Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

LUẬN VĂN: Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.81 KB, 31 trang )












LUẬN VĂN:




Nguồn gốc của gia đình của chế
độ tư hữu và của nhà nước


























Phần Mở đầu

Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước là một trong những
tác phẩm chủ yếu của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm này Ph.Ăngghen đã phân tích
một cách khoa học lịch sử của nhân loại trong những giai đoạn phát triển sớm nhất
của nó, đã vạch rõ quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình
thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu.
Tác giả chỉ rõ những nét đặc trưng chung của xã hội đó, giải thích rõ những đặc
điểm trong sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau, nêu rõ nguồn gốc và thực chất của nhà nước và chứng minh sự tất yếu phải
diệt vong của nhà nước khi mà xã hội cộng sản, xã hội không có giai cấp hoàn toàn
thắng lợi.
Tác phẩm: " Nguồn gốc của gia đỡnh, của chế độ tư hữu và của nhà nước " là
một trong những tác phẩm mà Ăngghen đã sử dụng bản tóm tắt của Mác về các
công trình nghiên cứu thực tế của L.Moóc gan cũng như của các nhà khoa học đương
thời để phân tích một cách khoa học lịch sử loài người ở những giai đonạ phát triển
sớm nhất của nó, làm sáng tỏ cơ sở kinh tế của quá trình tan rã chế độ công xã
nguyên thủy và hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu vạch ra những

đặc điểm chung của xã hội đó. Ph.Ăngghen giải thích đặc điểm của sự phát triển
những quan hệ gia đình ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, vạch rõ nguồn gốc
và bản chất của Nhà nước, ông chỉ ra quy luật tất yếu của sự phát triển của sản xuất,
của sự phát triển kinh tế là sẽ tiến tới một xã hội cộng sản văn minh trong đó chế độ
tư hữu, giai cấp và nhà nước không còn tồn tại. Chúng ta có thể khẳng định rằng đây
là một tác phẩm tuyệt vời của Ph.Ăngghen viết về gia đình, về chế độ tư hữu và về
nhà nước. Đánh giá về tác phẩm, Lênin đã viết: "Có thể tin vào từng câu, có thể tin
rằng mỗi một câu không phải được nói một cách lần lượt, mà được viết trên cơ sở
những đống tài liệu lịch sử và chính trị khổng lồ" [V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb
Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.67]. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu một số tác phẩm
kinh điển của Mác và Ăngghen tôi chọn tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước" để nghiên cứu, tìm hiểu và viết tiểu luận cho môn học.



Trong nội dung tiểu luận viết về tác phẩm này sẽ phân tích về hoàn cảnh ra
đời, về những nội dung cơ bản của tác phẩm từ đó rút ra ý nghĩa của tác phẩm và vận
dụng những giá trị của tác phẩm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.




Phần nội dung

2.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Vào những năm của giữa thế kỷ 19 khi mà chưa có đủ những điều kiện để
giải thích được giai đoạn tiền sử của thời đại văn minh thì nhà Bác học Mỹ Luy xơ
hen ri Mooc gan đã viết tác phẩm "Xã hội thời cổ hay các cuộc khảo cứu những con
đường tiến bộ của loài người từ thời đại mông muội qua thời đại dã man đến thời đại
văn minh". Tác phẩm này làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử trước khi loài người

bước vào thời đại văn minh - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Công lao vĩ đại của Moóc gan là đã phát hiện và khôi phục lại những nét chủ
yếu của cái cơ sở tiền sử đó của lịch sử. Ông đã tìm thấy chiếc chìa khóa để mở
những điều bí ẩn hết sức quan trọng của lịch sử Hy Lạp, La Mã và Đức cổ đại. Trong
gần 40 năm ông nghiên cứu các tư liệu của mình và viết xong tác phẩm.
- Năm 1884 sau khi C.Mác mất được 1 năm, Ph.Ăngghen tìm thấy bản thảo
viết tay của Mác: "Tóm tắt tác phẩm của L.Moóc gan". Mác có dự định viết một tác
phẩm giải thích giai đoạn dã man này nhưng chưa kịp viết vì vậy Ph.Ăngghen đã
quyết định sử dụng các nhận xét và phê phán của Các Mác về tác phẩm của Moóc
gan và các tư liệu của mình để viết tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước" nhằm chứng minh sự đúng đắn của quan điểm duy vật lịch sử
của Mác. Đồng thời vạch trần quan điểm sai trái của giai cấp tư sản cho rằng chế độ
gia đình từ xưa đến nay là gia đình phục quyền và họ thần thánh hóa gia đình kiểu tư
sản xem đó là kiểu gia đình mẫu mực. Tác phẩm được Ăngghen viết từ cuối tháng 3
năm 1884 và xong vào hết tháng 5 năm 1884 trong vòng 2 tháng. Tác phẩm được
xuất bản vào đầu tháng 10 năm 1884 tại Xuy rích nước Đức.
Chủ đề tư tưởng xuyên suốt của tác phẩm là làm rõ quá trình phát triển của
xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên thủy tới chế độ văn minh. Khẳng định
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử là trình độ phát triển của sản xuất, của vận
động, trình độ chinh phục làm chủ thiên nhiên của con người là nguồn gốc, là nhân
tố quy định sự phát triển của con người, của xã hội loài người. Vạch ra quy luật tất
yếu của sự phát triển sản xuất, của kinh tế sẽ đưa loài người tiến tới xã hội cộng sản



văn minh mà ở đó chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp và Nhà nước không còn tồn tại
nữa.
2.2. Kết cấu và nội dung của tác phẩm
Tác phẩm gồm có 2 lời tựa - Lời tựa cho lần xuất bản thứ nhất vào đầu tháng
10 năm 1884 và được in ở Xuy rích (Đức); lời tựa cho lần xuất bản thứ 4 năm 1891

và 9 chương.
Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất, Ăngghen nêu rõ mục đích viết
tác phẩm là nhằm hoàn thành nhiệm vụ của Mác để lại, dùng công trình của Moóc
gan để chứng minh quan điểm duy vật lịch sử của hai ông. Ăngghen khẳng định
công lao của Moóc gan đối với khoa học, là tìm ra: "chìa khóa để mở những điều bí
ẩn hết sức quan trọng cho đến nay vẫn chưa giải đáp được của lịch sử Hy Lạp, La
Mã và Đức cổ đại" [Các Mác và Ph.ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Sự thật,
Hà Nội, 1995, tr.45].
Mặt khác, Ăngghen phê phán thái độ không đúng đắn của các nhà khoa học
đương thời vừa sử dụng kết quả khoa học, vừa dìm công lao, thành tích khoa học của
Moóc gan.
Trong lời tựa thứ hai viết cho lần xuất bản thứ 4 năm 1891, do trong tình
hình mới đã xuất hiện những công trình nghiên cứu các hình thức nguyên thủy của
gia đình đã đạt được những thành tựu mới nên Ăngghen đã giới thiệu kỹ hơn những
công trình này nhất là về lịch sử phát triển của gia đình của Bacophen, Maclenna
song Ăngghen vẫn khẳng định công lao đều thuộc Moóc gan. Trong lời tựa này,
Ăngghen đã làm rõ những điểm mà ông tán thành, những điểm mà ông chưa đồng ý,
những điểm mà ông phê phán Moóc gan do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách
quan của xã hội đương thời.
Chương 1:
Những giai đoạn văn hóa tiền sử Ăngghen viết về lịch sử loài người phát
triển qua các giai đoạn từ thấp đến cao từ thời đại mông muội, thời đại dã man đến
thời đại văn minh và sự phát triển ấy nó luôn gắn liền với sự phát triển của trình độ
lao động sản xuất. Ăngghen đã giới thiệu sự sắp xếp thời kỳ tiền sử của loài người
theo hệ thống của Moóc gan, qua đó nó đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh của xã
hội loài người đồng thời chỉ ra những hạn chế của Moóc gan trong cách phân kỳ



