Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN: Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk - Thực trạng và giải pháp doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771 KB, 99 trang )














LUẬN VĂN:

Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít
người ở tỉnh Đăk Lăk - Thực trạng và giải pháp










Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh


đạo trong 15 năm qua "đã đạt được những thành tựu quan trọng", tạo tiền đề vững
chắc đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn đổi mới đất nước đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng
rằng: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước đòi hỏi tất yếu phải xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa (XHCN) là phương thức không chỉ là để xây dựng hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền mà còn là phương thức phổ biến, chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội có
hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy "Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế" đã trở thành một trong mười nội dung lớn
trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII trình Đại hội Đảng
lần thứ IX. Tăng cường pháp chế XHCN là một nguyên tắc hiến định thể hiện trong
Hiến pháp của Nhà nước ta. Để thiết lập một nền pháp chế thống nhất và vững chắc
trên phạm vi cả nước; để thiết lập trật tự pháp luật, kỷ cương phép nước được nghiêm
minh, dân chủ và công bằng, có rất nhiều con đường với nhiều giải pháp phong phú.
Trong đó, phải kể đến giải pháp trước mắt và lâu dài đảm bảo việc thực hiện pháp luật
trở thành lối sống, thói quen của Nhà nước và nhân dân - đó là đẩy mạnh tuyên truyền
giáo dục pháp luật (GDPL), nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Chính vì vậy,
Chính phủ đã ra Chỉ thị số 02/CT-TTg năm 1998 và Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày
7/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến GDPL. Trong Báo
cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội
khóa X ngày 20/11/2001 nêu rõ:
Trong xã hội, việc tạo lập nếp sống và làm việc theo pháp luật phải
được đặt thành một yêu cầu cơ bản và cấp bách của đời sống văn hóa ở các

gia đình, các cụm dân cư, các đơn vị cơ sở và phải coi đó là sự nghiệp của
toàn dân, đòi hỏi nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc phổ biến
tuyên truyền pháp luật, đẩy mạnh đấu tranh chống các hành vi trái pháp luật,
xử lý nghiêm minh các vi phạm [8, tr. 2].

Với nhận thức trên có thể khẳng định rằng: nếu sự nghiệp giáo dục là quốc sách
hàng đầu thì GDPL có vị trí đặc biệt quan trọng ở nước ta hiện nay. Với lôgic ấy, để
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị số 22-NQ/TW, ngày 27/11/1989 về một số
chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế xã hội miền núi, trong đó có Tây Nguyên
"với vị trí chiến lược và ưu thế về đất đai tài nguyên, xây dựng Tây Nguyên giàu về
kinh tế, vững mạnh về quốc phòng an ninh, tiến tới có vùng kinh tế động lực" (như
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã xác định). Nhà nước ta phải tăng
cường GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người ở Tây Nguyên nói chung và ở Đăk Lăk
nói riêng theo quy định của Điều 36 Hiến pháp 1992: " Nhà nước thực hiện chính sách
ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng
đặc biệt khó khăn".
Thực tiễn vừa qua, công tác GDPL cho nhân dân ở tỉnh Đăk Lăk chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. ý thức pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật
của một bộ phận không nhỏ cán bộ và nhân dân nói chung còn rất hạn chế nhất là những
vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều nhân dân các dân tộc ít người đang sinh sống. Các
điều kiện để tiếp nhận thông tin pháp lý nhất là các văn bản pháp luật của Nhà nước đối
với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa bị hạn chế so với nhân dân ở thành thị và nông
thôn đồng bằng. Vì vậy, hệ thống luật tục (cả tích cực và lạc hậu) của người dân tộc vốn
đã được các buôn làng sử dụng từ xưa đến nay càng có điều kiện chi phối, điều chỉnh
các quan hệ xã hội ở buôn làng. Bối cảnh đó càng cho thấy việc tuyên truyền và GDPL
Nhà nước, đưa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn đề lớn đòi hỏi cần được đáp ứng
kịp thời.
Trong thời gian gần đây ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng
có những vấn đề chính trị phức tạp và nhạy cảm. Để đảm bảo sự ổn định và phát triển
bền vững cho vùng Tây Nguyên, Nhà nước ta phải có kế hoạch, chính sách đồng bộ,

nhiều giải pháp thiết thực hữu hiệu, trong đó công tác GDPL cần được coi trọng ngang
tầm với nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: "Giáo dục pháp luật cho nhân
dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk - Thực trạng và giải pháp" là rất cấp thiết, có

ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn thiết thực.
2. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của luận văn
2.1. Tình hình nghiên cứu
GDPL với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của Nhà
nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cường pháp chế, vấn đề này đã
thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các nhà khoa học từ trước đến
nay đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
+ Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước như:
- "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa",
Luận án tiến sĩ luật của Trần Ngọc Đường.
- "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và GDPL cho nhân dân lao động ở Việt
Nam", Luận án phó tiến sĩ luật của Nguyễn Đình Lộc.
+ ở trong nước việc nghiên cứu GDPL được nhiều tác giả đề cập đến những
khía cạnh và mức độ khác nhau, thể hiện trong các công trình nghiên cứu, bài viết đăng
trên các báo, tạp chí và GDPL đã là đề tài của nhiều luận án, luận văn luật học, các công
trình nghiên cứu đó có thể kể đến như:
- "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của tác giả Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí
Cộng sản, số 10, tr.34-38, năm 1983) .
- "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây
dựng con người mới" của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, tr. 18-22,
năm 1985) ;

- "Giáo dục ý thức pháp luật" của Nguyễn Trọng Bích (Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 4, tr. 34-35, năm 1989) ;
- "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" (Đề tài
khoa học cấp Nhà nước, mã số 07-17 do Viện Nhà nước - pháp luật thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì) ;
- "Một số vấn đề lý luận và thực tiến trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học
cấp Bộ, mã số 92-98, 223 ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - của Bộ tư pháp;

