Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

LUẬN VĂN: Chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707 KB, 97 trang )















LUẬN VĂN:

Chế định hợp tác quốc tế trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam















Mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện Việt Nam đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực từ những năm 90 đến nay, bên cạnh những mặt tích cực, tình hình tội phạm có tính
quốc tế (hay còn gọi là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài) diễn
biến phức tạp. Tình trạng người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, người nước ngoài
phạm tội ở Việt Nam, người Việt Nam phạm tội ở trong nước bỏ trốn ra nước ngoài,
người nước ngoài phạm tội ở nước ngoài trốn sang Việt Nam, các băng nhóm tội phạm
ở trong nước cấu kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài mua bán phụ nữ, trẻ em, làm
hộ chiếu giả, làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, các giấy tờ có giá giả khác,
buôn lậu vũ khí, sản xuất, buôn bán hàng giả, sản xuất, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy có xu hướng gia tăng cả về mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội. Tình
hình này không những xâm hại tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự đe dọa
phá vỡ chính sách kinh tế, xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả nặng nề về mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm có tính quốc tế còn tạo điều
kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi dụng tiến hành các hoạt động
mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Để đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính quốc tế đạt hiệu quả cao, thì hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực này trở thành vấn đề mang tính tất yếu, phù hợp với xu thế
chung của thời đại. Đáp ứng yêu cầu này, Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, thông qua tại kỳ họp thứ tư,
ngày 26-11-2003, đã dành riêng Phần thứ tám quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự cũng đã đặt
ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải




quyết như dẫn độ người phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án, từ
chối dẫn độ người phạm tội, việc chuyển giao hồ sơ, tài liệu, vật chứng của vụ án
Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định hợp tác quốc tế chưa được tập trung nghiên
cứu một cách thỏa đáng, và xung quanh chế định này, còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi
thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là vấn đề quan trọng và nhạy cảm, đã
được một số nhà luật học, cơ quan ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Viện
Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Cơ sở
lý luận và thực tiễn xây dựng pháp lệnh tương trợ tư pháp quốc tế" (Bộ Tư pháp, Hà
Nội, 2000); Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:
"Dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp hình sự trong phòng chống tội phạm ở Việt
Nam - thực trạng và giải pháp" (Bộ Công an, Hà Nội, 2000); Bùi Anh Dũng - Học viện
Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an có luận văn thạc sĩ luật học: "Quan hệ phối hợp giữa
lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam với Cảnh sát nước ngoài trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm" (Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2000)
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về hợp tác quốc
tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp hình sự, nhưng chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chế định hợp tác quốc
tế trong luật tố tụng hình sự, cũng như thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở
Việt Nam hiện nay.







3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm hợp tác quốc tế, các hình thức hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về hợp tác quốc tế ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế của một số
nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hợp tác
quốc tế và thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế,
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hợp tác quốc tế và thực tiễn
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài này dưới góc độ luật tố tụng hình sự.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu




Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, về chính sách hợp tác quốc
tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
các văn bản pháp luật của Nhà nước về hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo tổng kết, số liệu về hợp tác quốc
tế của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, các phương pháp hệ thống, phân tích,
tổng hợp, lịch sử, lôgíc, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học đã được sử dụng để
hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả luận văn đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp
độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có
hệ thống về chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Có thể xem
những nội dung sau đây là những đóng góp mới của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
- Phân tích làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về hợp tác quốc tế và thực tiễn áp dụng ở nước ta.
- Nghiên cứu, so sánh các quy định của pháp luật tố tụng hình sự của nước ta về
hợp tác quốc tế với những quy định tương ứng trong pháp luật tố tụng hình sự của một
số nước trên thế giới để rút ra những giá trị hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình
sự.
- Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn




Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trong luận văn có ý nghĩa
quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự nói riêng. Thông qua hệ thống các giải pháp, tác giả mong muốn
đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho tàng lý luận pháp lý tố tụng
hình sự và tổng kết, nghiên cứu thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt
Nam. Đồng thời, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ luận cứ khoa học cho việc đổi
mới tổ chức, bộ máy, bố trí cán bộ các cơ quan tư pháp hình sự, góp phần vào công
cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng,
cũng như trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách về hợp tác quốc tế thuộc các
ngành Tư pháp, Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 mục.




