Tải bản đầy đủ (.pdf) (338 trang)

Đảng lãnh đạo công tác XD hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc kỳ trong thời kỳ 1930 - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 338 trang )


Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh




Tổng quan
Đề tài khoa học cấp bộ năm 2006



Đảng lnh đạo CÔNG TáC XÂY DựNG Hệ THốNG Tổ CHứC
đảNG ở bắC kỳ TRONG THờI Kỳ 1930 -1945


Cơ quan chủ trì:
Viện Lịch sử Đảng
Chủ nhiệm đề tài:
TS Nguyễn HữU CáT

Th ký đề tài:
THS, TRầN tRọNG tHƠ











6769
28/3/2007

Hà Nội 2007


1






Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn Hữu Cát
Th ký đề tài: Ths Trần Trọng Thơ

Danh sách cộng tác viên

TS Khổng Đức Thiêm
Ths. Trần Bích Hải
CN. Vũ Nhai
Ths. Dơng Minh Huệ
Ths. Nguyễn Thị Xuân

2
Mục lục
Trang
Mở đầu 3
Chơng I: Quan điểm, chủ trơng của Đảng và Hồ Chí Minh về xây

dựng hệ thống tổ chức Đảng, sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác xây
dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ 1930-1945
7
1.1. Quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống tổ chức
Đảng thời kỳ 1930-1945
7
1.2. Sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng hệ
thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
23
Chơng II: Qúa trình hình thành và phát triển hệ thống tổ chức Đảng ở
Bắc Kỳ thời kỳ 1930-1945
38
2.1. Hình thành và bảo vệ hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ giai đoạn
1930-1935
38
2.2. Khôi phục hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ giai đoạn 1936-1939 50
2.3. Khôi phục và phát triển hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ giai đoạn
1939 -1945
63
Chơng III. Đặc điểm, vai trò, phơng thức và kinh nghiệm xây dựng hệ
thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ 1930-1945
96
3.1. Đặc điểm và vai trò 96
3.2. Phơng thức xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ
1930-1945
108
3.3. Một số kinh nghiệm 112
Kết luận 115
Danh mục tài liệu tham khảo 119


3

Mở đầu

I. Tính cấp thiết của đề tài:
Lịch sử xây dựng hệ thống tổ chức Đảng là một bộ phận quan trọng trong
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 70 năm qua. Trong thời kỳ lịch sử 1930-
1945, Đảng ta hoạt động bí mật, cha nắm chính quyền do đó việc xây dựng, phát
triển hệ thống tổ chức Đảng các cấp đóng vai trò rất quan trọng đối với sự thành
bại của cách mạng. Khi Đảng đã có đờng lối chính trị đúng đắn, đợc dẫn đờng
bởi hệ t tởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ
Chí Minh, thì có thể nói, cùng với tạo dựng đội ngũ cán bộ, công tác xây dựng tổ
chức Đảng là khâu quyết định sức chiến đấu và năng lực chỉ đạo thực tiễn của
Đảng. Chính nhờ xây dựng, phát triển hệ thống tổ chức Đảng rộng khắp trên mọi
địa bàn, gắn chặt với quần chúng yêu nớc và cách mạng, Đảng ta đã biến chủ
trơng, đờng lối cách mạng thành các phong trào đấu tranh sôi động của các
tầng lớp nhân dân, từng bớc tạo dựng và đào luyện một đội quân cách mạng
đông đảo để khi thời cơ đến kịp thời phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính
quyền thành công vào tháng 8-1945, lập nên nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nghiên cứu Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là trong giai đoạn Đảng
lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền 1930-1945, không thể không nghiên cứu
lịch sử xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng. Viện Lịch sử Đảng chọn đăng ký đề
tài này nhằm góp phần làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo công tác xây dựng hệ
thống tổ chức Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng,
bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, nhận định sai lạc về vai trò lãnh đạo của Đảng
trong thời kỳ 1930-1945, góp phần nghiên cứu một mảng trống trong nghiên cứu
Lịch sử Đảng lâu nay, đóng góp thêm một số kinh nghiệm trong công tác xây
dựng, bảo vệ tổ chức Đảng.

4

II. Tình hình nghiên cứu.
Đây là một vấn đề đã đợc đề cập ở một số công trình lịch sử Đảng cấp
Trung ơng, cấp địa phơng. ở cấp Trung ơng, có thể kể đến những công trình
nghiên cứu cơ bản, những chuyên khảo nh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(sơ thảo), tập 1 (1920-1954), Nxb Sự thật, 1981; Lịch sử Cách mạng tháng Tám
1945, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1995; Đảng Cộng sản Việt Nam, các đại hội và
hội nghị Trung ơng, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1998... ; những công trình
nghiên cứu về các đồng chí lãnh đạo của Đảng nh: Trần Phú, Lê Hồng Phong,
Trờng Chinh, Hoàng Văn Thụ, ..; những công trình nghiên cứu về các nhà tù:
Hoả Lò, Sơn La. Viện Lịch sử Đảng cũng đã thực hiện hai đề tài cấp bộ là: Vai
trò của các Xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền 1930-1945,
(nghiệm thu năm 1997) và Hệ thống tổ chức Đảng cấp tỉnh thành (nghiệm thu
năm 1999).
ở cấp địa phơng, cho đến nay hầu hết các địa phơng đã hoàn thành việc
nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố, huyện,
quận về giai đoạn lịch sử Đảng 1930-1945 trong đó có đề cập đến công tác xây
dựng Đảng của các Đảng bộ.
Trong những năm gần đây, Tạp chí Lịch sử Đảng đã đăng tải một số bài
nghiên cứu về sự khôi phục và phát triển của tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ giai đoạn
1939-1945.
Tuy nhiên, cha có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện, có hệ thống cũng nh rút ra những kinh nghiệm về công tác xây dựng
hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ đấu tranh giành chính quyền 1930-1945.
III. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ những quan điểm, chủ trơng và quá trình hình thành và phát triển
của hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và vai trò của nó trong công tác xây dựng
Đảng cũng nh trong công cuộc vận động cách mạng ở Bắc Kỳ 1930-1945.