- "Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân
tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý;
- "Giáo dục pháp luật trong các trường Đại học, trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề không chuyên luật ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân
Thắng;
- "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ
của Dương Thị Thanh Mai;
- "Giáo dục pháp luật cho dân tộc Khơme Nam Bộ (qua thực tiễn An Giang)",
Luận văn thạc sĩ của Lê Văn Bền;
- "Bàn về giáo dục pháp luật" của phó tiến sĩ Trần Ngọc Đường - Dương Thị
Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- "Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay",
Luận văn thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng.
+ Một số bài viết của các tác giả đã đăng trên Tạp chí thời gian gần đây:
- "Nhìn lại một năm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở Gia Lai" của Trần
Xuân Thiệp, (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2000).
- "Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới" của Hồ
Viết Hiệp (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000).
- "Xây dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà
trường", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2001, v.v

Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể và cá nhân, các bài
viết từ trước đến nay về GDPL đã có những đóng góp quan trọng về lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một công trình luận án, luận văn
nào nghiên cứu về GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người tại tỉnh Đăk Lăk. Với tính
cách là một xã hội thu nhỏ của nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống ở miền núi. trong
giai đoạn hiện nay cần phải chú trọng đúng mức và cấp thiết của việc GDPL và coi đây
là nhiệm vụ chính trị quan trọng để góp phần vào việc ổn định tình hình và phát triển
kinh tế - xã hội ở một tỉnh miền núi như Đăk Lăk.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

- Luận văn nghiên cứu vấn đề GDPL cho đồng báo các dân tộc ít người trong
tỉnh Đăk Lăk nói chung, đặc biệt là nhân dân các dân tộc Êđê và M'nông.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu kể từ khi có đường lối đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường giáo dục
pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người.
Hai là: Đánh giá, phân tích thực trạng GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người
ở tỉnh Đăk Lăk.
Ba là: Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường ý thức GDPL cho
nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước ta về GDPL
nói chung và cho nhân dân các dân tộc ít người nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch
sử - cụ thể, phân tích tổng hợp, thống kê so sánh, điều tra xã hội học v.v
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu tương đối có hệ thống
những vấn đề lý luận về GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người ở một địa phương
miền núi.
- Phân tích đánh giá thực trạng GDPL, đồng thời rút ra những kinh nghiệm về
GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người tại Đăk Lăk.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường giáo dục
pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở Đăk Lăk.

6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng GDPL
hiện nay cho người dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk, từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ
đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan Đảng và nhà nước trong việc GDPL
đối với người dân tộc thiểu số tại tỉnh Đăk Lăk.
- Các giải pháp được đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong việc xây
dựng chương trình GDPL và thực tiễn GDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung
và người dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk nói riêng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các trường, lớp,
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý cho vùng dân tộc thiểu số nói chung và
người dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn được chia
thành ba chương, 7 tiết.

Chương 1
Những Vấn Đề Lý Luận CƠ Bản Về Giáo Dục Pháp Luật nói chung Và Giáo Dục
Pháp Luật CHO NHÂN DÂN
Các DÂN Tộc Miền Núi Của Nước TA Hiện NAY

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong khoa học
giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm GDPL thường được
quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng
như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì
GDPL ở nước ta hình thành và thực hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo
dục đạo đức. Với tư cách là một khái niệm pháp lý - GDPL được hình thành trong khoa
học pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn mằn so với nhiều
nước trên thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về GDPL ở nước ta vẫn còn có nhiều ý kiến

khác nhau, đó là lẽ bình thường. Song để có một cách nhìn nhận đúng đắn khoa học về
GDPL, trước hết cần xem xét một số các quan niệm về GDPL cơ bản sau đây:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng, các quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức
pháp luật. Điều đó có ý nghĩa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo
đức sẽ đạt được sự tôn trọng pháp luật của công dân. Hay nói cách khác sự hình thành ý
thức pháp luật là hệ quả tất yếu của việc giáo dục chính trị tư tưởng hay giáo dục đạo
đức.
- Quan niệm thứ hai: Xem GDPL chỉ đơn thuần là hoạt động phổ biến tuyên
truyền, giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát
thanh, truyền hình và sách báo. Chỉ cần làm tốt công tác thông tin tuyên truyền pháp
luật như vậy là có thể làm tốt công tác GDPL.

- Quan niệm thứ ba cho rằng: GDPL là lấy "trừng trị" để giáo dục người vi phạm
và răn đe giáo dục người khác. Thông qua việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, xử phạt vi phạm hành chính hay áp dụng
các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng GDPL cho mọi người; không cần phải
tuyên truyền hay giải thích pháp luật.
- Quan niệm thứ tư: đồng nghĩa GDPL với dạy và học pháp luật ở các trường
học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là GDPL.
Tất cả các quan niệm trên, mặc dù ở những góc độ khác nhau nhưng đều có sự
nhìn nhận GDPL ở những khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định. Song ở các quan niệm
đó đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện, hoặc đơn giản đến mức tầm thường hóa vai trò của
GDPL; chưa thấy được đặc thù và giá trị vốn có của GDPL. Vì vậy, những quan niệm
đó đã hạ thấp vai trò, vị trí xã hội của GDPL. Mặt khác trong thực tiễn các quan niệm
trên đây đã không tạo ra khả năng hoặc thậm chí cản trở việc triển khai hoạt động có tổ
chức cũng như quy mô việc thực hiện pháp luật; làm cho hiệu lực, hiệu quả của pháp
luật trong thực tế không cao. Nhận định trên thể hiện trong quan niệm thứ nhất; việc
hình thành nên ý thức pháp luật của con người được xem như là sản phẩm của quá trình

giáo dục chính trị tư tưởng hay giáo dục đạo đức. Nếu quan niệm như vậy thì vấn đề
GDPL sẽ không được coi trọng đúng mức, do vậy không được đặt ra như một hoạt động
độc lập. Chính quan niệm này trong thực tiễn đã gây ra một hậu quả tai hại kéo dài
trong nhiều năm ở nước ta dẫn đến không có nội dung, chương trình GDPL; pháp luật
không đến với người dân nên ý thức pháp luật trong xã hội thấp kém.
Quan niệm thứ hai coi GDPL thực chất là những đợt tuyên truyền, cổ động
không mang tính thường xuyên, liên tục với nội dung, chương trình cụ thể mà theo mùa
vụ, mỗi khi có văn bản pháp luật mới được ban hành. Ví dụ: Khi sửa đổi Hiến pháp, sửa
đổi bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự v.v thì tổ chức tuyên truyền theo đợt.
Quan niệm GDPL như vậy là phiến diện, thiếu đồng bộ và liên tục nên hiệu quả giáo
dục không cao.
Các quan niệm thứ ba, thứ tư cũng đều bộc lộ những khiếm khuyết, phiến diện
nên trong thực tiễn đã không tạo ra khả năng triển khai hoạt động GDPL một cách rộng