này. Chỉ ra nguồn gốc phát triển của xã hội loài người là do trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất, của lao động, đây là nhân tố quyết định nhất.
Chương 2: Gia đình
Ăngghen viết về quá trình hình thành và phát triển của gia đình trong lịch sử.
Trong chương này, Ăngghen đã làm rõ thời kỳ thơ ấu của loài người, giải thích một
thời kỳ lịch sử mà trước đó chưa lý giải được thông qua nghiên cứu lịch sử phát triển
của các hình thức gia đình theo công trình nghiên cứu của Moóc gan từ gia đình
huyết tộc, gia đình Ru-na-lu-an, gia đình cặp đôi, gia đình một vợ một chồng. Trong
đó gia đình huyết tộc đó là giai đoạn đầu của gia đình ở đây các tập đoàn hôn nhân
đều phân theo thế hệ: trong phạm vi gia đình tất cả ông và bà đều là vợ chồng với
nhau, các con họ cũng đều là vợ chồng với nhau, các con của những người này cũng
hợp thành một nhóm vợ chồng chung thứ 3 Gia đình Ru-na-lu-an đây là bước tiến
thứ hai của sự phát triển gia đình. ở gia đình này đã hủy bỏ quan hệ tình dục giữa
anh em trai và chị em gái cùng 1 mẹ đẻ ra và sau là cấm những cuộc hôn nhân gồm
những anh em trai và chị em gái trong các bàng hệ.
Gia đình cặp đôi, một loại hình thức kết hôn từng cặp đã tồn tại trong một
thời gian hoặc ngắn hoặc dài dưới chế độ quần hôn và sau cùng là gia đình 1 vợ 1
chồng nó được nảy sinh từ gia đình cặp đôi, nó là một trong những dấu hiệu của
buổi đầu của thời đại văn minh. Gia đình ấy dựa trên quyền thống trị của người
chống, những đứa con sinh ra có cha đẻ rõ ràng và nó được thừa hưởng tài sản của
cha với tư cách là người kế thừa trực tiếp.
Chương 3: Thị tộc Iroqua. Ăngghen viết về thị tộc điển hình sống ở châu Mỹ
theo lối sống cổ đại.
Chương 4: Thị tộc Hy Lạp mà chế độ mẫu quyền đã nhường chỗ cho chế độ
phụ quyền.
Trong hai chương 3 và chương 4, Ăngghen đã mô tả tổ chức xã hội trước khi
có nhà nước, mô tả sự ra đời, nguồn gốc của chế độ sở hữu tư nhân và của giai cấp
nhân tố làm tan rã chế độ thị tộc. Từ những phân tích về quá trình phát triển kinh tế -
xã hội do sự phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và giai
cấp, Ăngghen đi tới khẳng định nhà nước nhất định phải xuất hiện như một tất yếu
lịch sử, như một quá trình tự nhiên và vạch rõ bản chất giai cấp của nhà nước. Khẳng




định nhà nước là một hình thức của giai cấp thống trị, bảo vệ quyền lợi của giai cấp
cầm quyền.
Chương 5: Sự ra đời của nhà nước A-ten và chương 6: Thị tộc và nhà nước ở
La Mã, Ăngghen đã phân tích về mặt lịch sử những biến đổi về xã hội trong xã hội
thị tộc dẫn tới sự hình thành và phát triển của nhà nước A-ten và Nhà nước La Mã,
phân tích hai phương thức hình thành nhà nước khác nhau. Nhà nước A-ten nảy sinh
chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập giai cấp ngay trong nội bộ xã hội thị tộc,
một hình thức ra đời nhà nước thuần túy nhất, cổ điển nhất thì Nhà nước La Mã là
kết quả của cuộc đấu tranh gay gắt giữa những người bình dân sống ngoài thị tộc La
Mã với những người quý tộc La Mã. Tuy có sự khác nhau về phương thức hình
thành nhà nước song Ăngghen vạch rõ nguyên nhân chính làm cho xã hội nguyên
thủy sụp đổ chính là sự xuất hiện và phát triển những mâu thuẫn về kinh tế - xã hội.
Chương 7: Thị tộc của người Kentơ và người Giec-manh.
Chương 8: Sự hình thành nhà nước của người Giec-manh, Ăngghen giới
thiệu đây là sự ra đời của nhà nước trong trường hợp đặc biệt, không phải là kết quả
trực tiếp của những biến đổi kinh tế - xã hội mà là kết quả của hành động bạo lực.
Song suy cho cùng thì sự xuất hiện nhà nước này vẫn xuất hiện từ nguồn gốc sâu xa,
tất yếu từ sự biến đổi của kinh tế xã hội.
Chương 9: Thời đại dã man và thời đại văn minh.
Ăngghen tổng hợp lại và chỉ rõ quá trình phát triển của loài người từ thời đại
dã man sang thời đại văn minh trên cơ sở phát triển của sản xuất, của sự phát triển
kinh tế - xã hội và Ăngghen cũng chỉ ra những đặc trưng của thời đại văn minh và
khẳng định tính tất yếu trong sự phát triển của lịch sử là ở chỗ xã hội hiện đại phải
được thay thế bằng chế độ mới mà ở đó không còn chế độ tư hữu, không còn giai cấp
và nhà nước sẽ tự tiêu vong và mọi người sống trong bình đẳng - tự do và hạnh phúc
thực sự.
2.2. Những nội dung chủ yếu của tác phẩm

Một là: Quan điểm lý luận về gia đình, hôn nhân và tình yêu nam nữ
Khi viết về gia đình, về hôn nhân và tình yêu nam nữ, trong tác phẩm nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ph.Ăngghen tán thành quan
điểm của L.Moóc gan cho rằng gia đình là yếu tố năng động, không bao giờ đứng



nguyên tại chỗ mà nó luôn vận động và phát triển của xã hội. Những điều kiện kinh
tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết định đến hình thức tổ
chức và kết cấu của gia đình. "Chế độ gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu chi phối"
[C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.44].
Ngược lại gia đình và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc
tái tạo ra bản thân con người, truyền thống để bảo vệ nòi giống cũng như tái tạo ra
sức lao động của sản xuất xã hội.
Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất năm 1884, Ph.Ăngghen cho
rằng: "Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, suy đến cùng là sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai
loại. Một mặt`, là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những
công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân
con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người
của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai
loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độpt của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình" [C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb
CTQG, Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.44]. Với chức năng tái tạo con người, gia đình
tham gia vào cả hai loại sản xuất của xã hội góp phần quyết định tồn tại và phát triển
của xã hội loài người nói chung cũng như ảnh hưởng rất quan trọng đến sự tồn tại và
phát triển của một chế độ xã hội nhất định:
Ph. Ăngghen đã vạch rõ nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình
trong lịch sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát triển của

những điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý, đạo đức, tình cảm của con
người. Trong đó sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định.
Do đó gia đình đã chuyển từ gia đình huyết tộc (gia đình cùng dòng máu)
sang gia đình Pu na lu an, gia đình cặp đôi (gia đình đối ngẫu) và cuối cùng là gia
đình 1 vợ, 1 chồng.
Gia đình quần hôn là hình thức đầu tiên trong lịch sử nó bắt nguồn từ chế độ
quần hôn với hai loại gia đình tương ứng là gia đình huyết tộc và gia đình Pu na lu
an.