5
- Sản phẩm của đề tài góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử

Đảng.
- Kết quả nghiên cứu góp phần gợi mở một số kinh nghiệm trong công tác
xây dựng Đảng về mặt tổ chức.
IV. Nội dung nghiên cứu
1. Bối cảnh lịch sử, yêu cầu cách mạng thời kỳ 1930-1945, tác động chi
phối đến công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ.
2. Quan điểm, chủ trơng, đờng lối của Đảng và của đồng chí Nguyễn ái
Quốc về công tác xây dựng tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ, qua các giai đoạn 1930-1935,
1935-1939, 1939-1945.
3. Sự chỉ đạo của Trung ơng Đảng đối với công tác xây dựng hệ thống tổ
chức Đảng ở Bắc Kỳ qua các giai đoạn 1930-1935, 1935-1939, 1939-1945.
4. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ
từ Xứ uỷ, Liên tỉnh uỷ, Tỉnh uỷ Huyện uỷ, chi bộ Đảng ở Bắc Kỳ (theo các giai
đoạn lịch sử 1930-1935, 1936-1939, 1939-1945).
5. Đặc điểm, vai trò, phơng thức xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc
Kỳ thời kỳ 1930-1945.
6. Một số kinh nghiệm về xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ thống tổ chức
Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ 1930-1945.
V. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phơng pháp lịch sử và logic, thống kê, so sánh, đối
chiếu.. để nêu bật sự lãnh đạo sáng tạo của Đảng trong công tác xây dựng hệ
thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ 1930-1945.
Tổ chức hội thảo khoa học, toạ đàm lấy ý kiến chuyên gia...

VI. Lực lợng nghiên cứu

6
Để thực hiện mục tiêu đề ra, chủ nhiệm đề tài đã mời một số cán bộ nghiên
cứu của Viện Lịch sử Đảng, một số nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu thời kỳ
1930-1945 tham gia viết chuyên đề và góp ý bản thảo.

VII. Sản phẩm của đề tài
- Đề tài đã thực hiện 6 chuyên đề chuyên sâu tập hợp thành Kỷ yếu khoa
học gồm 177 trang.
- Bản Tổng quan ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu, bao gồm 3 chơng
và kết luận với tổng số 124 trang.
VIII. Triển vọng ứng dụng
Sản phẩm nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ công tác nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy Lịch sử Đảng thời kỳ 1930-1945.
Kết quả nghiên cứu góp phần gợi mở một số kinh nghiệm vào công tác
lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng.
IX. Kết cấu của Tổng quan
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan đợc kết
cấu thành 3 chơng và kết luận




7
Chơng I
quan điểm, Chủ trơng của Đảng và Hồ Chí Minh về
xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, sự chỉ đạo của Đảng
đối với công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở
Bắc Kỳ thời kỳ 1930 - 1945

1.1. Quan điểm, chủ trơng của Đảng và Hồ Chí Minh
1
về xây
dựng hệ thống tổ chức Đảng thời kỳ 1930-1945
Khi đề cập đến vấn đề tổ chức và vai trò của nó, những nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ tổ chức là vũ khí chủ yếu của giai cấp vô sản

trong cuộc đấu tranh giành chính quyền từ tay giai cấp t sản. Lê nin viết:
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí
nào khác hơn là sự tổ chức. Bị phân chia vì sự cạnh tranh vô chính phủ đang
thịnh hành trong thế giới t bản, bị đè nặng dới sự lao động nô lệ cho t bản,
luôn luôn bị dìm sâu dới tận đáy của cảnh khổ cực, của sự cùng quẫn và
của sự thoái hoá, nhng giai cấp vô sản vẫn có thể trở thành và tất nhiên sẽ
trở thành- một lực lợng vô địch, chỉ vì một lý do này: sự thống nhất t tởng
của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác đợc
củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức tập hợp hành triệu ngời lao
động thành một đạo quân vô địch của giai cấp công nhân
2
. Sự thống nhất
vật chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chỉ có thể thực hiện
đợc và biến thành sức mạnh vô địch khi do chính Đảng vô sản kiểu mới của
chủ nghĩa Lênin lãnh đạo. Đảng vô sản theo Chủ nghĩa Lênnin là một đảng có
tổ chức chặt chẽ, đợc xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống
tổ chức là nền tảng cơ bản, quyết định sự tồn tại và sức lãnh đạo của Đảng.

1
Trong cuộc đời hoạt động, Hồ Chí Minh có nhiều danh xng, bí danh, bút danh khác nhau. Để
tiện trình bày, chúng tôi dùng danh xng Hồ Chí Minh.
2
Lênin Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ Maxcơva, 1978, tr. 490.

8
Quán triệt những nguyên tắc về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Lênin,
ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10-1930 đến 3-1951 là
Đảng Cộng sản Đông Dơng) đã xác định công tác xây dựng, củng cố hệ
thống tổ chức Đảng từ Trung ơng đến địa phơng là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ

1930 - 1945, căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn lịch sử và điều
kiện cụ thể của từng địa bàn, Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trơng chỉ
đạo về công tác xây dựng hệ thống tổ chức cho toàn Đảng, cho từng địa
phơng, đảm bảo cho Đảng lãnh đạo thắng lợi công cuộc đấu tranh giành
chính quyền.
Những chủ trơng, nguyên tắc, định hớng về công tác xây dựng tổ
chức Đảng đợc thể hiện qua các bản Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam cho
công tác xây dựng, khôi phục, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức cho toàn
Đảng và cho các Đảng bộ.
Đầu năm 1930, tại Hồng Kông (Trung Quốc), Nguyễn ái Quốc triệu
tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nớc thành Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cơng vắn tắt, Sách lợc vắn tắt và
Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Điều lệ vắn tắt quy định hệ thống tổ chức của Đảng nh sau:
Chi bộ gồm tất cả đảng viên trong một nhà máy, một công xởng, một
hầm mỏ, một sở xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một đờng phố
Huyện bộ, thị bộ hay là khu bộ:
Huyện bộ gồm tất cả các chi bộ trong một huyện.
Thị bộ gồm tất cả các chi bộ trong một châu thành nhỏ.
Khu bộ gồm tất cả các chi bộ trong khu của một thành phố lớn nh
Sài Gòn, Chợ Lớn, Hải phòng, Hà Nội hay một sản nghiệp lớn nh mỏ Hòn
Gai.

