Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN: Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.36 KB, 96 trang )


















LUẬN VĂN:


Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn






mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài


Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn
biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều
cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh -
chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung và công
tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân (theo số liệu thống kê của
Tòa án nhân dân tối cao, tuy số lượng án oan có giảm dần, nhưng vẫn còn: năm 2002 toàn
bộ ngành Tòa án có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2003 chỉ còn 7 trường hợp, năm 2004
còn 5 trường hợp), gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân và xã
hội. Có người vì bị kết tội oan nên đang là chủ doanh nghiệp tư nhân mà sau khi bị kết án
phải làm thợ mộc để kiếm sống qua ngày, trường hợp khác đã ở tù một thời gian, bị người
thân xa lánh, đầy mặc cảm với xã hội, đến khi kẻ phạm tội đích thực nhận tội mới được trở
về; còn có người vì bị kết án oan nên không biết bao nhiêu năm, tháng miệt mài đưa đơn
đi tìm công lý Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội không tốt, khiến nhân dân thiếu
lòng tin vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002 được xem
như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết này đề cập nhiều
nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến
việc đào tạo cán bộ tư pháp, nhưng tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử
vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của
Nghị quyết. Theo đó, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của công
lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ quan tư



pháp là làm thế nào để đạt được những yêu cầu đó. Trong nỗ lực chung, thì việc nghiên
cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là cần thiết.

Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề
tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Tranh tụng trong tố tụng hình sự" của tác giả
Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố
tụng hình sự Việt Nam" - Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995; bài "Về tranh tụng
tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số
5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong Tạp chí Kiểm
sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc san
nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và
TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác giả (Nxb Đại học
quốc gia, 2004) Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên
quan tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi mới
hoạt động xét xử của ngành Tòa án Việt Nam theo hướng tranh tụng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố
tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời góp phần làm sáng tỏ
về mặt lý luận, tác giả chọn đề tài: " Tranh tụng tại phiờn tũa - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn " làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và
thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn tồn tại
của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, thông qua đó đề xuất những giải
pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hướng tới xây dựng
một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải cách
tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:



1- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa như: khái
niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa; Cơ sở pháp lý quy định

về tranh tụng tại phiên tòa; ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa.
2- Sơ lược về lịch sử các qui định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh
tụng tại phiên tòa.
3- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam những năm
gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa.
4- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh tụng tại
phiên tòa luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở
các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ
không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề tranh
tụng tại phiên tòa.
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa dưới
góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, và chỉ ra
vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế định này, trên cơ sở khảo sát thực
trạng xét xử từ ngày 01/01/1989 (ngày có hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự
1988) đến hết ngày 31/6/2004 (ngày hết hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự
1988) và chất lượng phiên tòa hình sự từ sau ngày Nghị quyết 08/NQ-TW ra đời. Từ đó
đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt Nghị quyết 08/NQ-TW, nâng
cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài



Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương

pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; phương
pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến với những chuyên gia đầu ngành, những người làm công
tác thực tiễn lâu năm); phương pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tòa
hình sự.
5. Những điểm mới của luận văn
Là công trình đầu tiên đề cập và giải quyết vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, luận
văn có những điểm mới sau:
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tòa, góp phần nâng cao nhận
thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
2- Luận văn khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá
thực trạng áp dụng các quy định đó khi xét xử và chỉ ra những hạn chế tồn tại trong hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tồn
tại đó.
3- Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, về cơ chế tổ chức, về đội ngũ cán bộ
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự mà luận văn đưa ra sẽ
giúp ích cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng nâng cao hiệu
quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Tranh tụng tại phiên tòa trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự.



Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa.




Chương 1
tranh tụng tại phiên tòa
trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

1.1. tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng tranh tụng
1.1.1. Đặc điểm của tố tụng tranh tụng
Trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống tố tụng chủ yếu là: tố tụng tranh tụng và tố
tụng xét hỏi. Tố tụng xét hỏi được sử dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống luật CIVIL
LAW (các nước Pháp, Italia, Đức, ), còn tố tụng tranh tụng là thủ tục tố tụng được áp
dụng rộng rãi ở các nước theo hệ thống luật án lệ COMMON LAW (các nước Anh, Mỹ,
ấn Độ, Austraylia, New Zealand ). Theo các nhà nghiên cứu về nhà nước và pháp luật
thì tố tụng tranh tụng đã xuất hiện rất sớm, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, sau đó du nhập
vào La Mã với tên gọi là thủ tục hỏi đáp liên tục (Procédure des questions perpétuelles)
và trở nên phổ biến tại Anh và nhiều nước khác.
Trong tố tụng tranh tụng tùy theo tính chất, mức độ của từng vụ mà có những thủ
tục tố tụng tương ứng: Nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường những tội
có mức hình phạt cao nhất dưới 5 năm tù) sau khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự,
cảnh sát có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra tòa chỉ có một Thẩm phán. Nếu là tội nghiêm
trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra tòa xét
xử theo thủ tục rút gọn hoặc thủ tục xét xử không có Bồi thẩm đoàn.
Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có Bồi thẩm
đoàn, vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra tòa với một Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn.
Tại phiên tòa xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng để cho các
bên buộc tội (Công tố viên nhân danh Nhà nước) và gỡ tội (bị cáo, Luật sư bào chữa cho
bị cáo) tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, tự đối chất, phản bác nhau và tự
bảo vệ quan điểm của mình; đồng thời cũng hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những quy tắc
tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Đáng chú ý, Thẩm phán có vai trò điều khiển các bên
tham gia phiên tòa để đảm bảo những thông tin về chứng cứ đưa ra không tạo nên định




kiến (prejudice) đối với Bồi thẩm đoàn. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn
toàn thuộc quyền hạn của Bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó chỉ có Thẩm
phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị cáo
được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được quyền
kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc (Hiến pháp) không cho phép xét xử hai lần (Double
jeopardy) đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả hai
bên khi bị cáo bị tuyên có tội liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình. Các thủ tục tố
tụng như hỏi cung, khám nghiệm, hay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi
âm hoặc ghi hình và nếu có tranh chấp hay mâu thuẫn giữa các bên về tính đúng đắn và
chính xác thì các bản ghi âm sẽ được đưa ra để Tòa án và các bên cùng xem lại [39].
Qua nghiên cứu thì tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu: Tố tụng tranh
tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, sự tập trung
nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố
viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi Luật
tố tụng hình sự [15, tr. 256]. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy
đủ nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, mọi điều tra của Luật sư và của
cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp thu thập
chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét
đánh giá của Hội đồng xét xử thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho
vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Tòa án.
Chính vì việc điều tra tại phiên tòa là chủ yếu, thông qua việc xem xét đánh giá chứng cứ
do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất dài và triệu tập
nhiều nhân chứng.
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng
rõ rệt - bên buộc tội và bên bị buộc tội: Trong tố tụng tranh tụng, Viện công tố và Luật sư
hoàn toàn bình đẳng nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng
để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Viện
công tố dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa ra các quan




điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị cáo và
những Luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho phép để
phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại
phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc biệt coi
trọng nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp
dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học công
nghệ phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi âm hoặc
ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể được tiến hành qua điện thoại hội nghị
(Conference call) và cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét xử một vụ án ở một nơi
có thể nghe lời khai trực tiếp của một người làm chứng ở một nơi khác [41, tr. 5-7].
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài: Do thủ tục tranh tụng không
có giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình
tranh tụng giữa công tố viên và bị cáo, Luật sư. Thẩm phán ở các nước theo thủ tục này
không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Đây cũng là điểm khác
so với tố tụng xét hỏi nơi mà trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu
thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng
xét hỏi không phải là một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng
tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể sẽ trực tiếp chất vấn nếu như lời khai
của bị cáo còn có mâu thuẫn hay bị cáo chối tội. Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển
của Chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia
tố tụng khác đều phải thông qua Chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó, tại phiên tòa theo tố
tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những
người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản
đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Thứ tư, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố

tụng: Quy tắc tố tụng (rule of procedures), quy tắc chứng cứ (rule of evidence) và quy tắc
về ứng xử của Luật sư (rule of counsel). Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng cứ có
ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những



người có thẩm quyền quyết định (decision maker) hay nói cách khác, nó quyết định
chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cả Thẩm phán cũng không được tự do lựa
chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã
được quy định. Quy tắc về chứng cứ được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong tranh
tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệch hoặc có
thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết. Nếu coi tố tụng tranh
tụng là một cuộc đấu giữa hai bên có tranh chấp, thì nó đòi hỏi các bên tham gia tố tụng,
nhất là cơ quan cảnh sát và công tố phải triệt để tuân thủ các quy tắc đã được luật quy
định đó và trao thẩm quyền cho Tòa án là cơ quan phải đảm bảo yêu cầu đó trong quá
trình xét xử.
Tố tụng tranh tụng được thực hiện trực tiếp, bằng lời nói nên nhiều tài liệu trong
tố tụng xét hỏi được xem là những chứng cứ quan trọng của vụ án thì trong tố tụng tranh
tụng lại không được công nhận là chứng cứ. Tuy nhiên, để làm rõ các tài liệu liên quan
đến vụ án, chủ nhân của nó sẽ được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày trước tòa.
Thứ năm, ở tố tụng tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn: Do
vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng là người trọng tài nên thông thường phải
có Bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng. Đoàn bồi thẩm không tham gia vào quá trình tranh
tụng nhưng họ có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó Thẩm
phán sẽ quyết định về vụ án. Đây là điểm khác biệt so với tố tụng thẩm vấn, trong tố
tụng thẩm vấn Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc bị cáo có
tội hay không có tội, quyết định cả về việc lượng hình đối với bị cáo, ở thủ tục tố tụng
thẩm vấn Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm nhân dân.
Thứ sáu, yếu tố thú tội và thỏa thuận thú tội (pleas of guilty and plea-
bargaining): ở nhiều vụ án cơ quan cảnh sát và công tố không thể tìm ra đủ chứng cứ để

có thể "thắng" tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên luật pháp có những quy
định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ quan công tố thỏa thuận
để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể
được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt sau này khi Tòa án
lượng hình (ví dụ, nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu, mức giảm là một phần ba mức



hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội được diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện
công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Thông thường, cảnh sát và cơ quan công tố thông
báo cho bị cáo biết đã có những bằng chứng gì về hành vi phạm tội của họ, trên cơ sở đó
bị cáo sẽ tham khảo ý kiến Luật sư và cân nhắc có nhận tội hay tiếp tục không khai báo
hoặc chỉ khai báo trong phạm vi nhất định để sau này ra Tòa sẽ phản bác lại việc buộc
tội. Tòa án không tham gia vào thủ tục này vì Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ
án và bị cáo do cơ quan công tố hay cảnh sát đưa ra truy tố. Cơ chế này tác động tới trình
tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, toàn bộ thủ tục đối với
bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn "tranh tụng" nữa và lúc đó chỉ còn là trách
nhiệm của Thẩm phán phải thẩm tra lại hồ sơ vụ án và đưa ra hình phạt thích hợp. Tòa án
không có trách nhiệm đối với việc cơ quan Công tố bỏ lọt người hay lọt tội, không truy tố
một tội phạm mà chỉ xét xử những tội phạm do cơ quan Công tố truy tố ra tòa [39, tr. 26-
29]. Tất nhiên, với vai trò không những là cơ quan áp dụng pháp luật và thực thi pháp
luật mà còn là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân chống
lại những lạm dụng quyền lực, bất công, đảm bảo niềm tin của công chúng vào công
bằng và bình đẳng Tòa án sẽ có trách nhiệm đối với việc đưa ra các bản án một cách
đúng đắn chứ không chỉ đơn thuần dựa vào tài liệu trong hồ sơ trong các vụ án không xét
xử bằng Bồi thẩm đoàn. Nhưng rõ ràng là ở những trường hợp đó, trách nhiệm của Tòa
án trong thủ tục tố tụng tranh tụng không nặng nề bằng Tòa án ở các nước theo thủ tục tố
tụng xét hỏi với tư cách là khâu phán quyết thẩm tra cuối cùng của giai đoạn tố tụng, Tòa
án ở những nước này có quyền khởi tố ngay tại phiên tòa, có quyền xét xử bị cáo theo
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một

tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (ở Việt Nam). Và như vậy,
Tòa án sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng nếu bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người
vô tội.
Hệ tố tụng xét hỏi nhấn mạnh phương pháp điều tra, thẩm vấn trong toàn bộ quá
trình tố tụng từ khi khởi tố đến xét xử. Hệ tranh tụng lại chú trọng vào hoạt động đối tụng
giữa các bên trong giai đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ để đảm bảo
rằng bị cáo được xét xử một cách công bằng. Nếu như ở hệ tố tụng tranh tụng vai trò của
Tòa án là thụ động, quá trình thẩm vấn của Thẩm phán ngay tại phiên tòa cũng chỉ mang



