Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

LUẬN VĂN: Đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.47 KB, 73 trang )






LUẬN VĂN:

Đào tạo thẩm phán của Học viên Tư
pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay









MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi thành lập cho đến nay công tác đào tạo các chức danh tư pháp nói chung
và công tác đào tạo chức danh Thẩm phán nói riêng của Học viện Tư pháp đã có những
bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Học viên Tư pháp đã không ngừng
nâng cao trình độ của các giảng viên, hoàn thiện chương trình, đổi mới phương pháp, tăng
cường cơ sở vất chất…để đào tạo và cung cấp cho ngành tòa án những cán bộ có trình độ
chuyên môn, có năng lực trong hoạt động xét xử. Tuy vậy, trong quá trình nước ta hội
nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, với chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhiều vấn đề, nhiều yêu cầu mới đang được đặt ra
trước mắt cũng như lâu dài. Trong quá trình hoạt động của mình các Thẩm phán được đào


tạo trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành công nhưng khi đối mặt với những đòi hỏi
của quá trình cải cách tư pháp hiện nay thì đội ngũ thẩm phán của chúng ta chưa đáp ứng
được. Tình trạng xét xử oan, sai tuy không nhiều nhưng vẫn còn, nhiều vấn đề liên quan
đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội
phạm hình sự xuyên quốc gia, hầu như còn mới lạ, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học
vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với nhiều thẩm phán
đã được đào tạo còn hạn chế. Điều đó cho thấy đội ngũ thẩm phán đã được đào tạo chưa
đủ năng lực để đối mặt với những thách thức mới. Trong bối cảnh đó, việc đào tạo được
một đội ngũ thẩm phán có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết
tốt những yêu cầu xét xử của ngành tòa án do công cuộc cải cách tư pháp đặt ra trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu vô cùng bức xúc. Đội ngũ thẩm phán có trình
độ, năng lực phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp phải là những người có kiến thức về
chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, có kỹ năng nghề nghiệp và
kiến thức thực tiễn, làm chủ các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có phẩm chất đạo đức trong
sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ chức danh tư pháp nói chung và đội ngũ


thẩm phán nói riêng. Đồng thời đặt ra mục tiêu phải đào tạo: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách
nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên
môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thi tuyển
đối với một số chức danh” [2].
Công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay đòi hỏi Học viên Tư pháp phải
đào tạo một đội ngũ thẩm phán có trình độ, năng lực đủ khả năng xét xử các vụ án và giải
quyết các vấn đề quan trọng khác của ngành tòa án trong thời gian trước mắt cũng như lâu
dài. Tuy vậy việc đào tạo đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu của công cuộc cuộc cách tư
pháp hiện nay ở nước ta không đơn giản. Cần phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về phẩm
chất và năng lực của đội ngũ thẩm phán, xác định các tiêu chí theo yêu cầu của cải cách tư

pháp, cũng như cách thức để đạt được các tiêu chí đó. Việc này đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm
hiểu cả về lý luận và thực tiễn. Nhất là nghiên cứu quy trình đào tạo thẩm phán của Học
viên Tư pháp, tìm ra cách thức khắc phục những khiếm khuyết của quy trình đó. Dựa vào
các tiêu chí, đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đào tạo đội ngũ thẩm phán
đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Trên quan điểm
quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp quyền về cải cách hệ thống cơ quan tư
pháp, quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống giáo
dục. Những vấn đề trên đã đặt ra yêu cầu nghiên cứu đề tài: “Đào tạo thẩm phán của Học
viên Tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ lâu công tác đào tạo thẩm phán đã được quan tâm và coi trọng nhằm đảm bảo
xây dựng được một đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có
phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Đào tạo thẩm phán đã được nghiên cứu trong
đào tạo các chức danh tư pháp nói chung của Bộ Tư pháp, Học viện Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao và một số nhà khoa học khác, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như sau:
* Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Trường:
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:


- Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, (2004)
- Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng môn đạo đức nghề nghiệp tư pháp cho các
chức danh tư pháp, (2004).
- Đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của
Việt Nam, (2006).
- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương,
(2007).
- Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng tập hệ thống hóa các vụ án điển hình dùng làm
tài liệu cho công tác đào tạo các chức danh tư pháp, (2008).
- Hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp, (2009).

+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường:
- Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
(2004).
- Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp, (2006).
* Đề án xây dựng Học viên Tư pháp ngày 11/8/2003
- Luận án Tiến sĩ Luật học: Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán
của NCS Đỗ Gia Thư, năm 2006
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay TS Trần Đình Thắng – NXBCTQG, năm 2009.
Nội dung nghiên cứu của các công trình trên đây đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn quan trọng về đào tạo các các chức danh tư pháp nhưng chưa luận chứng
một cách toàn diện cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất phương hướng giải pháp về đào tạo
thẩm phán - Một chức danh đặc thù, có vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay. Mặc dù vậy các công trình khoa học đã được công bố trên sẽ là
những tài liệu có giá trị nghiên cứu khi viết luận văn này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp
theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Mục đích và nhiêm vụ nghiên cứu


Đề tài đặt ra mục đích xác định một số nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến tình trạng
hạn chế trong công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp, trên cơ sở đó phát hiện,
tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng hiệu quả của công tác đào tạo thẩm phán của
Học viên Tư pháp theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài đã đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như
sau:
- Phân tích cơ sở lý luận và đánh giá vai trò công tác đào tạo thẩm phán của Học
viên Tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp, qua đó

chỉ ra những hạn chế bất cập cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân của những của
hạn chế đó.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp
theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước về đào tạo
chức danh tư pháp trong đó có đào tạo thẩm phán, về cải cách tư pháp
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lê nin, trong đó các phương pháp sử dụng chủ yếu là: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn …Tuy nhiên do tính chất của từng chương, từng
phần của luận văn mà có thể sử dụng một trong các phương pháp trên làm chủ đạo.
Trong chương 1, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích tổng hợp;
chương 2 và chương 3, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp kết hợp lý luận và
thực tiễn, phương pháp thống kê, so sánh…
6. Những điểm mới của luận văn
- Góp phần hệ thống hoá các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo thẩm phán.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo thẩm phán ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.


- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thẩm phán theo yêu cầu
công cuộc cải cách tư pháp, ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài tham khảo và phụ lục, luận văn được kết
cấu gồm 3 chương, 10 tiết.

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo thẩm
phán 6
1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với công tác đào tạo thẩm phán ở
nước ta hiện nay 24
1.3. Đào tạo thẩm phán ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm 30
Chương 2: TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN VÀ THỰC TRẠNG
ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP
GIAI ĐOẠN 1998-2008
38
2.1. Tình hình số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán hiện nay 38
2.2. Thực trạng đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 41
2.3. Kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào
tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 46
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU CÁI CÁCH
TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
58
3.1. Quan điểm đổi mới công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 58


theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
3.2. Giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo thẩm phán
của Học viện Tư pháp ở Việt Nam hiện nay 62
KẾT LUẬN
77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
79
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang
Bảng 2.1: Về số lượng thẩm phán tham gia giảng dạy các lớp đào tạo
nghiệp vụ xét xử 45
Bảng 2.2: Về học hàm, học vị của giảng viên 46
Bảng 2.3: Về tỷ lệ giảng dạy 46
Bảng 2.4: Thống kê số lượng đào tạo thẩm phán từ 2004-2008 48

Biểu đồ 2.1: Đào tạo thẩm phán 1998-2008 47




Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP
ĐÀO TẠO THẨM PHÁN
1.1.1. Khái niệm đào tạo và đào tạo thẩm phán
1.1.1.1. Khái niệm đào tạo
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học “Giáo dục là
hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra [34, tr.739].
Từ định nghĩa giáo dục trên cho thấy về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp
thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Về hoạt động, giáo dục là quá

trình tác động đến đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất, nhân cách. Khác
với giáo dục, Đào tạo là “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất
định” [34, tr.298]. Đào tạo được xem là quá trình tác động đến con người làm cho người đó
lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hệ thống, nhằm chuẩn bị
cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất
định. Như vậy khái niệm “đào tạo có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào tạo đề
cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ
nhất định” [35].
Đào tạo được xác định như là quá trình làm biến đổi hành vi con người một cách có
hệ thống, thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục,
hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch.
Ủy ban nhân lực Anh đã đưa ra định nghĩa: Đào tạo được xác định là một quá trình
có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện
để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó.


Mục đích của nó, xét theo tình hình công tác ở cơ quan là phát triển nâng cao năng lực cá
nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan [28, tr.529].
Từ phân tích các quan niệm khác nhau về đào tạo trên cho thấy, đào tạo có các đặc
điểm sau:
- Đào tạo là một quá trình học tập có hệ thống, được tổ chức theo một quy trình cụ
thể, với những bước đi thích hợp, có nội dung chương trình và yêu cầu đặt ra đối với giảng
viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài
kiểm tra, thi tốt nghiệp
- Các yếu tố của quá trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể
thống nhất. Tạo nên một sự biến đổi về chất sau quá trình học tập của người học. Giúp
cho người học không những nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu đặt ra
mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng để tiếp tục tiếp thu, vận
dụng những kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại. Hay nói một
cách cụ thể đào tạo nhằm các mục tiêu sau: phát triển năng lực và nâng cao khả năng

làm việc thực tế của người được đào tạo; giúp cho họ luôn phát triển để họ có thể đáp
ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức; giảm thời gian học tập, làm
quen với công việc mới, do thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho
họ có đầy đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm.
1.1.1.2. Khái niệm đào tạo Thẩm phán
Ở Việt Nam thẩm phán là ngạch công chức thuộc cơ quan tòa án, đồng thời thẩm
phán cũng là một Chức danh nhà nước, trong hệ thống cơ quan tư pháp. Theo từ điển
tiếng việt Chức danh của cán bộ công chức là tên gọi thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nhiệm
vụ, của mỗi công chức. Trong khoa học pháp lý thường sử dụng thuật ngữ chức danh tư
pháp để chỉ những người có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tố tụng. Theo đó “chức
danh tư pháp” là “tên gọi thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, chức năng đặc thù công
việc của những người thường xuyên và trực tiếp tiến hành hoạt động tư pháp” [22, tr.18].
Thẩm phán là chức danh tư pháp thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, quyền hạn nhiệm
vụ trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp. Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm
nhân dân 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp


luật để thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền Tòa án”. Như vậy khái niệm thẩm phán “dùng để chỉ những người làm công việc
xét xử chuyên nghiệp, được tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ, làm việc thường
xuyên trong cơ quan tòa án, thực hiện nhiệm vụ xét xử nhân danh nhà nước” [22, tr.22].
Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật. Các Mác đã khẳng định:
Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp. Thẩm
phán có trách nhiệm giải thích luật pháp trong việc vận dụng vào từng trường
hợp cá biệt, đúng như ông ta hiểu luật pháp khi xem xét nó một cách có lương
tri…Thẩm phán độc lập không thuộc về tôi cũng không thuộc về chính phủ.
Thẩm phán xem xét hành động của tôi, trên cơ sở một đạo luật nhất định [17,
tr.137].
Áp dụng pháp luật là hoạt động phức tạp, ở đây không phải là cứng nhắc mà là một
quá trình tư duy sáng tạo, phải huy động tổng thể những hiểu biết cả về pháp luật và những

hiểu biết tổng hợp về xã hội, con người để đưa ra phán quyết hợp với lẽ phải, sự công
bằng. Xuất phát từ tính chất khó khăn phức tạp và yêu cầu đạt đến độ chính xác cao của
hoạt động xét xử, pháp luật quy định “khi tiến hành xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [19, tr.9]. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của
thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, không bị tác động từ bên ngoài,
không bị tình cảm cá nhân và quyền lợi riêng tư ảnh hưởng đến việc xét xử. Thẩm phán
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Các phán quyết của
thẩm phán thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể, phản ánh trực
tiếp và sâu sắc bản chất của pháp luật, bản chất nhà nước. Ở đó con người tìm thấy lẽ công
bằng, tính nhân đạo, pháp luật vì con người, cho con người, đề cao quyền con người trở
thành hiện thực. Qua đó cho thấy hoạt động xét xử của thẩm phán có vai trò rất lớn. Trước
hết sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương của xã hội, sự tự
do và an toàn của con người…Việc xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người,
đúng tội, không những có tác dụng trừng trị, giáo dục cải tạo các phần tử phạm tội mà còn
góp phần ngăn chặn phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đối với nhà nước và xã hội.