rãi. Sự nhận thức không đầy đủ về GDPL nên khó có thể khái quát được nội hàm của
khái niệm này.
Để có quan niệm đúng đắn về GDPL, con đường duy nhất cần tiếp cận là
những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện tượng xã hội và chỉ
có trong xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo dục luôn luôn là nhu
cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã hội. Vì thế mà các nhà nước của giai cấp
cầm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình đều thông qua giáo dục. Trong khoa học sư
phạm, giáo dục được hiểu theo hai nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều kiện
khách quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống ) và của
cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ định và định hướng của nhân tố
con người) nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo
dục.
- Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ
quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất,
những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào lao

động và đời sống xã hội.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận những
yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình thành ý thức cá
nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm đã nhấn mạnh đến yếu tố
tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí quyết định của nhân tố chủ quan trong
giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa
hẹp.
Như vậy quan niệm về giáo dục theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp như trên thì
GDPL trước hết cũng là một hoạt động mang đầy đủ những tính chất chung của giáo
dục nhưng nó có những đặc điểm riêng biệt, phạm vi riêng cả nội dung, hình thức và
phương pháp riêng biệt. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của giáo dục, GDPL được
hiểu một cách khái quát nhất: con người với tư cách là một thực thể xã hội là một khách

thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và sự tác động của các điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan để hình thành lên ý thức tình cảm và hành vi pháp luật.
Thực tế hiện nay theo quan điểm chung của các nhà khoa học pháp lý đều xuất
phát từ nghĩa hẹp của giáo dục. Vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp, các nhà
khoa học đã xây dựng khái niệm GDPL bởi các yếu tố sau đây:
- Thứ nhất: Sự hình thành ý thức của con người là một quá trình chịu ảnh hưởng
và sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ quan. Các Mác viết:
"Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người đã biến đổi
là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi" [37, tr.
10].
Khi nghiên cứu sự tác động ảnh hưởng lên ý thức con người thì các nhà lý luận
giáo dục đã phân biệt điều kiện khách quan và chủ quan. Điều kiện khách quan là những
yếu tố ảnh hưởng hình thành lên ý thức con người, nhân tố chủ quan là nhân tố tác động
có chủ đích, có định hướng, có nội dung và phạm vi nhất định. Yếu tố ảnh hưởng khách
quan có thể tự phát, thụ động, có thể tự phát theo chiều nay hay chiều khác không có
chủ đích trước. Vậy theo nghĩa hẹp của giáo dục có thể vận dụng vào quan niệm GDPL
đó là sự tác động có định hướng của nhân tố chủ quan bằng việc xác định nội dung,

chương trình pháp luật cần đưa vào kế hoạch giáo dục cho công dân.
- Thứ hai: Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm để xây
dựng khái niệm GDPL chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái
riêng", "cái đặc thù", "trong mối quan hệ với giáo dục nói chung là "cái chung" "cái phổ
biến" "cái riêng" vừa phải mang những đặc điểm chung vừa phải mang tính thể hiện
những nét đặc thù. GDPL là "cái riêng" cái đặc thù trong mối quan hệ với giáo dục là "cái
chung", "cái phổ biến".
Tính đặc thù của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một số điểm sau
đây:
- Về mục đích GDPL: Hoạt động GDPL mang tính định hướng, nhằm nâng cao
ý thức pháp luật, hình thành tình cảm lòng tin và sự tôn trọng đối với pháp luật của Nhà
nước từ đó tự giác xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.

- Về nội dung, GDPL có nội dung cơ bản riêng biệt, những tri thức của nhân
loại về Nhà nước và pháp luật cũng như nội dung của các văn bản pháp luật thực định
sẽ được truyền tải đến khách thể (hoặc đối tượng) một cách thiết thực và có hiệu quả.
Việc xác định đúng nội dung pháp luật để truyền tải cho đối tượng nhất định nào có ý
nghĩa quan trọng và quyết định đến hiệu quả của GDPL.
- Về chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp GDPL: Hoạt động này là một
quá trình thường xuyên, liên tục và lâu dài chứ không phải là tác động theo sự tác động
phong trào, theo thời vụ của chủ thể giáo dục lên đối tượng GDPL. Cần phải có sự kết
hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội của các cấp, các ngành cần quan tâm
đúng mức cho hoạt động GDPL. Người GDPL (chủ thể) phải là người có kiến thức pháp
luật, có năng lực thực tiễn truyền thụ kiến thức, được tiếp nhận đầy đủ các thông tin
pháp lý để truyền tải những kiến thức pháp lý cho người được giáo dục (đối tượng) và
chủ thể phải luôn luôn là người gương mẫu trong chấp hành pháp luật để đối tượng noi
gương.
Hình thức và phương pháp GDPL cần phải phù hợp với từng đối tượng. Chủ
thể phải lựa chọn cách thức, phương pháp cho phù hợp để mang lại hiệu quả cao trong
GDPL. Hình thức có thể đơn giản, từ thấp đến cao hay trực quan, trừu tượng cũng là

yếu tố góp phần quyết định đến hiệu quả của GDPL.
- Thứ ba: Quan niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý nghĩa
quan trọng trong việc phân biệt 2 phạm trù: GDPL và phạm trù ý thức pháp luật. Hai
phạm trù này có mối quan hệ với nhau mật thiết nhưng không đồng nhất với nhau.
Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch về nội dung, chương trình,
còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, là kết quả của các ảnh hưởng của điều
kiện khách quan là sự tác động của nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố chủ quan này lại có
vai trò chủ đạo và quyết định đến sự hình thành ý thức pháp luật. Sự phân biệt này có ý
nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong
xã hội ta những yếu tố khách quan mang tính tiêu cực trong cơ chế thị trường; đó là
tham ô, hối lộ, lối sống không lành mạnh đang tác động đến nhận thức, tình cảm, lòng