9
Tỉnh bộ, Thành bộ hay đặc biệt bộ:
Tỉnh bộ gồm các huyện bộ, thị bộ trong một tỉnh.
Thành bộ gồm tất cả các khu bộ trong một thành phố.
Đặc biêt bộ gồm tất cả các khu bộ trong một sản nghiệp lớn.
Trung ơng

1

Điều lệ trên đặt cơ sở cho sự hình thành hệ thống tổ chức các cấp của
Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi hợp nhất.
Tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ơng họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị ra án Nghị quyết về tình hình
hiện tại ở Đông Dơng và nhiệm vụ cần kíp của Đảng.
Hội nghị nêu những sai lầm, khuyết điểm của Hội nghị hợp nhất, nh
chỉ lo hợp nhất mà không chú ý đến việc bài trừ những t tởng, hành động
biệt phái của các đảng phái trớc kia, do đó mà Đảng tuy đã hợp nhất nhng
t tởng và hành động của các đảng phái cha thống nhất; công việc của
Đảng không thảo luận trong các Đảng bộ; các cấp Đảng bộ không có sự liên
lạc mật thiết với nhau; chỉ đạo theo lối mệnh lệnh; Đặc biệt, Hội nghị cho
rằng một trong những sai lầm lớn của Hội nghị hợp nhất là trong hệ thống tổ
chức bỏ mất cấp Xứ bộ, bắt T. [t.g] (bảy ngời) trực tiếp chỉ huy các tỉnh
bộ, làm cho T. đã không chu đáo đợc đến mỗi việc ở các tỉnh; mà lại
không còn thì giờ mà lo đến việc quan trọng chung cho toàn thể Đảng nữa
2
.
Hội nghị chủ trơng chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng Bônsơvích
hoá; căn cứ vào Điều lệ của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị định ra Điều lệ
Đảng, tổ chức ra các xứ uỷ cho vững vàng để chỉ huy công việc trong một xứ.
T. vì có công việc toàn thể Đảng không thể trực tiếp chỉ huy các tỉnh bộ
() các Đảng bộ thợng cấp (từ thành và tỉnh uỷ trở lên) phải tổ chức cả các

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 2, tr. 7, 8.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, sđd, tr.111.


10
ban chuyên môn nề giới để vận động() Đảng bộ thợng cấp và hạ cấp phải
liên lạc mật thiết luôn luôn thì Đảng với quần chúng mới khỏi xa nhau. Phải
tổ chức cho nhiều cách giao thông để cho các cấp đảng bộ xa nhau thờng
không tin tức cho mau và chuyên (tỉnh ủy với xứ ủy, xứ ủy với Trung ơng, xứ
ủy này với xứ ủy khác, Trung ơng với các đảng huynh đệ nh Pháp và Tàu,
Trung ơng với Quốc tế Cộng sản
1
.
án Nghị quyết Hội nghị cũng nêu rõ cần tổ chức nhiều cách giao
thông để quan hệ giữa các cấp bộ Đảng đợc liên tục; tranh thủ phong trào
đấu tranh để phát triển tổ chức, tích cực thu nạp đảng viên mới, lập ra các chi
bộ làng; chú ý lấy phụ nữ, thợ thuyền vào Đảng; tăng cờng và nâng cao chất
lợng sinh hoạt chi bộ.
Hội nghị thông qua Điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dơng, quy
định rõ hệ thống tổ chức Đảng có 6 cấp: Trung ơng, Xứ bộ, Tỉnh bộ hoặc
Thành bộ, Huyện bộ, Tổng bộ và Chi bộ, gồm:
a, Chi bộ: Mỗi cái sản nghiệp, nhà buôn, hoặc đờng phố, làng, trại
lính có ban cán sự chi bộ chỉ huy.
b, Tổng bộ (ở nhà quê) có một ban tổng ủy chỉ huy.
c, Huyện bộ (ở các tỉnh), khu bộ (các thành phố, các vùng đồn điền, các
vùng mỏ) có một ban huyện ủy hay khu ủy chỉ huy.
d, Tỉnh bộ hoặc thành bộ (thành bộ Hà Nội, Hải Phòng, Vinh - Bến
Thủy, Huế, Tourane [Đà Nẵng- TG] Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Vang) hoặc đặc
biệt bộ các địa phơng đồn điền, mở rộng nh một tỉnh) có ban tỉnh, thành ủy,
hoặc đặc ủy chỉ huy.
đ, Xứ bộ (Trung, Nam, Bắc, Cao Miên, Lào) có Ban Xứ ủy chỉ huy.
e, Trung ơng
2

.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, sđd, tr.113-114.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, sđd, tr. 120-121.

11
Điều lệ chỉ rõ: chi bộ là tổ chức căn bản của Đảng. Do đó, nơi nào có
ba đảng viên trở lên thì đợc tổ chức một chi bộ mới. Nơi nào chỉ có một, hai
đảng viên thì phải vào chi bộ gần đó. Còn những đảng viên khác nh thủ công
nghiệp, trí thức, ngời đi ở thì phải lấy địa phơng mình làm gốc mà tổ chức
ra chi bộ đờng phố, ở nhà quê có công xởng nhỏ thì đợc tổ chức ra chi bộ
riêng.
Điều lệ quy định trong các tỉnh (thành, đặc biệt) bộ có ban thờng vụ
để làm việc hàng ngày. Trong những trờng hợp cụ thể, Xứ uỷ đóng ở thành
phố nào thì chỗ ấy không cần có thành uỷ. Công việc chỗ ấy do Xứ uỷ trực
tiếp chỉ huy.
Đặc biệt, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dơng (10-1930) còn vận dụng
sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản để lập ra Đảng đoàn trong các tổ chức cách
mạng nh Công hội, Nông hội)
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng hệ thống
tổ chức Đảng, đồng thời cũng là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt
động tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng theo chủ
nghĩa Lênin. Trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, nguyên tắc tập trung càng cần
đợc Đảng nhấn mạnh và chú trọng. Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dơng (10-
1930) ấn định rõ:
a) Đảng Cộng sản Đông Dơng cũng nh các chi bộ của Quốc tế Cộng
sản phải tổ chức theo lối dân chủ tập trung, nghĩa là:
- Đảng bộ hạ cấp cho đến thợng cấp do các Đảng bộ hội nghị và Đảng

Đại hội cử ra.
- Các Đảng bộ mỗi cấp cử ủy viên thì phải báo cáo là thợng cấp.
- Đảng bộ hạ cấp thì phải nhất định thừa nhận Nghị quyết của thợng
cấp, phải giữ kỷ luật Đảng, phải chấp hành các Nghị quyết của Quốc tế Cộng
sản và các cơ quan chỉ huy của Đảng một cách thiết thực và mau mắn.