Chương 1
Một số vấn đề lý luận chung
về Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự và ý nghĩa của việc
ghi nhận chế định hợp tác quốc tế Trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người, một bộ phận
tạo thành của tiến trình lịch sử nhân loại, chịu sự chi phối của những biến thiên của lịch
sử. Xã hội nguyên thủy chưa có Nhà nước, do đó cũng không có hợp tác quốc tế. Từ khi

Nhà nước xuất hiện, giai cấp thống trị thông qua chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà
nước để củng cố, mở rộng sự thống trị của mình. Chức năng đối ngoại của Nhà nước là
tiền đề để hình thành sự hợp tác quốc tế. Do sự phát triển không đồng đều của xã hội
loài người, mà trong cùng một thời đại, thường tồn tại nhiều loại chế độ chính trị và
nhiều loại hình hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế phát triển trong những hoàn cảnh lịch
sử nhất định, có nhiều tầng nấc đan xen nhau.
Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có nhiều
bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có
đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức
độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Thế giới đang đứng trước
nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu
không có sự hợp tác đa phương như chống tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế
(hay còn gọi là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài), bảo vệ môi
trường, hạn chế bùng nổ dân số, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo Những vấn nạn
này đã có từ lâu, nhưng chưa bao giờ chúng trở thành vấn đề lớn, nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến sự phát triển của các quốc gia, tương lai loài người tùy thuộc một phần quan



trọng vào việc giải quyết những vấn đề này. Vì vậy, hợp tác quốc tế ngày nay đang diễn
ra với quy mô ngày càng rộng lớn, nội dung sâu sắc, hình thức sinh động phong phú.
Không một quốc gia nào tồn tại biệt lập lại có thể phát triển được. Việt Nam đã chủ
động tham gia hội nhập quốc tế và khu vực, đến nay đã tạo dựng được cho mình một vị
trí mới trên thế giới.
Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, nếu như vào các thập kỷ
trước, tội phạm mới chỉ dừng lại ở phạm vi hoạt động giữa các quốc gia láng giềng, thì
ngày nay tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế đã mở rộng địa bàn hoạt động ra
khắp nơi trên thế giới, tức là mang tính toàn cầu, phương thức, thủ đoạn phạm tội càng

ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng tối đa các thành tựu của khoa học, công nghệ để
hoạt động. Hậu quả do tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế gây ra là vô cùng to
lớn đối với từng quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế. Vì vậy, đấu tranh phòng,
chống tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế không còn trong phạm vi mỗi quốc
gia, mà phải tiến hành đấu tranh trên phạm vi toàn cầu. Để cuộc đấu tranh phòng, chống
các loại tội phạm này có hiệu quả, các cơ quan tiến hành tố tụng mỗi nước phải hợp tác,
phối hợp, liên kết với nhau vì lợi ích của mỗi quốc gia và vì lợi ích chung.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Hợp tác là trợ giúp qua lại lẫn
nhau" [71, tr. 848]. Như vậy, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự có thể được hiểu là
sự trợ giúp qua lại lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ
quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài được thực hiện
trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không
can thiệp và công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra những đặc điểm của hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự như sau:



Thứ nhất, chủ thể của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các cơ
quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, thông qua tại kỳ họp thứ tư, ngày 26-11-
2003 (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003):
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;

c) Tòa án.
2. Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa
án [9].
Đối với nước ngoài, chủ thể của quan hệ quốc tế trong tố tụng hình sự là các cơ
quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tương ứng.
Điều 341 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta quy định: "Khi thực
hiện tương trợ tư pháp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng những quy định của điều ước quốc tế có liên quan mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của Bộ
luật này" [9].
Trong số các cơ quan tiến hành tố tụng của nước ta tham gia hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự, thì theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà nước ta đã ký kết với
một số nước trên thế giới, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan làm đầu mối trung
ương. ở các nước ký Hiệp định tương trợ tư pháp với ta cũng có các cơ quan tương tự,