tính chất gián tiếp thì Tố tụng xét hỏi luôn đề cao vai trò chủ động của Thẩm phán trong
các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Trong hệ tố tụng tranh tụng không có sự phân
chia thành các giai đoạn tố tụng rõ rệt như trong hệ tố tụng xét hỏi nên chứng cứ trong tố
tụng tranh tụng phải tuân theo quy tắc chứng cứ (rule of evidence) ngay cả Thẩm phán
cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất.
Viện công tố ở những nước theo thủ tục tố tụng tranh tụng có quyền hạn không
lớn bằng ở những nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi nên trong quá trình giải quyết vụ án
nghĩa vụ của các bên đặt ra ngang nhau. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng là một cuộc
đấu giữa hai bên buộc tội - bên gỡ tội, Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn là trọng tài; nhưng
phiên tòa trong tố tụng xét hỏi nhiều khi rơi vào tình trạng diễn lại những gì đã được thực
hiện trước đó, trên cơ sở đó Hội đồng xét xử khẳng định lại các tình tiết, các chứng cứ để
ra bản án. Các nước theo thủ tục tranh tụng gọi phiên tòa của tố tụng xét hỏi là các phiên
họp. Vai trò của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đều bị chi phối thông qua
vai trò của Thẩm phán [41, tr. 5-7]. Thẩm phán trực tiếp xét hỏi và phát triển sự kiện theo
cách của mình còn các bên chủ yếu chỉ tranh luận để giải thích những gì liên quan đến
các cứ liệu của vụ án.
1.1.2. Tranh tụng tại phiên tòa
1.1.2.1. Đặc điểm phiên tòa trong tố tụng tranh tụng
Tranh tụng tại phiên tòa là quá trình đấu tụng diễn ra giữa hai bên buộc tội và bên

gỡ tội xung quanh việc bảo vệ quan điểm giải quyết vụ án của mình trong quá trình xét
xử từ khi mở phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa. Theo đó, dưới sự chủ trì của Hội
đồng xét xử các bên đưa ra những lý lẽ và chứng cứ nhằm bảo vệ quan điểm của mình.
Việc tranh luận được diễn ra công khai trực tiếp, liên tục và bằng miệng. Kết quả của
việc đấu tụng đó có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, so với phiên tòa
của hệ tố tụng xét hỏi thì phiên tòa trong tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
Phiên tòa là trung tâm và duy nhất của hoạt động tố tụng: Tố tụng tranh tụng
không chia thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà sau khi phát hiện vi
phạm pháp luật hình sự cơ quan công tố sẽ truy tố bị cáo ra tòa với một tội danh, nếu bị
cáo thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi thì Luật sư sẽ tham gia tranh tụng khi xét xử. Đây là



giai đoạn duy nhất có sự tham gia đầy đủ của cả bên buộc tội, bên gỡ tội và cơ quan xét
xử có thẩm quyền. Thông qua sự tập trung một cách công khai minh bạch, các chứng cứ,
lý lẽ của hai bên gỡ tội và buộc tội chuẩn bị trước đó mới được Tòa án kiểm chứng và
thừa nhận. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất [15, tr. 256-257], nên mọi hoạt
động tố tụng được tập trung nhất vào phiên tòa. Và như thế, chỉ có thể thông qua quá
trình hỏi đáp, chất vấn, tranh luận tại phiên tòa, Tòa án mới xem xét và đánh giá bị cáo có
tội hay không ở mức độ nào mà có phán quyết.
Hình thành lợi ích đối kháng rõ rệt giữa hai bên tại phiên tòa: Như trên đã phân
tích, tại phiên tòa các bên sẽ phải đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ cho luận điểm của
mình. Bên buộc tội là Viện công tố đại diện cho Nhà nước và bên gỡ tội là bị cáo và
người bảo vệ quyền lợi cho họ sẽ phải chất vấn, tranh luận với nhau để Tòa án nhận định.
Bên nào đưa ra được những chứng cứ, lý lẽ thuyết phục hơn thì sẽ được Tòa án chấp
nhận, đây là cuộc đấu theo đúng nghĩa của nó - không có sự nhượng bộ và như thế quyền
lợi của hai bên tại phiên tòa là đối lập nhau.
Tại phiên tòa Thẩm phán giữ vai trò là người trọng tài: Trong cuộc đấu giữa hai
bên buộc tội và gỡ tội, Tòa án sẽ không can thiệp trừ khi việc tranh luận ra ngoài nội
dung của vụ án. Đây là quá trình tranh luận cam go và có tính quyết định nên việc để cho

các bên tranh luận tự do là để đảm bảo cho quyền tranh tụng của họ, đảm bảo mọi tình
tiết của vụ án đều được đề cập đến; Tòa án trực tiếp tham gia xét hỏi sẽ bị coi là thiên vị
một bên nào đó. Vai trò của Tòa án tại phiên tòa là trung lập, xem xét đánh giá những
chứng cứ, lập luận của mỗi bên để có quyết định cụ thể.
Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng thường rất dài, triệu tập nhiều nhân chứng:
Trong tố tụng tranh tụng khi đã phải mở phiên tòa có Bồi thẩm đoàn thì cũng có nghĩa là
tính chất phức tạp của vụ án đã thấy rõ. Tại phiên tòa Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán mới
được biết chứng cứ, cũng như là các luận chứng mà mỗi bên đưa ra. Vừa do tính phức
tạp, vừa do phải thẩm tra đánh giá chứng cứ một cách tỷ mỉ và công nhận từng phần nên
phiên tòa thường kéo dài, cá biệt có trường hợp phiên tòa tới một năm. Tại phiên tòa việc
điều tra mới chính thức được Tòa án tiến hành nên nhân chứng đã được cảnh sát lấy lời
khai vẫn phải ra tòa làm chứng, đây là những người không thể thiếu trong phiên tòa của



tố tụng tranh tụng, khác hẳn với tố tụng xét hỏi là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể
căn cứ lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra để quyết định, vì vậy tại phiên
tòa sự tham gia của người làm chứng thường là đông, có phiên tòa triệu tập tới 600 người
[13, tr. 6].
Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có vị trí ngồi khác nhau cũng
như chức năng công việc: Trong tố tụng xét hỏi, tại phiên tòa Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân ngồi cùng một bàn và họ ngang quyền với nhau khi xét xử cũng như khi đưa ra
những phán quyết. Nhưng trong tố tụng tranh tụng, Bồi thẩm đoàn ngồi ở vị trí khác với
Thẩm phán chủ tọa họ chỉ có quyền nghe và công nhận bị cáo có tội hay không có tội,
còn việc định tội danh và quyết định hình phạt là của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
1.1.2.2. Điều kiện để tranh tụng tại phiên tòa
Để xác định sự thật khách quan của vụ án thì phiên tòa phải đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng, và như thế cần phải có những cơ chế, điều kiện nhất định để thực hiện:
Trước hết, tham gia vào quá trình tranh tụng bao giờ cũng phải có ba chủ thể
của quan hệ tranh tụng. Một bên là Công tố viên nhân danh Nhà nước thực hành quyền