Với vai trò là người trực tiếp áp dụng pháp luật, là nhân tố quyết định đến chất lượng,
hiệu quả hoạt động xét xử của ngành tòa án, do vậy một người để được bổ nhiệm vào chức
danh thẩm phán trước tiên phải có đủ tiêu chuẩn cán bộ công chức. Tiêu chuẩn cán bộ
công chức là những quy định làm căn cứ tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công
chức. Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin thì tiêu chuẩn của người cán bộ phải
hội tụ của hai yếu tố phẩm chất đạo đức và tri thức năng lực hoặc như Hồ Chủ Tịch thường
nói ngắn gọn “có đức có tài”. Ngoài ra người đó phải có các tiêu chuẩn về chuyên môn
nghiệp vụ đáp ứng với chức danh khi tuyển dụng. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm thẩm phán
là:
Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức, liêm khiết và trung thực, có
tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật
và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo

quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo đảm
hoàn thành nhiệm vụ được giao [24, tr.49].
Từ việc phân tích khái niệm thẩm phán và quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm
phán như trên, đã phản ánh mục đích của việc đào tạo thẩm phán. Đào tạo thẩm phán,
là một mô hình đào tạo mới ở Việt Nam. Đây có thể được xem là mô hình đào nghề
đặc thù – nghề luật. Một nghề đòi hỏi người đó phải có trình độ chuyên môn pháp lý
cao, có kiến thức xã hội sâu rộng, có năng lực xét xử, có đạo đức trong sáng, có lập
trường chính trị và bản lĩnh vững vàng. Với tính chất nghề “là một lĩnh vực hoạt động
lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ
năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những
nhu cầu của xã hội” [35] thì mục tiêu xuyên suốt của đào tạo thẩm phán là một quá
trình trang bị hệ thống và toàn diện kỹ năng nghề nghiệp cơ bản nhất, để học viên hội
đủ các tiêu chuẩn không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà cả về phẩm chất, nhân cách
có thể đảm đương được nhiệm vụ xét xử các vụ án, và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền Tòa án sau khi được bổ nhiệm. Quá trình đó không những phát
triển có hệ thống, có phương pháp, các tri thức khoa học pháp lý, học viên đã được


đào tạo và rèn luyện trước đó, mà còn tạo nền móng để tiếp tục tiếp thu, vận dụng
những kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của công cuộc cải cách tư pháp
ở nước ta hiện nay. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa: đào tạo thẩm phán là một
quá trình trang bị hệ thống và toàn diện kỹ năng nghiệp vụ xét xử và rèn luyện đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nguồn để bổ nhiệm vào chức danh thẩm phán của
ngành tòa án.
Tóm lại: với tư cách là một mô hình đào tạo nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn lực
cho thực tiễn, nên ngoài sự kế thừa các vấn đề cơ bản của quá trình đào tạo chung như:
mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện, đội ngũ giảng viên, thì
trong quá trình đào tạo thẩm phán còn phải cụ thể hóa mục đích chung vào điều kiện riêng
và gắn việc đào tạo của nhà trường phù hợp với đặc điểm của hoạt động xét xử, phục vụ có
hiệu quả cho sự phát triển của ngành tòa án và xã hội.

1.1.2. Đặc điểm của đào tạo thẩm phán
Từ khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau đây về đào tạo thẩm phán.
Thứ nhất: Đào tạo thẩm phán là đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo đội ngũ
cán bộ kế cận để bổ nhiệm thẩm phán, làm nhiệm vụ xét xử. Đó là quá trình nâng cao
trình độ, phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp cho người được đào tạo. Theo đó đối
tượng đào tạo thẩm phán phải là công chức của hệ thống cơ quan tòa án nhân các cấp
đã tốt nghiệp cử nhân luật, có thâm niên công tác từ ba năm trở lên và có khả năng đảm
đương được công việc xét xử của thẩm phán, sẽ được bổ nhiệm sau quá trình đào tạo.
Từ các tiêu chuẩn nêu trên của đối tượng đào tạo thẩm phán, cho thấy đối tượng đào tạo
thẩm phán hiện nay chỉ bó hẹp là những công chức đang đảm nhận nhiệm vụ như thư
kí, thẩm tra viên, chuyên viên…trong các bộ phận của hệ thống tòa án nhân dân các
cấp, ở các địa bàn từ đồng bằng, đô thị đến nông thôn miền núi hải đảo. Do bị bó hẹp
về tiêu chuẩn chỉ là công chức của ngành tòa án và do vị trí công tác có yêu cầu chuyên
môn và nhiệm vụ, thuộc các địa bàn hành chính khác nhau nên về trình độ, năng lực, độ
tuổi của đội ngũ công chức đào tạo nguồn để bổ nhiệm thẩm phán không đồng đều…


Đây là đặc điểm của đối tượng đào tạo thẩm phán một trong những yếu tố giữ vai trò
trung tâm để các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xây dựng kế hoạch, xác định mục
tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo cho phù hợp,
Thứ hai: Đào tạo thẩm phán để thực hiện chuyên môn hóa, chuẩn xác, chức năng xét
xử nên nội dung, chương trình đào tạo luôn gắn với đặc trưng cơ bản của nghề nghiệp như
tính chuyên nghiệp, kinh nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp và nhu cầu phát triển của xã
hội. Đặc biệt phải xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập, hợp
tác quốc tế trong hoạt động tư pháp. Đặc điểm này thể hiện tính mục đích rõ nét của đào
tạo đồng thời đặt ra yêu cầu nội dung, chương trình của đào tạo thẩm phán không chỉ trang
bị và cập nhật đầy đủ những kiến thức mới về pháp lý, chính trị, kinh tế, xã hội mà cần đặc
biệt chú trọng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp vụ xét xử, tăng cường thực hành tác
nghiệp, nâng cao nhận thức và trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho học viên trong quá trình
đào tạo. Nội dung đào tạo thẩm phán có các đặc thù sau:

Mang tính nghề nghiệp cụ thể: không chỉ cung cấp các kiến thức kỹ năng về nghiệp
vụ xét xử mà còn bao gồm các kiến thức, pháp luật chuyên ngành, đạo đức nghề nghiệp
bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao
Mang tính toàn diện: Cơ cấu hợp lý giữa lý luận và thực tiễn, gắn lý thuyết và thực
hành, giữa bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với nâng cao nhận thức trách nhiệm
đạo đức nghề nghiệp, kiến thức bổ trợ về tin học và kiến thức pháp luật chuyên ngành, hội
nhập kinh tế quốc tế
Cơ cấu chương trình và bố trí thời lượng phù hợp với đối tượng và từng nội dung đào
tạo để đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả của việc đào tạo, phù hợp với yêu cầu người học là
những người đang đảm nhận công tác chỉ có thể tham gia một thời gian nhất định cho việc
học tập nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức.
Tóm lại nội dung chương trình đào tạo thẩm phán theo hướng đào tạo nghề, đảm
bảo người học sau khi tốt nghiệp khóa học có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ xét xử của
người thẩm phán, đạt mục tiêu của đào tạo đã được xác định.
Thứ ba: Trong đào tạo chức danh tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng,
xuất phát từ yêu cầu của công tác tư pháp đặc biệt là công tác xét xử luôn đòi hỏi công


chức phải tuân theo trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và sự chủ động sáng tạo
trong việc triển khai nhiệm vụ, áp dụng chính xác pháp luật vào thực tiễn sinh động. Do đó
phương pháp đào tạo thẩm phán là những những phương pháp đào tạo hiện đại, rèn luyện,
tạo được sự chủ động cho người học không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn có khả năng áp
dụng kiến thức và nâng cao năng lực tư duy đánh giá độc lập trong công vụ đặc biệt là
giải quyết các tình huống cụ thể. Các phương pháp đào tạo được ưu tiên lựa chọn trong
đào tạo thẩm phán là phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm. Đặc
điểm này một mặt phản ánh tính đặc thù của đối tượng đào tạo thẩm phán là những cử
nhân luật đã được trang bị đầy đủ hệ thống tri thức cơ bản, cơ sở và chuyên ngành. Được
tuyển dụng công chức theo ngạch công chức của hệ thống cơ quan tòa án, có thời gian
trải nghiệm qua thực tiễn công tác. Mặt khác phản ánh yêu cầu của mục đích, nội dung,
cũng như tính chất phong phú phức tạp của quá trình đào tạo thẩm phán là đào tạo nghề

trong đó coi trọng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp vụ xét xử, tăng cường thực hành
tác nghiệp, nên đòi hỏi trong quá trình đào tạo, đội ngũ giảng viên phải có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn nghề nghiệp và đồng thời phải vận dụng các hình thức, phương pháp
đào tạo linh hoạt nhằm phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của học viên, gắn
“học đi đôi với hành” gắn phương pháp đào tạo với các thiết bị và phương tiện dạy học
hiện đại, để truyền tải nội dung đào tạo đến đối tượng đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đã
đề ra.
Thứ tư: Ở nước ta kể từ năm 1998 đến nay đào tạo thẩm phán được nhà nước xác
định chủ thể đào tạo là Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Điều 2 của Quyết
định 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Học viện
Tư pháp, chỉ rõ: “Học viên Tư pháp là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc
Bộ Tư pháp, hoạt động theo Điều lệ Trường Đại học”. Cũng tại Điều 5 của Quyết định
số 23/2004/QĐ-TTg nêu rõ trách nhiệm phối hợp của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp trong công tác quy hoạch sử dụng cán bộ chức
danh tư pháp, để xác định nhu cầu đào tạo hàng năm, làm cơ sở cho Học viên Tư pháp
xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp nhu cầu sử dụng của ngành. Với địa vị pháp lý là
đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt


động tư pháp nên hoạt động đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp đã được gắn kết,
thống nhất trong công tác quản lý đào tạo, điều phối, xây dựng chiến lược phát triển
chung, toàn diện lâu dài cho cả hệ thống tư pháp. Đào tạo cán bộ tư pháp không còn là
công việc riêng của từng ngành mà là công việc của toàn hệ thống. Đây là bước hiện
thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ ngành tư pháp, thể hiện một bước chuyển biến mới trong thực tiến đào tạo cán
bộ tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng ở Việt Nam.
Tóm lại: với tư cách là một mô hình đào tạo mới, Đào tạo thẩm phán có những đặc
điểm cơ bản của đào tạo nói chung, đồng thời mang những đặc điểm riêng có của mình
như đã phân tích ở trên. Các đặc điểm của đào tạo thẩm phán chúng có mối liên hệ qua lại
với nhau. Từ các đặc điểm của đào tạo thẩm phán sẽ giúp cho các cơ quan quản lý và thực

hiện đào tạo xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo phù hợp.
1.1.3 Nội dung, chương trình đào tạo thẩm phán
Nội dung đào tạo là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải đến cho đối tượng đào
tạo. Nội dung đào tạo thẩm phán quy định hệ thống tri thức pháp lý chuyên nghành; quy
định hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của
thẩm phán.Về nguyên tắc khi xây dựng nội dung đào tạo nói chung, hay nội dung đào tạo
thẩm phán nói riêng đều phải phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, đảm bảo lôgíc
khoa học chặt chẽ, cũng như sự cân đối giữa các môn học, giữa lý thuyết với thực hành, sự
thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục.
Với tính chất đặc thù của đối tượng đào tạo, và mục tiêu của đào tạo nên cấu trúc nội
dung đào tạo thẩm phán gồm: hệ thống tri thức chuyên nghành, hệ thống tri thức có liên
quan trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp. Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo về nghề nghiệp: Kỹ
năng được hiểu “là năng lực tự giác hoàn thành một hoạt động nhất định dựa trên sự hiểu
biết và vận dụng những tri thức tương ứng. Kỹ xảo là năng lực thực hiện một cách tự động
hóa một thao tác hay một công việc nhất định nó thể hiện sự thành thạo trong hoạt động
của con người” [30, tr.36].