12
- Cơ quan chỉ huy một địa phơng tức là thợng cấp các bộ phận trong
địa phơng đó.
- Các đảng viên đối với các vấn đề trong Đảng chỉ có quyền thảo luận
trong Đảng bộ mình khi các vấn đề ấy cha có Nghị quyết ra. Các Nghị quyết
của Quốc tế Đại hội hoặc Đảng Đại hội, hoặc của các cơ quan chỉ huy thì các
Đảng bộ phải nhất định chấp hành, dầu có một bộ phận đảng viên hoặc mấy
địa phơng Đảng bộ không đồng ý với Nghị quyết ấy cũng cứ phải chấp hành.
b) Trong hoàn cảnh bí mật, khi cần kíp thì thợng cấp cơ quan có quyền
chỉ định hạ cấp cơ quan. Nếu đợc thợng cấp cơ quan phê cho thì có phép chỉ
định ủy viên mới gia vào Đảng bộ ủy viên.
c) ở trong phạm vi Nghị quyết Quốc tế và Đảng thì Đảng bộ địa
phơng nào có quyền giải quyết các vấn đề trong địa phơng ấy.
d) Cơ quan cao nhất của các cấp Đảng bộ là toàn hội chi bộ hoặc hội
nghị của các cấp ấy hoặc Đảng Đại hội.
Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dơng (10-1930) cũng xác định chi bộ là
nền tảng của Đảng, là một trong những khâu quan trọng trong hệ thống tổ
chức và trong việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Điều lệ nêu ra rằng:
a) Căn bản tổ chức của Đảng là chi bộ (lò máy, mỏ, công sở, nhà buôn,
trờng học v.v..). Tất cả đảng viên làm ở chỗ ấy đều phải vào chi bộ. Nơi nào
có ba đảng viên trở lên, đợc tổ chức một chi bộ mới, nhng phải do cơ quan
chỉ huy kề đó chuẩn y.

b) Nơi nào chỉ có một, hai đảng viên ở trong một chỗ, thì những đảng
viên ấy phải vào chi bộ gần đó, hoặc cùng với đảng viên trong một, hai sở gần
đó mà tổ chức ra chi bộ. Còn những đảng viên khác nh thủ công nghiệp, trí
thức, ngời đi ở thì phải lấy địa phơng mình ở làm gốc mà tổ chức ra chi bộ
đờng phố, ở nhà quê mà có công xởng nhỏ thì đợc tổ chức ra chi bộ riêng.
Điều lệ cũng ấn định rõ nhiệm vụ của chi bộ:
- Tuyên truyền và cổ động cộng sản một cách có kế hoạch, thực

13
hành khẩu hiệu và nghị quyết của Đảng trong quần chúng công nông cho
họ theo Đảng.
- Phải lấy lực lợng của Đảng mà tham gia các cuộc chánh trị và kinh
tế của công nông, phải lấy ý nghĩa cách mạng giai cấp tranh đấu mà thảo
luận những điều yêu cầu của họ mà tổ chức hành động cách mạng của quần
chúng để giành lấy quyền lãnh đạo. Phải ra sức làm việc để đem công nông
tham gia vào các cuộc tranh đấu cách mạng của vô sản giai cấp ở xứ mình
và trong thế giới.
- Tìm thêm và huấn luyện đảng viên mới; phát đồ tuyên truyền của
Đảng, huấn luyện đảng viên và công nông về mặt văn hóa và chính trị.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ơng (3-1931) bàn sâu về
công tác tổ chức. Hội nghị nhấn mạnh: Công việc tổ chức là một phần công
việc rất quan trọng của Đảng. Nếu công việc đó làm không đúng thì nguy hại
cho Đảng rất lớn
1
.
Nghị quyết Hội nghị nêu rõ các nguyên tắc của việc củng cố, phát
triển hệ thống tổ chức Đảng cho các xứ uỷ, các đảng bộ thực hiện là: Đảng
phải có kỷ luật sắt; phải lấy công nhân làm lực lợng căn bản; phải tổ chức
theo cách dân chủ, tập trung; gắn công tác tổ chức với đáu tranh
Về nguyên tắc tập trung dân chủ, Nghị quyết Hội nghị viết: Đảng

Cộng sản là một đội tiền phong lãnh đạo hành động cách mạng chớ không
phải là một hội thảo luận nghiên cứu suông, cho nên Đảng không phải là một
bầy bè phái, Đảng phải thành một đoàn thể có t tởng và hành động thống
nhất () Đảng tổ chức theo cách dân chủ tập trung. Dân chủ trong Đảng
nghĩa là các cơ quan chỉ huy từ dới lên trên đều do đảng viên cử ra, các
đảng bộ ở các địa phơng có quyền tự trị về việc địa phơng, nghĩa là trong
phạm vi nghị quyết chung của Đảng thì các đảng bộ địa phơng có thể phát
sinh hết sáng kiến và tự động của họ. Còn tập trung nghĩa là hết thảy cơ quan

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 1999, tập 3, tr. 104.


14
dới phải phục tùng cơ quan trên mà cơ quan chỉ huy cao hơn hết là Trung
ơng. Tuy nhiên Đảng Cộng sản không phải cứ sùng bái hai chữ dân chủ, khi
nào cũng thực hành mà không kể gì đến thời buổi và điều kiện làm việc. Trái
lại, gặp lúc khủng bố dữ dội, khó khăn cản trở nhiều mà công việc lại cấp
bách thì không thể theo dân chủ đợc, không phải bầu cử gì hết mà chỉ phải
trên chỉ định xuống mà thôi. Nếu hoàn cảnh thuận tiện thì tất nhiên phải thực
hành hoàn toàn dân chủ. Vậy cho nên ý nghĩa dân chủ không phải là một quy
tắc nhất định, nhng phải tùy theo từng lúc mà mở rộng hay thâu hẹp"
1
.
Về xây dựng chi bộ sản nghiệp, Hội nghị yêu cầu các đảng bộ phải coi
chi bộ sản nghiệp là căn bản tổ chức, là tổ chức cơ sở căn bản, phải xoay
hớng về chi bộ, nhất là chi bộ nhà máy. Hội nghị chỉ thị các đảng bộ căn
cứ vào sản nghiệp mà tổ chức căn bản - nghĩa là theo chỗ làm việc của quần
chúng công nhân mà đặt chi bộ, chứ không phải theo chỗ ở của đảng viên.

Nghị quyết viết: "Đảng Cộng sản là cái tổ chức cách mạng, phải liên lạc mật
thiết với quần chúng công nhân. Đảng chỉ là một bộ phận giác ngộ tiên tiến
nhất của giai cấp công nhân, vậy muốn ảnh hởng đến toàn thể giai cấp
công nhân, truyền bá chiến lợc chơng trình và khẩu hiệu của Đảng, tổ
chức giai cấp công nhân và kéo họ đi tranh đấu thì chỉ có tới tận những nơi
mà quần chúng tụ họp sẵn rồi mà hoạt động, tức là tới các nhà máy, các trại
rẫy, các đồn điền, các mỏ v.v.. Vì vậy phải theo sản nghiệp mà tổ chức ra chi
bộ nhà máy, chi bộ đồn điền"
2
.
Nghị quyết nhấn mạnh: "Chi bộ là cơ sở của Đảng. Nếu chi bộ mà
không biết làm việc thì Đảng không phát triển đợc; cho nên chi bộ cần phải
tổ chức sanh hoạt cho náo nhiệt và cho có kế hoạch. ảnh hởng của Đảng
trong quần chúng mạnh hay yếu, trình độ chánh trị và hoạt động của đảng

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, sđd, tr. 107 -108.
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, sđd, tr.108.

