Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.28 KB, 95 trang )













LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý
dân ở Việt Nam hiện nay








Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ tiến bộ đã được sử dụng từ cách đây
hàng nghìn năm, trong đó nhà nước tạo cơ hội cho người dân được trực tiếp quyết định
đối với một số công việc của Nhà nước. Thông qua hình thức dân chủ này, người dân
được trực tiếp tham gia vào việc hoạch định các chính sách, quyết sách lớn của đất


nước. Ngày nay, trên thế giới, nhiều nước đã và đang sử dụng hình thức này như là một
phương thức hữu hiệu trong hoạt động quản lý, điều hành đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của hình thức dân
chủ này, nên ngay sau khi đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
với cương vị là Chủ tịch ủy ban dự thảo Hiến pháp đã chỉ đạo đưa vào Hiến pháp năm
1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập những quy định về trưng
cầu ý dân với hình thức nhân dân phúc quyết. Sau này trong các bản Hiến pháp tiếp
theo của Nhà nước ta, vấn đề trưng cầu ý dân tiếp tục được ghi nhận với các tên gọi
khác nhau như trưng cầu ý kiến nhân dân trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp
năm 1980 hay là trưng cầu ý dân trong Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, vì nhiều lý
do khác nhau, trong đó có lý do là quy định trong các bản Hiến pháp về trưng cầu ý
dân còn quá chung chung, lại không có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa, nên
trong thực tế hơn 60 năm xây dựng và phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, chúng ta chưa từng tổ chức trưng cầu ý dân. Mặt khác, về mặt khoa học
pháp lý cũng chưa có những nghiên cứu sâu và trực diện về vấn đề này, cho nên cách
hiểu về trưng cầu ý dân hiện nay cũng còn có những điểm chưa thống nhất.
Trong điều kiện chúng ta đang phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì việc phát huy dân chủ, huy
động trí tuệ và tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia quyết định các chính sách,
quyết sách lớn của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận cũng như về
hiệu quả thực hiện pháp luật. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cha ông từ xưa đến nay

đã cho thấy, nhân dân bao giờ cũng là cội nguồn của quyền lực, quyết định sự hưng
vong của xã tắc, bởi thế không bao giờ được xem nhẹ ý chí của nhân dân. Chính vì điều
đó, nên trong thời gian gần đây trong nhiều văn kiện của Đảng, như Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng v.v… đã
xác định rõ sự cần thiết phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đặt ra
nhiệm vụ phải sớm xây dựng Luật trưng cầu ý dân.

Trên cơ sở đó, vấn đề Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam
hiện nay là vấn đề rất cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Lựa chọn vấn đề này làm
luận văn thạc sĩ, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc xây
dựng các cơ sở pháp lý bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo nên sự
thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân, để hướng tới xây dựng một nền dân chủ mới - nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu
Như trên đã trình bày, trưng cầu ý dân là vấn đề ít được các nhà khoa học pháp lý
của nước ta chú ý đến. Có lẽ vì vậy nên chưa có công trình khoa học lớn nào nghiên cứu
sâu và trực diện về vấn đề này. Cho đến nay, mới chỉ có một số bài viết đề cập đến một số
khía cạnh của vấn đề trưng cầu ý dân như: Bàn về chế định trưng cầu ý dân (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 57, tháng 8 năm 2005); Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và liên bang
Nga (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 59, tháng 9 năm 2005); Đánh giá kết quả trưng cầu ý
dân ở Australia (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 67, tháng 1 năm 2006); Trưng cầu ý dân
và dự thảo Luật về trưng cầu ý dân (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Hiến kế lập pháp, số 68,
tháng 2 năm 2006); Thủ tục trưng cầu ý dân (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 69, tháng 2
năm 2006). Ngoài ra, cũng còn có một số bài viết khác tuy không trực tiếp viết về vấn đề
trưng cầu ý dân nhưng trong nội dung cũng có đề cập đến vấn đề trưng cầu ý dân như: Một
số ý kiến về dân chủ trực tiếp (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 128, tháng 12 năm 1998
v.v
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam từ khi hình thành
cho đến nay, phân tích những mặt hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành
để từ đó kiến giải những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt
Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Trưng cầu ý dân bao gồm rất nhiều vấn đề đặt ra cần phải được quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, Luận văn chỉ tập trung vào việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn

để hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích và
khái quát hóa pháp luật về trưng cầu ý dân trong lịch sử và hiện nay, tham khảo các quy
định của pháp luật về trưng cầu ý dân ở một số nước, phân tích các yêu cầu của thực tế
để làm nổi bật lên vấn đề quan tâm chủ yếu là hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Luận văn nghiên cứu về lý luận và thực tiễn pháp luật về trưng cầu ý dân để đề
ra giải pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đề ra các nhiệm vụ sau đây:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển của pháp luật về trưng
cầu ý dân, vai trò của pháp luật về trưng cầu ý dân; mục tiêu hoàn thiện pháp luật về
trưng cầu ý dân.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân, tìm ra
những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của tình hình để từ đó đề xuất các giải
pháp, nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và về vấn đề trưng cầu ý dân nói riêng
được thể hiện trong các văn kiện như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng v.v…
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu, như phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, khảo sát thực tế và

có tham khảo kinh nghiệm của một số nước.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, tập trung và trực
diện về vấn đề trưng cầu ý dân ở Việt Nam ở cả góc độ lịch sử và hiện tại; đưa ra một
quan điểm thống nhất về trưng cầu ý dân và vai trò của trưng cầu ý dân trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đề ra các giải pháp tổng thể cho việc hoàn
thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn có đóng góp về lý luận cho việc phát huy dân chủ trong xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống
pháp luật; về mặt thực tiễn, góp phần hiện thực hóa các quy định của pháp luật về trưng
cầu ý dân. Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, để
nghiên cứu, giảng dạy, học tập, phục vụ cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
về phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và pháp luật về trưng cầu ý dân nói
riêng.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 9 tiết.