công tố (bên buộc tội) và một bên là Luật sư, bị cáo (bên gỡ tội) và bên kia là thẩm phán
và bồi thẩm đoàn. Quá trình tranh tụng phải được diễn ra và tiến hành theo đúng những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự cả về hình thức, nội dung cũng như về không gian
và thời gian. Trong quá trình này từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa, vai
trò trung tâm và quyết định luôn luôn thuộc về Hội đồng xét xử, Thẩm phán Chủ tọa phải
đóng vai trò là người điều khiển, không can thiệp vào nội dung tranh tụng nhưng phải
đánh giá, nhận định và xem xét để quyết định chính xác và đúng đắn. Theo tác giả, quá
trình tranh tụng chỉ có ý nghĩa đầy đủ nhất khi có đầy đủ và đồng thời các chủ thể của
quan hệ tranh tụng trong tố tụng hình sự và được thể hiện bằng phán quyết cuối cùng của
Tòa án.
Thứ hai, để việc tranh tụng đạt kết quả cao thì các bên buộc tội và gỡ tội phải có
trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp, có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong quá
trình tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, trình độ năng lực của những người tham gia tranh
tụng có ảnh hưởng rất lớn, nếu trình độ năng lực chênh lệch giữa bên buộc tội và bên gỡ



tội thì hiển nhiên tranh tụng không mang lại hiệu quả cao. Công tố viên là bên buộc tội vì
vậy không chỉ việc chuẩn bị chu đáo các tài liệu, nghiên cứu kỹ càng vụ án mà trình độ tư
duy lý luận cao là đòi hỏi quan trọng. Quá trình nghiên cứu hồ sơ cũng chưa hoàn toàn
đánh giá được hết tính chất mức độ vụ án và càng không thể căn cứ vào đó để có lời luận
tội; chỉ có thể qua quá trình thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa mà Kiểm sát viên buộc tội
một cách khách quan, thuyết phục, vì vậy đòi hỏi Kiểm sát viên phải có trình độ cũng
như kinh nghiệm tham gia tranh tụng. Vai trò của Luật sư, người bào chữa trong tranh
luận là hết sức quan trọng, bởi tính chất công việc của Luật sư là một bên trong quá trình
tranh tụng, đồng thời Luật sư có được những quyền tố tụng cho phép để điều tra thu thập
chứng cứ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Vì vậy, không chỉ năng lực trình độ của
Luật sư, mà đạo đức nghề nghiệp của họ cũng có ảnh hưởng lớn đến việc tận lực cho
công việc bào chữa, đến quá trình tranh tụng.
Nếu trong suốt quá trình trước khi mở phiên tòa xét xử cả hai bên Công tố viên

và bị cáo - Luật sư bào chữa cho bị cáo không có sự chuẩn bị kỹ, không dự trù trước
những tình huống có thể xảy ra trong quá trình tranh tụng thì đến khi tranh luận họ sẽ
có thể bị đuối lý và tất nhiên phán quyết của Tòa án sẽ trên cơ sở của bên thuyết phục.
Vì vậy, tự bản thân hai phía buộc tội và gỡ tội sẽ phải có sự chuẩn bị cho quá trình
tranh tụng của mình và luật pháp cũng có những quy định để đảm bảo cho quá trình
chuẩn bị thu thập chứng cứ của các bên, đảm bảo cho việc tranh tụng đạt kết quả cao
nhất. Hai bên buộc tội và gỡ tội không chỉ chuẩn bị kỹ càng về lý lẽ, về chứng cứ được
thu thập trong suốt quá trình trước khi mở phiên tòa mà còn tự đánh giá xem những
luận điểm nào còn yếu, dự trù những tình huống có thể xảy đến trong quá trình tranh
luận để đến khi ra tranh tụng đạt được kết quả theo mong muốn.
Thứ ba, để quá trình tranh tụng đạt kết quả tốt thì cần có một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh và các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có vai
trò rất lớn trong việc tạo ra điều kiện cho quá trình tranh tụng, ở những nước áp dụng hệ
thống tố tụng tranh tụng - theo nhiều chuyên gia - là những nước có nền văn hóa pháp lý
cao của toàn xã hội [6, tr. 246-251]; và thực tế cũng cho thấy, để áp dụng được tranh tụng
tại phiên tòa cần có sự đồng bộ của các ngành luật riêng lẻ, đầy đủ và chặt chẽ để tạo ra
cơ chế cho tranh tụng.



Bên cạnh đó, về cơ sở vật chất như phòng xử án phải đáp ứng các điều kiện về
tính trang nghiêm, đảm bảo các phương tiện kỹ thuật như ánh sáng, âm thanh, đảm bảo
phòng cách ly nhân chứng, bị cáo, thậm chí có cả Camera để đảm bảo tính công khai dân
chủ. Quá trình chuẩn bị phiên tòa phải tốt, bởi lẽ chỉ khi triệu tập đầy đủ những người
tham gia tố tụng đến phiên tòa thì mới có điều kiện đầy đủ để tiến hành việc tranh tụng
được tốt. Trường hợp vắng mặt một số người tham gia tố tụng sẽ gây nên tốn kém, làm
cho phiên tòa phải hoãn hoặc phải xử dài ngày, làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử.
1.1.2.3. Yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa
Tranh tụng tại phiên tòa phải đảm bảo tính dân chủ, công khai nhưng vẫn thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Đây là yêu cầu xuyên suốt quá trình tranh tụng, nếu

thiếu yêu cầu này thì quá trình tranh tụng không thể đưa đến việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Chỉ đạt được yêu cầu về dân chủ thì mới đảm bảo sự ngang bằng giữa
các bên tham gia đấu tụng, trong đó quyền công tố của Nhà nước được đặt ngang với
quyền bào chữa của bị cáo - Luật sư, họ có toàn quyền tranh luận về mọi vấn đề trong vụ
án để làm sáng tỏ những tình tiết còn chưa rõ, qua đó Hội đồng xét xử và những người
tham gia phiên tòa sẽ xác định được sự thật khách quan của vụ án. Việc tranh tụng đó
phải diễn ra công khai để thể hiện tính minh bạch của pháp luật, của quá trình xét xử vụ
án. Chỉ có những trường hợp pháp luật quy định phải xử kín để đảm bảo bí mật Nhà nước
đảm bảo quyền của công dân, còn mọi trường hợp khác đều phải xử công khai. Tranh
tụng tại phiên tòa phải đạt yêu cầu công khai dân chủ, nhưng vẫn phải theo quy định của
pháp luật. Đó chính là thể hiện sự nghiêm minh cần thiết của pháp luật, nếu thiếu đi sự
nghiêm minh đó thì tranh luận giữa phiên tòa là sự tranh luận vô tổ chức mạnh ai người
ấy nói, phiên tòa trở thành cuộc cãi nhau giữa các bên.
Mục đích của tranh tụng tại phiên tòa là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án thông qua sự cọ xát giữa các lập luận, ý kiến. Vì vậy, yêu cầu của nó là hai bên tranh
luận đi vào từng chi tiết của vụ án, sự đối đáp giữa hai bên phải diễn ra liên tục, Công
tố viên, bị cáo, Luật sư, bị hại và tất cả những người tham gia tố tụng khác phải tranh
luận từng vấn đề rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, không tranh luận chung chung, dàn trải,
lạc đề. Công tố viên là bên buộc tội, Luật sư là bên gỡ tội vì vậy họ phải có sự chủ động



