng đảng viên công nhân. Đại
hội nhấn mạnh, trong các cơ quan chỉ đạo của Đảng, đảng viên công nhân phải
chiếm đa số; đối với những vùng có đảng viên người dân tộc thiểu số, người ngoại
quốc, phụ nữ, phải chọn những người hăng hái vào cơ quan lãnh đạo; phân công,
phân quyền rõ rệt; đảm bảo giao thông giữa các đảng bộ.
Đại hội thông qua vào ngày 29 - 3 - 1935 Điều lệ của Đảng Cộng sản Đông
Dương, gồm 59 điều. Về cơ bản, nội dung của Điều lệ này giống với Điều lệ ban
hành tháng 10-1930, trong đó qui định: Đảng Cộng sản Đông Dương là một tổ
chức hoàn toàn bí mật đối với quân thù, nhiệm vụ các tổ chức bí mật của Đảng lấy
sự phát triển công việc trong quần chúng làm trung tâm, liên lạc công tác bí mật,
bán công khai và công khai, bảo chứng quyền lãnh đạo của Đảng trong các cuộc
cách mạng vận động của quần chúng.
Nguyên tắc tổ chức dân chủ tập trung, tiếp tục được quán triệt. Theo đó:
a) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng từ thượng cấp cho tới hạ cấp đều do Đại
hội đại biểu hội nghị và toàn thể hội nghị cấp bộ ấy cử ra.
b) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng phải thường lệ báo cáo công tác của mình
cho các Đảng bộ và các cơ quan thượng cấp.
c) Các đảng viên có quyền thảo luận các vấn đề của Đảng trong Đảng bộ
mình trước khi các vấn đề ấy chưa giải quyết. Nhưng sau khi có Nghị quyết rồi thì
thiểu số phục tùng đa số. Các Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng hoặc cơ
quan chỉ đạo thì các Đảng bộ hạ cấp nhất định phải chấp hành, dầu có một bộ phận
đảng viên hay một vài địa phương không bằng lòng với Nghị quyết ấy thì có quyền
khiếu nại đến cơ quan thượng cấp, cho tới Quốc tế Cộng sản nhưng trong lúc cơ
quan thượng cấp chưa quyết định thì vẫn cứ phải thi hành như cũ.
Điều lệ cũng lưu ý: Trong điều kiện công tác bí mật, nếu được các cơ quan
thượng cấp của Đảng đồng ý thì các Ban ủy viên hạ cấp có thể bị chỉ định, nghĩa là
24
không do đại biểu hội nghị của Đảng bộ tương đương cử ra, hay là có thể liên hiệp
tuyển cử với sự chỉ định, nghĩa là một bộ phận ủy viên do đại biểu hội nghị cử ra,
còn một bộ phận nữa thì chỉ định ra; Vì nguyên nhân công tác bí mật, nên Ban ủy
viên có thể không do đại biểu hội nghị cử ra, mà chỉ do thượng cấp cơ quan chọn
những phần tử hăng hái hơn hết trong chi bộ, trong các Đảng đoàn của Công hội,
của các đoàn thể quần chúng mà thiết lập ra.
Điều lệ cũng tiếp tục nhấn mạnh: "Căn bản về đường lối tổ chức của Đảng
là chi bộ sản nghiệp (nhà máy, mỏ, đồn điền, công xưởng, công sở, trại lính,
trường học v.v ). Tất cả đảng viên làm trong một sản nghiệp đều phải vào chi bộ
đó. Các đảng viên khác như thủ công, trí thức, tiểu thương gia, người đi ở v.v thì
lấy chỗ làm của họ làm gốc mà tổ chức ra chi bộ đường phố. Các làng xã thì tổ
chức ra chi bộ làng xã"
20
.