Chương 1
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật
về trưng cầu ý dân

1.1. Tổng quan về trưng cầu ý dân
1.1.1. Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ
Trưng cầu ý dân là một thuật ngữ pháp lý tuy không phải là mới mẻ ở nước ta,
nhưng do ít được đề cập, bàn luận nên trên thực tế còn có những cách hiểu giản đơn,

chưa thống nhất, thậm chí rất khác nhau. Trong nhiều trường hợp đã sử dụng thuật ngữ
này một cách quá dễ dãi, thiếu chuẩn xác, chẳng hạn như gọi việc công bố dự thảo Hiến
pháp hay một dự án luật để lấy ý kiến nhân dân là trưng cầu ý dân, coi việc điều tra dư
luận xã hội là trưng cầu ý dân, thậm chí một số doanh nghiệp tổ chức các cuộc thi sáng
tác biểu trưng cho doanh nghiệp mình cũng gọi là trưng cầu ý dân v.v Vì vậy, để đi
sâu nghiên cứu, đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân
trước hết cần phải làm rõ nội hàm của thuật ngữ này.
Có thể nhận thấy, trong thực tiễn pháp luật nước ta có rất nhiều thuật ngữ được
sử dụng liên quan đến trưng cầu ý dân. Trong Hiến pháp năm 1946 sử dụng thuật ngữ
phúc quyết, trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 sử dụng thuật ngữ trưng
cầu ý kiến nhân dân, trong Hiến pháp năm 1992 sử dụng thuật ngữ trưng cầu ý dân.
Bên cạnh đó, trong một số văn bản pháp luật cũng sử dụng một số thuật ngữ khác có nội
dung gần với nghĩa của các thuật ngữ này, như: lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã
hội học v.v…
- Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng phối hợp với Trung
tâm Từ điển học xuất bản năm 1995 thì trưng cầu được hiểu là "hỏi ý kiến của số đông
người một cách có tổ chức" [59, tr. 1019], dân ý được hiểu là "ý kiến của nhân dân về một
vấn đề chính trị nào đó" [59, tr. 239]; trưng cầu dân ý hay trưng cầu ý dân được hiểu là
"hỏi ý kiến nhân dân bằng tổ chức bỏ phiếu, để nhân dân trực tiếp quyết định về một
vấn đề quan trọng của đất nước" [59, tr. 1019].

- Theo cuốn Thuật ngữ pháp lý dùng trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2004 thì Trưng cầu dân ý
(Referendum/plebiscite Référendum) được hiểu là:
Một hoạt động do Nhà nước thực hiện để nhân dân bỏ phiếu quyết
định hoặc bày tỏ ý kiến về những việc đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Việc trưng cầu dân ý do Hiến pháp của mỗi quốc gia quy định nên
tùy theo mỗi nước có thể trưng cầu dân ý để quyết định Hiến pháp hoặc một
đạo luật quan trọng. Cũng có trường hợp trưng cầu chỉ có tính chất tư vấn
còn quyền quyết định vẫn thuộc quyền cơ quan lập pháp. Có trường hợp

trưng cầu dân ý là bắt buộc và cũng có trường hợp cơ quan lập pháp xét
thấy cần thiết thì mới tổ chức [25, tr. 366].
- Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng do Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia xuất bản năm 2001, Trưng cầu dân ý (Referendum/ plebiscite -
Référendum) được hiểu là:
Việc tổ chức do Nhà nước thực hiện để nhân dân bỏ phiếu quyết định
hoặc bày tỏ ý kiến về những việc đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Việc trưng cầu dân ý do Hiến pháp của mỗi quốc gia quy định nên
tùy theo mỗi nước có thể trưng cầu dân ý để quyết định Hiến pháp hoặc một
đạo luật quan trọng. Cũng có trường hợp trưng cầu dân ý chỉ có tính chất tư
vấn còn quyền quyết định vẫn thuộc quyền cơ quan lập pháp. Có trường hợp
trưng cầu dân ý là bắt buộc và cũng có trường hợp cơ quan lập pháp xét thấy
cần thiết thì mới tổ chức [56, tr. 128].
- Theo Từ điển Pháp - Việt, Pháp luật - Hành chính do Nhà xuất bản Thế giới
xuất bản năm 1992 thì Trưng cầu ý dân (Référendum) được hiểu là:
Một hình thức tổ chức và hoạt động của nền dân chủ nửa trực tiếp,
qua đó nhân dân cộng tác và tham gia vào quyền lập pháp. Lấy ý kiến nhân
dân bằng cách tổ chức bỏ phiếu để nhân dân trực tiếp quyết định về một vấn
đề quan trọng của đất nước, như thông qua Hiến pháp, một đạo luật, quyết

định một chính sách, hoặc yêu cầu Quốc hội biểu quyết một dự án luật do
nhân dân có sáng kiến đề nghị [57, tr. 250].
Từ những giải thích nêu trên, có thể nhận thấy rằng ý dân, dân ý hay
ý kiến nhân dân cũng đều có nghĩa tương tự nhau, đều là ý kiến của nhân dân. Vì vậy,
các thuật ngữ trưng cầu ý dân, trưng cầu dân ý hay trưng cầu ý kiến nhân dân cũng đều
có nghĩa tương tự nhau. Sau đây chúng tôi xin sử dụng một thuật ngữ chung là trưng
cầu ý dân khi đề cập đến các thuật ngữ này.
Cội nguồn lịch sử ra đời của thuật ngữ trưng cầu ý dân (referendum) có nguồn
gốc từ tiếng Latin, được hiểu là sự bỏ phiếu của cử tri nhằm mục đích thông qua các
quyết định có tính chất quốc gia hay địa phương. Trong tiếng Anh, thuật ngữ trưng cầu

ý dân tương đương với referendum, được hiểu là việc đưa một văn bản của cơ quan lập
pháp, một đề nghị sửa đổi Hiến pháp hay một vấn đề quan trọng của quốc gia để toàn
dân quyết định dưới hình thức bỏ phiếu [59, tr. 1307]; trong tiếng Pháp, thuật ngữ trưng
cầu ý dân tương đương với référendum, được hiểu là một thủ tục cho phép công dân của
một quốc gia bày tỏ sự tán thành hay bác bỏ một biện pháp (giải pháp) do cơ quan Nhà
nước đưa ra thông qua hình thức bỏ phiếu [60, tr. 827].
Trong mối quan hệ Nhà nước - công dân, trưng cầu ý dân phản ánh bản chất của
nền dân chủ. Trên thực tế, hình thức trưng cầu ý dân đã được sử dụng từ rất sớm, ngay
từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên, tại cộng hòa A-ten, ở các Thị xã (polis), mỗi khi có
vấn đề của Thị xã cần phải giải quyết thì dân chúng được triệu tập đến công trường
thành phố, ở đó các nhà lãnh đạo đương nhiệm trình bày các vấn đề và lấy biểu quyết
của dân chúng; dân chúng biểu quyết bằng cách hô to hoặc giơ tay để biểu thị sự đồng
thuận hay bác bỏ vấn đề được nêu ra; với hình thức này, dân chúng tự mình tham gia
vào các quyết định liên quan đến đời sống của Thị xã [5, tr. 67]. Ngày nay, trong xã hội
hiện đại, hình thức trưng cầu được nhiều nước áp dụng và coi sự tồn tại của nó như là
một trong những biểu hiện sinh động của một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Như vậy, trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ, trong đó người dân được trực
tiếp quyết định đối với một số công việc của Nhà nước; xét về bản chất thì đây là một