15
viên cao hay thấp cũng theo trình độ sinh hoạt của chi bộ cao hay thấp"
1
.
Điều lệ Đảng do Hội nghị Trung ơng tháng 10-1930 thông qua, cùng
với những chỉ đạo về công tác xây dựng tổ chức của Hội nghị lần thứ 2 Ban
Chấp hành Trung ơng và của Hồ Chí Minh về cơ bản đã định hình về hệ
thống tổ chức của Đảng trong suốt quá trình đấu tranh giành chính quyền.

Cuối 1931, đầu 1932, đế quốc Pháp tiến hành khủng bố đẫm máu,
hàng ngàn cán bộ, đảng viên bị bắt, hầu hết các tổ chức Đảng bị phá vỡ.
Trớc tình hình đó, Quốc tế Cộng sản đã tăng cờng chỉ đạo giúp đỡ Đảng
Cộng sản Đông Dơng khôi phục tổ chức, ổn định t tởng cho cán bộ, đảng
viên.
Đợc sự chỉ đạo, giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài
của Đảng Cộng sản Đông Dơng đợc thành lập năm 1934, do đồng chí Lê
Hồng Phong đứng đầu. Sau khi thành lập, Ban Chỉ huy ở ngoài bắt tay ngay
vào việc tiếp tục chỉ đạo việc khôi phục, củng cố và xây dựng hệ thống tổ
chức cơ sở Đảng; thống nhất lực lợng trong cả nớc; chuẩn bị Đại hội đại
biểu lần thứ nhất của Đảng.
Từ 27 đến 31-3-1935, Đảng Cộng sản Đông Dơng tiến hành Đại hội
đại biểu lần thứ nhất tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội hoạch định đờng lối,
chính sách trong tình hình mới và bầu ra Ban Chấp hành Trung ơng chính
thức để lãnh đạo phong trào toàn xứ
Đại hội nhận định, hệ thống tổ chức của Đảng bị địch phá vỡ đã đợc
khôi phục. Tuy nhiên, Đảng vẫn cha phát triển mạnh ở những vùng công
nghiệp tập trung; công nhân ra nhập hàng ngũ Đảng còn ít; hệ thống tổ chức
của Đảng cha đợc thống nhất; sự liên lạc giữa cấp trên và cấp dới cha
thật thông suốt...
Đại hội đề ra những nhiệm vụ chính của toàn Đảng, trong đó củng cố,
phát triển Đảng là nhiệm vụ hàng đầu. Đại hội chỉ rõ: nhiệm vụ của các Đảng

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, sđd, tr.110.

16
bộ lúc này là củng cố lực lợng đảng viên hiện tại; tìm và lập mối liên lạc với
các cơ sở Đảng, các đảng viên lẻ tẻ ở khắp các miền nh miền trung châu Bắc

Kỳ, các tỉnh miền Trung Trung Kỳ, các mỏ ở Bắc Kỳ, các đồn điền ở Nam Kỳ
mà Đảng cha khôi phục đợc mối liên lạc; tập trung lực lợng vào các vùng
công nghiệp; biến mỗi sản nghiệp thành một thành luỹ của Đảng; đa nông
dân và những ngời trí thức thật sự cách mạng vào Đảng, tăng nhanh số lợng
đảng viên công nhân. Đại hội nhấn mạnh, trong các cơ quan chỉ đạo của
Đảng, đảng viên công nhân phải chiếm đa số; đối với những vùng có đảng
viên ngời dân tộc thiểu số, ngời ngoại quốc, phụ nữ, phải chọn những ngời
hăng hái vào cơ quan lãnh đạo; phân công, phân quyền rõ rệt; đảm bảo giao
thông giữa các đảng bộ.
Đại hội thông qua vào ngày 29 - 3 - 1935 Điều lệ của Đảng Cộng sản
Đông Dơng, gồm 59 điều. Về cơ bản, nội dung của Điều lệ này giống với
Điều lệ ban hành tháng 10-1930, trong đó qui định: Đảng Cộng sản Đông
Dơng là một tổ chức hoàn toàn bí mật đối với quân thù, nhiệm vụ các tổ chức
bí mật của Đảng lấy sự phát triển công việc trong quần chúng làm trung tâm,
liên lạc công tác bí mật, bán công khai và công khai, bảo chứng quyền lãnh
đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng vận động của quần chúng.
Nguyên tắc tổ chức dân chủ tập trung, tiếp tục đợc quán triệt. Theo đó:
a) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng từ thợng cấp cho tới hạ cấp đều do
Đại hội đại biểu hội nghị và toàn thể hội nghị cấp bộ ấy cử ra.
b) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng phải thờng lệ báo cáo công tác của
mình cho các Đảng bộ và các cơ quan thợng cấp.
c) Các đảng viên có quyền thảo luận các vấn đề của Đảng trong Đảng
bộ mình trớc khi các vấn đề ấy cha giải quyết. Nhng sau khi có Nghị quyết
rồi thì thiểu số phục tùng đa số. Các Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của
Đảng hoặc cơ quan chỉ đạo thì các Đảng bộ hạ cấp nhất định phải chấp hành,
dầu có một bộ phận đảng viên hay một vài địa phơng không bằng lòng với