Cũng từ tính chất của hoạt động nghề nghiệp mà hệ thống kỹ năng được xác định
gồm các kỹ năng chuyên biệt về nghiệp vụ xét xử như: kỹ năng phân tích và áp dụng pháp
luật, kỹ năng điều khiển phiên tòa, kỹ năng soạn thảo văn bản tố tụng
Hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo: Đó là quá trình làm tăng khả năng độc lập,
mang kiến thức đã biết vào một tình huống mới; phát hiện những vấn đề mới trong tình
huống đã biết, phát hiện cách thức giải quyết tối ưu trong hàng loạt cách thức giải quyết
cho học viên. Gắn chặt hoạt động học tập với thực tế nghề nghiệp, không truyền nghề một
cách máy móc, áp đặt.
Những chuẩn mực về thái độ đối với xã hội và nghề nghiệp: đây là một nội dung đào
tạo đang được đặt ra với yêu cầu trong điều kiện hiện nay trên cơ sở quán triệt quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về: “xây dựng đội ngũ thẩm phán thư ký tòa án, điều tra viên,
kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư có phẩm chất

chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đảm
bảo bộ máy trong sạch vững mạnh” [6, tr.90].
Nội dung của phần này chú trọng, bồi dưỡng rèn luyện những phẩm chất cơ bản nhân
cách của người thẩm phán. Giác ngộ đầy đủ về nghề nghiệp, phấn đấu nắm được nghề
nghiệp ở trình độ ngày càng cao càng sâu, không ngừng cải tiến phương pháp làm việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả.
Chương trình và các môn học: “chương trình đào tạo là bản thiết kế về hoạt động
giảng dạy trong đó phản ánh các yếu tố mục đích, nội dung, phương pháp và kết quả giảng
dạy. Những yếu tố này được cấu trúc theo quy trình chặt chẽ về thời gian biểu” [29,
tr.109]. Một chương trình đào tạo dù ở cấp độ nào chương trình khung hay chương trình
chi tiết chỉ có giá trị pháp lý khi được các cấp quản lý nhà nước về giáo dục có thẩm quyền
phê duyệt. Chương trình đào tạo thẩm phán được xây dựng và phê duyệt tại quyết định số
1269/QĐ-TTg ngày 18/11/2003 của Thủ tướng chính phủ. Theo đó, thời gian đào tạo thẩm
phán là 12 tháng được chia làm ba phần với số đơn vị học trình cụ thể:
Phần 1: chương trình đào tạo chuyên đề
Phần chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ xét xử chiếm 10% tổng số đơn vị học trình,
phần học này giúp học viên có những nhận thức chung về nghề Thẩm phán như: những


khó khăn, thách thức và yêu cầu đặt ra đối với thẩm phán; ý thức trách nhiệm và trau dồi
rèn luyện đạo đức nghề nghiệp; xác định vị trí và mối quan hệ giữa của từng chức danh
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong hoạt động tố tụng; bổ sung và cập nhật các kiến
thức pháp luật cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp; giới thiệu một số vấn đề mang tính
chất bổ trợ cho hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp như các chuyên đề về
văn hoá tư pháp, tâm thần học tư pháp, đánh giá kết quả giám định, nghệ thuật hùng biện.
Phần 2: chương trình đào tạo kỹ năng
Bao gồm các môn học liên quan đến kỹ năng nghiệp vụ xét xử chiếm 60% đây là nội
dung chính và quan trọng nhất của Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử. Mục đích của
phần đào tạo kỹ năng là trang bị cho học viên một cách toàn diện và hệ thống các kỹ năng
nghề nghiệp cơ bản của Thẩm phán để có thể xét xử được tất cả các loại án hình sự, dân

sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động.
Phần 3: chương trình thực tập và thi tốt nghiệp
Phần này chiếm 30% tổng số đơn vị học trình. Địa điểm thực tập sẽ tiến hành tại các
Toà án địa phương. Do đối tượng đào tạo là nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện nên
phần lớn thời gian thực tập sẽ được tiến hành ở Toà án cấp huyện. Các nội dung thực tập
chủ yếu liên quan đến án hình sự, hành chính và dân sự sơ thẩm. Hoạt động thực tập được
thiết kế nhằm tạo môi trường để học viên có điều kiện thực hành trong thực tế những thao
tác nghiệp vụ đã được học tập. Qua đó sẽ giúp cho học viên khái quát hóa các kinh nghiệm
từ thực tiễn nghề nghiêp.
Bằng việc xác định hướng tiếp cận theo sự phát triển trong xây dựng chương trình
đào tạo. Đặt mối quan tâm hàng đầu là phát triển sự hiểu biết ở học viên. Dạy học viên
“cách học” hơn là việc truyền thụ kiến thức đơn thuần. Vì vậy chương trình đào tạo thẩm
phán khi xây dựng đã rất chú ý đến việc đáp ứng tối đa nhu cầu và hứng thú học tập của
học viên. Cũng từ cách tiếp cận này, chương trình đào tạo thẩm phán đã lựa chọn hình thức
thiết kế theo mô đun (Module). Đây là cách thiết kế hiện đại và phổ biến hiện nay, nhất là
trong lĩnh vực đào tạo nghề nghiệp. Thuật ngữ modunle “được dùng để chỉ một đơn vị
kiến thức hoặc một hệ thống kỹ năng vừa tương đối độc lập, vừa có thể kết hợp với kiến
thức hoặc kỹ năng khác tạo thành hệ thống trọn vẹn có quy mô lớn hơn. Những kiến thức