trong tranh luận tại phiên tòa, cần hỏi những người tham gia tố tụng nhiều hơn bất cứ ai
để làm rõ mọi tình tiết của vụ án, đặc biệt là các vấn đề, tình tiết mà bị cáo, người làm
chứng đưa ra tại phiên tòa có mâu thuẫn với những kết quả điều tra trước đó của Viện
công tố để trên cơ sở đó có lời luận tội, lời bào chữa khách quan, chính xác. Trong
tranh luận tại phiên tòa không thể có trường hợp Công tố viên chỉ phát biểu quan điểm
là giữ nguyên quan điểm như đã truy tố mà không đưa ra lý lẽ, dẫn chứng nào khác có
sức thuyết phục để bảo vệ quan điểm đó. Do vậy, đây cũng là vấn đề mà trên thực tế đòi
hỏi Chủ tọa các phiên tòa phải định hướng để các bên tham gia tranh luận chất vấn và

trả lời chất vấn những nội dung chính của vụ án, có như vậy tranh tụng mới đạt hiệu
quả.
1.1.2.4. Nội dung của tranh tụng tại phiên tòa
Xuất phát từ bản chất, mục đích của tố tụng tranh tụng nên tại phiên tòa phải giải
quyết các nội dung sau:
Thứ nhất, dưới sự chủ trì của Chủ tọa phiên tòa các bên hỏi và trả lời câu hỏi để
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa để làm sáng tỏ sự thật vụ án thì
tranh tụng là quá trình quan trọng, nó bao gồm việc chất vấn liên tục, tranh luận giữa một
bên đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố - bên buộc tội, còn bên kia là bên gỡ
tội - bị cáo và Luật sư, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Công tố viên nhân
danh Nhà nước sẽ là người đưa ra những chứng cứ, những lập luận để bảo vệ lời buộc tội
(cáo trạng), và đến lượt bị cáo và người bào chữa thể hiện ngay thái độ của họ đối với lời
buộc tội đó. Sau khi xem xét chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, Hội đồng xét xử xem xét
đến chứng cứ do bên gỡ tội đưa ra và những lý lẽ để bào chữa. Đây là quá trình mà mỗi
bên đều dùng những lý lẽ, chứng cứ để chứng minh cho luận điểm của mình nên có thể
nói những lý lẽ đó hoàn toàn trên cơ sở ý chí chủ quan của mỗi bên, và chứng cứ là để
phục vụ cho ý chí đó. Vì vậy, cần thiết phải có người đứng ra là trọng tài giữa việc tranh
tụng đó, chỉ có Tòa án mà ở đây là Hội đồng xét xử đảm nhiệm công việc đó là khách
quan và chính xác nhất xét cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Chủ tọa phiên
tòa không chỉ là người điều khiển phiên toà nói chung mà họ cũng là phần quan trọng
không thể thiếu của quá trình tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa với vai trò chủ trì, điều khiển



phiên tòa có toàn quyền quyết định nội dung việc xét hỏi, hướng cho hai bên hỏi và trả
lời câu hỏi đi vào trọng tâm của vấn đề, nhằm giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa tạo
điều kiện cho các bên tranh luận không hạn chế nhưng cũng tránh cho các bên đi vào
những tình tiết vụn vặt không có giá trị làm sáng tỏ nội dung vụ án hoặc Chủ tọa phiên
tòa dừng việc hỏi và đáp giữa hai bên hướng sang vấn đề khác nếu nội dung đó đã được
làm sáng tỏ. Trong quá trình đó Hội đồng xét xử luôn thể hiện sự khách quan, tập trung

lắng nghe việc tranh tụng của các bên để thấy được sự thật khách quan của vụ án, có tội
hay không có tội ở những chứng cứ nào; nếu có tội thì ở mức độ như thế nào, những tình
tiết, chứng cứ nào thể hiện mức độ tăng nặng, những tình tiết, chứng cứ nào là giảm nhẹ.
Những chứng cứ nào là hợp pháp, những chứng cứ nào không được công nhận là hợp
pháp. Nếu có vật chứng thì xem xét vật chứng để thấy sự phản ánh dấu vết tội phạm trên
đó ở mức độ như thế nào. Từ đó để thấy những tình tiết chứng cứ nào còn chưa rõ những
vấn đề còn mâu thuẫn, Chủ tọa phiên tòa cho hai bên tranh luận rõ hơn, chất vấn nhau
nhiều hơn để thấy bật ra được vấn đề, đồng thời dựa trên sự đánh giá khách quan toàn
diện những chứng cứ, tình tiết, quá trình tranh luận trên mà Hội đồng xét xử sau đó có
phán quyết công bằng.
Để tranh tụng tại phiên tòa đạt được kết quả, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa có
quyền áp dụng quy định của phát luật tố tụng hình sự điều khiển phiên tòa theo đúng
tiến trình tranh tụng. Cũng trên cơ sở của Luật tố tụng hình sự, họ có thể cho phép mọi
người liên quan đến quá trình tranh tụng được vào phiên tòa; trong trường hợp cần
thiết, Chủ tọa phiên tòa cách ly bị cáo, nhân chứng để đảm bảo việc tranh tụng tại phiên
tòa diễn ra khách quan, có hiệu quả.
Thứ hai, áp dụng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Để phục vụ
cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa, hai bên buộc tội và gỡ tội đều đã chuẩn bị cho
mình những tài liệu chứng cứ cần thiết để bảo vệ lý lẽ của mình. Trong quá trình đó cả
hai bên đều đã phải vận dụng những quy định của pháp luật không chỉ về luật hình thức
mà còn cả luật nội dung. Đó là quá trình dựa vào chứng cứ đã được thu thập, căn cứ vào
các điều khoản được quy định trong luật và các văn bản khác để đối chiếu so sánh tìm ra
những tình tiết buộc tội và gỡ tội, và như thế bên gỡ tội thì tận dụng tối đa những chi tiết
dù là nhỏ nhất để phản bác lại sự buộc tội của bên kia, còn bên buộc tội sẽ cố gắng truy tố