tin vào pháp luật,đi ngược lại mục tiêu của một nền pháp chế XHCN. Mặt tiêu cực đó,
trong xã hội đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn đến nhân tố chủ quan nhằm tác động
định hướng trong quá trình hình thành nên ý thức pháp luật cho công dân. Trong điều
kiện hiện nay ở nước ta việc trang bị tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và thói quen
tuân theo pháp luật của nhân dân lao động là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đặc
biệt là các cơ quan nhà nước trực tiếp bảo vệ pháp luật, các cơ quan nhà nước khác, các
tổ chức xã hội ở các cấp, các ngành trong đó trước hết thuộc về cơ quan có chức năng
giáo dục đào tạo con người. Con người trong xã hội cần phải được tổ chức được định
hướng GDPL cho hoạt động của họ; nếu không sẽ không hình thành ý thức pháp luật
tích cực ở cá nhân con người trong xã hội.
Tóm lại: Từ phân tích như trên có thể định nghĩa GDPL như sau: GDPL là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể GDPL để cung cấp tri thức
pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm mục
đích hình thành ở họ ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các
quy định pháp luật và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác định mục đích

để làm gì ? cần đạt được mục đích ấy bằng con đường nào ? tức là phải lựa chọn hình
thức và phương pháp nhất định. Xác định đúng đắn mục đích của GDPL chẳng những
là căn cứ, tiêu chí để đánh giá hiệu quả mà còn là căn cứ để xây dựng nội dung GDPL
phù hợp với đối tượng được giáo dục. Mục đích của GDPL khác với mục đích của các
dạng giáo dục khác.
Mục đích của GDPL trong điều kiện hiện nay cần xác định cụ thể ở những vấn
đề sau đây:
- Một là: Từng bước nâng cao nhận thức về pháp luật cho công dân.
Nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của con người trên các lĩnh vực là
một yêu cầu khách quan của công tác giáo dục nói chung. Trong GDPL thì mục đích
được đặt ra là không ngừng nâng cao nhận thức pháp lý cho đối tượng được GDPL để
họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được những tri thức về Nhà nước về pháp luật và

đặc biệt là pháp luật thực định. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, thực tế cho thấy
rằng Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí nhất là dân trí
pháp lý. Tuy nhiên do đặc điểm và điều kiện ở một số vùng sâu, vùng xa nên nhân dân
các dân tộc ít người có hạn chế về hiểu biết pháp luật. Vì thế việc xác định đúng đắn
mục đích GDPL có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể GDPL, nâng cao
nhận thức pháp lý làm cho mọi người hiểu một cách đầy đủ và đúng đắn về giá trị xã
hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật từ đó hình thành tâm lý, tình cảm và thái độ tôn
trọng pháp luật, tin tưởng vào pháp luật và điều chỉnh hành vi xử sự của mình. Khi mà
mọi thành viên trong xã hội đã đạt đến một ý thức "Sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật" thì đó là mục đích cao nhất và đó là hệ quả của quá trình GDPL.
- Hai là: Hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp luật.
Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng quan trọng
nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự hợp pháp. Nếu đã có
kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải có tình cảm pháp lý, nghĩa là
có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo
ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp pháp của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào
pháp luật thì mọi hành động dễ bị chệch hướng khỏi chuẩn mực pháp lý vì những mục

đích, động cơ cá nhân. Thực tế cho thấy nếu một người có sự hiểu biết pháp luật, có tình
cảm và lòng tin vào pháp luật thì họ sẽ tin theo những quy định của pháp luật. Tuy
nhiên để có được tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần phải giáo dục tình cảm, lòng
tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, thái độ không khoan nhượng
với kẻ thù. Tất cả những vấn đề đó sẽ là cơ sở hình thành động cơ của hành vi hợp pháp.
- Ba là GDPL nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp,
tích cực.
Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của một quá trình nhận
thức pháp luật. trong quá trình nhận thức thì có nhiều yếu tố tác động (chủ quan và
khách quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật trong đó hoạt
động GDPL là yếu tố cơ bản. Bởi lẽ thông qua GDPL sẽ cung cấp tri thức pháp luật,
lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết vào sự tuân theo một cách tự nguyện những quy định
của pháp luật. Để đạt được mục đích này trong quá trình GDPL phải lựa chọn nhiều

hình thức, phương pháp và thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự cần
thiết, tính hợp lý của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội. Thực tiễn hiện nay ở nước ta,
mục đích này có quan hệ vô cùng to lớn khi mà đa số nhân dân lao động vẫn còn tình
trạng chưa có thói quen xử sự theo pháp luật, việc sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ
theo quy định của hiến pháp và pháp luật còn hạn chế, thậm chí còn vi phạm nghiêm
trọng.
GDPL nhằm đạt được ba mục đích nêu trên, ngoài ra mục đích của nó còn giúp
cho việc xác định hiệu quả của quá trình GDPL. Không dựa vào mục đích của GDPL
thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định hiệu quả của quá trình
GDPL.
1.1.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật
Trong hoạt động GDPL những người (cá nhân, tổ chức) theo chức năng của
mình tham gia vào việc truyền thụ phổ biến pháp luật như giảng dạy, trình bày, giải
thích, pháp luật gọi là chủ thể, những người được truyền thụ học tập, nghiên cứu, tìm
hiểu pháp luật gọi là (đối tượng).
- Về chủ thể của GDPL:

Trong lý luận về giáo dục học chủ thể giáo dục là những thầy giáo, cô giáo và
tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Theo từ điển Tiếng Việt: Chủ thể nói
chung được hiểu "là đối tượng gây ra hành động mang tính tác động trong quan hệ đối
lập với đối tượng bị chi phối bởi hành động tác động, gọi là khách thể" [47, tr. 130].
Vận dụng vào GDPL, có thể hiểu chủ thể GDPL là những người hoạt động GDPL. Hay
nói khác đi thì chủ thể GDPL được hiểu là tất cả những người, mà theo chức năng,
nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu
GDPL. Việc xác định chủ thể, đối tượng GDPL có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Trong mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng GDPL trong quá
trình GDPL, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động GDPL thì sự tác động đó có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng giáo dục. Trên cơ sở đó, chủ thể xác định
những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động GDPL của đối tượng cũng
như các yêu cầu đòi hỏi khách quan đối với các chủ thể GDPL trong việc xác định nội

dung, hình thức, phương pháp phù hợp để tiếp cận GDPL và tiến hành giáo dục có hiệu
quả cao nhất.
- Về đối tượng GDPL:
Vấn đề đối tượng của GDPL có quan hệ chặt chẽ với chủ thể, bởi lẻ chủ thể khi
tiến hành hoạt động GDPL thì phải xác định đối tượng là ai, cơ quan, tổ chức hay cá
nhân, công dân nào, trình độ tuổi tác. Trên cơ sở xác định đúng đắn đối tượng cần
GDPL thì chủ thể mới lựa chọn hình thức và phương pháp thích hợp. Chẳng hạn đối
tượng là CBCC nhà nước thì khi GDPL phải khác với nhân dân các dân tộc ít người, có
như vậy mới mang lại hiệu quả cao nhất trong tuyên truyền GDPL.
Đối tượng GDPL có thể là những cá nhân công dân, hay cơ quan tổ chức hoặc
một nhóm cộng đồng dân cư trong xã hội được tiếp nhận tác động của các hoạt động
GDPL trực tiếp hoặc gián tiếp do chủ thể GDPL tiến hành nhằm đạt được mục đích đặt
ra.
Năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 02/1998/CT-TTg và Quyết định
03/QĐ-TTg ngày 07/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến
GDPL. Căn cứ vào kế hoạch của Chính phủ thì đối tượng GDPL bao gồm:

- CBCC nhà nước:
Đối tượng này là CBCC Nhà nước, họ đã được đào tạo bồi dưỡng nên đã có
trình độ và khả năng nhận thức nhất định. Trong đối tượng này, vấn đề GDPL phải chú
ý hơn đến những người đang làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án,
Viện kiểm sát, thanh tra Trong mối quan hệ này, họ là đối tượng cần được GDPL,
nhưng mối quan hệ khác họ lại là chủ thể của GDPL cho nhân dân lao động. Trong
những năm gần đây đội ngũ CBCC nhà nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật. Tuy nhiên nhiều CBCC Nhà nước do không
được đào tạo cơ bản nên kiến thức pháp luật còn chắp vá, thiếu hệ thống. Điều đó đã
hạn chế rất nhiều đến năng lực quản lý nhà nước, khả năng giải quyết công việc trong
các cơ quan Nhà nước. Vì vậy GDPL cho đối tượng là CBCC là vấn đề vừa cấp bách
vừa lâu dài, phải thường xuyên, liên tục mới có thể đáp ứng đòi hỏi của quá trình quản
lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta.

- Học sinh - Sinh viên:
Đối tượng này là những công dân trẻ, khỏe, thông minh và sáng tạo, là chủ nhân
tương lai của đất nước. Học sinh, sinh viên đang thực sự là lực lượng xung kích trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ. Tuy nhiên về ý thức pháp luật của họ vẫn còn
nhiều hạn chế. Do vậy tình trạng vi phạm pháp luật đã xảy ra trong các học đường, cũng
như ngoài xã hội. Các tệ nạn xã hội như ma túy, lối sống buông thả, đồi trụy phần nhiều
lại do thanh thiếu niên mắc phải. Vì thế GDPL cho đối tượng học sinh - sinh viên cũng
là một yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội đang được Nhà nước thực sự coi trọng.
Có như vậy thì học sinh sinh viên ra trường họ có kiến thức khoa học vững vàng, có lối
sống lành mạnh và ý thức pháp luật được nâng cao.
- Các chủ doanh nghiệp, người quản lý, cán bộ công đoàn ở các doanh
nghiệp:
Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế ở nước ta, chính sách phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta là nhất quán ổn định lâu dài. Nhà nước
tạo ra môi trường pháp luật bình đẳng nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như
sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế. Song Nhà

nước cũng đòi hỏi nghiêm ngặt các doanh nghiệp, các thương nhân phải hoạt động sản
xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Thành tựu kinh tế trong 15 năm đổi mới ở
nước ta có sự đóng góp đáng kể của hàng vạn doanh nghiệp (đến nay là trên sáu vạn
doanh nghiệp). Tuy nhiên trên thực tế việc sản xuất, kinh doanh vẫn bị ảnh hưởng của
cơ chế cũ và trật tự kỷ cương pháp luật còn lỏng lẻo. Không ít các doanh nghiệp, các
thương nhân, đặc biệt là những người sản xuất nhỏ hay làm kinh tế gia đình khi tham
gia vào nền kinh tế thị trường, do kiến thức pháp luật còn hạn chế, nhất là pháp luật
kinh tế. Vì vậy, hiện tượng vi phạm hợp đồng, hoặc bị lừa đảo hoặc dẫn đến thua lỗ là
khó tránh khỏi. Đúng như Đảng ta đã nhận định: "lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể
giá nào, dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế,
xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và của công dân, làm cho kỷ luật, kỷ
cương và pháp luật không nghiêm" [15, tr. 25].

Như vậy, GDPL là đòi hỏi từ nhu cầu thiết thân của các nhà kinh doanh và yêu
cầu quản lý kinh tế của nhà nước. Có như vậy mới giúp họ có những kiến thức cơ bản
về pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, từng bước tạo cho họ thói quen kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật, tránh tình trạng phá rào, vi phạm pháp luật như hiện
nay.
- Các tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là nhân dân các dân tộc ít người,
vùng sâu, vùng xa:
Đây là lực lượng đông đảo những người lao động, chiếm đa số trong xã hội và
lao động của họ đang tạo ra một khối lượng lớn giá trị vật chất cho xã hội.
Tuy nhiên lực lượng đông nhất trong xã hội này lại ít có điều kiện được học tập,
nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật. Đặc biệt nhân dân các dân tộc ít người ở vùng sâu,
vùng xa miền núi như Tây Nguyên, ý thức pháp luật còn rất thấp. Chính vì vậy cần phải
GDPL để họ nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ, quyền lợi của công dân đối với
Nhà nước và xã hội. Tại Đăk Lăk cần phải chú ý đến vai trò của già làng trưởng bản với
tư cách vừa là chủ thể giáo dục vừa là đối tượng GDPL. Có thể nói Già làng, trưởng
bản là những người rất có uy tín ở buôn thôn, những việc xích mích trong buôn làng với
nhau đều do Già làng, trưởng bản tham gia giải quyết một cách có hiệu quả. Già làng,