hoặc kỹ năng này thường được thể hiện dưới dạng việc làm của học viên” [29, tr.115].
Chương trình đào tạo thiết kế theo modunle là hệ thống các modunle được kết nối với nhau
theo các hình thức nhất định, Với cách thiết kế này khi hoàn thành các modunle đó, học
viên đạt được mục tiêu học tập của mình.
Trong chương trình đào tạo thẩm phán phần đào tạo kỹ năng tập trung ở ba môn học:
Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự; kỹ năng giải quyết vụ án dân sự; kỹ năng giải quyết vụ
án hành chính. Đây là ba môn học trang bị các tri thức và kỹ năng cần thiết như: kỹ năng thụ
lý, điều tra thu thập chứng cứ nghiên cứu hồ sơ, xét xử phiên tòa sơ thẩm, ra bản án hoặc
quyết định giải quyết vụ án của ba loại án hình sự, dân sư, hành chính. Trong từng môn học có
các bài học: “Bài học là đơn vị cơ bản tạo thành hệ thống môn học” [29, tr.124]. Các bài học

kỹ năng đều được thiết kế: bài lý thuyết trang bị kiến thức pháp luật tố tụng trong một giai
đoạn tố tụng của quá trình giải quyết vụ án. Bài học tình huống thực hành kỹ năng qua hồ
sơ vụ án. Bài học đối thoại - kiểm tra.
Bài học kỹ năng theo module
à
i hòa, Sáng tạo tư duy, Bản lĩnh hiện đại, Định hướng nhân văn, Phát triển chuyên nghiệp!
Giải quyết
tình huống
(Exercice)
Đối thoại
(Discution)
Lý thuyết
(Presentation)
Phát triển tình huống
(Skill development)
Diễn án
(Similuation)
MODULE
BÀI HỌC
KỸ NĂNG
MODULE BÀI HỌC KỸ NĂNG

Tài liệu học tập (học liệu): “là nơi hiện thực hóa, vật chất hóa và là nơi tồn tại của nội
dung dạy học” [29, tr.126]. Tài liệu học tập có nhiều loại, trong chương trình đào tạo thẩm
phán bộ giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự; kỹ năng xét xử dân sự, kỹ năng xét xử vụ


án hành chính, hệ thống hồ sơ các vụ án, các bộ phiếu kỹ thuật, hệ thống ngân hàng đề
kiểm tra thường xuyên, đề thi học phần. Đây là những tài liệu tương ứng với ba bộ môn
học và phục vụ cho một module bài học. Hệ thống tài liệu này có vị trí đặc biệt quan trọng

đối với cả học viên và giảng viên trong quá trình đào tạo thẩm phán, với mục tiêu chỉ cập
nhật kiến lý thuyết cho học viên, nên hồ sơ tình huống là tài liệu học tập quan trọng để học
viên rèn luyện kỹ năng giải quyết các vụ án trong thực tế.
Nội dung, chương trình là phần tri thức và kỹ năng cần truyền thụ cho học viên trong
quá trình đào tạo. Đó là yếu tố trọng tâm của quá trình đào tạo, là sự thể hiện mục tiêu của
nhiêm vụ đào tạo thẩm phán. Có thể nói chất lượng hoạt động nghề nghiệp của học viên
sau quá trình đào tạo được quyết định bởi “dạy cái gì”. Vì vậy, nội dung chương trình đào
tạo luôn là vấn đề đặt ra cho quá trình cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo, là trung tâm
chú ý của những người làm công tác quản lý giáo dục và cả những người đón nhận sản
phẩm của quá trình đào tạo đó.
1.1.4. Hình thức đào tạo thẩm phán
Hiện vẫn có quan điểm đồng nhất khái niệm hình thức đào tạo với khái niệm phương
pháp đào tạo. Tuy nhiên nhìn chung người ta quan niệm rằng hình thức đào tạo được hiểu
là hình thức hoạt động giảng dạy được tổ chức theo trật tự và chế độ nhất định nhằm thực
hiện các nhiệm vụ đào tạo đã quy định. Hình thức đào tạo là cách thức tổ chức tiến hành
đào tạo, có nhiều hình thức đào tạo khác nhau tùy theo mối quan hệ giữa việc dạy học có
tính chất tập thể hay cá nhân, tùy theo phương thức tổ chức điều khiển của giáo viên cũng
như tùy theo địa điểm thời gian học tập. Đào tạo có thể diễn ra dưới hình thức tập trung,
chính quy, tại chức, từ xa. Cũng cần phân biệt giữa hình thức đào tạo với hình thức tổ chức
một khóa học (khóa đào tạo; khóa bồi dưỡng; khóa huấn luyện).
Với cơ sở lý luận về hình thức của đào tạo nói chung, thì hình thức đào tạo thẩm phán
hiện nay là đào tạo tập trung thời gian 12 tháng. Đào tạo tập trung có ưu điểm là quá trình
đào tạo được thực hiện một cách bài bản, tích cực và được chuẩn hóa. Học viên có điều
kiện tập trung mọi khả năng, sức lực và thời gian vào việc học tập không bị phân tán bởi
những công việc khác nên có điều kiện nghiên cứu hồ sơ tình huống, đọc sách, tài liệu, giải


bài tập về nhà, nhớ nhanh, nhớ lâu các kiến thức lý luận và thực tiễn được giảng viên
truyền thụ. Cách thức tổ chức đào tạo thẩm phán như sau:
Hệ thống giờ lên lớp, đây là hình thức đào tạo cơ bản gồm nhiều bài học lý thuyết và tình