17
Nghị quyết ấy thì có quyền khiếu nại đến cơ quan thợng cấp, cho tới Quốc tế
Cộng sản nhng trong lúc cơ quan thợng cấp cha quyết định thì vẫn cứ phải

thi hành nh cũ.
Điều lệ cũng lu ý: Trong điều kiện công tác bí mật, nếu đợc các cơ
quan thợng cấp của Đảng đồng ý thì các Ban ủy viên hạ cấp có thể bị chỉ
định, nghĩa là không do đại biểu hội nghị của Đảng bộ tơng đơng cử ra, hay
là có thể liên hiệp tuyển cử với sự chỉ định, nghĩa là một bộ phận ủy viên do
đại biểu hội nghị cử ra, còn một bộ phận nữa thì chỉ định ra; Vì nguyên nhân
công tác bí mật, nên Ban ủy viên có thể không do đại biểu hội nghị cử ra, mà
chỉ do thợng cấp cơ quan chọn những phần tử hăng hái hơn hết trong chi bộ,
trong các Đảng đoàn của Công hội, của các đoàn thể quần chúng mà thiết lập
ra.
Điều lệ cũng tiếp tục nhấn mạnh: "Căn bản về đờng lối tổ chức của
Đảng là chi bộ sản nghiệp (nhà máy, mỏ, đồn điền, công xởng, công sở, trại
lính, trờng học v.v..). Tất cả đảng viên làm trong một sản nghiệp đều phải
vào chi bộ đó. Các đảng viên khác nh thủ công, trí thức, tiểu thơng gia,
ngời đi ở v.v.. thì lấy chỗ làm của họ làm gốc mà tổ chức ra chi bộ đờng
phố. Các làng xã thì tổ chức ra chi bộ làng xã"
1
.
Về hệ thống tổ chức Đảng, Điều lệ vẫn phân thành 6 cấp: Trung ơng,
Xứ uỷ, Tỉnh bộ hoặc Thành bộ, Huyện bộ, Tổng bộ và Chi bộ. Điều lệ ghi Hệ
thống tổ chức của Đảng nh sau:
a, Toàn Đông Dơng đại biểu Đại hội: Trung ơng;

1

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 5, tr.120. Vấn đề
coi chi bộ sản nghiệp là tổ chức cơ sở căn bản của Đảng hoàn toàn cha nhận đợc sự nhất trí cao
và trở thành quan niệm nhất quán trong khoảng thời gian từ 1931 đến 1935. Tài liệu Trật tự tiến
hành công tác cách mạng do BCHON soạn thảo để huấn luyện cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo vào
năm 1934 lại quan niệm:

"Đảng lấy chi bộ làm đơn vị, cứ theo khu vực chính trị mà lập chi bộ Đảng.
a) ở thôn quê theo mộc triện mà lập chi bộ.
b) ở thành thị theo sản nghiệp hay là con đờng phố mà lập chi bộ; có ba đảng viên trở lên
thì thành lập chi bộ, nếu đông thì lập ra phân bộ và tiểu tổ". (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 1999,, tập 4, tr.209).

18
b, Toàn Xứ đại biểu Hội nghị: Xứ ủy;
c, Tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ đại biểu Hội nghị: Tỉnh, thành lớn, đặc
ủy;
d, Phủ, huyện, châu, quận, thành, khu đại biểu Hội nghị: phủ, huyện,
châu, quận, thành, khu ủy;
đ, Tổng đại biểu Hội nghị: Tổng ủy;
e, Chi bộ Hội nghị: Th ký, ban cán sự chỉ huy
1
.
Điều lệ bổ sung một số nội dung cụ thể, nh
- Cử dự bị Tổng th ký và dự bị th ký Xứ uỷ; các Tỉnh, Thành, Đặc
uỷ nếu cần thiết phải cử ra Thờng vụ uỷ viên để làm công tác hàng ngày,
trong Ban Thờng vụ phải cử ra một ngời chính thức và một ngời dự bị th
ký để lãnh đạo công tác hàng ngày;
- Trong xứ nào có nhiều tỉnh bộ, Xứ ủy chỉ huy công tác không xiết thì
Xứ ủy có thể thơng lợng với ban Trung ơng mà lập ra Ban cán sự chỉ huy
ba, bốn tỉnh, thành, đặc ủy. Các ban này là các đại biểu đoàn của Xứ ủy, các
ban cán sự ấy chỉ phụ trách trớc Xứ ủy và Xứ đại biểu hội nghị, các ủy viên
trong các ban ấy hoàn toàn do Xứ ủy chỉ định, chứ không phải do các tỉnh,
thành, đặc biệt bộ cử ra.
- Xứ nào cha lập đợc Xứ ủy thì Trung ơng trực tiếp chỉ huy các đảng
bộ trong xứ ấy.
- Tỉnh nào cha có tỉnh ủy thì xứ ủy trực tiếp chỉ huy các đảng bộ trong

tỉnh ấy, xứ ủy có thể ủy quyền cho thành ủy (ở tỉnh lỵ) tạm thời phụ trách chỉ
huy công tác khắp toàn tỉnh, nh tỉnh ủy và thành ủy mà cha thành lập, và xứ
ủy lại không thể trực tiếp chỉ huy đợc mau và sát, thì xứ ủy có thể tạm thời
giao các đảng bộ trong tỉnh ấy cho một tỉnh ủy gần đấy chỉ huy.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, sđd, tr.119 - 120.

19
- Huyện, châu, quận, phủ, khu mà cha có huyện, châu, quận, phủ, khu
ủy thì tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo các đảng bộ trong huyện, châu, quận, phủ, khu
ấy
1
.
Về vấn đề Đảng đoàn, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dơng (3-1935)
ấn định: Trong các tổ chức quần chúng của Đảng, có từ hai đảng viên trở lên
thì lập ra Đảng đoàn nhằm mở rộng ảnh hởng của Đảng và thực hành chính
sách của Đảng; Đảng đoàn dới quyền chỉ huy của Đảng ủy tơng đơng ...
Điều lệ Đảng do Đại hội lần thứ nhất thông qua đã kế thừa và bổ sung
một số nội dung các Điều lệ của Đảng đã ban hành trớc đó, là cơ sở cho sự
khôi phục và phát triển hệ thống tổ chức của Đảng trong những năm 1936-
1939.
Tuy nhiên, ngoài Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dơng, Đại hội còn
thông qua Nghị quyết về hệ thống tổ chức, quyền hạn và nhiệm vụ của Ban chỉ
huy ở ngoài (BCHON), trong đó có một số qui định mối quan hệ giữa Ban chỉ
huy ở ngoài với Ban Trung ơng là cơ quan cao hơn Ban Chấp hành Trung
ơng; qui định mối quan hệ giữa Ban chỉ huy ở ngoài với các xứ uỷ. Nghị
quyết nêu rõ các xứ ủy do Ban Chấp hành Trung ơng chỉ đạo trực tiếp nhng
đề phòng sự bất trắc khi bị địch khủng bố, mất liên lạc, phải trực tiếp liên lạc
với Ban chỉ huy ở ngoài; mỗi lần báo cáo công tác với Ban Chấp hành Trung

