Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luận văn thạc sỹ tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.18 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................................1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Tố tụng hình sự là lĩnh vực rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc
thực hiện các quyền con người, quyền công dân như: quyền được sống, tự do...
Tuy nhiên, trong lĩnh vực tố tụng, bên cạnh những mặt đã đạt được vẫn còn bộc
lộ nhiều hạn chế. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác Tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: “Chất lượng công tác tư
pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn
nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự
do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước và các cơ quan Tư pháp”.
Để góp phần hạn chế, tiến tới đến loại bỏ việc làm oan sai của các cơ quan
Tư pháp, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Nghị quyết đã nhấn mạnh
phải: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác... khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; thẩm pháp và hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật; Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy
định”.
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành một nguyên
tắc, cụ thể là: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5
Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những
sửa đổi, bổ sung cơ bản để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về đảm




2

bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và thể chế hóa các chủ trương của Đảng
về tranh tụng tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự thời gian qua cho thấy các Tòa án,
Viện kiểm sát đã có nhiều cố gắng đảm bảo cho mọi công dân bình đẳng trước
pháp luật, bảo đảm việc tranh tụng tại phiên tòa thực sự dân chủ, khách quan, ra
được bản án, có căn cứ, đúng pháp luật và có sức thuyết phục cao, được nhân
dân đồng tình ủng hộ, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trừng trị tội phạm,
bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Song so với yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm, yêu cầu cải cách tư pháp thì nhiều phiên tòa hình sự, đặc biệt là
ở giai đoạn sơ thẩm vẫn còn hạn chế, việc tranh tụng tại phiên tòa chưa được
đảm bảo, dẫn đến tình trạng án sửa, hủy còn nhiều. Một trong những nguyên
nhân của tình trạng này là do nhận thức về giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự,
trong đó có vấn đề tranh tụng chưa được làm sáng tỏ. Cho đến nay vẫn chưa đạt
được sự thống nhất trong các cơ quan tư pháp về khái niệm tranh tụng hình sự,
nội dung và phạm vi của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
Trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay, việc đảm bảo cho các phiên tòa
tranh tụng thực sự dân chủ, khách quan, Tòa án ra được bản án đúng pháp luật,
có sức thuyết phục, góp phần bổ sung cơ sở lý luận về giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự là vấn đề ngày càng trở lên bức súc và cần thiết. Vì những lý do đó học
viên chọn đề tài : “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự” làm đề tài
nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình cải cách tư pháp, vấn đề xây dựng một mô hình tố tụng
thống nhất là tố tụng tranh tụng hay tố tụng xét hỏi hoặc là sự pha trộn giữa các
mô hình tố tụng đã và đang gây ra nhiều tranh cãi. Hơn thế, với những ưu điểm
như dân chủ, công khai, minh bạch và đặc biệt vai trò của luật sư được đề cao,

thể hiện tính chủ động của họ trong việc chứng minh, bảo vệ quyền lợi cho thân
chủ, từ đó giúp Tòa án ra được phán quyết đúng đắn nên hoạt động tranh tụng
trong xét xử đã thu hút được nhiều sự quan tâm, bàn luận. Trong thời gian qua
đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này:


3

Luận văn thạc sỹ luật học của ThS. Lưu Bình Dương về “Tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (năm 2003).
Trong luận văn tác giả đã nêu một số vấn đề lý luận chung về tranh tụng, phân
biệt giữa tranh tụng và tranh luận, kiến nghị sửa đổi đối với BLTTHS năm 1988
theo hướng đảm bảo tranh tụng. Tuy nhiên, luận văn được hoàn thành khi
BLTTHS năm 2003 mới được thông qua và chưa được thực tiễn kiểm nghiệm.
Do vậy, việc nghiên cứu, luận giải những ưu, nhược điểm về tranh tụng tại phiên
tòa theo Bộ luật hiện hành cũng như đưa ra những giải pháp cho vấn đề này vẫn
rất cần thiết.
Luận án Tiến sỹ luật học của TS. Hoàng Văn Thành về “Bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam” (năm 2015). Luận án đã xây dựng được khái niệm,
đặc điểm, nội dung của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, đồng thời chỉ ra những bất cập, nguyên nhân trong quy định
và thực tiễn áp dụng về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tác giả cũng nghiên cứu kinh nghiệm từ một
số nước đồng thời phân tích thực tế điều kiện Việt Nam, đưa ra quan điểm và đề
xuất việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng cũng như các giải pháp bảo đảm
nguyên tắc này trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam. Song luận án chỉ nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ
đó là một nguyên tắc trong TTHS, do đó cần có sự nghiên cứu yếu tố này dưới
các góc độ khác, và một trong số đó là nghiên cứu dưới góc độ tranh tụng là một

hoạt động của TTHS.
Luận văn thạc sỹ luật học của ThS. Bùi Thị Hà về “Tranh tụng tại phiên
tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” (năm 2010). Luận văn đã làm rõ cơ
sở lý luận và một số quy định của BLTTHS năm 2003 về tranh tụng tại phiên tòa
hình sự, trên cơ sở đó tác giả đã chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật, những
vướng mắc trong quá trình áp dụng và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các
quy định của pháp luật về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa; một số giải pháp khác
về đào tạo con người, nâng cao ý thức pháp luật,...