huống cụ thể, có quy định rất chặt chẽ về nội dung, kết quả, thời gian địa điểm học, số lượng
học viên tham gia và được tiến hành theo thời khóa biểu nghiêm ngặt. Những bài học trên lớp
kế tiếp nhau một cách hệ thống sẽ giúp cho học viên nắm được hệ thống tri thức và kỹ năng
của môn học.
Hình thức thảo luận: Là hình thức thường xuyên được sử dụng rộng rãi trong đào tạo
nói chung, đặc biệt trong đào tạo thẩm phán. Hình thức thảo luận được sử dụng trong các
tình huống, thảo luận trên lớp, thảo luận nhóm nhỏ, Xemina Đây là hình thức giúp cho
học viên đưa ra nhiều ý kiến quan điểm riêng của mình nhằm hướng đến mục đích chung.
Với hình thức này, sẽ tạo cơ hội cho giảng viên có thông tin phản hồi về học viên. Giảng
viên có thể thu được tri thức, kinh nghiệm qua suy nghĩ và sáng tạo của học viên bởi các
học viên đào tạo thẩm phán là những người đã có trình độ và thực tế nghề nghiệp nhất
định.
Hình thức tự học, đây cũng là hình thức giảng dạy cơ bản của đào tạo thẩm phán hình
thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức kỹ năng do chính
bản thân học viên tiến hành trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo chương trình và
giáo trình. Hình thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy tính chủ động, năng
lực độc lập sáng tạo trong nghiên cứu học tập, giúp học viên rèn luyện năng lực, hứng thú
thói quen có phương pháp nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hơn vốn kiến thức và hiểu biết
của mình trong hoạt động đặc thù của nghề thẩm phán.
Thực tập, kiến tập hình thức học tập có tính chất ngọai khóa được tiến hành ngoài giờ
lên lớp. Đây hình thức đào tạo quan trọng của đào tạo nghề giúp cho học viên củng cố, mở
rộng, khơi sâu thêm tri thức về hoạt động nghề nghiệp đã được trang bị trong nhà trường,
gắn liền giữa lý luận và thực tiễn
Tất cả các hình thức đào tạo thẩm phán trên đây đều có vị trí và chức năng nhất định
trong hoạt động đào tạo thẩm phán. Chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau nhưng không thể thay thế nhau


1.1.5. Phương pháp đào tạo thẩm phán
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “Metodos” có nghĩa là con

đường, cách thức vận động để đạt tới mục đích nhất định. “Phương pháp là hình thức tự
vận động bên trong của nội dung” [33, tr.103], nó gắn liền với hoạt động của con người
giúp cho con người hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với với mục đích đã đề
ra. Bởi vậy phương pháp bao giờ cũng mang tính mục đích, tính cấu trúc và luôn gắn
liền với nội dung. Hay có thể định nghĩa phương pháp đào tạo: “là những con đường,
cách thức tiến hành đào tạo” [29, tr.145]. Phương pháp đào tạo là hệ thống gồm một
hay nhiều quy tắc được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loại hình hoạt động cụ thể
nào đó để đạt được mục tiêu đào tạo. Với định nghĩa đó, có thể hiểu phương pháp đào
tạo ở hai cấp độ khác nhau. Ở cấp độ thứ nhất là cách thức hình thành mục đích, soạn
thảo và triển khai nội dung đào tạo, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt động học
nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung dạy học và cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả
của quá trình đào tạo. Ở cấp độ thứ hai phương pháp đào tạo là cách thức tiến hành các
hoạt động của người dạy và người học nhằm hiện thực một nội dung dạy học đã được
xác định.
Phương pháp đào tạo hiện đại theo quan niệm của các nhà khoa học sư phạm trên thế
giới hiện nay có các đặc điểm cơ bản sau: (i), gắn liền với ngành nghề đào tạo; (ii), có tác
dụng phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học ; (iii), gắn liền với
thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống; (iv) tính đa dạng và phù hợp với loại hình, quy mô,
điều kiện đào tạo; (v) ngày càng gắn liền với các phương tiện và thiết bị dạy học hiện đại.
Phương pháp đào tạo hiện đại sẽ khắc phục được các khiếm khuyết của hệ thống các
phương pháp đào tạo truyền thống là đào tạo nặng về truyền thụ và thông báo, chú trọng
định hướng giảng dạy hơn là kết quả giảng dạy.
Với tư cách là một hình thức đào tạo nghề, về bản chất phương pháp đào tạo thẩm
phán không tách rời phương pháp đào tạo nói chung. Xuất phát từ tính đặc thù trong mục
đích đào tạo, đối tượng đào tạo và vận dụng linh hoạt các phương pháp đào tạo hiện đại,
đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới phương pháp
đào tạo, đào tạo thẩm phán đã áp dụng các phương pháp tích cực, các phương pháp lấy


người học làm trung tâm. Các phương pháp được áp dụng trong đào tạo thẩm phán của

Học viện tư pháp gồm:
Phương pháp Thuyết trình: là phương pháp mang tính truyền thống, có ưu điểm
truyền đạt khối lượng thông tin lớn, trong thời gian ngắn, với những lớp học đông học
viên. Phương pháp này vẫn được áp dụng trong các bài giảng lý thuyết của phần
chuyên đề và phần kỹ năng chung tại Học viện Tư pháp.
Phương tình huống: một phương pháp đào tạo được triển khai khá phổ biến tại Học
viện Tư pháp. Đây là một phương pháp đào tạo giảm được khoảng cách lý thuyết – thực tế,
phù hợp với mô hình đào tạo nghề. Yếu tố cấu thành chủ yếu của phương pháp đào tạo
mới này dựa trên các tình huống thực tế của cả học viên và giảng viên.
Phương pháp sắm vai: (thực hành đóng vai bài tình huống hoặc bài diễn án) Phương
pháp này được sử dụng phổ biến cho tất cả các lớp đào tạo tại Học viện Tư pháp. Phương
pháp sắm vai là một kỹ thuật đơn giản nhưng hiệu quả, để giảng dạy những khái niệm cơ
bản về quan hệ giữa người với người và để nhận thức được bản chất tại sao các cá thể phản
ứng như vậy trong những hoàn cảnh khác nhau.
Song giảng là giảng viên lý thuyết và giảng viên thẩm phán cùng giảng một bài học
trong cùng một lớp học. Ở Học viện Tư pháp rất coi trọng việc kết hợp nhiều giảng viên
cùng lên một lớp học, đây là một phương pháp giảng dạy có hiệu quả đối với đào tạo nghề,
kết hợp nhuần nhuyễn lý thuyết và thực tiễn. Tạo nên sự sinh động trong các bài giảng, bởi
phong cách giảng khác nhau, tạo điều kiện cho các giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm
có cơ hội bổ sung kiến thức cho nhau. Các phương pháp này đã chú trọng khai thác và phát
huy vai trò chủ thể, tính tích cực tham gia của học viên vào quá trình tương tác giữa người
dạy và người học. Điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là dạy vì sự phát triển của
người học, tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu học tập của học viên, hướng đến sự phát triển
mọi tiềm năng và sự sáng tạo của học viên.
Các phương pháp được sử dụng để đánh giá kết quả học tập trong đào tạo thẩm phán:
phương pháp đánh giá thông qua giải quyết hồ sơ; đánh giá thông qua khả năng nói; đánh
giá thông qua khả năng viết; đánh giá thông qua thực hành theo nhóm, đánh giá kết quả
học tập qua thi các học phần dưới hình thức làm bài thi là một tình huống vụ án. Đây cũng