Gia đình huyết tộc đó là giai đoạn đầu của gia đình, ở đây các tập đoàn hôn
nhân đều phân theo thế hệ trong phạm vi gia đình, tất cả ông và bà đều là vợ chồng
với nhau, các con của họ cũng đều là vợ chồng với nhau, rồi đến lượt conc ái của
những người này cũng hợp thành nhóm vợ chồng chung thứ ba Cứ như vậy trong
hình thức gia đình này chỉ có giữa những tổ tiên và con cháu, giữa cha mẹ và con cái
không là vợ chồng với nhau còn các anh em tria, chị em gái ruột, anh em và chị em
họ bậc thứ nhất, bậc thứ 2 và những bậc khác nữa đều là anh em, chị em với nhau và
chính vì thế họ đều là vợ chồng của nhau.
Gia đình Pu-na-lu-an là hình thức gia đình dựa trên cơ sở tiến bộ hơn, đó là
anh chị em ruột không lấy nhau. Theo Moóc gan bước tiến đó là "Một sự minh hoạ
rất tốt về tác động của nguyên tắc đào thải tự nhiên" [Sđd, tr.68]. Như vậy từ hình
thức mà Moóc gan gọi là gia đình Pu nu lu an tức là chị em gái ở bậc thứ nhất, thứ
hai và những bậc khác đều là vợ chung của những người chồng chung trừ những anh
em trai của họ ra, những người chồng đó không gọi nhau là anh em nữa mà gọi nhau
là "Pu na lu a" nghĩa là bạn thân. Cũng như thế thì những anh em trai cùng mẹ hoặc
xa hơn đều lấy chung một số vợ không phải là chị em gái của họ và những người vợ
ấy cũng đều gọi nhau là Pu na lu a. Tuy hình thức quần hôn này không thể xác định
được ai là cha đứa trẻ mà chỉ xác định được mẹ của đứa trẻ mà thôi.
Gia đình đối ngẫu (gia đình cặp đôi) được hình thành cuối thời mông muội

đầu thời dã man dựa trên sự kết hôn từng cặp một, người đàn ông kết hôn với một
người đàn bà và người đàn ông có thể lấy nhiều người đàn bà khác. Trong hôn nhân,
người phụ nữ thường chung thủy trong suốt thời gian sống chung song chế độ hôn
nhân này vẫn cho phép cắt đứt nhau dễ dàng và con cái chỉ thuộc về người mẹ.
Nguyên nhân chế độ hôn nhân cặp đôi xuất phát từ điều kiện người cha dần có quyền
lực và địa vị hơn trong gia đình và khi quyền lực của người đàn ông tăng lên trong
gia đình thì cũng có nghĩa là quyền lực của người đàn bà dần thu hẹp lại và theo
Ăngghen thì đây là cuộc cách mạng đảo lộn về giới. Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân
của sự đổi ngôi này là do nguồn gốc từ kinh tế. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên
theo đó là của cải có nhiều hơn: " thì một mặt, trong gia đình, của cải đó làm cho
người chồng có một địa vị quan trọng hơn người vợ và mặt khác của cải đó khiến



cho người chống có xu hướng lợi dụng địa vị vững vàng hơn ấy để đảo ngược trật tự
kế thừa cổ truyền đặng làm lợi cho con cái mình" [Sđd, tr.91-92].
Gia đình một vợ một chồng được nảy sinh ra từ gia đình cặp đôi vào lúc giao
thời giữa giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Thắng lợi của gia đình
một vợ một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của thời đại văn minh.
Gia đình ấy dựa trên quyền thống trịcủa người chồng nhằm làm cho những đứa con
sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng và sau này nó được hưởng tài sản của người cha với
tư cách là những người kế thừa trực tiếp "Gia đình một vợ một chồng khác với gia
đình cặp đôi ở chỗ là quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều, hai bên không còn có
thể tùy ý ly dị nhau được nữa" [Sđd, tr.99].
Gia đình một vợ một chồng được hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội.
Gia đình một vợ một chồng trong chế độ tư hữu trở thành những đơn vị kinh
tế của xã hội. Ph.Ăngghen viết: Việc chuyển sang chế độ tư hữu hoàn toàn được
thực hiện dần dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một
vợ một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội.

Ph.Ăngghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên
không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế tức là
trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát.
Do vậy mục đích của gia đình một vợ một chồng trong chế độ tư hữu được "dựa trên
quyền thống trị của người chồng nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải có
cha đẻ rõ ràng không ai tranh cãi được, và sự rõ ràng về dòng dõi đó là cần thiết, vì
những đứa con đó sau này sẽ được thừa hưởng tài sản của cha với tư cách là những
người kế thừa trực tiếp" [Sđd, tr.99].
Sự thống trị của người chồng trong gia đình, sự sinh đẻ ra những đứa con
chỉ có thể là con của người chồng là phải được quyền thừa hưởng tài sản của người
ấy, đó là những mục đích đặc biệt của chế độ một vợ một chồng kiểu gia đình phụ
quyền. Mục đích hôn nhân cá thể xuất hiện không phải là sự liên kết hôn nhân giữa
đàn ông và đàn bà mà gia đình dưới chế độ tư hữu xây dựng trên quan hệ bất bình
đẳng gồm vợ và chồng, giữa nam và nữ "nó thể hiện ra là một sự nô dịch của giới
này đối với giới kia Sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà" [Sđd, tr.104]. "Sự



thống trị không hạn chế của đàn ông đối với đàn bà, coi đó là luật cơ bản của xã hội"
[Sđd, tr.106].
Ngay ở trong người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai quản còn người đàn bà
nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành công cụ sinh đẻ đơn
thuần. Cùng với hình thức gia đình một vợ một chồng, trong chế độ tư hữu vẫn còn
chế độ nhiều vợ đối với đàn ông (quan hệ tính giao ngoài quan hệ vợ chồng, ở bên
rìa chế độ hôn nhân cá thể) mà "hình thức của nó là mại dâm" [Sđd, tr.106]. Nó duy
trì sự tự do tính giao và có lợi cho đàn ông và vì thế xuất hiện người tình thường
xuyên của người vợ và người chồng bị cắm sừng. Ph.Ăngghen đã viết: "Bên cạnh
hôn nhân cá thể và chế độ hệ taia, tệ ngoại tình đã trở thành một thiết chế xã hội
không thể nào xóa bỏ được" [Sđd, tr.95], "quyền ngoại tình của người chồng vẫn
được bảo đảm cho đến tận ngày nay" [Sđd, tr.99].

Ph.Ăngghen phân tích mâu thuẫn trong gia đình là hình thức thu nhỏ của các
mặt đối lập, các mâu thuẫn tồn tại trong xã hội. Có phân chia giai cấp. Sở dĩ có
những mâu thuẫn tồn tại trong gia đình bởi địa vị người đàn bà là: " buộc phải
phục tùng quyền lực tuyệt đối của người chồng. Người phụ nữ, người đàn bà trong
gia đình dưới chế độ tư hữu xét cho cùng chỉ là mẹ của những đứa con kế thừa
chính thức tài sản dòng dõi của chồng, là người quản gia chính của nhà chồng và là
người cai quản các tì thiếp của chồng. Vì vậy chế độ một vợ một chồng có tính chất
khá đặc biệt "mộtvợ một chồng chỉ riêng đối với người đàn bà, chứ không phải đối
với đàn ông" [ Sđd, tr.101]. Nếu người vợ có muốn vượt ra ngoài khuôn khổ ấy thì
lập tức họ sẽ bị lên án và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc hơn ở bất kỳ thời đại nào
trước kia. Họ chỉ là một vật để lo việc gia đình, đẻ con và họ chỉ là một đầy tớ chính.
Gia đình cá thể " biểu lộ rõ mối mâu thuẫn giữa người đàn ông với người đàn bà,
kết quả của sự thống trị độc nhất của người chồng là một hình ảnh thu nhỏ của
những mặt đối lập và mâu thuẫn trong đó, từ đầu thời đại văn minh.
Xã hội chia thành giai cấp vẫn vận động, nhưng không thể nào giải quyết và
khắc phục được những mâu thuẫn và những sự đối lập ấy" [Sđd, tr.107]. Nền văn
minh tư sản cũng không thể nào giải quyết và khắc phục được những mâu thuẫn và
những sự đối lập trong gia đình bởi lẽ "Sự đối lập giai cấp đầu tiên xuất hiện trong
lịch sử và trùng với sự phát triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ trong hôn nhân



cá thể, và sự áp bức giai cấp đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn
bà" [Sđd, tr.104].
Khi phân tích hôn nhân trong gia đình tư sản, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng
trong tất cả các giai cấp chủ động trong lịch sử (không loại trừ giai cấp tư sản) - các
giai cấp thống trị - việc quyết định một cuộc hôn nhân là một việc có tính toán lợi
hại, do cha mẹ thu xếp, kể cả trong môi trường đạo thiên chúa hay đạo Tin lành thì
hôn nhân trong chế độ tư sản " đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên, vì vậy hôn
nhân luôn l uôn là hôn nhân có tính toán hôn nhân có tính toán đó thường thường