với những chứng cứ chặt chẽ nhất nhằm không bỏ lọt tội phạm vì vậy họ cũng không bỏ
qua những chi tiết dù là nhỏ nhất.
Tới khi ra phiên tòa, cả hai bên đều trình bày sao cho có sức thuyết phục nhất

trước Hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tòa. Vì vậy cả hai bên sẽ cố gắng
đề cập đến mọi tình tiết có lợi nhất của vụ án một cách trực tiếp, liên tục. Họ chất vấn
nhau nhưng không phải vô tổ chức mà dưới sự điều khiển của Thẩm phán - Chủ tọa phiên
tòa. Họ có quyền phản đối quan điểm của bên kia đặt câu hỏi, đưa ra những chứng cứ để
chứng minh cho luận điểm của mình phản bác lại bên kia. Trong quá trình đó họ toàn
quyền tranh luận về những vấn đề để làm sáng tỏ vụ án, việc tranh luận không bị hạn chế
nếu như không đi ra ngoài nội dung vụ án. Có quyền vận dụng những quy định của pháp
luật để đề nghị Chủ tọa phiên tòa có những quyết định tại phiên tòa thuận lợi cho việc
tranh tụng và chứng minh sự thật của vụ án. Đây là cuộc đấu giữa hai bên buộc tội và gỡ
tội nên nó có sự đối kháng rõ rệt và phần thắng sẽ thuộc về bên nào có những chứng cứ
thuyết phục, lý lẽ sắc bén hơn để Hội đồng xét xử và người tham dự phiên tòa chấp nhận.
Thứ ba, đảm bảo việc đưa ra xem xét các chứng cứ, tài liệu minh chứng cho luận
điểm của mỗi bên. Trong quá trình tranh tụng, chứng cứ là căn cứ quan trọng để làm sáng
tỏ sự thật của vụ án. Tranh tụng tại phiên tòa là trung tâm của hoạt động tố tụng, ở thủ tục
tố tụng tranh tụng không chia thành các giai đoạn rõ rệt nên cũng không có giai đoạn điều
tra riêng biệt mà chỉ có sự thu thập chứng cứ chuẩn bị của hai bên buộc tội và gỡ tội.
Trên cơ sở sự chuẩn bị ấy, tranh tụng được diễn ra tại phiên tòa. Thông qua phiên tòa Hội
đồng xét xử có phán quyết đối với bị cáo - có tội hay không có tội, ở mức độ nào, hình
phạt ra sao. Quá trình xem xét đánh giá chứng cứ được xác định qua hoạt động tranh
tụng, chứng cứ được đánh giá không đúng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan của vụ án và như vậy hoạt động tranh tụng không còn ý nghĩa. Chủ tọa phiên
tòa sẽ đảm bảo cho việc đưa ra chứng cứ của mỗi bên, thông qua quá trình hỏi đáp, chất
vấn liên tục giữa hai bên buộc tội và gỡ tội Hội đồng xét xử và những người tham dự
phiên tòa có thể thấy được những điểm còn mâu thuẫn của lý lẽ giữa các bên, thấy được
sự không thuyết phục của chứng cứ mà bên nào đó đưa ra. Từ đó xem xét đánh giá chứng
cứ được chính xác. Đây là một cuộc đấu chủ yếu diễn ra giữa hai bên buộc tội và gỡ tội
nhưng để cuộc đấu đó được khách quan và có chất lượng thì phải đảm bảo được sự minh




bạch khách quan của các chứng cứ thông qua việc đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa
theo quy tắc về chứng cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.
1.2. Cơ sở của việc đổi mới hoạt động tố tụng hình sự nước ta theo hướng
tranh tụng tại phiên tòa
1.2.1. Thực trạng phiên tòa trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW
Theo những đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu xã hội và pháp luật thì trong suốt
những năm tháng của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan tư pháp
của chúng ta đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân; nhưng hoạt động của các cơ quan đó đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế
mà thể hiện là còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cơ
quan tư pháp. Những thiếu sót tồn tại đó thể hiện ở tất cả các khâu trong hoạt động tố
tụng, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Những bất cập và hạn chế không chỉ tồn tại
ở các cơ quan tiến hành tố tụng mà các hoạt động bổ trợ tư pháp (bào chữa tư vấn pháp
luật, công chứng, giám định ) cũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác xét xử ở nước ta còn có nhiều sai sót
như: xét xử oan do đánh giá không đúng chứng cứ buộc tội. Một số bản án áp dụng
không đúng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đánh giá không đúng về tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội hoặc nhân thân của bị cáo nên xét xử quá nặng hoặc quá
nhẹ, định sai về tội danh, áp dụng không đúng hình phạt, khung hình phạt và cho hưởng
án treo trái với quy định của pháp luật. Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa án từ năm
1992 đến 2002 thì mặc dù số lượng án oan, hủy có giảm nhưng vẫn còn, việc xét xử tại
phiên tòa còn có lúc có nơi chưa đảm bảo tính dân chủ, công khai, chưa nghiêm minh.
Ngoài những trường hợp oan, sai phát hiện được trong giai đoạn xét xử thì ngay tại hoạt
động điều tra, truy tố vẫn liên tục xảy ra tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt không đủ
căn cứ, phải trả tự do; chất lượng điều tra, kiểm sát điều tra còn yếu kém, hồ sơ phải trả
đi trả lại nhiều lần dẫn đến giải quyết án quá hạn luật định và đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng oan, sai trong hoạt động xét xử.