4

Luận văn thạc sỹ luật học của ThS. Nguyễn Thị Hằng Như – Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội về “Tranh tụng giữa kiểm sát viên và người bào chữa
tại phiên tòa hình sự Việt Nam” (năm 2009).
Ngoài ra, còn một số bài báo và tạp chí có đề cập đến nội dung nghiên
cứu trên nhưng ở góc độ nhỏ, lẻ khác nhau như: “Bản chất của tranh tụng tại
phiên tòa” của Tác giả Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý, số
4/2004; “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên
tòa hình sự” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2011) của tác giả Nguyễn Kim
Chi; “Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” (Tạp chí Kiểm sát số 11/2011) của tác giả
Lê Văn Cảm; “Các điều kiện đảm bảo hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự” (Tạp chí Kiểm sát số 11/2013) của tác giả
Phạm Văn Tuấn; “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa hình sự” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2014) của tác giả Hồ Nguyễn Quân;
“Bàn về tranh tụng tại các phiên tòa hình sự” (Tạp chí Kiểm sát số 12/2014) của
tác giả Phạm Minh Tuyên; “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” (Tạp chí Luật học số
1/2015) của tác giả Vũ Gia Lâm; “Một số vấn đề về nguyên tắc tranh tụng trong

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 16/2015) của tác giả
Nguyễn Trúc Thiện,...
Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Tranh tụng tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự”, tác giả có thuận lợi là được tham khảo khá nhiều
nguồn tài liệu, khá nhiều quan điểm về tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, qua
tình hình nghiên cứu ở trên cho thấy vấn đề này chủ yếu được các tác giả tập
trung nghiên cứu khi Hiến pháp 2013 chưa được ban hành, đồng thời cũng chưa
được sửa đổi bổ sung, quy định cụ thể trong BLTTHS về vấn đề tranh tụng. Do
đó, việc nghiên cứu này vẫn rất cần thiết để góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực
trạng tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta, cũng như hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự và kiến nghị những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa, góp phần đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.


5

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh tụng và quy
định cuẩ pháp luật tố tụng hình sự Việt nam về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự cũng như thực trạng trnh tụng tại phiên tòa sơ thảm vụ án hình sự
ở Việt nam trong những năm gần đây.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu. Bên cạnh đó,
luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như:
Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm
đưa ra những nhận định và kết luận chung.
Phương pháp thống kê để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử liên quan

đến việc tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho việc đưa ra nhận xét, kết luận và
kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và những quy
định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự cũng như
thực tiễn áp dụng và những bất cập làm cơ sở cho việc kiến nghị sửa đổi.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra đối với luận văn là:
− Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật về tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam.
− Nghiên cứu làm rõ thực trạng và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định
của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, chỉ ra nguyên
nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tế.


6

− Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự và các giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài có thể đạt được những kết quả mới như:
− Luận văn làm rõ cơ sở lý luận, nội dung, ý nghĩa của tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự và quy định của BLTTHS năm 2003 về tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
− Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003, nghiên cứu
việc thực hiện quy định về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, luận
văn chỉ ra những điểm bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện

hành, những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
− Luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm; một số giải pháp khác về nâng cao
chất lượng, nhận thức của cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền
THTT,...nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định của pháp luật
về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có cơ
cấu nội dung gồm 2 chương :
Chương I: Những vấn đề chung và quy định của pháp luật hiện hành
về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Chương II: Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
và một số kiến nghị


1

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Để làm rõ khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, trước
hết cần làm rõ các khái niệm: tranh tụng, tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Thứ nhất, về khái niệm tranh tụng. Tranh tụng là hình thức tố tụng được
biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Loại hình tố tụng
này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó được áp dụng rộng rãi ở
La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” 1. Cùng với thời gian, tranh tụng
được kế thừa, phát triển và được khẳng định và đến nay nó được áp dụng ở hầu
hết các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ. Tuy nhiên
về khái niệm tranh tụng, hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam vẫn còn những

quan điểm khác nhau.
Về mặt thuật ngữ thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau” 2 giữa hai
bên (bên nguyên và bên bị) có lập trường tương phản yêu cầu Tòa án phân xử.
Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ “tranh
luận” và “tố tụng” có nghĩa là tranh luận trong tố tụng3.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, thuật ngữ “tranh tụng” đã được biết
đến từ lâu, tuy nhiên nhận thức một cách đúng đắn về thuật ngữ này vẫn còn là
vấn đề còn tồn tại nhiều ý kiến, nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau
xung quanh khái niệm này. Cụ thể:
Theo Từ điển Luật học thì tranh tụng là các hoạt động tố tụng được thực
hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền
bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra những chứng cứ để bảo vệ các
quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía

1

Nhà pháp luật Việt – Pháp: Kỷ yếu hội thảo “Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng –
Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng bổ nhiệm quản lý Thẩm phán”, Hà Nội, 2002
2
Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, 1991
3
Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, 2009