trưởng bản khi tham gia giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân ở buôn làng
thì với tư cách là chủ thể của GDPL. Có thể nói các già làng, trưởng bản ở các buôn
làng Tây Nguyên thường chỉ dựa vào uy tín tập quán, luật tục để chỉ dẫn và giải quyết
công việc, còn kiến thức pháp luật còn hạn chế. Do vị trí vai trò của già làng, trưởng
bản, nên họ cần phải được bồi dưỡng kiến thức pháp luật hơn ai hết ở cơ sở các cộng
đồng dân cư. Vì vậy họ có vai trò "kép" vừa là chủ thể vừa là đối tượng của GDPL.
- Hiện nay tại Đăk Lăk có: 655 già làng và 627 trưởng bản. Già làng do dân bầu
chọn, suy tôn, trưởng bản (thôn) do bổ nhiệm.
Tại tỉnh Đăk Lăk đã mở nhiều lớp tập huấn về kiến thức pháp luật cho Già làng,
trưởng bản.
Đối tượng GDPL chủ yếu được đề cập ở đây là nhân dân các dân tộc ít người ở
tỉnh Đăk Lăk.

1.1.4. Nội dung hình thức phương pháp giáo dục pháp luật
Nội dung GDPL:
Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ nội
dung GDPL là gì, mức độ như thế nào cho từng loại đối tượng là vấn đề cốt lõi quyết
định hiệu quả của GDPL. Hay nói cách khác trên cơ sở mục đích và đối tượng mà xác
định một nội dung GDPL thiết thực để có hiệu quả cao.
Nội dung GDPL nói chung là một phạm vi rộng bao gồm kiến thức pháp luật cơ
bản như lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật, các văn bản pháp luật thực định.
Ngoài ra nội dung của GDPL còn bao hàm các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về
việc điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, cả về nghiên cứu điều tra xã hội
học pháp luật. Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như thực
hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, các quy định và thủ tục để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước và xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân.
Đối với nhân dân các dân tộc ít người ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung và ở
tỉnh Đăk Lăk nói riêng theo chúng tôi nội dung GDPL cụ thể là:
- Nghĩa vụ công dân trong việc tham gia đóng góp xây dựng pháp luật của Nhà
nước, quy chế dân chủ ở cơ sở.

- Nghĩa vụ công dân trong việc cùng với toàn dân đấu tranh phòng và chống các
vi phạm pháp luật để pháp luật được thực hiện công bằng.
- Nghĩa vụ công dân trong việc thực hiện nghiêm chỉnh triệt để và đúng đắn
pháp luật của Nhà nước cũng như các quy tắc sinh hoạt trong cộng đồng dân cư.
- Giáo dục về quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và trình tự tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích đó khi có tranh chấp.
- Phổ biến, giải thích các văn bản pháp luật hiện hành cho nhân dân một cách kịp
thời, đặc biệt là những văn bản liên quan trực tiếp thiết thân đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ
pháp lý của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như đã đề cập ở trên, việc xác định nội dung giáo dục phải dựa trên nhu cầu,
điều kiện, đặc điểm của đối tượng được giáo dục mới có hiệu quả. Trên phương diện lý

luận nói chung của GDPL do chủ thể GDPL quyết định. Nội dung ấy phát sinh từ nhu
cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, từ yêu cầu của việc thực hiện các nhiệm vụ, mục
tiêu chính trị, kinh tế xã hội, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trên thực tế,
nội dung của GDPL phù hợp hay không phù hợp còn phải căn cứ vào thực trạng ý thức
pháp luật của người dân, vào điều kiện, khả năng tiếp thu của họ để xác định nội dung
giáo dục từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, cộng nhiều nội dung nhỏ để thực
hiện nội dung phong phú đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực pháp luật hơn.
Đối với đồng bào các dân tộc ít người ở Đăk Lăk, ngoài những nội dung GDPL
nêu trên cần hướng dẫn nhân dân thực hiện các tập quán sinh hoạt tốt đẹp, các luật tục
còn phù hợp với pháp luật Nhà nước. Đồng thời chỉ ra cho nhân dân thấy được những
hủ tục lạc hậu, những luật tục trái với lợi ích cộng đồng và trái với pháp luật của Nhà
nước trong điều kiện đổi mới hiện nay.
Hình thức, phương pháp GDPL.
Đối tượng GDPL tiếp nhận được tri thức pháp luật và làm biến đổi về chất
trong nhận thức của họ thì bản thân mục đích và nội dung của GDPL không thể tự nó
đi vào nhận thức. Vấn đề là ở chỗ cần phải thông qua các phương thức truyền tải
thông tin, các hình thức giao tiếp giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục bằng
những hình thức và phương pháp khác nhau.

Nếu chủ thế giáo dục biết lựa chọn các hình thác và phương pháp nào phù hợp
với đối tượng thì giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu hình thức và phương pháp
không phù hợp thì hiệu quả sẽ thấp. Giữa hình thức, phương pháp và nội dung của
GDPL cũng có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hình thức và phương pháp, nó có tác
động làm cho việc truyền tải nội dung thấm sâu vào nhận thức của đối tượng và nội
dung đến lượt nó càng trở nên hoàn thiện hơn, thông qua việc truyền tải thông tin để bổ
sung chương trình nội dung GDPL.
Hiện nay có một số tác giả quan niệm về hình thức GDPL khác nhau, nhưng
chúng tôi đồng ý quan niệm rằng: "Hình thức giáo dục pháp luật là các dạng hoạt động
cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật" [20, tr. 75] với quan niệm này có thể
chia hình thức GDPL thành hai loại:

- Các hình thức GDPL mang tính phổ biến, truyền thống được sử dụng trong
nhiều loại hình thức giáo dục như: dạy và học pháp luật trong các nhà trường, qua các
phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, tác phẩm văn học nghệ thuật, câu lạc bộ pháp
lý, thi tìm hiểu pháp luật, nói chuyện pháp luật ở các cơ quan Nhà nước, Tổ chức quần
chúng, khu dân cư, hội thảo khoa học pháp lý.
- Các hình thức mang tính đặc thù của GDPL. Tính đặc thù này thể hiện trong
mối quan hệ tác động giữa GDPL là ý thức và hành vi của công dân.
Nội dung này bao gồm định hướng GDPL trong các hoạt động lập pháp, hành
pháp, tư pháp của các cơ quan Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành,
GDPL thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tổ hòa giải, dịch vụ tư
vấn pháp luật.
Về phương pháp GDPL: có thể nói rằng trong khoa học pháp lý chưa có một
định nghĩa nào về phương pháp GDPL. Tuy nhiên theo khoa học sư phạm thì phương
pháp giảng dạy là các con đường, cách thức, biện pháp tác động để chiếm lĩnh nội dung
giảng dạy và đạt được mục đích giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy pháp luật là cách thức, biện pháp được chủ thể sử dụng
để truyền đạt nội dung pháp luật tác động đến đối tượng nhằm mục đích nâng cao nhận
thức pháp luật, tình cảm và lòng tin cũng như thói quen xử sự theo pháp luật. Vấn đề đặt

ra là chủ thể GDPL phải có sự lựa chọn phương pháp tốt phù hợp khả năng tiếp nhận
kiến thức của đối tượng. Không thể áp dụng một phương pháp giáo dục cho nhiều đối
tượng khác nhau, chênh lệch tuổi tác và trình độ nhận thức. Điều đó sẽ phản khoa học,
phản tác dụng của GDPL.
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục khác
GDPL có những đặc điểm riêng khác biệt với các dạng giáo dục khác như giáo
dục chính trị, giáo dục đạo đức, giáo dục lao động v.v nhưng giữa chúng có mối quan
hệ mật thiết và hỗ trợ cho nhau. GDPL được xem như là một dạng giáo dục trong hệ
thống giáo dục nhằm hình thành ý thức công dân. Vì vậy, GDPL phải được đặt trong
mối quan hệ với hệ thống giáo dục nói chung. Nghiên cứu các mối quan hệ hệ thống với
các dạng giáo dục gần gũi với nó như giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức và

giáo dục đào tạo các ngành khoa học khác giúp chúng ta tìm ra những nét đặc thù cũng
như những nét chung, tiếp cận những sự tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Vì
thế GDPL khi đặt trong tổng thể hệ thống giáo dục nó có mối quan hệ mật thiết với các
dạng giáo dục khác.
1.5.1.1. GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng
Chính trị tư tưởng là một lĩnh vực thuộc phạm trù ý thức, trong đó lập trường
giai cấp, đường lối cách mạng của Đảng cầm quyền là đường lối chính trị, là bản chất
của giai cấp. Pháp luật là sự cụ thể hóa, thể chế hóa tư tưởng đường lối của Đảng cầm
quyền. Vì vậy khi GDPL cũng hình thành nên ở đối tượng lập trường giai cấp và ý thức
chính trị.
ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội". Đường lối chính sách của Đảng là "linh hồn" của pháp luật. Đường lối nghị quyết
của Đảng được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng pháp luật. Đã có thời gian dài trước đây,
giáo dục chính trị được coi là nhiệm vụ hàng đầu, là chủ yếu nên dẫn đến việc xem nhẹ
GDPL. Cần phải xác định rằng giáo dục chính trị tư tưởng khác với GDPL. Song giữa
chúng có quan hệ mật thiết với nhau.
Trong giáo dục chính trị tư tưởng có chứa đựng, đan xen nhất định trong nội
dung của mình những hiện tượng của pháp luật, cũng có những quan hệ tích cực đối với

những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích được điều chỉnh bằng pháp luật. Mối
quan hệ mật thiết qua lại giữa GDPL và giáo dục chính trị tư tưởng đòi hỏi các chủ thể
giáo dục phải biết kết hợp tiến hành đồng thời GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng.
1.5.1.2. Mối quan hệ giữa GDPL và giáo dục đạo đức
Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những quy định
pháp luật là phù hợp với đạo đức và có nhiều quy phạm đạo đức được Nhà nước thừa
nhận trở thành quy tắc xử sự bắt buộc như quy phạm pháp luật bởi nó thể hiện giá trị
chung phổ biến của xã hội.
Do vậy giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để hình thành ở công
dân sự tôn trọng đối với pháp luật. Ngược lại GDPL tạo khả năng thiết lập trên thực tế
những nguyên tắc đạo đức mới. Các quy phạm pháp luật và quy tắc đạo đức đều là quy

tắc điều chỉnh hành vi xử sự của con người, loại quy phạm này có những điểm chung
nhất tác động lên con người. Những điểm chung nhất đó là:
+ Hình thành nên lòng tin và sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ bản
của đạo đức.
+ Mang lại niềm tin vào giá trị xã hội của pháp luật.
+ Tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các tiêu chuẩn đạo
đức và pháp luật.
Đồng thời thông qua GDPL - con đường hình thành ý thức pháp luật của công
dân; nhờ đó các quy tắc đạo đức của giai cấp bóc lột và các tập quán hủ tục lạc hậu sẽ bị
xã hội loại trừ và đi đến xóa bỏ.
Do mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức chặt chẽ như vậy và sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa chúng, đòi hỏi cần chú trọng đến sự tác động của giáo dục đạo đức và
GDPL. Trong hoạt động thực tiễn các cơ quan Đảng và Nhà nước phải sử dụng đồng bộ
các biện pháp, các hình thức của cả hai dạng giáo dục nhằm bổ sung cho nhau, tác động
lẫn nhau với mục đích chung là tạo nên thói quen trong xử sự bằng những hành vi hợp
pháp, phù hợp với đạo đức xã hội.
1.5.1.3. GDPL và giáo dục đào tạo các ngành khoa học khác
- Đào tạo pháp luật: Đào tạo pháp luật là một quá trình giáo dục kiến thức lý