ơng, đồng thời cũng phải báo cáo cho Ban chỉ huy ở ngoài; Ban chỉ huy ở
ngoài muốn chỉ thị cho các xứ ủy và các Đảng bộ cấp dới phải giao cho Ban
Chấp hành Trung ơng chuyển đạt; trong hoàn cảnh đặc biệt và gấp rút, Ban
chỉ huy ở ngoài có thể trực tiếp gửi chỉ thị cho các xứ ủy nhng phải thông tri
ngay cho Ban Chấp hành Trung ơng biết để tránh sự chỉ đạo tơng phản về
sau; trong hoàn cảnh đặc biệt và gấp bức, nếu các xứ ủy có mối giao thông
thuận tiện, mau mắn hơn với Ban chỉ huy ở ngoài thì các Xứ ủy có quyền yêu

1
Xem
: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, sđd, tr. 119, 120.


20
cầu Ban chỉ huy ở ngoài tạm thời trực tiếp chỉ thị nhng sau cũng phải báo cáo
cho Ban Chấp hành Trung ơng biết; các Xứ ủy phải thờng xuyên báo cáo
công tác của mình cho Ban chỉ huy ở ngoài...
Những quyết định trên đây đã làm nảy sinh trên thực tế Đảng có 2
Trung ơng lãnh đạo.
Trong giai đoạn 1936-1939, do tình hình có nhiều biến đổi, trên cơ sở
Điều lệ do Đại Hội Đảng thông qua, Đảng tiếp tục có những chỉ đạo cụ thể
đối với công tác xây dựng hệ thống tổ chức ở các cấp, trong đó có việc chỉ đạo
tổ chức chi bộ công khai. Hội nghị lần Trung ơng tháng 3-1938 chủ trơng
Tranh đấu cho Đảng đợc công khai, các đảng bộ phải thi hành chính
sách công khai hoá Đảng
1
bằng mở rộng tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản;
lập các uỷ ban công khai ủng hộ các tờ báo của Đảng, lấy danh nghĩa uỷ ban
cộng sản công khai của Đảng mà liên lạc với các đảng phái và hiệu triệu dân
chúng


Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Trớc sự đàn áp
dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật, hệ thống tổ chức Đảng các cấp bị
tổn thất nặng nề. Trớc tinh thần đó, song song với việc vạch ra đờng lối cho
cuộc vận động giải phóng dân tộc, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đảng đặc
biệt chú trọng công tác xây dựng tổ chức Đảng.
Trong điều kiện địch khủng bố, Đảng có một số hiệu chỉnh về hệ
thống tổ chức của Đảng. Hội nghị Trung ơng tháng 11-1939 nhấn mạnh vai
trò của các tỉnh uỷ, cho đó là một khâu, một mắt xích quan trọng trong toàn
bộ hệ thống. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ơng (11-1940) chủ
trơng hết sức củng cố, mở rộng tổ chức Đảng cùng với củng cố mặt trận.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ơng thông qua Điều lệ
tóm tắt của Đảng. Điều lệ nhấn mạnh, Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất
của giai cấp vô sản, gồm những ngời giác ngộ nhất, kiên quyết đấu tranh

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 6, tr.363.


21
nhất của giai cấp vô sản. Đảng có kỷ luật sắt, thống nhất hành động và t
tởng. Đảng là tổ chức bí mật, nhiệm vụ của Đảng là lấy công tác quần
chúng làm trung tâm, giữ quyền lãnh đạo giai cấp vô sản trong các cuộc
vận động cách mạng. Nguyên tắc tổ chức của Đảng vẫn đợc Điều lệ khẳng
định là dân chủ tập trung. Theo đó:
a) Từ dới lên trên, các cơ quan chỉ đạo của Đảng ở cấp nào đều do đại
biểu đại hội của cấp ấy cử ra.
b) Các cơ quan hạ cấp nhất định phải thờng lệ báo cáo công tác của
mình lên thợng cấp.

c) Các vấn đề của Đảng khi cha biểu quyết thì toàn thể đảng viên có
quyền và buộc phải thảo luận nhng khi đã biểu quyết thì thiểu số phải phục
tùng đa số.
d) Hạ cấp phải nhất định chấp hành những nghị quyết của thợng cấp,
dù một bộ phận đảng viên hay một vài địa phơng không đồng ý với những
nghị quyết ấy cũng cứ phải làm. Nhng có quyền kêu nài lên thợng cấp cho
tới Quốc tế Cộng sản. Nhng khi cha có lệnh mới của thợng cấp thì cứ phải
thi hành nh cũ.
đ) Đảng bộ nào gồm nhiều xí nghiệp, nhiều địa phơng thì đợc coi nh
cao hơn và có quyền hạn hơn các Đảng bộ nhỏ.
e) Các Đảng bộ đợc quyền quyết định những vấn đề trong địa
phơng mình. Song những nghị quyết ấy phải đợc thợng cấp chuẩn y mới
đợc thi hành.
Điều lệ tóm tắt cũng lu ý, trong hoàn cảnh bí mật, thợng cấp có
quyền chỉ định toàn thể hoặc một phần ngời phụ trách trong cơ quan chỉ đạo
của hạ cấp.
Điều lệ tóm tắt tiếp tục khẳng định vai trò của chi bộ Đảng: "Theo phép
tổ chức chi bộ xí nghiệp (nhà máy, đồn điền), trại lính, trờng học v.v.. là cơ

22
sở chính của Đảng. Mỗi một xí nghiệp chỉ đợc tổ chức một chi bộ"
1
.
Điều lệ tóm tắt bổ sung thêm một cấp cơ quan lãnh đạo là Liên tỉnh uỷ
vào hệ thống cơ quan lãnh đạo của Đảng, ấn định hệ thống tổ chức của Đảng
gồm 7 cấp bộ: chi bộ, tổng bộ ở thôn quê, huyện bộ, tỉnh bộ, liên tỉnh bộ, xứ
bộ và trung ơng. Điều lệ ghi rõ: Hệ thống tổ chức: Chi bộ hội nghị cử ra bí
th, nếu chi bộ có từ 9 ngời trở lên thì cử ra ban chấp uỷ. Tổng bộ đại biểu
hội nghị cử ra ban tổng uỷ. Phủ bộ hội nghị cử ra ban phủ uỷ (huyện, châu,
quận cũng vậy). Tỉnh đại biểu hội nghị cử ra ban tỉnh uỷ (thành và đặc biệt