hình thức của dân chủ trực tiếp (theo truyền thống, người ta phân chia dân chủ thành hai
hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp hay còn gọi là dân chủ đại diện, trong
đó: dân chủ đại diện là hình thức mà người dân thực hiện quyền làm chủ của mình
thông qua cơ quan đại diện; còn dân chủ trực tiếp là hình thức người dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua việc trực tiếp bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, ý chí của mình về
công việc của Nhà nước). Tuy nhiên, trong trưng cầu ý dân thì chủ thể đưa vấn đề ra để
trưng cầu ý dân luôn là Nhà nước, còn người dân biểu đạt ý chí của mình thông qua việc
bỏ phiếu.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một cách hiểu chung về trưng
cầu ý dân như sau:

Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện mối quan hệ Nhà nước
- công dân trong quản lý, điều hành đất nước, trong đó cơ quan nhà nước theo trình tự,
thủ tục luật định đưa một vấn đề ra để nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ
phiếu.
1.1.2. Phân biệt trưng cầu ý dân với phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu
cử và điều tra xã hội học
Do nội hàm của thuật ngữ trưng cầu ý dân gần với nghĩa của một số thuật ngữ
khác, như phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã hội học nên cần có sự
phân biệt với các thuật ngữ này.
- Trưng cầu ý dân và phúc quyết.
Trong lịch sử hệ thống pháp luật của nước ta, thuật ngữ phúc quyết rất ít khi
được sử dụng, chúng ta chỉ có thể thấy thuật ngữ này được sử dụng trong Hiến pháp
năm 1946 và trong một số văn bản về tổ chức chính quyền địa phương vào cùng thời
điểm đó. Trong Hiến pháp năm 1946 có quy định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý"
(Điều thứ 32); "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến
vận mệnh quốc gia " (Điều thứ 21); việc sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo quy định
"Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng thuận thì phải đưa ra toàn dân phúc
quyết" (điểm c, Điều thứ 70) [42]. Trong Sắc lệnh số 63-SL ngày 23 tháng 11 năm 1945

của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định "Nếu một
phần ba (1/3) số hội viên Hội đồng nhân dân xã yêu cầu phúc quyết ủy ban hành chính
xã thì ủy ban hành chính xã phải triệu tập ngay Hội đồng nhân dân xã để bỏ phiếu tín
nhiệm" (Điều thứ 18) [9].
Phân tích về khía cạnh thuật ngữ cho thấy, phúc quyết là từ Hán - Việt, được
ghép bởi hai từ là phúc và quyết: phúc có nghĩa là "lật lại, xét kỹ" [1, tr. 136]; quyết có nghĩa là
"quyết định" [4, tr. 334]. Như vậy, có thể hiểu phúc quyết là việc đưa một vấn đề đã được
quyết định ra để biểu quyết lại. ở nước ta, thuật ngữ phúc quyết được dùng trong trường
hợp toàn dân phúc quyết và trong trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm đối với ban lãnh đạo
của một cơ quan nhà nước (như ủy ban hành chính). Có thể thấy rằng, chủ thể của

quyền phúc quyết có thể là toàn dân hay là một bộ phận hẹp hơn (các đại biểu Hội đồng
nhân dân, trong trường hợp phúc quyết ủy ban hành chính); còn phạm vi vấn đề đưa ra
phúc quyết có thể là một vấn đề quan trọng như Hiến pháp, một đạo luật hoặc cũng có
thể chỉ là việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với ban lãnh đạo của một cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân thì có thể là những vấn đề đã được các cơ
quan nhà nước thông qua hoặc cũng có thể chưa được thông qua; còn những vấn đề đưa
ra phúc quyết phải là những vấn đề đã được các cơ quan nhà nước thông qua. Chính vì
có sự đan xen đó nên trong trường hợp đưa ra toàn dân phúc quyết về công việc của
Nhà nước hoặc của địa phương thì người ta cũng gọi đó là trưng cầu ý dân (chẳng hạn
như Thụy Sĩ, việc sửa đổi Hiến pháp mặc dù đã được Quốc hội thông qua nhưng để có
hiệu lực thì bản Hiến pháp sửa đổi đó phải được đa số người dân tán thành thông qua
trưng cầu ý dân).
- Trưng cầu ý dân và lấy ý kiến nhân dân.
Lấy ý kiến nhân dân là việc Nhà nước tổ chức để nhân dân đóng góp, tham gia
ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể đưa ra lấy ý kiến. Có thể nhận thấy đây cũng là
một hình thức dân chủ có tính chất giống như trưng cầu ý dân; xét về bản chất, trưng
cầu ý dân là một trong những hình thức của lấy ý kiến nhân dân. Tuy nhiên, nội hàm
của trưng cầu ý dân hẹp hơn so với nội hàm của lấy ý kiến nhân dân. Điểm khác biệt cơ
bản giữa lấy ý kiến nhân dân với trưng cầu ý dân là ở chỗ: thông qua trưng cầu ý dân,

người dân trực tiếp quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu; còn thông qua việc
lấy ý kiến nhân dân, người dân chỉ đưa ra ý kiến để các cơ quan nhà nước tham khảo,
việc quyết định về vấn đề đưa ra lấy ý kiến như thế nào vẫn hoàn toàn tùy thuộc vào cơ
quan nhà nước. Ngoài ra, giữa lấy ý kiến nhân dân với trưng cầu ý dân còn khác nhau ở
chỗ: đối tượng của việc lấy ý kiến nhân dân là nhân dân nhưng nhân dân ở đây không
như trong trưng cầu ý dân chỉ gồm những người có quyền bầu cử (cử tri) mà bao gồm
tất cả những người có khả năng và tâm huyết đóng góp ý kiến, không hạn chế bất cứ
một trường hợp nào cho dù người đó có đầy đủ quyền công dân hoặc quyền bầu cử hay
không; những việc đưa ra lấy ý kiến nhân dân có khi là để xem xét quyết định về một
vấn đề cụ thể (như việc lấy ý kiến về việc có nên xây dựng một công trình hay không)