biến thành sự mãi dâm tư liệu nhất - có khi là của cả đôi bên, nhưng thông thường
nhất là về phía người vợ. Nếu ở đây người đàn bà có khác với gái đĩ thường thì chỉ
là vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân
làm thuê bán sức lao động của mình, mà là bán mãi mãi, như một nữ nô lệ" [Sđd,
tr.112]. Ngay trong đạo thiên chúa cha mẹ vẫn tìm vợ cho con, lựa chọn người vợ
xứng đáng và vì thế đã dẫn đến kết quả "làm cho mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ
một vợ một chồng phát triển đầy đủ nhất: chế độ hệ ta-ia về phía người chồng là chế
độ hệ ta-ia bừa bãi, về phía vợ là ngoại tình lu bù" [Sđd, tr.111]. Hoặc như trong
đạo Tin lành, việc người con trai ít nhiều đều lựa chọn vợ trong cùng giai cấp thì chế
độ hệ ta-ia của người chồng được thực hành ít kiên quyết hơn, và tệ ngoại tình của
vợ cũng ít thành lệ hơn song "cũng chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn
nặng chĩu mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình" [Sđd, tr.112]. Theo quan niệm của
giai cấp tư sản, hôn nhân là một hợp đồng, một công việc có tính pháp lý.
Không chỉ lên án xã hội tư sản và những thối nát của giai đoạn do chế độ tư
bản sinh ra, Ph.Ăngghen còn nêu ra những quan điểm về tình yêu, hôn nhân và gia
đình trong xã hội tương lai " lần đầu tiên chúng ta có được tình yêu cá thể, hiện
đại giữa trai và gái trước kia chưa hề thấy trên thế giới" [Sđd, tr.120]. Tình yêu ấy là
sự tự nguyện của cả người đàn ông và người đàn bà. Đó chính là điều kiện cho sự
bình đẳng nam nữ trong mối quan hệ này. "Về mặt này người đàn bà là người
ngang hàng với người đàn ôgn" [Sđd, tr.109]. Tình yêu nam nữ ấy phải được thử
thách qua thời gian và nó tạo ra sức mạnh vượt qua những khó khăn cản trở trên con
đường đi tới hôn nhân. Và một khi không tiến hành được hôn nhân thì đó "là một
điều đau khổ lớn" [Sđd, tr.120].



Với bản chất không chia sẻ, tình yêu là cơ sở cho hôn nhân một vợ một
chồng, và cũng chỉ có hôn nhân như vậy thì tình yêu mới được duy trì và tình yêu
như thế, hôn nhân như thế mới là hợp đạo đức. Trong xã hội tương lai ấy, thế hệ
mới sẽ lớn lên, họ được tự do yêu đương chính đáng, tự lựa chọn bạn đời: "Một thế

hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những phương tiện quyền lực xã
hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và một thế hệ đàn bà không bao giờ
phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc
phải từ chối không dám hiến mình cho người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của
sự hiến thân đó" [Sđd, tr.120]. Thế hệ mới ấy sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo
quan niệm của xã hội cũ buộc họ phải làm bởi họ tự biết cần phải làm thế nào để
chọn lựa người bạn đời để tạo ra một gia đình một vợ một chồng đúng với nghĩa
của nó. Như vậy, rõ ràng là kết hôn và tình yêu là quyền của con người, hơn nữa
không những là quyền của đàn ông mà còn là quyền của đàn bà - sự bình đẳng trong
hôn nhân giữa nam và nữ. Trong quá trình phân tích bản chất tình yêu và gia đình
một vợ một chồng xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, Ph.Ăngghen cũng có
quan điểm tán thành giải quyết ly hôn khi hạnh phúc gia đình thật sự không còn
nữa. Ông coi đó là điều cần thiết cho cả người đàn ông và người đàn bà và cho cả xã
hội, là biểu hiện của đạo đức và là một quy tắc trong quan hệ vợ chồng mới: "Nếu
tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ
là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội. Chỉ cần tránh cho người ta khỏi sa
chân vô ích vào vũng bùn kiện tụng để ly hôn mà thôi" [Sđd, tr.128].
Để xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình trong xã hội mới, Ph.Ăngghen
chỉ ra rằng những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết tất yếu làm cơ sở cho chế độ một
vợ một chồng được thực hiện trọn vẹn. Ông viết "hiện nay chúng ta đang tiến tới một
cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở kinh tế từ trước tới nay của chế độ một vợ
một chồgn cũng như cơ sở của điều bổ sung cho nó là nạn mại dâm đều nhất định sẽ
bị tiêu diệt. Các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì độ lao động
làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất và đồng thời cũng sẽ không còn tình trạng
m ột số phụ nữ cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi và
chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn mà cuối cùng lại còn trở thành
một hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa" [Sđd, tr.118].




Ph.Ăngghen phân tích rằng cùng với việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thực hiện
công hữu hóa các tư liệu sản xuất và sự phát triển của nền đại công nghiệp sẽ tạo
điều kiện giải phóng người phụ nữ, xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng hòa thuận.
Ông viết: " đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị
trường vận động và vào công xưởng, và thường biến họ thành cột trụ của gia đình,
thì trong gia đình người vô sản, những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của
người đàn ông đã mất mọi cơ sở " [Sđd, tr.115]. Thật vậy , chỉ có nền công nghiệp
hiện đại là nền công nghiệp không những thu nhận vận động của phụ nữ trên quy
mô lớn mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có vận động phụ nữ và ngày càng có xu hướng
biến vận động tư nhân của gia đình thành vận động ngành công nghiệp công cộng.
"Cái sẽ biến mất đi một cách rất chắc chắn trong chế độ một vợ một chồng chính là
tất cả những đặc trưng mà những quan hệ tài sản đẻ ra nó, đã ăn lên nó. Những đặc
trưng đó là: thứ nhất là sự thống trị của người đàn ông, và thứ hai là tính ràng buộc
vĩnh viễn của hôn nhân" [Sđd, tr.130]. Khi gia đình một vợ một chồng phát triển hơn
nữa sẽ là một bước tiến đến gần sự hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi giữa nam và
nữ, giống như điều Moóc gan đã viết: "Gia đình một vợ một chồng đã được cải tiến
ngay từ khi bắt đầu thời kỳ văn minh và được cải tiến rất rõ rệt trong thời kỳ cận
đại hình thức đó còn có thể được cải tiến thêm nữa, cho tới khi đạt đến sự bình
đẳng giữa nam và nữ" [Sđd, tr.132]. Quan điểm tiến bộ này của Moóc gan đã được
Ph.Ăngghen tiếp nhận để phát triển quan điểm tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Hai là: Nguồn gốc ra đời và tiêu vong của chế độ tư hữu và giai cấp
Trong tác phẩm "Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước".
Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản của quá trình ihình thành phát triển của
chế độ tư hữu và giai cấp là do sự phát triển của sản xuất và sự phân công lao động
xã hội. "Việc thuần dưỡng súc vật và việc chăn nuôi các bầy gia súc đã toạ ra những
nguồn của cải chưa từng thấy và đã toạ ra những quan hệ xã hội hoàn toàn mới"
[Sđd, tr.90]. Để chăn nuôi và phát triển đàn gia súc, người ta cần nhiều người hơn và
trong lúc này những tư lệnh bắt buộc sau các cuộc chiến đã là những món "của cải"
có ích. "Những của cải ấy, một khi trở thành sở hữu riêng của các gia đình riêng rẽ
và một khi đã tăng lên nhanh chóng thì đánh một đòn rất mạnh vào xã hội dựa trên

chế độ hôn nhân cặp đôi và trên thị tộc mẫu quyền" [Sđd, tr.92]. Chế độ phụ quyền