trong quá trình thực hiện tương trợ pháp lý về hình sự, các cơ quan này có thể liên hệ
qua cơ quan đầu mối trung ương hoặc có thể liên hệ trực tiếp với nhau [36, tr. 22].
Thứ hai, việc thực hiện hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự phải bảo đảm các
nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự.
Điều 340 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định:
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự giữa các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với các cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài được thực hiện
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp

của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật quốc tế [9].
Điều 343 Bộ luật này còn quy định: "Căn cứ vào các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể " [9].
Từ những quy định trên, có thể thấy, trong quá trình thực hiện hợp tác quốc tế
trong hoạt động tố tụng hình sự, chúng ta phải tuân thủ bốn nguyên tắc: 1) nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc
của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; 2) nguyên tắc phù hợp với Hiến pháp và các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế; 3) nguyên tắc phù hợp với các điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của
pháp luật Việt Nam; 4) nguyên tắc có đi có lại.
Thứ ba, mục đích của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân của các quốc gia trên
lãnh thổ của nhau, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế,
góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác về nhiều mặt giữa nước ta và
các quốc gia hữu quan.



Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia
ngày càng lớn và tính chất các mối quan hệ đó ngày càng đa dạng. Cơ sở cho việc thiết
lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Xuất
phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước có bước phát triển mới: bên cạnh
việc quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến chủ thể trong nước,
còn có quy định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến tổ chức, cá nhân nước
ngoài. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế điều chỉnh các
quan hệ xã hội có liên quan đến hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng tương ứng
của nước ngoài trong việc thực hiện mối quan hệ hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự với
các cơ quan tiến hành tố tụng của nước ta. Vì vậy, những quy định này tạo ra niềm tin,

là cơ sở để mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc.
Thứ tư, các hình thức hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự rất đa dạng như dẫn
độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, từ chối dẫn độ, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của
vụ án; việc giao nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật, tiền liên quan đến vụ án.
1.1.2. ý nghĩa của việc ghi nhận chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam
Chế định hợp tác quốc tế lần đầu tiên được ghi nhận chính thức trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn, đánh dấu sự trưởng
thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta.
Trong chế định hợp tác quốc tế, khái niệm hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định các quy phạm khác của chế
định như thực hiện tương trợ tư pháp, từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, dẫn
độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, từ chối dẫn độ Việc nhận thức và áp dụng đúng
đắn chế định hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự trong thực tiễn là bảo đảm
quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực cực
kỳ nhạy cảm này.
Xuất phát từ việc đánh giá đúng vai trò của hợp tác quốc tế, trong mọi thời kỳ
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn giành sự quan tâm to lớn đối với vấn đề hợp



tác quốc tế nói chung, hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, nhất là
việc thể chế hóa bằng pháp luật, chính sách của Đảng trong lĩnh vực này. Việc pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành của nước ta quy định về hợp tác quốc tế có những ý nghĩa sau
đây:
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình
sự, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, hợp tác quốc tế
đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả đạt được của toàn bộ hoạt
động tố tụng hình sự. Vì vậy, việc quy định về hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình

sự tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, việc áp dụng chế định hợp tác quốc tế một cách tùy tiện, không
đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó vi phạm
nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự. Những hành vi vi phạm
pháp luật về hợp tác quốc tế không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan
bảo vệ pháp luật, xâm hại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, không
phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách
chặt chẽ chế định hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự thể hiện sự tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ngoài, bảo đảm không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, đồng thời bảo đảm sự giám sát của
nhân dân, xã hội trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung, hợp tác quốc tế về lĩnh vực
này nói riêng.
Việc quy định trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự, ngoài
ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân
dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân
thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Mặt khác, việc
quy định cụ thể, chi tiết trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế còn giúp các cơ quan bảo vệ



pháp luật dễ nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn chế định
này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta.
Thứ hai, góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức.
Điều 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát
hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm

tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [9].
Hiện nay, xu thế quốc tế hóa tình trạng phạm tội đang diễn biến phức tạp đã và
đang ảnh hưởng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, để đấu
tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, phải phát huy sức mạnh tổng hợp, sử dụng
đồng bộ các biện pháp, trong đó có hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, bởi lẽ từng
quốc gia riêng biệt không thể nào giải quyết được vấn đề tội phạm quốc tế, tội phạm có
tính quốc tế. Như vậy, việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định hợp tác quốc tế
trong hoạt động tố tụng hình sự góp phần đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm tội
này, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức.
Thứ ba, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực của Đảng
và Nhà nước ta.
Ngày nay, nhu cầu hội nhập quốc tế và khu vực đã trở thành một đòi hỏi có tính
khách quan của mọi quốc gia trong tiến trình phát triển. Quá trình hội nhập quốc tế ở
các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật



hoàn thiện. Điều đó có nghĩa, đi đôi với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
phục vụ cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thì việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tương trợ tư pháp quốc tế, trong đó có hợp tác quốc tế về tố tụng hình
sự, được coi là một bảo đảm hữu hiệu trong cơ chế hợp tác của quốc gia nhằm giải
quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.

Trong bối cảnh mở rộng hợp tác quốc tế theo xu thế hội nhập của Nhà nước ta
hiện nay, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa VII của Đảng đã nêu,
điều cần thiết là: "phải tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt động tương trợ tư pháp giữa
Việt Nam với các nước trong thời kỳ mới, phải mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư
pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội". Do đó, hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự, cũng giống như tương trợ giữa các quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, khoa học kỹ thuật góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương hội nhập
quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ tư, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chính thức ghi nhận chế định hợp tác
quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về phương diện lý luận, cũng như phương diện
thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện tăng cường, mở
rộng hội nhập và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực hiện nay. Đây là vấn đề lý luận mới
mà khoa học luật tố tụng hình sự, tội phạm học phải nghiên cứu để giải quyết những
vướng mắc mà thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đặt ra. Về mặt thực tiễn,
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có khả
năng hội nhập, khả năng biết làm việc với các đối tác quốc tế, nói cách khác phải nhanh
chóng nâng cao trình độ về nhiều mặt, nhất là phải nâng cao trình độ ngoại ngữ để hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm có tính quốc tế nói riêng.



1.2. lược khảo lịch sử hình thành và phát triển những quy định về hợp tác
quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 ra đời
1.2.1. Những quy định về hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải
đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn,

lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá. ở miền Bắc,
khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí
quân Nhật, nhưng dã tâm của chúng là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính
quyền nhân dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. ở miền Nam,
quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng
ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong tình hình rất khó khăn đó, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chủ trương việc thiết lập và phát triển các mối quan hệ
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật với các nước trên thế giới. Chủ trương
này đã đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
pháp lý nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, chỉ từ những năm năm mươi trở đi, khi các
nước xã hội chủ nghĩa như Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa và một số nước xã hội chủ nghĩa khác thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam thì việc hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp mới bắt đầu chính thức
được thiết lập và thực hiện trên thực tế. Trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa,
bên cạnh sự ủng hộ và giúp đỡ về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, các
nước còn tiếp nhận đào tạo cho nhiều lưu học sinh Việt Nam thuộc các ngành nghề
khác nhau, trong đó có đào tạo các chuyên gia pháp lý cho nước ta. Việt Nam cũng đã
tiếp nhận nhiều chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa sang Việt Nam công tác, huấn
luyện về một số lĩnh vực, nhất là về quân sự. Trong bối cảnh đó, nhiều quan hệ xã hội
có tính quốc tế phát sinh, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh về tương trợ tư pháp
nói chung và về tương trợ trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng.



Trong thời kỳ này, chúng ta chủ yếu thực hiện chính sách ngoại giao tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước, các dân tộc tiến bộ trên thế giới cho sự nghiệp đấu
tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một số điều ước
quốc tế mà Nhà nước ta gia nhập trong thời kỳ này cũng chủ yếu về việc đối xử nhân
đạo với thường dân, hàng binh, tù binh trong chiến tranh.