giống như trong trưng cầu ý dân nhưng cũng có thể chỉ là việc góp ý để hoàn chỉnh
thêm các vấn đề đưa ra lấy ý kiến (như việc lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh); và
một điểm khác biệt nữa là ở chỗ trưng cầu ý dân bắt buộc phải thực hiện bằng hình thức
bỏ phiếu với câu trả lời là đồng ý hay không đồng ý với vấn đề đưa ra trưng cầu, còn
việc lấy ý kiến nhân dân thường không được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu, người
dân góp ý bằng cách thể hiện ý kiến trong văn bản và gửi cho cơ quan tổ chức việc lấy ý
kiến nhân dân.
- Trưng cầu ý dân và bầu cử.
Bầu cử là một chế định pháp lý thông dụng và phổ biến ở hầu hết các quốc gia
trong đó có Việt Nam. Thuật ngữ bầu cử được sử dụng trong rất nhiều trường hợp, có thể là
tổng tuyển cử toàn quốc bầu Quốc hội, cũng có thể là bầu cử đại biểu Hội đồng địa
phương hoặc cũng có thể là bầu người lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức. Bầu cử có
thể được thực hiện trong các cơ quan nhà nước, nhưng cũng có thể được thực hiện trong
các tổ chức, doanh nghiệp v.v
Trong trường hợp tổng tuyển cử toàn quốc bầu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu
Hội đồng địa phương, nhân dân trực tiếp quyết định lựa chọn người đại diện cho mình
tham gia vào bộ máy nhà nước. Thông qua các cuộc bầu cử này, nhân dân thực hiện chủ
quyền qua trung gian là những người đại diện cho mình, bao gồm đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng địa phương. Trong các trường hợp như vậy, bầu cử và trưng cầu ý

dân có nhiều nét tương đồng với nhau, thể hiện ở chỗ đều là việc nhân dân được trực
tiếp quyết định; đối tượng tham gia bầu cử và đối tượng tham gia trưng cầu ý dân cũng
tương tự nhau, người có quyền bầu cử thì cũng có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý
dân và cũng đều được thực hiện dưới hình thức bỏ phiếu. Tuy nhiên, một điểm khác biệt
căn bản giữa bầu cử và trưng cầu ý dân là ở chỗ bầu cử hướng tới việc lựa chọn một cá
nhân cụ thể đại diện cho mình tham gia vào bộ máy nhà nước; còn trưng cầu ý dân lại
hướng tới việc lựa chọn một phương án, một mô hình hay cách giải quyết một vấn đề
nhất định. Tuy trong lịch sử có một số trường hợp trưng cầu ý dân có gắn với việc lựa
chọn một cá nhân cụ thể nắm giữ quyền lực nhà nước, như trong lịch sử nước Pháp, Na-
pô-lê-ông đệ nhất và Na-pô-lê-ông đệ tam đã tổ chức trưng cầu ý dân về việc lên ngôi

hoàng đế của mình, nhưng cùng với việc lựa chọn một vị vua cho mình, nhân dân Pháp
đồng thời lựa chọn một chế độ mới thay thế chế độ cũ đã bị lật đổ [41, tr. 6].
- Trưng cầu ý dân và điều tra xã hội học.
Điều tra xã hội học là một phương pháp của bộ môn xã hội học nhằm khảo sát
để nắm bắt ý kiến của những đối tượng nhất định trong xã hội về một vấn đề nhất định
hoặc cũng có thể về một cá nhân cụ thể. Điểm khác biệt cơ bản giữa điều tra xã hội học
với trưng cầu ý dân là ở chỗ điều tra xã hội học không phải là một hoạt động mang tính
pháp lý, có thể do cơ quan nhà nước tiến hành nhưng cũng có thể do một tổ chức hoặc
cá nhân bất kỳ thực hiện; kết quả của việc điều tra xã hội học chỉ mang tính chất tham
khảo đối với cơ quan nhà nước mà không có giá trị bắt buộc các cơ quan, tổ chức, cá
nhân phải thực hiện; còn trưng cầu ý dân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
và kết quả của nó trong nhiều trường hợp buộc các cơ quan nhà nước và mọi tổ chức, cá
nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành.
1.1.3. Đặc điểm của trưng cầu ý dân
Từ những phân tích nêu trên về nội dung và qua nghiên cứu pháp luật về trưng
cầu ý dân của một số nước, chúng tôi sơ bộ rút ra một số đặc điểm cơ bản của trưng cầu
ý dân như sau:

Thứ nhất, bản chất của trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp, với
hình thức này nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình quyết định một số công việc của
Nhà nước theo một trình tự, thủ tục pháp lý nhất định.
Thứ hai, về mặt chủ thể, trưng cầu dân ý luôn có hai loại chủ thể cơ bản: một
bên là Nhà nước mà đại diện là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cuộc trưng cầu
ý dân; còn một bên là nhân dân.
Nhà nước đóng vai trò là chủ thể tổ chức cuộc trưng cầu ý dân. Bất kỳ một cuộc
trưng cầu ý dân nào cũng đều do Nhà nước tổ chức và thực hiện nhân danh Nhà nước
mà đại diện cụ thể là một cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho dù đó là cuộc trưng cầu
ý dân toàn quốc hay là trưng cầu ý dân ở một địa phương. ở Pháp, Ucraina, Ai Cập, chủ
thể có quyền quyết định tổ chức trưng cầu ý dân là Tổng thống; ở nước ta, theo quy
định tại điểm 14, Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001

(sau đây gọi chung là Hiến pháp năm 1992) thì chủ thể có quyền quyết định tổ chức
trưng cầu ý dân là Quốc hội và theo quy định tại điểm 12, Điều 91 của Hiến pháp năm
1992 thì ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc trưng cầu ý
dân theo quyết định của Quốc hội [46].
Chủ thể tham gia cuộc trưng cầu ý dân là nhân dân. Đúng như tên gọi của nó,
nhân dân luôn đóng vai trò là chủ thể trung tâm của trưng cầu ý dân. "Nhân dân" ở đây
được đặt trong mối quan hệ với Nhà nước nên mang tính phổ thông, chứ không bó hẹp
trong nội bộ của một cơ quan, tổ chức, một giới hay một tầng lớp dân cư trong xã hội.
Pháp luật về trưng cầu ý dân ở các nước đều quy định những người tham gia bỏ phiếu
trong cuộc trưng cầu ý dân là những người có đủ điều kiện tham gia bỏ phiếu trong các
cuộc bầu cử phổ thông. Hay nói một cách khác, những người mà theo quy định của
pháp luật có quyền bầu cử thì có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân (sau đây gọi
là cử tri). ở nước ta, tại Điều 53 của Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận công dân có
quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân [46].
Thứ ba, phạm vi vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân bao giờ cũng là những vấn đề hệ
trọng của quốc gia hoặc của địa phương.