thay thế chế độ mẫu quyền. Sản xuất phát triển, năng suất vận động tăng lên,
phânghiên cứu ông lao động xã hội thay đổi, sự trao đổi sản phẩm đã làm nảy sinh
tư tưởng muốn giữ làm của riêng mộtphần sản phẩm mà bản thân làm ra, muốn
chiếm đoạt của cải của thị tộc và của người khác. Chế độ tư hữu ra đời, Ph.Ăngghen
viết: "Chính những lợi ích thấp hèn nhất - tính tham lam tầm thường, lòng khao khát
hưởng lạc thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp của công báo
hiệu sự ra đời của xã hội văn minh mới, xã hội có giai cấp" [Sđd, tr.150].
Sự ra đời của chế độ tư hữu làm xuất hiện tình trạng bất công về của cải giữa
cácthành viên trong cộng đồng thị tộc. Trong thị tộc sinh ra những lớp người giầu
nghèo khác nhau và địa vị của mỗi lớp người trong thị tộc cũng khác nhau. Sự bất
công về tài sản đã tác động trở lại chế độ xã hội, tạo ra những mầm mống đầu tiên
của các tầng lớp quý tộc, hình thành sự phân biệt giữa kẻ giầu và người nghèo, giữa
chủ nô và nô lệ: "Sự chênh lệch về tài sản đã ảnh hưởng trở lại đến tổ chức xã hội
bằng cách tạo ra những mầm mống đầu tiên của giới quý tộc thế tập và vương quyền
thế tập; chế độ nô lệ, lúc đầu chỉ thi ihành đối với tù binh, đã mở ra cái triển vọng nô
dịch ngay cả những thành viên cùng một bộ lạc và thậm chí cả những thành viên của
chính ngay thị tộc mình nữa" [Sđd, tr.168]. "Chia toàn thể nhân dân không phân biệt
thị tộc, bào tộc hay bộ lạc ra làm 3 giai cấp quý tộc người làm ruộng người làm
nghề thủ công và trao cho bọn quý tộc được độc quyền đảm nhiệm những chức vụ
công cộng" [Sđd, tr.172]. Xã hội đã phân chia thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị
bóc lột. Sự phân chia ấy cứ tồn tại suốt trong thời đại văn minh.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy quá trình hình thành và phát triển của giai
cấpgắn liền với quá trình hình thành và phát triển của chế độ tư hữu.
Tư hữu làm nảy sinh giai cấp và đồng thời cũng có cùng một nguồn gốc với
giai cấp. Tư hữu và giai cấp đã sinh ra khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất
định thì tư hữu và giai cấp cũng sẽ cùng mất đi khi xã hội phát triển tới một giai

đoạn phát triển nhất định. Như vậy, ta thấy trong tác phẩm Ph.Ăngghen đã vạch ra
nguồn gốc sự phát triển của chế tư hữu và giai cấp mà còn khẳng định rằng chế độ tư
hữu và giai cấp cúng nhất định sẽ mất đi. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn mà
lực lượng sản xuất đạtt ới trình độ cao, sự tồn tại của chế độ tư hữu cùng với sự tồn
tại của giai cấp trở thành kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Ông viết: "Bây giờ



chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất, trong đó sự tồn
tại của những giai cấp nói trên không những không còn là một sự tất yếu nữa mà còn
trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Những giai cấp đó sẽ không tránh khỏi
biến mất, cũng như xưa kia chúng đã không tránh khỏi sẽ xuất hiện" [Sđd, tr.257-
258]. Như vậy, Ph.Ăngghen đã chỉ ra xã hội có giai cấp không tồn tại vĩnh cửu mà
chỉ là một giai đoạn tất yếu của lịch sử loài người. Song đến khi nào thì không còn
chế độ tư hữu, không còn giai cấp thì đó là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, rất lâu dài
và phải trải qua nhiều bước trung gian quá độ hết sức phức tạp.
Ba là: Điều kiện ra đời của nhà nước và vấn đề nhà nước tiêu vong
Trong tác phẩm: "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước", khi nghiên cứu về nguồn gốc ra đời của nhà nước, trước hết ông đã tìm hiểu
và mô tả chi tiết về tập tục, tục lệ tổ chức của các xã hội nguyên thủy, phân tích một
cách khách quan quá trình phát sinh, phát triển của các tổ chức xã hội thị tộc Iroqua
(chương 3) và tổ chức xã hội thị tộc Hy Lạp (chương 5).
Ph. Ăngghen đã có những nhận định về tính ưu việt của xã hội cộng sản
nguyên thủy. Đó là xã hội chưa biết tới nhà nước và uy quyền của nhà nước đối với
đời sống con người, mọi người đều bình đẳng với nhau. Ông viết: "Với tất cả tính
ngây tơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao. Không
có quân đội hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng
quan, quan tòa, không có nhà tù Tất cả đều bình đẳng và tự do kể cả phụ nữ" [Sđd,
tr.147-148]. Tuy xã hội thị tộc l à một xã hội tốt đẹp song bằng sự nghiên cứu về sự
vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người Ph.Ăngghen đã khẳng định sự

tan rã của các xã hội thị tộc và sự ra đời nhà nước là một tất yếu lịch sử - một hình
thức tổ chức của xã hội mới. Khi viết về chế độ thị tộc Iroqua ở châu Mỹ, ông đã nói
viết: " tổ chức ấy nhất định phải đi đến chỗ diệt vong, nó không vượt xa hơn bộ lạc
được; liên minh những bộ lạc đã đánh dấu bước đầu của sự suy tàn của tổ chức ấy"
[Sđd, tr.146]. Ông chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng đó là vì: "ở chỗ nào không có
một hòa ước rõ ràng thì ở đó, chiến tranh xảy ra liên miên giữa các bộ lạc, và chiến
tranh đó được tiến hành với một sự tàn bạo và chỉ về sau này, do lợi ích vật chất sự
tàn bạo đó mới giảm đi đôi chút" [Sđd, tr.149]. Như vậy bằng những nghiên cứu
phân tích một cách biện chứng, Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân tan rã của xã hội thị



tộc Irôqua chính là sự phát triển của chính bản thân xã hội thị tộc đó. Một xã hội chỉ
có thể tồn tại được khi nó có sự phù hợp giữa nội dung và hình thức tồn tại của nó.
Tức là sự vận động và phát triển của xã hội về kinh tế, xã hội, văn hóa đó chính là
nội dung và hình thức là tổ chức xã hội thị tộc. Khi mà nội dung vượt quá sức chứa
của hình thức tất yếu sẽ dẫn tới phát sinh mâu thuẫn và dẫn tới sự phá vỡ hình thức
tồn tại cũ để chuyển sang hình thức tồn tại mới, một giai đoạn phát triển cao hơn của
xã hội mà cụ thể đó là khi nền kinh tế, xã hội phát triển vượt ra ngoài khuôn khổ tổ
chức của một xã hội thị tộc dưới dạng xã hội cộng sản nguyên thủy thì nó sẽ tự phá
vỡ hình thức tồn tại cũ, chật hẹp đó để xây dựng một tổ chức xã hội mới, cao hơn
phù hợp với nội dung mà nó có.
Khi nghiên cứu về tổ chức thị tộc ở Hy Lạp ở châu Âu thì Ph.Ăngghen cũng
có một nhận định trong tổ chức thị tộc bộ lạc Iroqua ở châu Mỹ ở rất xa cả về không
gian và thời gian so với thị tộc Hy Lạp ở châu Âu nhưng cũgn có tổ chức tương tự
như nhau; nó cũgn có những tính ưu việt tương tự như tổ chức thị tộc Iroqua. Cụ thể
là trong xã hội ấy cũng chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và mọi thành viên trong
xã hội đều có quyền bình đẳng, tự do nhưng tổ chức thị tộc Hy Lạp đã phát triển cao
hơn so với xã hội thị tộc Iroqua mà cụ thể là quyền bình đẳng ấy "đã phát triển lên
đến mức trở thành một đại hội thực sự của nhân dân". Đại hội này cũng do một hội