Trong hoạt động của các cơ quan điều tra thì tình trạng vi phạm tố tụng hình sự
nói chung và tình trạng vi phạm quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo nói riêng còn phổ
biến. Việc dùng nhục hình để bức cung người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dẫn đến việc bị
can, bị cáo chết trong trại giam vẫn còn. Điều tra viên không đủ năng lực, trình độ hoặc
do thói quen lề lối làm việc nên còn phổ biến việc mớm cung, dụ cung, ép cung.
Theo báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kì họp thứ 2
Quốc hội khóa XI, trong giải quyết vụ án hình sự vẫn còn hiện tượng để quá hạn điều tra,
truy tố, xét xử; dùng nhục hình và làm sai lệch hồ sơ vụ án. Cũng theo báo cáo này, trong
năm 2002, tội xâm phạm hoạt động tư pháp khởi tố 178 vụ, trong đó có 3 vụ dùng nhục
hình, 2 vụ làm sai lệch hồ sơ vụ án, 2 vụ thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn.
Trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta, tuy không phải là phổ biến nhưng đã
từng tồn tại rất nhiều những vụ việc dùng thủ đoạn phi nhân tính để ép cung bị can, thậm
chí có những trường hợp dùng nhục hình dẫn đến chết người. Vì vậy cho nên ép cung,
dùng nhục hình, không tôn trọng quyền của bị can, bị cáo, không để cho bị can, bị cáo có
cơ hội tự bảo vệ mình cần phải được loại bỏ trong xã hội ngày nay thông qua các quy
định cụ thể của pháp luật và việc tạo ra một cơ chế để triệt tiêu hoàn toàn những khả năng
có thể phát sinh ra những vi phạm đó.
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã dành hẳn một chương quy định về
vấn đề tranh luận tại phiên tòa, nhưng do nghĩa vụ chứng minh tội phạm vẫn là một trách
nhiệm của Tòa án nên còn có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa sa đà nhiều quá trong việc
xét hỏi, thẩm vấn mà không dành nhiều thời gian cho việc tranh luận. Nội dung thẩm vấn
và cách đặt câu hỏi của Tòa án chủ yếu dựa vào kết luận điều tra và cáo trạng, ngôn
phong thẩm vấn thể hiện sự truy bức khiến bị cáo vốn đã có địa vị pháp lý thấp kém lại
càng thêm lúng túng khi trình bày trước tòa. Có những trường hợp thay vì phải kiểm tra
tính hợp pháp của các chứng cứ một cách công khai tại tòa, Chủ tọa phiên tòa lại nhắc
hoặc công bố lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và cho rằng bị cáo không thành khẩn
khai nhận [35, tr. 4-7]. Do việc xét xử phần lớn và chủ yếu vẫn dựa vào những tài liệu do
cơ quan điều tra thu thập, xây dựng vì vậy chất lượng xét xử phụ thuộc rất nhiều vào kết

quả xây dựng hồ sơ của các cơ quan điều tra. Theo báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm



sát nhân dân tối cao tại kì họp thứ 2 Quốc hội khóa XI, công tác điều tra của chúng ta còn
rất nhiều khiếm khuyết và thiếu sót, điều này đã làm cho công tác xét xử gặp rất nhiều
khó khăn, có khi gây ra những tranh luận không đáng có, thậm chí còn có thể dẫn đến
những kết luận về vụ án không đúng bản chất, không đúng thực tế [30, tr. 5]. Quan niệm
án tại hồ sơ là một quan niệm lưu cữu, đã hằn sâu trong nhận thức của nhiều người tiến
hành tố tụng khiến nhiều vụ án đã thoát ly khỏi diễn biến khách quan phát sinh tại phiên
tòa.
Cũng chính vì quan niệm án tại hồ sơ nên việc tranh luận tại phiên tòa rất mờ
nhạt, điều đó đã làm cho các Luật sư chưa thể tạo được chỗ đứng cho mình tại mỗi phiên
tòa. Trên thực tế văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành tuy có một pháp lệnh quy định về
cơ chế làm việc của Luật sư và rất nhiều những điều luật quy định về quyền và nghĩa vụ
của Luật sư nhưng trong khi tại phiên tòa Kiểm sát viên dùng những lý lẽ đanh thép để
buộc tội thì Luật sư dường như lại chẳng có gì để nói, hầu hết việc tranh cãi chỉ xoay
quanh quan điểm định tội danh hoặc tìm ra những chỗ chưa hoàn chỉnh của công tác điều
tra để bắt bẻ chứ rất hiếm khi đưa ra được những bằng chứng phản bác đắt giá chưa kể
sự mâu thuẫn, căng thẳng trong khi tranh cãi thay vì phải xuất phát từ sự cọ xát về chứng
cứ, về luận điểm thì đôi lúc chỉ vì thái độ, ngôn ngữ mang tính hình thức. Nhiều Luật sư
ra đến phiên tòa cũng chẳng đưa ra được những lý lẽ có sức thuyết phục, những chứng cứ
có sức nặng mà chỉ chốt lại ở cuối giai đoạn tranh luận là đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét những tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân, thái độ khai báo v.v bị cáo để giảm
nhẹ hình phạt cho bị cáo. Thực tế còn không ít những trường hợp Luật sư có năng lực,
trình độ hạn chế, không đủ khả năng để cãi lý với Kiểm sát viên thì tìm cách giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo bằng con đường không trong sáng.
Những quy định về tranh luận tại phiên tòa đã không được các bên tuân thủ nên
nhiều trường hợp yêu cầu của bị cáo, Luật sư bào chữa đã không được Kiểm sát viên trả
lời. Có không ít trường hợp Kiểm sát viên chẳng thèm cãi lý với Luật sư mà chỉ nhắc đi

nhắc lại mãi cái điệp khúc tôi vẫn bảo lưu quan điểm của mình. Lại có những Kiểm sát
viên ra phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không xét hỏi một câu nào mà chỉ đọc bản
cáo trạng rồi ngồi xem, đùn đẩy toàn bộ trách nhiệm thẩm vấn lên Hội đồng xét xử, khi
kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận tội. Có những trường hợp trả lời câu hỏi của Luật



sư thì lại không đi vào trọng tâm vấn đề, khi bác bỏ luận điểm của Luật sư thì không đưa
ra được căn cứ thuyết phục khiến những phiên tòa với sự đối ứng chan chát, những pha
cãi nhau nảy lửa với những đột biến gay cấn, ly kỳ chỉ có thể được chúng ta mục kích
trên phim ảnh nước ngoài.
Những thiếu sót và sai lầm như trên không khỏi khiến cho những người làm công
tác pháp luật và những chuyên gia nghiên cứu pháp luật phải băn khoăn suy nghĩ.
1.2.2. Đổi mới pháp luật trước yêu cầu hội nhập quốc tế
Cách thức của sự phát triển luôn là sự phủ định cái cũ để tìm đến cái mới ưu việt
hơn, pháp luật cũng vậy những quy định đã lỗi thời cần phải được thay thế bởi những quy
định phù hợp hơn với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, sự phủ định ấy không phải là sự phủ
định sạch trơn mà trên cơ sở kế thừa cái cũ. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì hiện nay tồn
tại hai hệ thống tố tụng cơ bản đó là hệ thống tố tụng xét hỏi và hệ thống tố tụng tranh
tụng. Hệ thống tố tụng xét hỏi thường tồn tại ở những nước theo hệ thống luật dân sự
Civil Law - Việt Nam chúng ta cũng được nhận định là theo hệ tố tụng này; hệ thống tố
tụng tranh tụng được áp dụng rộng rãi ở các nước theo truyền thống luật án lệ Common
law (Anh là đại diện điển hình). Mỗi hệ thống tố tụng có những đặc điểm riêng với những
ưu điểm và nhược điểm của nó. Khi so sánh giữa các ưu điểm và nhược điểm của hai loại
hình tố tụng, nhiều quan điểm (như Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí) cho rằng, tố tụng tranh
tụng có nhiều ưu điểm hơn bởi so với các kiểu tố tụng khác thì tố tụng tranh tụng đề cao
quyền con người hơn, và biểu hiện của việc phát huy tối đa tinh thần dân chủ trong hoạt
động tố tụng, cơ chế vận hành của nó hạn chế đến mức tối đa các trường hợp kết án oan
người không có tội, nó là biểu hiện của một nền văn hóa pháp lý cao ở một quốc gia [6].
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải còn cho rằng, theo quá trình lịch sử, tố tụng xét hỏi đã tồn tại