Cũng trong thời kỳ này, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng
ta chưa chú trọng quản lý xã hội bằng pháp luật cho nên pháp luật về tương trợ tư
pháp còn rất sơ khai. Ngoài một số văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao
đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài như Thông tư số 11/TATC ngày 12-07-1974
hướng dẫn một số vấn đề nguyên tắc và thủ tục giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước
ngoài, trong đó có quy định về ủy thác tư pháp , chưa có văn bản pháp luật để điều
chỉnh vấn đề tương trợ pháp lý về hình sự. Đối với các vụ án hình sự có yếu tố nước
ngoài, các cơ quan tiến hành tố tụng nước ta chủ động giải quyết trên cơ sở pháp luật
Việt Nam, nếu cần thiết phải hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng của nước bạn
thì yêu cầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự thực hiện thông qua con
đường ngoại giao. Giữa Việt Nam và các nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư
pháp, do đó chưa hình thành cơ sở pháp lý để điều chỉnh vấn đề hợp tác quốc tế trong
hoạt động tố tụng hình sự.
1.2.2. Những quy định về hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1992
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng,
nước nhà được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước được
mở rộng, số công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, công tác, nghiên cứu, lao động,
cũng như số chuyên gia, công dân nước ngoài đến nước ta công tác, làm việc ngày càng
tăng. Tình hình này đòi hỏi quan hệ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp phải được
pháp luật điều chỉnh. Bắt đầu từ năm 1977, Bộ Tư pháp Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết đã chính thức đặt vấn đề với Việt Nam chuẩn bị ký kết Hiệp định tương



trợ tư pháp giữa hai nhà nước. Trong thời kỳ này, Nhà nước ta đã ký 6 Hiệp định tương
trợ tư pháp với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đó là:
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ Đức, ký ngày 15-

12-1980, gồm 98 điều và đã hết hiệu lực ngày 16-04-1994 theo Công hàm số 50A.505-
27/4/DDR/VIE của Bộ Ngoại giao Cộng hòa Liên bang Đức gửi Đại sứ quán Việt Nam
tại Liên bang Đức.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
Viết ký ngày 10-12-1981, gồm 75 điều. Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga đã kế
thừa từ năm 1992 đến này; các nước Cộng hòa khác thuộc Liên Xô cũ không kế thừa.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và hình sự giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc ký ngày
12-10-1982, gồm 81 điều. Khi Tiệp Khắc được phân chia thành hai nước là Cộng hòa
Séc và Cộng hòa Xlôvakia vào đầu những năm 90, thì cả hai nước đều kế thừa Hiệp
định này.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao
động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Cu
Ba ký ngày 30-11-1984, gồm 79 điều, hiện đang có hiệu lực.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hung-
ga-ri ký ngày 18-01-1985, gồm 98 điều, hiện đang có hiệu lực.
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Bun-ga-
ri ký ngày 18-01-1985, gồm 98 điều, hiện đang có hiệu lực.
Qua việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp nói trên, có thể rút ra hai vấn
đề đáng lưu ý như sau:



Thứ nhất, các hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết vào đầu những năm 80,
khi quan hệ hợp tác về kinh tế, lao động, văn hóa giữa nước ta với các nước xã hội
chủ nghĩa phát triển ở mức độ tương đối cao. Các hiệp định này được ký kết giữa các
nước có cùng chế độ chính trị, kinh tế, xã hội thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Các hoạt