đồng là cơ quan quyền lực thường trực triệu tập để "quyết định những công việc
quan trọng Quyết định được thông qua bằng cách giơ tay hoặc bằng cách hoan hô.
Đại hội nhân dân có quyền tối hậu quyết định" [Sđd, tr.159]. Song thị tộc ấy cũng
tất yếu bị diệt vong theo quy luật.Ăngghen đã phân tích một loạt các nguyên nhân
làm tan rã của xã hội thị tộc Hy Lạp đó.
1. Do sự phát triển liên kết các bộ lạc thành những bộ tộc gần như là một dân
tộc có địa dư rộng, dân số tăng vượt ra ngoài phạm vi tổ chức của một thị tộc và
sống trong các thành thị có thành quách bảo vệ tức là liên quan tới vấn đề biên giới
và cai quản biên giới.
2. Kinh tế phát triển nhanh nhờ có sự phân công lao động, chăn nuôi tách ra
khỏi trồng trọt, thủ công tách ra khỏi nông nghiệp và như thế, của cải sản phẩm trong
xã hội tăng nhanh dẫn tới sự chênh lệch về thu nhập của cải giữa các thành viên
trong xã hội và sau đó dần hình thành giai cấp quý tộc trong nội bộ thị tộc và manh



nha hình thành giai cấp trong xã hội, đó chính là nguyên nhân thứ hai làm tan rã chế
độ xã hội thị tộc.
3. Chiến tranh liên miên giữa các bộ lạc nhằm mở rộng bờ cõi, đất đai, cướp
chiếm của cải và tù bình. Tù binh lúc đầu bị giết, bị dùng vào các cuộc tế lễ nhưng
về sau quy mô chiến tranh lớn hơn, tù binh nhiều hơn và hơn nữa là do ý thức đạo
đức trong xã hội phát triển hơn nên tù binh được giữ lại để phục dịch cho người bắt
được và đây chính là nguyên nhân làm hình thành giai cấp mới trong xã hội tức là
manh nha hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ.
4. Về mặt tổ chức, trong bộ lạc có một cơ quan thường trực với những hoạt
động tập thể và việc hình thành các quyết nghị có hiệu lực như những luật lệ chung
tức dần hình thành pháp luật.
Tất cả những nguyên nhân trên đã tác động vào tổ chức xã hội thị tộc, dần
làm thay đổi kết cấu của tổ chức xã hội thị tộc vốn có để hình thành một tổ chức xã
hội mới phát triển cao hơn buộc xã hội thị tộc phải tan rã nhường chỗ cho một thời

đại mới thích ứng với một tổ chức xã hội mới mà theo Ăngghen thì: "Chỉ còn thiếu
một điều thôi: đó là một thiết chế không những bảo vệ những của cải mà các cá nhân
vừa mới có được, chống lại những truyền thống cộng sản của chế độ thị tộc, một
thiết chế không những thần thánh hóa sở hữu tư nhân rất bị khinh rẻ, trước đây và
tuyên bố sự thần thánh hóa đó là mục đích tối cao của mọi xã hội loài người, mà còn
in dấu ấn của sự công nhận của xã hội nói chung lên những hình thức mới phát triển
nối tiếp nhau của việc kiếm được tài sản, nói một cách khác là của việc tích lũy của
cải ngày càng nhanh; một thiết chế không những kéo dài mãi sự phân chia xã hội
thành giai cấp, sự phân chia này hiện mới chớm nở, mà còn kéo dài mãi mãi quyền
của giai cấp có của bóc lột giai cấp không có của và quyền thống trị của giai cấp có
của đối với giai cấp không có của, và thiết chế đó đã xuất hiện. Nhà nước đã được
phát minh ra" [Sđd, tr.163-164].
Cùng với các nghiên cứu hết sức công phu và lập luận chặt chẽ. Ph.Ăngghen
đã chỉ ra rằng những nguyên nhân làm tan rã xã hội thị tộc chính là những nguyên
nhân làm xuất hiện nhà nước. Song để khẳng định một cách chắc chắn và lôgíc hơn
về những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước, Ăngghen đã tiếp tục tìm hiểu, phân
tích về sự ra đời và phát triển của ba hình thức nhà nước cổ là nhà nước Aten, nhà



nước La mã và nhà nước Giéc manh. Theo Ăngghen, sự ra đời của nhà nước Aten:
"là một ví dụ đặc biệt điển hình về sự hình thành nhà nước nói chung" [Sđd, tr.180].
Ông cho rằng đó là kết quả ra đời tất yếu khách quan của những điều kiện kinh tế -
xã hội ngay trong lòng xã hội thị tộc. Đó hoàn toàn là sự phát triển tiến lên một bước
cao hơn từ xã hội cộng sản nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ bởi vì như
Ăngghen kết luận về sự phát sinh ra nhà nước Aten: "Một mặt vì nó diễn ra dưới một
dạng thuần túy, không có sự can thiệp của bạo lực ở bên trong hay bên ngoài mặt
khác vì trong trường hợp này, một hình thức phát triển rất cao của nhà nước tức là
chế độ cộng hòa dân chủ đã trực tiếp xuất hiện từ xã hội thị tộc " [Sđd, tr.180]. Còn
sự ra đời của nhà nước La mã thì lại hoàn toàn khác, như trên đã trình bày, tổ chức

xã hội thị tộc ở La mã đã phát triển một cách tự nhiên và thuần túy đặc biệt là tính
dân chủ trong xã hội đã phát triển rất cao, điều đó thể hiện ở chỗ là các cơ quan đứng
đầu thị tộc có quyền hành chính đặc biệt, đều do đại hội nhân dân bầu ra và đại hội
nhân dân có quyền bãi miễn, vì thế tổ chức xã hội thị tộc của người La mã được tổ
chức một cách hết sức chặt chẽ và dần trở thành một thị tộc hùng mạnh và khi đó họ
bắt đầu mở các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi và đây chính là những nguyên
nhân sâu xa làm xã hội thị tộc Rô ma bị phá vỡ bởi vì như Ăngghen viết: "Trong lúc
đó thành La mã và lãnh thổ La mã được mở rộng ra nhờ các cuộc xâm chiếm, số dân
cư đã tăng dần lên, một phần do người ta di cư đến, một phần do dân cư ở các miền
bị chinh phục, chủ yếu là các miền Latinh " [Sđd, tr.192]. Tất cả những người dân
mới này đều ở ngoài các thị tộc và bộ lạc cũ và họ không phải là nhân dân La mã
chính cống mà họ là những người tự do về thân thể, có thể có ruộng đất, có nghĩa vụ
nộp thuế và làm các nghĩa vụ quân sự nhưng họ không được nắm một chức vụ gì và
cũng không được tham gia đại hội, các Curies, cũng không được tham gia việc cấp
phát đất đai do nhà nước đã chiếm được trong các cuộc chinh chiến. Họ hợp thành
một lớp người bình dân không có mọi quyền lợi chính trị. Song vì: "Do dân số của
họ ngày càng tăng, do đó họ được huấn luyện quân sự, được vũ trang nên họ trở
thành một thế lực đáng sợ đối lập với Populus cũ (tức dân La mã bản địa) là cái mà
nay đã đóng hẳn cửa lại không dung nạp thêm bất cứ một người nào vào nữa" [Sđd,
tr.193]. Thêm vào đó là số lượng tù binh bắt được ngày càng nhiều thông qua các
cuộc chiến tranh và họ cũng không có bất cứ quyền lợi gì. Cả hai nhóm người này,



người bình dân và người nô lệ hợp thành một lực lượng mới, lực lượng "ngoại lai"
và lực lượng này ngày càng lớn mạnh lên trở thành lực lượng đối trọng với dân bản
xứ. Khi đó tất nhiên sẽ dẫn tới xuất hiện các mâu thuẫn mà theo quy luật thì khi có
mâu thuẫn tất có đấu tranh dẫn tới cuộc cách mạng mà theo Ăngghen thì: "Người ta
chỉ có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng những cuộc đấu tranh giữa người
bình dân và Populus là nguyên nhân cuộc cách mạng đó" [Sđd, tr.193].