Về những vấn đề cụ thể được đưa ra trưng cầu ý dân ở các nước khác nhau có
quy định khác nhau, nhưng đều có điểm chung là những vấn đề có tính chất hệ trọng đối
với quốc gia. Bởi vì, không bao giờ và không thể bất cứ việc gì của Nhà nước cũng có
thể đưa ra trưng cầu ý dân. Trong đó, đối tượng được đưa ra trưng cầu ý dân được nhiều
nước ghi nhận rộng rãi và phổ biến nhất là việc ban hành Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp, như ở Pháp, Italia, Thụy Sĩ, Armenia v.v Ngoài ra, vấn đề đưa ra trưng cầu ý
dân còn có thể là về địa giới hành chính - lãnh thổ, các đạo luật về tổ chức bộ máy công
quyền, các điều ước quốc tế quan trọng v.v Đối với việc trưng cầu ý dân ở một địa
phương, thì cũng tương tự như vậy, vấn đề được đưa ra trưng cầu thường là những vấn
đề quan trọng của địa phương, liên quan đến quyền hoặc lợi ích chung của cộng đồng
dân cư và được cử tri ở địa phương đó đặc biệt quan tâm.
Những vấn đề cần phải đưa ra trưng cầu ý dân có thể được quy định cụ thể
trong Hiến pháp hoặc trong các đạo luật, buộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tổ

chức trưng cầu ý dân, như ở Thụy Sĩ pháp luật quy định việc sửa đổi Hiến pháp liên
bang bắt buộc phải đưa ra trưng cầu ý dân, nếu được đa số đồng ý thì mới có hiệu lực
(khoản 1, Điều 123 của Hiến pháp Thụy Sĩ); nhưng cũng có trường hợp cơ quan nhà
nước được phép lựa chọn, có thể tổ chức hoặc không tổ chức trưng cầu ý dân, như ở
Pháp pháp luật quy định Tổng thống có quyền đưa một dự án luật hay một điều ước
quốc tế ra để trưng cầu ý dân nếu như có đề nghị của Chính phủ hoặc đề nghị của hai
viện, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện (Điều 11 của Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm
1958). ở nước ta, pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về các vấn đề đưa ra trưng
cầu ý dân, trong Hiến pháp chỉ quy định giao cho Quốc hội thẩm quyền quyết định việc
trưng cầu ý dân, nên có thể hiểu Quốc hội được toàn quyền trong việc lựa chọn vấn đề
đưa ra trưng cầu ý dân. Nhưng tất nhiên nếu như Quốc hội thực hiện thẩm quyền này thì
chắc chắn những vấn đề Quốc hội đưa ra trưng cầu ý dân cũng phải là những vấn đề
quan trọng của đất nước.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của trưng cầu ý dân bao giờ cũng là văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.

Do tính chất quan trọng của vấn đề nên nhìn chung ở hầu hết các nước, trưng
cầu ý dân đều được quy định trong Hiến pháp và là một chế định pháp lý mang tính hiến
định. Tuy nhiên, có điểm khác nhau giữa các nước là ở chỗ, có nước như Thụy Sĩ,
Brazil, Ai Cập v.v thì trong Hiến pháp quy định rất cụ thể về vấn đề trưng cầu ý dân,
kể cả trình tự, thủ tục tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân; nhưng lại có nước như Thụy
Điển, trong Hiến pháp chỉ quy định rằng sẽ có một đạo luật quy định về trưng cầu ý dân
(Điều 4 chương VIII của Hiến pháp Thụy Điển năm 1974).
ở nước ta, trong Hiến pháp giao cho Quốc hội quyền quyết định việc trưng cầu
ý dân (điểm 14, Điều 84 của Hiến pháp năm 1992) và giao cho ủy ban Thường vụ Quốc
hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện (điểm 11, Điều 91 của Hiến pháp năm 1992). Để
cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, đồng thời cũng là để cho các quy định về trưng cầu
ý dân có thể triển khai thi hành trên thực tế, Quốc hội đã quyết định việc xây dựng một
đạo luật riêng quy định về trưng cầu ý dân [50].
Thứ năm, cách thức trưng cầu ý dân phải bằng hình thức bỏ phiếu.

Trưng cầu dân ý thường được tiến hành một cách độc lập, riêng rẽ với các hoạt
động khác. Nhưng ở một số nước, trong một số trường hợp, do vấn đề đưa ra trưng cầu
ý dân gắn liền với chính sách của các chính đảng tham gia tranh cử nên cuộc trưng cầu
ý dân được tổ chức kết hợp cùng với cuộc bầu cử Quốc hội hoặc bầu cử Tổng thống.
Việc kết hợp này cũng là một biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí cho ngân sách quốc gia.
Tuy nhiên, cho dù được tổ chức riêng hay kết hợp cùng với cuộc bầu cử thì cách thức
trưng cầu dân ý cũng tương tự như bầu cử, tức là được thực hiện dưới hình thức bỏ
phiếu. Các phương án đưa ra để người tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân lựa chọn được
in trên lá phiếu một cách rõ ràng để cử tri có thể nhận thức đúng và quyết định lựa chọn
được theo một trong hai phương án đồng ý hoặc không đồng ý với vấn đề được đưa ra
trưng cầu ý dân.
Thứ bảy, kết quả trưng cầu ý dân có giá trị buộc các cơ quan nhà nước phải
chấp nhận theo ý kiến đa số của nhân dân.
Cho dù là cuộc trưng cầu ý dân đương nhiên hay trưng cầu ý dân tùy ý, thì ý
kiến đa số của nhân dân phản ánh bởi kết quả của cuộc trưng cầu ý dân bao giờ cũng

mang tính chất quyết định đến chiều hướng của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân. Bởi vì,
không một chính quyền nào lại dại gì bỏ qua nguyện vọng của nhân dân trong cuộc
trưng cầu ý dân. Rutxô - một nhà khoa học chính trị - pháp lý đã từng nhấn mạnh không
có bất cứ một quyết định chính trị hay một đạo luật nào có hiệu lực nếu chúng không
được nhân dân tán thành. Chính vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, kết quả của
cuộc trưng cầu ý dân có giá trị quyết định buộc các cơ quan nhà nước và mọi công dân
có nghĩa vụ chấp hành.
1.1.4. ý nghĩa của trưng cầu ý dân
Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ tiến bộ được sử dụng nhiều trong các
quốc gia hiện đại, không ít quốc gia xem sự tồn tại của nó như là minh chứng cho nền
dân chủ của mình. Bất kỳ một quốc gia nào cho dù có chế độ chính trị khác nhau cũng
tuyên bố rằng mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; tuy nhiên việc nhân dân
trực tiếp quyết định đối với tất cả công việc của Nhà nước là điều không thể. Chính vì
vậy, ở các quốc gia đều hình thành nên các thiết chế đại diện, do nhân dân bầu ra, thay

mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước (Quốc hội, Tổng thống ). Nhưng cũng
phải thấy rằng, không phải bao giờ ý kiến của những thiết chế đại diện này cũng phản
ánh được đúng đắn ý chí của nhân dân, trong lịch sử chúng ta đã từng được biết trường
hợp của nước Pháp năm 1946, mặc dù 53% số dân biểu của Quốc hội lập hiến đã bỏ phiếu
tán thành dự án Hiến pháp, nhưng khi đưa ra trưng cầu ý dân thì 53% cử tri đã bác bỏ dự án
này và do đó dự án Hiến pháp này không có hiệu lực [2, tr. 22]. Vì vậy, với hình thức
trưng cầu ý dân đã cho phép người dân mặc dù không tham gia vào tất cả mọi công việc
của Nhà nước, nhưng đối với một số vấn đề quan trọng thì buộc Nhà nước phải hỏi ý
kiến nhân dân và ý kiến của nhân dân là ý kiến quyết định. Như vậy, có thể khẳng định
rằng, sự tồn tại của hình thức trưng cầu ý dân đã bổ khuyết cho những điểm chưa hoàn
thiện của của nền dân chủ đại diện, khiến cho những quyết định quan trọng của chính
quyền luôn phù hợp và phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó, thông qua trưng
cầu ý dân, cũng góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm chính trị của người dân, tạo thói
quen cho họ phát biểu chính kiến của mình về các vấn đề chung của đất nước, của cộng

đồng; đồng thời, đây cũng là bước chuẩn bị, tạo sự sẵn sàng cho người dân trong việc
thực hiện các quy định của pháp luật, bảo đảm tính khả thi cũng như hiệu quả của pháp
luật.
Tuy nhiên, hình thức trưng cầu ý dân cũng có những điểm hạn chế riêng của
nó là làm kéo dài thời gian cơ quan nhà nước ban hành quyết định, trong một số
trường hợp làm giảm đi tính thời sự, tính cấp thiết của việc xây dựng và áp dụng chính
sách. Đồng thời, cũng phải thấy rằng, không phải bao giờ trưng cầu ý dân cũng là
phương thuốc nhiệm màu có thể giải quyết được mọi vấn đề; trong trường hợp cử tri
bị thao túng hoặc phải chịu sức ép thì kết quả của cuộc trưng cầu ý dân sẽ khó có thể
phản ánh đúng ý chí của cử tri.
1.1.5. Phân loại trưng cầu ý dân
Tùy theo tiêu chí khác nhau mà có thể phân chia thành các hình thức trưng cầu
ý dân khác nhau, cụ thể như sau:
* Nếu căn cứ vào phạm vi địa lý tiến hành trưng cầu ý dân, thì có thể thể phân

loại thành hai hình thức trưng cầu ý dân sau:
- Trưng cầu ý dân trên phạm vi cả nước: là cuộc trưng cầu ý dân được tiến hành
trên phạm vi lãnh thổ của toàn quốc gia với sự tham gia của tất cả các cử tri trong cả
nước;
- Trưng cầu ý dân ở địa phương: là cuộc trưng cầu ý dân được tiến hành
trong phạm vi lãnh thổ của một đơn vị hành chính hoặc một số đơn vị hành chính
của quốc gia với sự tham gia của cử tri địa phương hoặc của vùng đó.
* Nếu căn cứ vào tính chất của cuộc trưng cầu ý dân, thì có thể phân loại thành
hai hình thức trưng cầu ý dân sau:
- Trưng cầu ý dân đương nhiên (hay còn gọi là trưng cầu ý dân bắt buộc): là
cuộc trưng cầu ý dân bắt buộc cơ quan nhà nước phải tổ chức khi giải quyết những vấn
đề mà theo quy định của pháp luật phải tiến hành trưng cầu ý dân;
- Trưng cầu ý dân tùy ý, là cuộc trưng cầu ý dân về một vấn đề nhất định do cơ
quan nhà nước tổ chức khi xét thấy rằng nên đưa vấn đề đó ra để nhân dân trực tiếp

quyết định.
* Nếu căn cứ vào đối tượng (vấn đề) đưa ra trưng cầu ý dân, thì có thể phân loại
thành các hình thức trưng cầu ý dân sau:
- Trưng cầu ý dân về Hiến pháp: là cuộc trưng cầu ý dân về nội dung của bản
Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua, có nên hay không nên sửa đổi Hiến pháp hiện
hành hoặc về nội dung của Hiến pháp đã được sửa đổi, bổ sung;
- Trưng cầu ý dân về đạo luật: là cuộc trưng cầu ý dân về đạo luật đã được
Quốc hội thông qua hoặc về sáng kiến của nhân dân đề nghị ban hành một đạo luật;
- Trưng cầu ý dân về địa giới hành chính: là cuộc trưng cầu ý dân để nhân dân
trực tiếp quyết định về sự chia, tách, sáp nhập, điều chỉnh hoặc những thay đổi khác về
địa giới hành chính - lãnh thổ nơi mình sinh sống;
- Trưng cầu ý dân về điều ước quốc tế: là cuộc trưng cầu ý dân để nhân dân trực
tiếp quyết định về việc quốc gia mình có tham gia hoặc không tham gia vào một điều
ước quốc tế;
- Trưng cầu ý dân về quy hoạch hoặc một dự án công trình đầu tư xây dựng: là

cuộc trưng cầu ý dân để nhân dân trực tiếp quyết định về một dự án quy hoạch, đầu tư
xây dựng công trình liên quan trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng dân cư v.v…
1.2. pháp luật về trưng cầu ý dân
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật)
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị,
được Nhà nước bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều
chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp
thống thị [24, tr. 141].
Trong đó, pháp luật về trưng cầu ý dân là một bộ phận hợp thành của hệ thống
pháp luật. Theo nghĩa rộng, pháp luật về trưng cầu ý dân được hiểu là tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề trưng cầu ý dân, bao gồm các quy định về quyền và
nghĩa vụ của công dân trong trưng cầu ý dân; quy trình tiến hành và tổ chức trưng cầu ý
dân cùng với những thiết chế tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm cho