động tương trợ tư pháp nói chung, tương trợ pháp lý về hình sự nói riêng đều được thực
hiện trên cơ sở nguyên tắc quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, các hiệp định tương trợ tư pháp có nội dung cơ bản tương đối giống
nhau. Các hiệp định này đều điều chỉnh một cách tổng thể hai mảng quan hệ, đó là
tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các nước ký kết và các quy tắc chọn pháp
luật áp dụng giải quyết xung đột pháp luật, quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư
pháp trong việc giải quyết các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và hình sự.
Thứ ba, việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp có ý nghĩa chính trị - pháp
lý rất quan trọng, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác về tố tụng hình sự giữa Việt
Nam với các nước. Tư tưởng chỉ đạo của các hiệp định tương trợ tư pháp đều xuất phát
từ mong muốn tăng cường sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các nước ký kết, trên cơ
sở đoàn kết, hữu nghị, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tư pháp các nước thực
hiện tốt hơn các cam kết quốc tế, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
mỗi nước.
Vấn đề hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được quy định trong các hiệp định
trên như sau:
Một là, về dẫn độ người phạm tội.
Các hiệp định đều quy định chi tiết về các nghĩa vụ dẫn độ, các trường hợp từ
chối dẫn độ, yêu cầu dẫn độ, hoãn dẫn độ, dẫn độ tạm thời, việc chuyển giao người bị
yêu cầu dẫn độ và vật chứng, tái dẫn độ, dẫn độ quá cảnh đến nước thứ ba. Riêng Hiệp
định tương trợ tư pháp ký với Hung-ga-ri còn có quy định về việc chuyển giao người bị
kết án phạt tù cho nước ký kết mà họ là công dân để thi hành hình phạt sau khi bản án
đã có hiệu lực pháp luật.



Điều 53 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết quy định:
1. Chiếu theo yêu cầu của nhau, các nước ký kết có trách nhiệm căn

cứ vào các điều kiện đã được Hiệp định này quy định, dẫn độ những can
phạm đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước ký kết kia để truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án.
2. Chỉ dẫn độ những người đã có những hành vi mà theo pháp luật
của cả hai nước ký kết là tội phạm bị phạt tù trên một năm hoặc bị hình phạt
nặng hơn. Việc dẫn độ để thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật được áp
dụng đối với những người phạm tội trên bị phạt không dưới sáu tháng tù hoặc
bị hình phạt nặng hơn.
Từ chối dẫn độ đều được quy định cụ thể trong các Hiệp định nói trên. Điều 59
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Cu Ba ký ngày
30-11-1984 quy định:
Sẽ không tiến hành dẫn độ, nếu:
1. Người bị dẫn độ là công dân của nước ký kết được yêu cầu dẫn độ.
2. Tội phạm đã hoàn thành trên lãnh thổ của nước ký kết được yêu
cầu dẫn độ.
3. Theo pháp luật của nước ký kết được yêu cầu dẫn độ thì không thể
tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án vì lý do thời
hiệu hoặc vì các lý do khác.
4. Người bị dẫn độ đã bị thi hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật
trên lãnh thổ của nước ký kết được yêu cầu về cùng tội phạm, hoặc việc tố
tụng hình sự đã được đình chỉ.



5. Theo pháp luật của một hoặc hai nước ký kết, tội phạm chỉ bị truy
cứu trong phạm vi một nước ký kết.
Điều 61 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình
và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân
Hung-ga-ri ký ngày 18-01-1985 đã quy định cụ thể về văn bản yêu cầu dẫn độ:

1. Văn bản yêu cầu dẫn độ chỉ rõ họ tên, quốc tịch, nơi thường trú
hay tạm trú của người phạm tội, tính chất của hành vi phạm tội và thiệt hại đã
gây ra.
2. Văn bản yêu cầu dẫn độ phải kèm theo những giấy tờ sau đây:
a) Nếu là yêu cầu dẫn độ để truy tố thì kèm theo một bản chính lệnh
bắt có mô tả hành vi phạm tội và nêu tội danh; nếu là yêu cầu dẫn độ để thi
hành hình phạt thì kèm theo một bản chính của bản án đã có hiệu lực pháp
luật.
b) Điều luật hình sự của nước ký kết yêu cầu quy định tội danh của
hành vi phạm tội.
c) Bản nhận dạng người có hành vi phạm tội và nếu có thể được in
bản in dấu vân tay và ảnh của người đó.
3. Đối với người bị xử phạt đã thi hành một phần hình phạt thì cung
cấp tài liệu về việc này.
Về chi phí dẫn độ, thực hiện theo nguyên tắc, nước nào yêu cầu dẫn độ thì nước
đó chịu mọi chi phí liên quan đến dẫn độ.
Thứ hai, về việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các Hiệp định đều có quy định cụ thể về nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự,
nội dung yêu cầu tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 74 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình,
lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
Cu Ba quy định:



1. Mỗi nước ký kết, theo yêu cầu của nước ký kết kia sẽ tiến hành
truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật nước mình đối với công dân của
mình bị tình nghi phạm tội trên lãnh thổ nước ký kết kia, mà trong trường
hợp khác có thể bị dẫn độ.
2. Văn bản yêu cầu kèm theo bản mô tả các tình tiết thực tế của tội

phạm và tất cả những chứng cứ về tội phạm đó. Nước ký kết được yêu cầu có
thể đề nghị bổ sung chứng cứ và nước ký kết yêu cầu phải cung cấp những
chứng cứ bổ sung.
3. Nước ký kết đã tiến hành tố tụng hình sự trên lãnh thổ của nước
mình sẽ thông báo cho nước ký kết về kết quả của việc tố tụng hình sự đó.
Trong trường hợp đã tuyên xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì sẽ gửi
cho nhau bản sao của bản án đó.
Thứ ba, về những vấn đề khác thuộc tương trợ pháp lý về hình sự.
Các hiệp định đều có quy định về những vấn đề khác thuộc tương trợ pháp lý về
hình sự như chuyển giao đồ vật liên quan đến vụ án, thông báo các bản án và án tích,
cách thức liên hệ.
Điều 72 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết quy định về việc chuyển giao đồ vật liên quan đến vụ án như sau:
1. Các nước ký kết cam kết, thể theo yêu cầu của nhau, chuyển giao
cho nhau những đồ vật sau đây:
a) Những đồ vật hoặc trị giá của những đồ vật do phạm tội mà có;
b) Những đồ vật có thể có ý nghĩa chứng cứ trong tố tụng hình sự
nếu việc dẫn độ không thực hiện được vì người phạm tội chết, chạy trốn hoặc
vì nguyên nhân khác thì những đồ vật đó vẫn phải được chuyển giao.



2. Nếu những đồ vật phải chuyển giao lại cần thiết làm chứng cứ cho
tố tụng hình sự ở nước được yêu cầu, thì nước này có thể tạm giữ những đồ
vật cho đến khi tiến hành xong tố tụng.
3. Quyền của người thứ ba đối với các đồ vật đã được chuyển giao
cho nước yêu cầu được bảo đảm hoàn toàn. Sau khi kết thúc tố tụng hình sự,
những đồ vật trên sẽ được trả lại vô điều kiện cho nước ký kết đã chuyển
giao. Nếu không có hại gì cho tố tụng thì, trước khi xét xử xong, có thể trả

những đồ vật cho chủ của nó. Nếu người có quyền đối với đồ vật ấy đang ở
nước ký kết yêu cầu, thì nước này sau khi được thỏa thuận của nước ký kết
kia, sẽ trả trực tiếp những đồ vật kể trên cho người đó.
Điều 96 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình
và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân
Hung-ga-ri đã quy định cụ thể về thông báo các bản án hình sự:
1. Các nước ký kết sẽ thông báo cho nhau về các bản án hình sự đã
có hiệu lực pháp luật mà Tòa án nước ký kết này đã tuyên đối với công dân
nước ký kết kia.
2. Để thực hiện việc thông báo đó, hàng quý Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao của hai nước ký kết sẽ gửi cho nhau những bản sao về
các bản án hình sự. Đồng thời nếu có thì cũng gửi cả bản in dấu vân tay của
những người bị kết án.
Thông tin về lý lịch tư pháp cũng đã được quy định tại Điều 97 Hiệp định: "Tòa
án và Viện kiểm sát của hai nước ký kết, theo yêu cầu, sẽ gửi cho nhau những thông tin
về lý lịch tư pháp mà không phải trả tiền".
Việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp nói trên đã chính thức tạo ra cơ sở
pháp lý cho hoạt động tương trợ pháp lý về hình sự ở nước ta. ở trong nước, việc ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 càng củng cố thêm
cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các hoạt động tương trợ này.