Đây chính là nguyên nhân trực tiếp cho ra đời nhà nước La mã. Tổ chức nhà
nước La mã đã ra đời phá vỡ tổ chức xã hội thị tộc cũ, thành lập xã hội mới bằng
một đại hội nhân dân mới, không có sự phân biệt dân ngoại lai với dân bản địa.
Trong đại hội nhân dân mới đó người ta căn cứ vào số tài sản mà mỗi người đàn ông
có nghĩa vụ cầm vũ khí có để phân chia họ thành 6 đẳng cấp trong xã hội. Trong 6
đẳng cấp đó thì 5 đẳng cấp đầu là đẳng cấp hữu sản, còn đẳng cấp cuối là đẳng cấp
vô sản. Đẳng cấp vô sản được miễn thuế và các nghĩa vụ. Mỗi đẳng cấp đó cung cấp
những Centurie với quân số 100 người thành một đơn vị biểu quyết và như thế quyền
lực tối cao của nhà nước Rô ma là đại hội của các Centurie. Với cách tổ chức lại chặt
chẽ như thế, nhà nước Lamã đã phát triển rất nhanh và thực sự trở thành một đế quốc
hùng mạnh thời bấy giờ. Cuối cùng, kết luận về sự ra đời của nhà nước La Mã,
Ăngghen viết: "Vậy là ở La Mã cũng thế, trước khi phá bỏ cái gọi là vương quyền,
người ta đã phá vỡ cái trật tự xã hội cũ dựa trên sự liên hệ cá nhân và huyết thống,
và thay vào đó, người ta lập ra một cơ cấu nhà nước mới thật sự dựa trên cơ sở phân
chia địa vực và trên sự chênh lệch về tài sản" [Sđd, tr.194].
Khi nhà nước "Cộng hòa La mã đã trở thành một nước hùng mạnh thì nó có
một sức mạnh ghê gớm, nó tổ chức các cuộc chiến tranh xâm chiếm lớn và Ăngghen
nói: " Nền thống trị thế giới của La mã giống như một cái bào, đã lướt qua khắp
các nước vùng ven biển Địa trung hải trong nhiều thế kỷ" [Sđd, tr.219]. Nền cai trị
đó đi tới đâu là quét sạch các tập quán địa phương, phá hủy những tổ chức thị tộc cổ
xưa, đồng thời cũng hủy hoại luôn cả những vết tích cuối cùng của sự độc lập của
địa phương và của dân tộc để đồng hòa những dân tộc đó trở thành những người La
mã. Với lãnh thổ rộng lớn và dân số đông đảo như thế thì việc gắn kết họ lại là một
trách nhiệm lớn của nhà nước La mã. Nhưng "Nhà nước này ngày càng trở thành
một kẻ thù và một kẻ áp bức độc ác nhất Nhà nước La mã trở thành một bộ máy



khổng lồ, phức tạp chỉ được dùng để bóp nặn thần dân". Thuế má, khổ dịch và đủ
các loại đmả phụ đã dìm quần chúng nhân dân vào cảnh bần cùng ngày càng trầm

trọng, ách áp bức bị những hành vi nhũng inhiễu của các viên thống đốc, bọn thu
thuế và lính tráng đẩy tới mức khiến người ta không thể chịu nổi được nữa" [Sđd,
tr.220].
Trong xã hội đó, tệ bóc lột tăng, quan lại nhũng nhiễu và nguy hại hơn là có
sự chia rẽ nội bộ trong các quan lại trong khi đó sản xuất lại đình đốn và cuối cùng
như Ăngghen nhận xét "bần cùng hóa phổ biến: sự suy tàn của thương nghiệp, của
thủ công nghiệp , của nghệ thuật, tình trạng giảm sút dân số, sự suy tàn của thành thị,
tình trạng nông nghiệp quay trở lại mức thấp trước kia - Đó là kết quả cuối cùng của
sự thống trị có tính chất thế giới của La mã" [Sđd, tr.221] và khi mà nhà nước La mã
suy yếu, bất lực thì nó trở thành miếng mồi ngon cho "những người dã man Giéc
manh".
Sự ra đời của nhà nước Giécmanh là sự ra đời trong trường hợp đặc biệt,
không phải là kết quả tất yếu của những biến đổi kinh tế - xã hội mà là kết quả của
những hành động bạo lực.
Thị tộc người Giécmanh sống ở ven sông Đannuy - Ranh, phía Bắc biển Ban
tích. Các dân tộc này có sự tiến hóa chậm hơn so với các dân tộc La mã. Thị tộc
người Giéc manh được tổ chức theo chế độ mẫu quyền. Nền kinh tế được tổ chức
thành những công xã gia đình lớn bao gồm nhiều thế hệ và canh tác trên những vùng
đồng bằng rộng lớn với tài sản là những đàn gia súc đông nhưng giống xấu và bé.
Trang phục còn thô sơ, tập quán giết người tế lễ vẫn còn thậm chí có một số bộ tộc
còn có tục lệ ăn thịt người.
Tóm lại, khi nhận xét về người Giéc manh, Ăngghen viết ở đây chúng ta thấy
đó là một dân cư vừa mới tiến từ giai đoạn giữa lên giai đoạn cao của thời đại dã
man. Tuy nhiên các nghề tiểu thủ công nghiệp như luyện kim, đúc đồng, chế tạo vũ
khí bằng kim loại của họ lại phát triển cao và dần vượt hẳn người La mã.
Về tổ chức thị tộc người Giécmanh cũng có cách quản lý giống như tổ chức
quản lý đã phát triển của người Hy Lạp. Đó là tổ chức quản lý phát triển mà chế độ
thị tộc có thể tạo nên là cách tổ chức kiểu mẫu của giai đoạn cao của thời đại dã
man. Người Giéc manh có tổ chức vũ trang được chú trọng và phát triển. Cùng với




đặc tính dã man của họ, người Giécmanh liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh mở
rộng bờ cõi xuống phía nam và khi mà nhà nước La mã đã đi vào chỗ suy tàn như đã
nêu ở trên thì các bộ tộc Giécmanh lớn mạnh không ngừng đã dần thiết lập chế độ
vương quyền thay thế dần và cuối cùng đã lật đổ nhà nước La mã, thiết lập nên nhà
nước Giécmanh.
Tóm lại, bằng những nghiên cứu tỉ mỉ công phu cùng những lập luận hết sức
lôgíc và biện chứng trong tác phẩm, Ăngghen đã mô tả, đã dựng lại quá trình hình
thành 3 nhà nước cổ điển, điển hình. Cuối cùng ông kết luận: "Trên đây, chúng ta đã
nghiên cứu riêng rẽ 3 hình thức chủ yếu trong đó nhà nước đã được dựng lên trên
đống hoang tàn của chế độ thị tộc. Aten là hình thức thuần túy nhất, cổ điển nhất: ở
đây, nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập giai cấp đã phát
triển ngay trong nội bộ xã hội thị tộc. ở La Mã, xã hội thị tộc biến thành một tầng
lớp quý tộc biệt lập, giữa một đám bình dân đông đảo sống ngoài xã hội thị tộc đó và
chỉ có một gánh nặng nghĩa vụ mà không có quyền lợi. Thắng lợi của giới bình dân
đã làm nổ tung chế độ thị tộc cũ và trên đống hoang tàn của chế độ thị tộc đó, nó
dựng lên một nhà nước, trong đó bọn quý tộc thị tộc và người bình dân không bao
lâu đều sẽ hoàn toàn hòa tan mất. Cuối cùng, ở người Giécmanh chiến thắng đế quốc
La mã, nhà nước nảy sinh với tư cách là kết quả trực tiếp của việc chinh phục những
miền đất đai rộng lớn cuả người khác, mà muốn thống trị thì chế độ thị tộc lại không
cung cấp được một phương tiện nào để thống trị những đất đai ấy" [Sđd, tr.251-252].
Và cuối cùng ông khẳng định: "Vậy, nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ
bên ngoài áp đặt vào xã hội. Nó cùng không phải là cái "hiện thực của ý niệm đạo
đức" là "hình ảnh hiện thực của lý tính" như Hêghen khẳng định. Đúng ra, Nhà nước
là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định; đó là sự thú
nhận rằng xã hội đó bị lúng túng trong một mối mâu thuẫn với bản thân nó mà không
sao giải quyết được, rằng xã hội đó bị phân chia thành những mặt đối lập không thể
điều hòa mà xã hội đó bất lực không sao từ bỏ được. Nhưng muốn cho những mặt
đối lập đó những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó không đi đến chỗ

tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần
phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng "trật tự".