là một phương pháp đánh giá kết quả học tập có hiệu quả dùng thực tiễn để kiểm nghiệm
lý thuyết của phương pháp đào tạo thẩm phán.
Vì phương pháp đào tạo không phải là phạm trù mục đích, mà là phạm trù
phương tiện. Do vậy, yêu cầu khi sử dụng chúng vào thực tiễn như nào cho hiệu quả,
hoàn toàn phụ thuộc khả năng của các chủ thể. Đồng thời trong thực tiễn không có
phương pháp nào tồn tại độc lập, không có kiểu phương pháp nào, nhóm phương pháp
nào vạn năng. Khi vận dụng cần phải linh hoạt trên cơ sở phối hợp, hợp lý theo chức
năng của mỗi phương pháp, tùy theo mục đích, nội dung tài liệu, đặc điểm tâm lý học
viên của một quá trình dạy học cụ thể. Việc sử dụng đơn điệu một phương pháp dạy
học, dù đó là phương pháp dạy học tốt nhất cũng mang lại hiệu quả không cao.
Qua phân tích các nội dung cơ bản của phương pháp đào tạo thẩm phán cho thấy
phương pháp đào tạo thẩm phán thể hiện rõ nét tính mục đích của đào tạo thẩm phán là
đào tạo nghề. Thể hiện tính đa dạng khoa học, hiện đại và gắn liền với xu hướng phát
triển của đời sống thực tiễn. Phù hợp nội dung, điều kiện phương tiện và đặc điểm đội
ngũ giảng viên, nên đã có tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, tính độc lập, tính sáng
tạo, và khả năng nghiên cứu khoa học của học viên. Phương pháp đào tạo thẩm phán là
một phạm trù phương tiện do vậy trong quá trình sử dụng cần đổi mới và sáng tạo, bởi
đó là một trong yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo.
Như vậy đào tạo nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng tồn tại với tư cách là một
hệ thống. Qua nghiên cứu đào tạo thẩm phán chúng ta đã xác định được các thành tố cơ
bản của nó bao gồm: mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức, phương
tiện Các thành tố này có vị trí, vai trò chức năng khác nhau, tuy nhiên chúng có mối quan
hệ biện chứng lẫn nhau trong cùng hệ thống. Do đó khi đánh giá thực trạng công tác đào
tạo thẩm phán, cần thiết phải xem xét đầy đủ đến các yếu tố này, trong đó đối tượng đào
tạo đóng vai trò trung tâm và hướng tới mục tiêu đào tạo.
1.2. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
THẨM PHÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.2.1. Nội dung cải cách tư pháp về đào tạo thẩm phán



Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân – nhà nước được tổ chức quản lý theo pháp luật và
đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Với đặc
trưng đó của nhà nước pháp quyền thì nhiêm vụ cấp bách hàng đầu là phải tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu “cải
cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp” [6, tr.95] là một
đòi hỏi bức xúc ở nước ta. Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW về “một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết số 08-NQ/TW của
Bộ Chính trị đã đề cập nhiều giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp bao gồm tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ
chức bổ trợ tư pháp như công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, lý lịch tư pháp, luật sư.
Trong đó cải cách tòa án là khâu đột phá bởi trong hệ thống các cơ quan tư pháp tòa án có
vai trò đặc biệt quan trọng. Mục tiêu của cải cách tư pháp là: xây dựng một nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự đất nước. Một trong những nhân tố mang tính quyết định cho việc thực hiện
thành công công cuộc cải cách tư pháp là xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ
thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng. Một nhiệm vụ vừa có tính
cấp bách vừa có tính lâu dài. Đội ngũ thẩm phán theo đánh giá: “còn thiếu về số lượng,
yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ; một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản
lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức [28, tr.02], chưa đáp ứng kịp với yêu cầu và sự phát triển
sôi động của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Để khắc
phục tình trạng trên, Nghị quyết cũng đã khẳng định tầm quan trọng của công tác đào tạo,
bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho chức danh thẩm phán.
Phát huy và tiếp nối những kết quả đạt được trong quá trình tổ chức thực hiện có
hiệu quả của Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 2-6-2005, Bộ chính trị ban hành tiếp Nghị
quyết 49-NQ/ TW về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”: Tổ chức hệ thống
tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; về công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh đã được khẳng định trong Nghị



quyết 08-NQ/TW, tiếp tục được Nghị quyết 49-NQ/ TW xác định phương hướng: “xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo
hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý. Nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về
chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội
đối với từng loại cán bộ, tiến tới thi tuyển một số chức danh”. Để thực hiện phương
hướng này Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ cụ thể là:
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo
nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh
tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức
trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [2,
tr.06].
Nghị quyết số 49-NQ/TW tiếp tục khẳng định: “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp
có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế và khu vực”. Các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp ở nước ta cũng đã
từng bước được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật được quốc hội thông qua trong
thời gian gần đây như Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001; Luật tổ chức tòa
án nhân dân năm 2002; Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân năm 2002 Đây là cơ sở
pháp lý để xây dựng đội ngũ thẩm phán trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
cải cách tư pháp.
Để xác định các yêu cầu đối với đào tạo thẩm phán, cần phải xuất phát từ mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong thời gian tới và tiêu chuẩn hóa, Chức
danh thẩm phán theo Pháp lệnh Thẩm phán Hội thẩm nhân dân. Cụ thể đó là những phẩm
chất cần phải có đối với một người khi được tuyển chọn để bổ nhiệm vào chức danh thẩm
phán, là những đòi hỏi của nhà nước, xã hội đối với người thẩm phán trong giai đoạn cải
cách tư pháp hiện nay. Đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp trong thời tới cần đáp
ứng một số yêu cầu căn bản sau đây:
1.2.2. Những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với công tác đào tạo thẩm phán

×