hàng thế kỷ dưới tác động của các tư tưởng tiến bộ đã dần chuyển sang kiểu tố tụng xét
hỏi - tranh tụng và cuối cùng là tố tụng tranh tụng. Như thế tố tụng xét hỏi sẽ tất yếu bị
thay thế bởi hệ thống tố tụng tranh tụng bởi tính ưu việt của nó [15]. Tuy nhiên, Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Chí thì cho rằng, vào thời điểm này chúng ta không thể chuyển hoàn toàn
sang kiểu tố tụng tranh tụng được mà chỉ có thể tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp với
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý của nước ta. Điều này cũng tương đồng với



những cải cách tư pháp của nhiều nước trên thế giới như Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc
Cùng với sự hội nhập, giao lưu quốc tế, những giao lưu về kinh tế, chính trị, văn hóa
cũng đã mở ra cho các quốc gia những xu hướng tiếp thu những tinh hoa về mọi mặt của
các quốc gia khác, trong đó có pháp luật. Pháp là một nước điển hình của hệ thống pháp
luật Civil Law với hệ tố tụng thẩm vấn truyền thống nhưng cũng nhận thấy sự lạc hậu của
hệ tố tụng này mà đưa những hạt nhân hợp lý của hệ tố tụng tranh tụng vào hệ tố tụng xét
hỏi từ năm 2000. Trung Quốc thì đã mạnh dạn sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng
đưa nội dung của tố tụng tranh tụng vào tố tụng xét hỏi từ năm 1997, và thực tế đã cho
thấy việc giải quyết án của các nước này đã tạo ra sự dân chủ thực sự và hạn chế oan sai
rất nhiều Như thế xu hướng xích lại gần nhau của các quốc gia trong giai đoạn toàn cầu
hóa đã dẫn đến sự xích lại gần nhau trong lĩnh vực pháp luật mà thể hiện là sự tiếp thu
những nhân tố hợp lý của hệ tố tụng tranh tụng vào hệ tố tụng xét hỏi và ngược lại. Đây
là một xu hướng tất yếu của quá trình phát triển, và chúng ta - một thành viên của ngôi
nhà chung thế giới - cũng cần phải có sự đổi mới phù hợp về mặt pháp luật nói chung và
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng.
1.2.3. Nghị quyết 08/ NQ-TW của Bộ Chính trị và vấn đề tranh tụng tại phiên
tòa
1.2.3.1. Bản chất của hệ tố tụng hình sự Việt Nam trước khi có Nghị quyết
08/NQ-TW
Trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, ở Việt Nam đã có rất nhiều ý kiến của các

chuyên gia khác nhau bàn về bản chất của hệ tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay.
Hầu hết ý kiến của các chuyên gia đều thống nhất cho rằng, hệ tố tụng hình sự ở
Việt Nam tuy có chứa đựng yếu tố tranh luận nhưng không mang đặc trưng của tố tụng
tranh tụng bởi lẽ phán quyết của Tòa án không dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên
và quyền lực tại phiên tòa cũng không được san sẻ cho những ngời tham gia tố tụng.
Theo nhận định của tiến sĩ Lê Hữu Thể thì cần phải thống nhất một số vấn đề cơ bản sau:



Thứ nhất, hệ tố tụng hiện nay ở nước ta thuộc hệ tố tụng thẩm vấn (tất nhiên là
so với các quốc gia cũng theo hệ tố tụng thẩm vấn khác, thì ở Việt Nam có những đặc thù
riêng).
Thứ hai, mặc dù hệ tố tụng ở nước ta là hệ tố tụng thẩm vấn, nhưng bản thân nó
có chứa đựng những hạt nhân hợp lý của hệ tố tụng tranh tụng.
Tiến sĩ Lê Hữu Thể cho rằng, sẽ là không có cơ sở nếu khẳng định hệ tố tụng
hình sự ở nước ta không phải là hệ tố tụng thẩm vấn mà cũng chẳng phải là hệ tố tụng
tranh tụng [40].
Không đồng tình với quan điểm của tiến sĩ Lê Hữu Thể, thạc sĩ Ngô Huy Cương
lại có một cách nhìn nhận khác về bản chất của hệ tố tụng hình sự tại Việt Nam. Ông cho
rằng, các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đều là các tầng nấc khác nhau và
cao hơn liên tiếp của hoạt động buộc tội. Song ở đây cần phải lưu ý rằng, Thẩm phán của
Việt Nam chưa phải là nhân vật quan trọng dẫn đầu như vị thế của các đồng nghiệp của
họ ở các nước theo hệ tố tụng thẩm vấn khác, bởi vì hoạt động của họ bị giám sát hay
kiểm sát bởi Viện kiểm sát - nơi mà các quan chức tư pháp giữ quyền công tố trong phiên
xét xử do chính họ là Chủ tọa. Do vậy, thạc sĩ cho rằng, tố tụng hình sự của Việt Nam
không có các đặc trưng quan trọng của tố tụng tranh tụng và cả tố tụng thẩm vấn mà thực
chất đây là một hệ tố tụng riêng biệt có tên gọi là tố tụng buộc tội [8].
Dung hòa giữa hai quan điểm trên, theo ý kiến của bản thân, tác giả cho rằng nếu
chỉ dựa vào một số điều luật quy định không rõ ràng và quá sơ sài mà đã cho rằng hệ tố
tụng Việt Nam có chứa đựng những hạt nhân hợp lý của hệ tranh tụng thì thực sự là chưa

thỏa đáng và chưa thuyết phục. Bản chất của hệ tố tụng hình sự Việt Nam là hệ tố tụng
thẩm vấn nhưng chỉ có điều biểu hiện của nó lại không hoàn toàn giống như các nước
theo hệ tố tụng thẩm vấn khác, mà thực tiễn xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng
ở Việt Nam đều có chức năng của một cơ quan buộc tội. Điều này không chỉ được chiêm
nghiệm trong thực tế mà cụ thể hơn nó còn được quy định trong chính các văn bản quy
phạm pháp luật (ví dụ: những quy định trong Hiến pháp về cơ quan Tòa án, Viện kiểm
sát, những quy định về chức năng nhiệm vụ trong Luật tố chức Tòa án, Viện kiểm sát,
Pháp lệnh điều tra hình sự, quy định về nghĩa vụ chứng minh tại Điều 11 Bộ luật tố tụng

×