Về hệ thống tổ chức Đảng, Điều lệ vẫn phân thành 6 cấp: Trung ương, Xứ
uỷ, Tỉnh bộ hoặc Thành bộ, Huyện bộ, Tổng bộ và Chi bộ. Điều lệ ghi “Hệ thống
tổ chức của Đảng như sau:
“a, Toàn Đông Dương đại biểu Đại hội: Trung ương;
b, Toàn Xứ đại biểu Hội nghị: Xứ ủy;
c, Tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ đại biểu Hội nghị: Tỉnh, thành lớn, đặc ủy;
d, Phủ, huyện, châu, quận, thành, khu đại biểu Hội nghị: phủ, huyện, châu,
quận, thành, khu ủy;
đ, Tổng đại biểu Hội nghị: Tổng ủy;
20
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 5, tr.120. Vấn đề
coi chi bộ sản nghiệp là tổ chức cơ sở căn bản của Đảng hoàn toàn chưa nhận được sự nhất trí cao
và trở thành quan niệm nhất quán trong khoảng thời gian từ 1931 đến 1935. Tài liệu Trật tự tiến
hành công tác cách mạng do BCHON soạn thảo để huấn luyện cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo vào
năm 1934 lại quan niệm:
"Đảng lấy chi bộ làm đơn vị, cứ theo khu vực chính trị mà lập chi bộ Đảng.
a) Ở thôn quê theo mộc triện mà lập chi bộ.
b) Ở thành thị theo sản nghiệp hay là con đường phố mà lập chi bộ; có ba đảng viên trở lên
thì thành lập chi bộ, nếu đông thì lập ra phân bộ và tiểu tổ". (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 1999,, tập 4, tr.209).
25
e, Chi bộ Hội nghị: Thư ký, ban cán sự chỉ huy”
21
.
Điều lệ bổ sung một số nội dung cụ thể, như
- Cử “dự bị Tổng thư ký” và “dự bị thư ký” Xứ uỷ; các Tỉnh, Thành, Đặc uỷ
nếu cần thiết phải cử ra Thường vụ uỷ viên để làm công tác hàng ngày, trong Ban
Thường vụ phải cử ra một người chính thức và một người dự bị thư ký để lãnh đạo
công tác hàng ngày;
- Trong xứ nào có nhiều tỉnh bộ, Xứ ủy chỉ huy công tác không xiết thì Xứ
ủy có thể thương lượng với ban Trung ương mà lập ra Ban cán sự chỉ huy ba, bốn
tỉnh, thành, đặc ủy. Các ban này là các đại biểu đoàn của Xứ ủy, các ban cán sự ấy
chỉ phụ trách trước Xứ ủy và Xứ đại biểu hội nghị, các ủy viên trong các ban ấy
hoàn toàn do Xứ ủy chỉ định, chứ không phải do các tỉnh, thành, đặc biệt bộ cử ra.
- Xứ nào chưa lập được Xứ ủy thì Trung ương trực tiếp chỉ huy các đảng bộ
trong xứ ấy.
- Tỉnh nào chưa có tỉnh ủy thì xứ ủy trực tiếp chỉ huy các đảng bộ trong tỉnh
ấy, xứ ủy có thể ủy quyền cho thành ủy (ở tỉnh lỵ) tạm thời phụ trách chỉ huy công
tác khắp toàn tỉnh, như tỉnh ủy và thành ủy mà chưa thành lập, và xứ ủy lại không
thể trực tiếp chỉ huy được mau và sát, thì xứ ủy có thể tạm thời giao các đảng bộ
trong tỉnh ấy cho một tỉnh ủy gần đấy chỉ huy.
- Huyện, châu, quận, phủ, khu mà chưa có huyện, châu, quận, phủ, khu ủy
thì tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo các đảng bộ trong huyện, châu, quận, phủ, khu ấy
22
.
Về vấn đề Đảng đoàn, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương (3-1935) ấn
định: Trong các tổ chức quần chúng của Đảng, có từ hai đảng viên trở lên thì lập ra
Đảng đoàn nhằm mở rộng ảnh hưởng của Đảng và thực hành chính sách của
Đảng; Đảng đoàn dưới quyền chỉ huy của Đảng ủy tương đương
Điều lệ Đảng do Đại hội lần thứ nhất thông qua đã kế thừa và bổ sung một
số nội dung các Điều lệ của Đảng đã ban hành trước đó, là cơ sở cho sự khôi phục
và phát triển hệ thống tổ chức của Đảng trong những năm 1936-1939.
21
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, sđd, tr.119 - 120.
22
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, sđd, tr. 119, 120.