việc tiến hành trưng cầu ý dân; việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện liên quan
đến trưng cầu ý dân; các điều kiện bảo đảm cho việc tiến hành trưng cầu ý dân. Theo nghĩa
hẹp, pháp luật về trưng cầu ý dân được hiểu là tổng thể những quy phạm pháp luật quy
định về sáng kiến trưng cầu ý dân, thẩm quyền quyết định, tổ chức trưng cầu ý dân, cử
tri trong cuộc trưng cầu ý dân, trình tự, thủ tục tổ chức trưng cầu ý dân và giải quyết
những khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện về trưng cầu ý dân.
Pháp luật về trưng cầu ý dân theo nghĩa rộng có nội dung rất phong phú. Do
vậy, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về trưng cầu ý dân theo nghĩa hẹp. Có
nghĩa là luận văn chỉ xem xét và hoàn thiện các quy định của pháp luật về sáng kiến
trưng cầu ý dân, thẩm quyền quyết định, tổ chức trưng cầu ý dân, cử tri trong cuộc trưng
cầu ý dân, trình tự, thủ tục tổ chức trưng cầu ý dân và giải quyết những khiếu nại, tố
cáo, khiếu kiện về trưng cầu ý dân. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân
chính là đi rà soát, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về trưng
cầu ý dân để tìm ra những hạn chế, những điểm bất cập, không hợp lý của các quy định
này nhằm đưa ra quan điểm và những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
về trưng cầu ý dân, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và yêu cầu phát huy

dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, vai trò
của pháp luật về trưng cầu ý dân thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về trưng cầu ý dân là phương tiện để thể chế hóa đường lối,
chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ nói chung và dân chủ
trực tiếp nói riêng.
Một trong những vai trò cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa là phương tiện
thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng. Qua đó, đường lối,
chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng mới đi vào được cuộc sống và phát huy tác
dụng. Đối với pháp luật về trưng cầu ý dân cũng vậy, thông qua đó, đường lối, chủ
trương, chính sách, quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ nói chung và dân chủ trực
tiếp nói riêng mới có hiệu lực bắt buộc và được thực thi trên thực tế. Có thể thấy rằng,

trong dân chủ trực tiếp thì hình thức trưng cầu ý dân là một hình thức nổi trội hơn cả,
bởi lẽ với hình thức dân chủ trực tiếp này, nhân dân được tham gia, trực tiếp quyết định
công việc của Nhà nước. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, thông qua các quy định của
pháp luật về trưng cầu ý dân, đường lối, chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng về
phát huy dân chủ nói chung và dân chủ trực tiếp nói riêng được thể chế hóa thành pháp
luật và đi vào cuộc sống.
Thứ hai, pháp luật về trưng cầu ý dân là phương tiện để xác lập quyền của người
dân được tham gia, trực tiếp quyết định đối với một số công việc của Nhà nước.
Như chúng ta đã biết, pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan
hệ xã hội, hướng các quan hệ xã hội này theo một trật tự ổn định, có lợi. Đối với trưng
cầu ý dân, pháp luật về trưng cầu ý dân điều chỉnh mối quan hệ Nhà nước - công dân, trong
đó quy định người dân được bỏ phiếu để biểu quyết về vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân,
tức là đã xác lập cho người dân quyền được tham gia, trực tiếp quyết định đối với một số
công việc của Nhà nước. Như vậy, thông qua pháp luật về trưng cầu ý dân đã luật hóa
quyền của người dân được tham gia quyết định công việc của Nhà nước và đã biến nó
trở thành một trong những quyền cơ bản của công dân. ở nước ta, Nhà nước không những

chỉ ghi nhận quyền này của người dân mà còn đưa nó trở thành một chế định quan trọng
của Hiến pháp: tại Điều 53 của Hiến pháp năm 1992 quy định "Công dân có quyền… biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân" [46, tr. 35].
Đồng thời, với việc xác lập quyền của người dân được tham gia, trực tiếp quyết
định đối với một số công việc của Nhà nước, pháp luật về trưng cầu ý dân cũng góp
phần hoàn thiện hệ thống các quyền công dân.
Thứ ba, pháp luật về trưng cầu ý dân là phương tiện, công cụ để người dân tham
gia, trực tiếp quyết định đối với công việc của Nhà nước.
Một khi pháp luật đã chính thức xác lập quyền của người dân được tham gia,
trực tiếp quyết định đối với công việc của Nhà nước thì có nghĩa là mỗi khi cơ quan nhà
nước xem xét đến vấn đề mà theo quy định của pháp luật phải đưa ra trưng cầu ý dân,
cơ quan nhà nước bắt buộc phải tổ chức trưng cầu ý dân để nhân dân trực tiếp biểu
quyết quyết định vấn đề đó, trong những trường hợp như vậy cơ quan nhà nước không

thể tự mình ra quyết định mà không thông qua trưng cầu ý dân. Một khi pháp luật đã
quy định rõ ràng các điều kiện cụ thể để một người được tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý
dân thì khi họ đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân
dân có quyền ngăn cản họ tham gia cuộc trưng cầu ý dân v.v Trong những trường hợp
như vậy, nhân dân có thể sử dụng pháp luật về trưng cầu ý dân như là phương tiện, công
cụ để yêu cầu cơ quan nhà nước phải tổ chức trưng cầu ý dân, cho phép mình được bỏ
phiếu biểu quyết trong cuộc trưng cầu ý dân.
Thứ tư, pháp luật về trưng cầu ý dân tạo ra cơ chế bảo đảm cho người dân thực
hiện quyền được tham gia, trực tiếp quyết định công việc Nhà nước.
Vai trò của pháp luật về trưng cầu ý dân không dừng lại ở chỗ chỉ ghi nhận quyền
của người dân được tham gia trực tiếp quyết định đối với công việc Nhà nước mà nó còn
tạo ra cơ chế bảo đảm để người dân có thể thực hiện được quyền này trên thực tế. Như trên
đã trình bày, trong trường hợp pháp luật về trưng cầu ý dân quy định những vấn đề phải
đưa ra trưng cầu ý dân mà cơ quan nhà nước tự ra quyết định không thông qua trưng cầu ý
dân thì quyết định đó của cơ quan nhà nước là trái pháp luật và đương nhiên là không có
hiệu lực thi hành; với quy định của pháp luật về việc không có hiệu lực của các quyết định