khu cũng vậy). Xứ đại biểu Hội nghị cử ra ban xứ uỷ. Toàn Đông Dơng đại
biểu đại hội cử ra Ban Trung ơng Chấp hành uỷ viên( ) Nơi nào ba, bốn
tỉnh liền nhau mà cơ sở Đảng phát triển thì muốn tiện việc chỉ huy, xứ uỷ có
thể thơng lợng với Trung ơng lập ra các ban liên tỉnh để chỉ huy ba, bốn
tỉnh ấy. Xứ nào cha lập đợc xứ uỷ thì Trung ơng phải trực tiếp chỉ huy các
đảng bộ trong xứ ấy. Trung ơng lại có thể uỷ quyền cho ban uỷ viên của
Đảng ở tỉnh nào hay Liên tỉnh nào mạnh nhất trong xứ ấy tạm thời chỉ huy
các đảng bộ toàn xứ
2
.
Hệ thống Đảng đoàn vẫn đợc xác nhận và đợc coi là một công cụ để
mở rộng ảnh hởng của Đảng và thực hành chính sách của Đảng trong các
đoàn thể.
Những qui định về nguyên tắc tổ chức và những bổ sung trong Điều lệ
tóm tắt sau đó đợc quán triệt sâu hơn qua các chỉ thị của Đảng đã đóng vai
trò quan trọng trong quá trình khôi phục và củng cố hệ thống tổ chức của
Đảng giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Trong những ngày sục sôi không khí chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, Hội
nghị toàn Đảng diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 - 8-1945, tại Tân Trào (Tuyên
Quang), trong khi quyết định lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 7, tr.141.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 140.

23
quyền đã tiếp tục nhấn mạnh vấn đề phát triển và củng cố Đảng. Đặc biệt, lần
đầu tiên Đảng đặt nhiệm vụ phát triẻn Đảng trong lực lợng vũ trang. Nghị
quyết Hội nghị viết: phải tổ chức đảng trong quân giải phóng Việt Nam (lấy

trung đội làm đơn vị tổ chức)
1

Nh vậy, ngay từ khi ra đời cũng nh trong suốt quá trình lãnh đạo các
phong trào cách mạng tiến tới mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng ,
Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công tác xây Đảng về mặt tổ chức. Những
nguyên tắc, cách thức xây dựng một chính Đảng vô sản kiểu mới theo chủ
nghĩa Lênin, phù hợp với điều kiện của Việt Nam đã đợc Đảng cụ thể hoá
trong các Điều lệ, các nghị quyết là cơ sở để các Đảng bộ, trong đó có
Đảng bộ Bắc Kỳ từng bớc xây dựng, khôi phục và củng cố hệ thống tổ chức
Đảng ở địa phơng.

1.2. Sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chí Minh đối với công tác xây
dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ thời kỳ 1930-1945
Từ 1930 đến 1945, bên cạnh đề ra những nguyên tắc, chủ trơng về
xây dựng Đảng về mặt tổ chức, cùng với sự chỉ đạo công tác xây dựng Đảng ở
tất cả các địa phơng trong toàn xứ, Trung ơng Đảng và Hồ Chí Minh quan
tâm chỉ đạo công tác xây dựng, khôi phục, củng cố và phát triển hệ thống tổ
chức Đảng ở Bắc Kỳ.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Ban Chấp hành Trung ơng
lâm thời đã đặt cơ quan Thờng vụ đóng ở Bắc Kỳ, trực tiếp lãnh đạo các
Đảng bộ trên địa bàn này.
Ngay sau Hội nghị Trung ơng lần thứ nhất (10-1930), Trung ơng
Đảng gửi thông cáo cho các xứ uỷ, trong đó có Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ thị về việc
tổ chức lại các xứ uỷ phải tuân theo lối bầu cử, không dùng cách chỉ định.
Thông cáo quy định thành phần lực lợng trong Xứ uỷ, ít nhất phải có một

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 432.



24
ngời công nhân, nếu là công nhân sản nghiệp càng tốt; trong xứ uỷ, phải
bầu một ban Thờng vụ ba ngời để chỉ huy và lập ra các Ban chuyên môn.
Thông cáo còn nêu rõ: ở những thành phố mà Xứ uỷ đóng thì giải tán thành
uỷ, lập ra các khu uỷ, do xứ uỷ trực tiếp chỉ huy. Xứ uỷ phải căn cứ theo Điều
lệ mới để định ra quyền hạn của các tỉnh uỷ, thành uỷ, đặc uỷ.
Tiếp đó, Đảng ra chỉ thị về những nhiệm vụ tổ chức cần kíp của Đảng.
Chỉ thị yêu cầu các cấp bộ toàn Đảng, trong đó có các Đảng bộ Bắc Kỳ coi
trọng vai trò của các chi bộ công xởng, xởng chế tạo, coi đó là cơ sở của
Đảng trong các thành phố và trung tâm công nghiệp để Đảng có thể tiến lên
tổ chức và lãnh đạo đợc cách mạng.
Cuối năm 1930 đầu 1931, do địch khủng bố, Xứ ủy Bắc Kỳ lâm vào
tình trạng phân tán trong lãnh đạo, thiếu chỉ huy thống nhất, Ban Thờng vụ
Xứ ủy cha đợc thành lập, đã làm ảnh hởng rất nhiều đến phong trào và
xuất hiện t tởng nơng tựa vào Trung ơng, muốn cơ quan chỉ đạo của
Trung ơng đóng tại Bắc Kỳ.
Trớc tình hình đó, Trung ơng kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong
công tác tổ chức của Đảng bộ Bắc Kỳ. Ngày 26 - 1- 1931, Ban Thờng vụ
Trung ơng gửi th cho Xứ uỷ Bắc Kỳ thông báo điều kiện hiện tại không cho
phép Trung ơng đóng cơ quan ở Bắc Kỳ; đồng thời chỉ thị cho Xứ uỷ tiến
hành tổ chức lại nội bộ Đảng, tổ chức Hội nghị đại biểu một số đảng bộ lớn
trong xứ nh Hải Phòng, Nam Định, Phủ Lý, Hòn Gay để cử ra Xứ uỷ mới,
đảm bảo cho Xứ uỷ có đợc sự tin tởng của các tỉnh uỷ trong xứ.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ơng Đảng (3 -1931) phê
phán Xứ uỷ Bắc Kỳ về việc không nắm đợc qui tắc tổ chức của Đảng, không
nhận rõ ý nghĩa tập trung của Đảng nên giải tán cơ quan tập trung (Xứ uỷ Bắc
Kỳ không có Th
ờng vụ), hoạt động chia tách, phân công các xứ uỷ viên mỗi

ngời phụ trách một địa phơng; giữ chế độ chỉ huy rời rạc, địa phơng tự trị,
cá nhân, bao biện và độc đoán. Ngoài ra, Hội nghị còn nêu những yếu kém

×