Để thực hiện sự hợp tác và tương trợ theo chủ trương mà Nhà nước ta đã ký kết,
ngày 12-3-1984, liên ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao đã ban hành Thông tư liên
ngành số 139/TTLB về việc thi hành Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn
đề dân sự, gia đình và hình sự đã ký kết giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa. Thông tư đã quy định cụ thể về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) trong lĩnh vực hợp tác

quốc tế về tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã được quy định cụ thể trong
Thông tư như sau:
Bộ Nội vụ: 1. Thực hiện các ủy thác điều tra về hình sự theo yêu cầu
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, như lập hồ sơ về bắt giữ, thu giữ các tang
chứng, vật chứng, khám xét, tạm giữ, tạm giam, dẫn độ bị can trừ trường hợp
khẩn cấp, phạm pháp quả tang.
2. Thực hiện việc cung cấp tài liệu về hình sự, các giấy tờ cần thiết
về nhân thân của công dân nước mình, theo yêu cầu của nước ký kết, thông
qua Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Bộ Tư pháp Việt Nam.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được quy định cụ thể trong
Thông tư như sau:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 1. Thực hiện trao đổi các ủy thác
điều tra về hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định trong các
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý.
2. Yêu cầu các cơ quan điều tra thực hiện ủy thác điều tra. Trong một số
trường hợp, theo pháp luật quy định, thực hiện việc ủy thác điều tra về hình sự,
kể cả phần dân sự trong các vụ án hình sự.
3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình thi hành Hiệp
định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và
hình sự.



Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao đã được quy định cụ thể trong thông tư
như sau:
Tòa án nhân dân tối cao: 1. Xét xử các vụ án hình sự, các vụ kiện dân
sự, hôn nhân gia đình và lao động có liên quan đến công dân hoặc pháp nhân
của các nước ký kết khác, thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hướng dẫn các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử các vụ án hình
sự, các vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình và lao động có liên quan tới công
dân hoặc pháp nhân của các nước ký kết khác.
Theo thông tư này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tổ chức các phiên họp định kỳ để
thông báo tình hình về trao đổi các vấn đề phối hợp giữa các ngành liên quan.
Từ sự phân tích ở trên cho thấy, trong thời kỳ này, hoạt động tương trợ tư pháp
nói chung, tương trợ pháp lý về hình sự nói riêng được quy định và thực hiện chủ yếu
trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa trên cơ sở ký kết các hiệp định tương trợ
tư pháp.
1.2.3. Những quy định về hợp tác quốc tế trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam thời kỳ từ năm 1992 cho đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra
đời
Năm 1992, Nhà nước ta ban hành Hiến pháp mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực. Cùng với việc ban hành Hiến pháp năm 1992, việc xây dựng và ngày càng hoàn
thiện hệ thống pháp luật nhằm phục vụ công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, trong
đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật về tương trợ tư pháp hoặc có nội dung liên
quan đến lĩnh vực này đã được ban hành như Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài (17-04-1993); Pháp lệnh Hôn
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (02-12-1993); Pháp
lệnh xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam (1992)



Trong thời kỳ này, cùng với các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa,
khoa học, công nghệ ngày càng được mở rộng, các giao lưu về dân sự, thương mại, hợp
tác quốc tế về tố tụng hình sự cũng phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Từ sau năm 1992, Nhà nước ta đã ký kết 9 hiệp định tương trợ tư pháp:
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ba Lan ký ngày 22-03-

1993), gồm 87 điều, đang có hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ký ngày 06-07-1998,
gồm 77 điều, hiện đang có hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký ngày 19-10-
1998, gồm 34 điều, hiện đang có hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ký ngày
25-08-1998, gồm 88 điều, chưa có hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Pháp, ký ngày 24-02-1999, đang có hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ucraina ký ngày 06-04-2000, chưa có
hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ ký
ngày 17-4-2000, chưa có hiệu lực;
- Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Belarus ngày 14-09-2000), chưa
có hiệu lực;

×