này sẽ khiến cho cơ quan nhà nước khi muốn thực hiện vấn đề đó phải đưa ra trưng cầu ý
dân. Bên cạnh đó, pháp luật về trưng cầu ý dân còn có thể đưa ra quy định đối với những
trường hợp vì lý do già yếu, ốm đau, tật bệnh v.v… không thể đến được nơi bỏ phiếu được
thì cơ quan tổ chức trưng cầu ý dân có trách nhiệm mang hòm phiếu lưu động đến tận nơi
của các đối tượng này để họ bỏ phiếu nhằm bảo đảm cho mọi người dân có đủ điều kiện
được tham gia quyết định đối với công việc của Nhà nước v.v Như vậy, có thể khẳng
định rằng, các quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân đã tạo ra cơ chế bảo đảm cho
người dân thực hiện quyền được tham gia, trực tiếp biểu quyết quyết định công việc của
Nhà nước.
Thứ năm, pháp luật về trưng cầu ý dân góp phần bảo đảm cho việc giải quyết
công việc quan trọng của Nhà nước phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
góp phần xây dựng một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Với việc pháp luật quy định những vấn đề cần phải đưa ra trưng cầu ý dân sẽ
khiến cho Nhà nước không thể tùy tiện đưa ra các quyết định của mình bất chấp ý chí
của nhân dân. Trong trường hợp tiến hành trưng cầu ý dân, pháp luật quy định ý kiến
của nhân dân là ý kiến quyết định chứ không phải là ý kiến của các cơ quan nhà nước,
kể cả trường hợp cơ quan nhà nước có ý kiến khác với ý kiến của nhân dân. Như vậy,
chúng ta có thể thấy rằng, thông qua pháp luật về trưng cầu ý dân bảo đảm cho việc giải
quyết công việc của Nhà nước được theo đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, góp
phần xây dựng một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều
này cũng phù hợp với bản chất của Nhà nước ta là "…Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…" (Điều 2 của Hiến
pháp năm 1992) [46, tr. 13].
Thứ sáu, pháp luật về trưng cầu ý dân góp phần nâng cao trình độ, ý thức pháp
luật của người dân.
Một trong chức năng của pháp luật đó là giáo dục cho người dân thông qua việc
định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển. Pháp luật về trưng cầu ý dân là một bộ
phận của hệ thống pháp luật, vì vậy nó cũng có vai trò góp phần nâng cao trình độ, ý
thức pháp luật của người dân: thông qua các quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân,

người dân nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tham gia, trực tiếp
quyết định công việc của Nhà nước; thông qua việc cân nhắc để bỏ phiếu trưng cầu ý
dân, người dân đã tự mình nâng cao tri thức của mình về vấn đề được đưa ra trưng cầu
v.v…; đồng thời, với việc quyết định lựa chọn phương án trong trưng cầu ý dân thì
người dân sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề đưa ra trưng cầu, từ đó có ý thức hơn trong việc
chấp hành theo phương án được đa số người dân lựa chọn nói riêng và có ý thức hơn
trong việc chấp hành chấp hành pháp luật nói chung.
1.3. Yêu cầu và mục tiêu hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt
Nam hiện nay
1.3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện
nay

Thứ nhất, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân [46, tr. 13], sứ
mệnh của Nhà nước không gì khác là phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Vì vậy, việc
bảo đảm cho người dân được tham gia, trực tiếp quyết định đối với một số công việc
của Nhà nước vừa thể hiện bản chất cách mạng, bản chất nhân dân, tính ưu việt của Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là sự khởi đầu để nhân dân thực hiện trên thực tế
quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình.
Trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vấn đề bảo đảm cho
người dân được tham gia, trực tiếp quyết định đối với một số công việc của Nhà nước là
một trong những phương thức quan trọng giúp cho các quyết định của Đảng và Nhà nước
luôn phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật về trưng cầu ý dân nói riêng phải thể hiện được là công cụ hữu hiệu
để người dân có thể tham gia trực tiếp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước;
đồng thời, cũng là công cụ để Nhà nước qua đó nắm bắt được ý chí của nhân dân, từ đó
đưa ra được các quyết định và giải quyết các công việc phù hợp lợi ích chung của nhân
dân.
Việc xác lập quyền của người dân được tham gia, trực tiếp quyết định đối với
một số công việc quan trọng của Nhà nước, ngoài ý nghĩa giúp cho các quyết sách lớn

của Đảng và Nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân, còn giúp cho mục
tiêu cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta sớm trở thành hiện thực. Trên tinh
thần đó, khi tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã rút ra được bài
học sau:
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng
trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất
phát từ thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển,
đó là chìa khóa của sự thành công [18].

Thứ hai, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật về trưng cầu ý dân
là yêu cầu tất yếu. Bởi vì, một trong những tiêu chí cơ bản của Nhà nước pháp quyền là
phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng thời bảo đảm sự tuân thủ pháp luật triệt để
của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo đó, trước hết chúng ta phải hoàn thiện và bảo
đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối cao, yêu cầu này phải trở thành nguyên tắc
đối với các thiết chế trong bộ máy nhà nước, đối với toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung
và từng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng; chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới có thể xây
dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, ổn định, tạo thành môi trường pháp lý thống
nhất cho các hoạt động của toàn xã hội, trong đó có hoạt động của người dân tham gia vào
công việc của Nhà nước. Thứ nữa là pháp luật phải có chất lượng tốt cả về luật nội dung và
luật thủ tục, nghĩa là pháp luật phải thể hiện đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
phù hợp với hiện thực khách quan, là đại lượng phổ biến và công bằng nhất, có tác dụng
thúc đẩy tiến bộ xã hội v.v Bên cạnh đó, pháp luật phải tôn trọng, bảo vệ các quyền cơ
bản, các lợi ích hợp pháp, danh dự, nhân phẩm của con người, công dân, trong đó có quyền
của người dân được tham gia vào công việc của Nhà nước; phải xác định đúng đắn trách
nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân trong mối quan hệ quyền lực: Nhà nước phải bảo
đảm các quyền cơ bản của công dân, ngược lại công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình

đối với Nhà nước, cộng đồng và xã hội. Đồng thời, pháp luật phải được mọi cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức và mọi người dân trong xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp
hành. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân là việc làm rất cần thiết nhằm
hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, bảo đảm tính khả thi và sự tuân
thủ pháp luật triệt để.
Thứ ba, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật về trưng cầu ý
dân phải là một việc làm thường xuyên. Bởi vì, pháp luật chẳng qua chỉ là sự phản ánh
dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã hội, mà các quan hệ xã hội này lại rất phong phú
và luôn biến đổi, tất yếu dẫn đến sự lỗi thời của pháp luật. Vấn đề này đối với nước ta lại
càng rõ nét, công cuộc đổi mới đất nước từ chỗ đổi mới về tư duy, dẫn tới đổi mới toàn
diện đời sống xã hội đã thực sự là một quá trình cải biến cách mạng, làm thay đổi toàn
bộ diện mạo xã hội từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc, trong đó có pháp luật.

×