Và lực lượng đó nảy sinh ra từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội và ngày càng xa
rời xã hội, chính là nhà nước" [Sđd, tr.252-253]. Và sau đó Ăngghen phân tích và chỉ
rõ nhà nước có những đặc trưng và bản chất riêng của nó. Theo ông thì nhà nước có
hai đặc trưng chủ yếu, đó là có sự phân chia dân cư theo lãnh thổ để cai quản mà
Ăngghen gọi đó là sự "phân chia thần dân theo sự phân chia địa vực", bởi vì những
liên minh thị tộc cũ hình thành và được duy trì bởi những quan hệ huyết tộc đều
không còn thích hợp nữa và địa vực còn đó song dân cư thì đã trở nên di động hơn
cho nên nhà nước phải phân chia dân cư theo địa vực để cai quản. Mọi người dân
không phân biệt họ thuộc thị tộc hay bộ tộc nào nếu ở trong lãnh thổ đó đều được
hưởng quyền và nghĩa vụ công dân mà nơi họ ở và điều đó đã được tất cả các quốc
gia thừa nhận.
Đặc trưng thứ hai của nhà nước đó "là sự thiết lập một quyền lực công cộng,
quyền lực này không còn trực tiếp ăn khớp với dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ
trang nữa". Đây rõ ràng là một đặc trưng không có trong xã hội thị tộc. Để tăng thêm
uy quyền của mình với thần dân, với xã hội, để có thể quản lý xã hội được chặt chẽ
hơn thì nhà nước đã tạo ra một công cụ sắc bén là pháp luật với các cơ quan cưỡng
bức là nhà tù, cảnh sát và lực lượng vũ trang. Để duy trì quyền lực công cộng đó thì
nhà nước đã đẻ ra thuế má buộc thần dân phải đóng góp và khi đã có quyền lực công,
có quyền thu thuế rồi thì bọn quan lại với tư cách là người đại diện cho thần dân, với
tư cách là những cơ quan của xã hội đã được đặt lên trên xã hội, tựa hồ như đứng
trên xã hội. Lòng tôn kính của thần dân đối với các cơ quan của xã hội thị tộc trước
kia đối với quan lại ngày nay không đủ nữa nên bây giờ họ phải làm cho thần dân
phải kính trọng họ bằng những đạo luật đặc biệt khiến họ đặc biệt trở nên thần thánh
và bất khả xâm phạm và Ăngghen đã ví von rất hay là: "Viên cảnh sát tồi nhất của

nhà nước văn minh vẫn có quyền uy hơn tất cả những cơ quan của xã hội thị tộc
cộng lại, nhưng một vị vương công có thế lực nhất, một chính khách hoặc một vị chỉ
huy quân sự lớn nhất của thời đại văn minh có thể ganh tị với một vị thủ lĩnh thị tộc
nhỏ nhất về sự tôn kính tự nguyện và không thể tranh cãi được mà vị thủ lĩnh ấy
được hưởng" [Sđd, tr.254-255].
Về bản chất, Ăngghen khẳng định: "Nhà nước là nhà nước của giai cấp có
thế lực nhất, của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, và nhờ có nhà nước, giai cấp này



cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những thủ
đoạn mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức Nhà nước là một tổ chức của giai
cấp có của, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp không có của" [Sđd,
tr.255-256].
Như vậy là trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, với quá trình tìm
hiểu, nghiên cứu tỉ mỉ và công phu, sự phân tích vấn đề một cách biện chứng, khoa
học cộng với kinh nghiệm thực tiễn hoạt động sôi động của mình, Ăngghen đã khái
quát và cho chúng ta thấy nguồn gốc và quá trình hình thành, những đặc trưng và
bản chất của nhà nước một cách rõ nét và sống động và cũng trên quan điểm Mác xít
ấy về thế giới là vận động và biến đổi không ngừng, Ăngghen đã phân tích và đưa ra
những tiên đoán của mình về nhà nước và tổ chức xã hội trong tương lai, khi mà lực
lượng sản xuất đã phát triển cao, khi mà giai cấp bị áp bức tức giai cấp vô sản trưởng
thành để có thể tự giải phóng mình và giải phóng cho mọi người bị bóc lột trong xã
hội thì khi đó giai cấp sẽ tự tiêu vong và như thế nhà nước cũng phải tiêu vong theo.
Ăngghen viết: "Nhà nước tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có
những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và
chính quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn
tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp, thì sự phân chia đó
làm cho nhà nước trở thành một tất yếu. Bây giờ chúng ta đang bước nhanh đến gần
một giai đoạn phát triển sản xuất, trong đó sự tồn tại của những giai cấp nói trên

không những không còn là một sự tất yếu nữa, mà đã trở thành một trở ngại trực tiếp
cho sản xuất. Những giai cấp đó nhất định sẽ mất đi cũng như xưa kia, chúng nhất
định phải xuất hiện. Giai cấp mất đi thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong
theo. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa
những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật sự
của nó lúc bấy giờ. Tức là vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu
bằng đồng" [Sđd, tr.257-258].
Bốn là: Mục đích các cuộc cách mạng trong lịch sử và công cuộc xây
dựng CNXH và CNCS
Theo Ph.Ăngghen, từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô
lệ, xã hội loài người đã thực hiện được một cuộc cách mạng với mục đích kinh tế là



xác lập quyền sở hữu - quyền tư hữu và thúc đẩy sản xuất phát triển. Cuộc cách
mạng này được thực hiện dần dần từ sự phát triển của sản xuất, của kinh tế đến sự
thay đổi quan hệũh, quan hệ gia đình, quan hệ thị tộc và cuối cùng là đến sự thay đổi
về chính trị. Ph.Ăngghen khẳng định "từ trước tới nay, tất cả mọi cuộc cách mạng
đều là những cuộc cách mạng nhằm bảo hộ một loại sở hữu này chống lại một loại
sở hữu khác. Những cuộc cách mạng đó không thể bảo hộ loại sở hữu này mà lại k o
làm thiệt hại đến loại sở hữu kia Và thật vật tất cả những cuộc cách mạng gọi là
những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng đầu tiên đến cuộc cách mạng
cuối cùng đều được tiến hành để bảo hộ sở hữu thuộc một loại nào đó và đều được
thực hiện bằng cách tịch thu, cũng còn được gọi là một cách khác là ăn cắp, một loại
sở hữu khác. Thật hoàn toàn đúng là từ hai nghìn năm trăm năm nay, sở hữu tư nhân
chỉ có thể được duy trì bằng cách xâm phạm vào quyền sở hữu mà thôi" [Sđd, tr.273-
274].
Chế độ phong kiến ra đời, thay thế chế độ nô lệ, theo Ph.Ăngghen đó cũng là
một cuộc cách mạng trong lịch sử mà nguyên nhân là do sự phát triển của kinh tế,
với mục đích kinh tế. Đó cũng là một sự thay đổi từ chế độ sở hữu tư nhân này sang

chế độ sở hữu tư nhân khác.
Khi chế độ phong kiến ra đời nó đè nặng lên mọi giai tầng trong xã hội, trở
thành rào cản sự phát triển sản xuất trong xã hội thì việc chế độ tư bản thay thế nó là
một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, là sự thay đổi
chế độ sở hữu phong kiến bằng chế độ sở hữu tư sản. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng
"trong cuộc đại cách mạng Pháp, người ta hy sinh sở hữu phong kiến để cứu sở hữu
tư sản" [Sđd, tr.173]. Tiếp đến ph.Ăngghen phân tích chế độ tư sản với những mâu
thuẫn ikt, giai cấp, xã hội đang diễn ra. Trong xã hội đó con người đã trở thành hàng
hóa, sức vận động của con người được đem trao đổi và tiêu dùng, người lao động
vẫn là con người nô lệ chỉ khác trước kia là nô lệ hiện đại mà thôi. Cùng với sự
khủng hoảng về kinh tế, tình trạng m âu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc và đấu
tranh giai cấp không ngừng tăng lên. Nhà nước tư sản hiện đại dù được ngụy trang
khéo léo dưới hình thức "nền cộng hòa dân chủ", phổ thông đầu phiếu, bình đẳng
bắc ái thì nhà nước tư sản vẫn không thể che đậy bản chất giai cấp của nó. Đó là nhà
nước tư sản, là cơ quan quyền lực của giai cấp tư sản và nền dân chủ hình thức, giả

×