luận khoa học pháp lý cơ bản và kiến thức pháp luật thực định nhằm cung cấp cho đối
tượng giáo dục những tri thức pháp luật. Đào tạo pháp luật được tiến hành theo chương
trình kế hoạch và thời gian nhất định. Quá trình đào tạo cũng là quá trình GDPL.
Theo chúng tôi không nên tách biệt hoàn toàn khái niệm GDPL và đào tạo
pháp luật nhưng rõ ràng khái niệm GDPL rộng hơn đào tạo pháp luật làm rõ mối quan
hệ này có ý nghĩa là trong thực tế khi tiến hành GDPL có thể vận dụng nhiều hình
thức, phương pháp để truyền tải thông tin pháp lý đến đối tượng giáo dục vì đối tượng
GDPL phong phú hơn, đa dạng hơn đào tạo pháp luật.
- Các ngành khoa học tự nhiên có đặc thù của nó là nghiên cứu khoa học trong
lĩnh vực tự nhiên như toán học, hóa học, vật lý học tuy nhiên khi GDPL cần phải sử

dụng đến kiến thức của khoa học tự nhiên để luận giải cho một quy định nào đó của
pháp luật. chẳng hạn quy định về điều kiện kết hôn giữa nam và nữ thì phải luận giải
được vì sao ở độ tuổi đối với nữ phải đủ 18 tuổi trở lên, nam đủ 20 tuổi trở lên mới
được kết hôn, hoặc tiêu chuẩn y học Việt Nam đã đưa ra những quy định của pháp luật
loại quy phạm kỹ thuật (chuyên môn nghiệp vụ) là một bộ phận trong hệ thống pháp
luật, được pháp luật thừa nhận, không có kiến thức về các ngành khoa học tự nhiên thì
các nhà làm luật không thể tạo ra được pháp luật chặt chẽ và khả thi, dẫn đến việc thực
hiện pháp luật không thống nhất.
- Khoa học xã hội là các ngành khoa học nghiên cứu về xã hội về con người và
tổ chức của con người trong xã hội. Vì thế GDPL nó có quan hệ gắn chặt với giáo dục
các môn của khoa học xã hội. Những cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy phạm
pháp luật điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội và biện pháp phòng ngừa đối
với xã hội đều cần đến tri thức của khoa học xã hội.
Từ sự phân tích các mối quan hệ GDPL với các ngành khoa học khác cho thấy
GDPL có liên quan mật thiết với đào tạo pháp luật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.
Cho nên chủ thể của GDPL phải nghiên cứu tìm hiểu để có kiến thức sâu rộng khi luận
giải một quy định nào đó của pháp luật có như vậy thì khả năng giảng dạy, truyền thụ
mới sâu sắc, mới hấp dẫn và có cơ sở khoa học. Đó cũng có nghĩa là tránh tình trạng nói
suông, giáo điều không tạo được niềm tin vào pháp luật một cách sâu sắc và nhanh nhất.

1.2. Quan điểm của Đảng và cơ sở pháp lý về giáo dục pháp luật cho nhân
dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk
1.2.1. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh
miền núi Đăk Lăk
Giáo dục là "quốc sách hàng đầu" là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Nhà nước "thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục; thống nhất quản lý
hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình nội dung kế hoạch giáo dục".
GDPL là một nội dung chương trình và kế hoạch của sự nghiệp giáo dục nói chung ở
nước ta. Nền giáo dục nước ta là thống nhất, không có nền giáo dục cho từng tỉnh hoặc
thành phố và vì vậy GDPL không có "con đường" đi riêng cho mỗi tỉnh thành. Giáo dục

nói chung và GDPL nói riêng ở từng vùng miền, địa phương không nằm ngoài cái
"chung" đó, song thực tế thực hiện giáo dục chỉ ra tính phong phú đa dạng của công tác
quan trọng này. Để công tác giáo dục được thực hiện có hiệu quả cần xác định đặc điểm
của GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh miền núi, biên giới Đăk Lăk. Tuy
nhiên phải xác định Đăk Lăk chỉ là một trong các tỉnh thuộc miền núi, vùng có nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống ở nước ta.
Đặc điểm thứ nhất: Đối tượng GDPL là nhân dân các dân tộc ít người sinh
sống trong tỉnh Đăk Lăk.
Đối tượng của GDPL là nhân dân. GDPL cho nhân dân là chủ yếu chứ không
phải là GDPL cho CBCC. Nhân dân ở đây là những người đủ 6 tuổi trở lên, có hộ khẩu
tạm trú hoặc thường trú ở tỉnh Đăk Lăk. Họ là học sinh, họ là nông dân, công nhân, là
người lao động khác ở các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội trong phạm vi một tỉnh.
Đây là đối tượng có tính "phổ biến" trong đó có GDPL cho các học sinh trong nhà
trường từ cấp tiểu học đến phổ thông trung học. Đặc điểm này khác với GDPL nói
chung, khác với GDPL trong nhà trường, khác với GDPL trong các trường cao đẳng,
đại học và dạy nghề, GDPL cho CBCC hoặc GDPL cho công nhân.
Cơ cấu của đối tượng là nhân dân các dân tộc ít người (thiểu số). Trong tỉnh
Đăk Lăk có 43 dân tộc cùng sinh sống. Trong khi cả nước có 54 dân tộc anh em. Dân
tộc thiểu số chiếm 34% của 1.761.830 người dân. Các dân tộc thiểu số ở đây là: các dân

tộc "bản địa" như Êđê, M’nông và nhiều dân tộc ít người di cư từ ngoài bắc vào như
Tày, Nùng, Dao, Thái Vì vậy đặc điểm tâm lý dân tộc bản sắc từng dân tộc, hoàn toàn
khác nhau. Trình độ học vấn nói chung của đa số các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk là
thấp.
Đa số nhân dân các dân tộc ít người đều không biết tiếng nói và chữ viết của
người Kinh, đây là hạn chế lớn nhất khi tiếp thu những tri thức về pháp luật.
Tâm lý dân tộc ít người thường hay tự ti, bảo thủ, gồm cả tư tưởng cục bộ dân
tộc, địa phương chủ nghĩa, các cộng đồng, các cụm dân cư, các dòng họ có phong tục
tập quán riêng biệt. Nhân dân các dân tộc ít người vẫn còn sử dụng hệ thống luật tục.
Luật tục vừa mang tính dân tộc vừa mang tính khu vực. Luật tục có ảnh hưởng mạnh

×