2

đối lập4. Như vậy, theo định nghĩa này thì tranh tụng được nhìn nhận như một
hoạt động của tố tụng hình sự.
Có quan điểm khác cho rằng, tranh tụng là “một quá trình xác định sự thật
khách quan về vụ án đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích,

nhiệm vụ đặt ra của Luật tố tụng hình sự” 5. Quan điểm này đồng nhất tranh tụng
với quá trình xác định sự thật của vụ án tức là với hoạt động chứng minh. Ở đây
có sự nhầm lẫn giữa nội dung và hình thức, giữa hoạt động tố tụng với chính
hình thức hoặc cách thức tiến hành của nó.
Tác giả của quan điểm này một thời gian sau đã đưa ra định nghĩa khác
hơn về tranh tụng. Theo đó, tranh tụng “được dùng theo nghĩa Hán Nôm để chỉ
một cuộc tranh luận (tranh cãi) về một vụ án bằng cách các bên tham gia đưa ra
các lý lẽ, chứng cứ và các văn bản pháp luật làm cơ sở cho sự buộc tội hay bào
chữa của mình để người thứ ba đứng giữa 2 bên là Tòa án làm trọng tài phán
xử”6 .
Quan điểm mới này có bước tiến bộ so với quan điểm thứ nhất khi đề cập
đến vai trò trọng tài của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án như là một đặc
điểm của tố tụng có tính tranh tụng. Tuy nhiên, những đặc điểm khác của khái
niệm tranh tụng hay tố tụng có tính tranh tụng vẫn chưa được làm rõ. Bên cạnh
đó các diễn đạt này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn “tranh tụng” chính là “tranh luận”.
Ở Việt Nam, tranh tụng và vấn đề tranh tụng chỉ mới được đề cập và trao
đổi nhiều trong thời gian gần đây khi Đảng và Nhà nước ta khởi động công cuộc
cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nướp pháp quyền trong bối cảnh ngày càng hội
nhập sâu vào đời sống kinh tế và đời sống pháp lý quốc tế.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới đã xác định: “Nâng cao chất
lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với
Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Khi xét xử, các
Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự
dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
4

Viện khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2006, tr807-808
Nguyễn Đức Mai, “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học số 1/1995
6

Nguyễn Đức Mai, “Tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/1996
5


3

luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa... để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
và trong thời hạn luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện
để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu
hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa...”. Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chín trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
một lần nữa yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp,
chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột
phá của các cơ quan tư pháp...”, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012
tiếp tục khẳng định “Kiểm sát viên phải chủ động, tích cức tranh luận, đối đáp
tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự... Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các
Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”.
Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự; các quy định của BLTTHS năm
2003 và quy định của Hiến pháp năm 2013, có thể nhận thấy khái niệm tranh
tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ Nghị quyết của Đảng về cải cách tư
pháp và gần đây được Hiến pháp năm 2013 quy định. Tranh tụng được hiểu với
nghĩa không phải là một kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của
Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự, cụ thể là
tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, bao gồm cả phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
Trong đó, Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng dựa trên các tài liệu, chứng
cứ, các quy định của pháp luật, trên cơ sở tư duy logic hình thức để đưa ra các
luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Như vậy, có thể thấy, trên thế giới và ở Việt Nam, khái niệm “tranh tụng”

đến nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất. Ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy
thuộc vào hệ thống pháp luật mà khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo một
nghĩa khác nhau.
Thứ hai, về khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự. Sự ra đời và phát
triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự hình thành và phát
triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tranh


4

tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là thành tựu của
sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân loại. Trong xã hội hiện đại, ở các
nước dù có tổ chức hệ thống tư pháp khác nhau, dù là hệ thống luật án lệ
(Common law), hệ thống luật lục địa (Civil law) hay hệ thống luật xã hội chủ
nghĩa, thì ít hay nhiều và bằng cách thể hiện khác nhau, trong mọi hệ thống tố
tụng đó đều có yếu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng có hiệu quả bảo đảm cho
tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm
bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng 7.
Khái niệm tranh tụng trong TTHS được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, tranh tụng có thể được hiểu như là một nguyên tắc cơ bản của
TTHS. Có thể hiểu nguyên tắc của TTHS là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn
bộ hoạt động TTHS hoặc đối với một loại hoạt động nhất định, đó là những
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy
phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự; hoặc đó là những phương châm, định
hướng chi phối toàn bộ hoạt động TTHS và được các văn bản pháp luật TTHS
ghi nhận. Khi tranh tụng là một nguyên tắc thì nó phải thể hiện tính dân chủ,
công khai, minh bạch, khách quan, bình đẳng trong tất cả các hoạt động TTHS,
đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự, vì xét đến cùng, tranh tụng là
phải tiến đến giải quyết tranh chấp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại Tòa án.
Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng các

phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên tắc
tranh tụng đề cao vai trò của Luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ bản
của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh,
ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên
tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại
phiên tòa, dưới sự giám sát của Tòa án và luôn phải chịu sức ép từ bên đối lập.
Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ
thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc.
Tranh tụng có thể được xem xét ở góc độ là một loại mô hình tố tụng.
Khái niệm mô hình TTHS được hiểu là một cách thức tổ chức hoạt động TTHS
7

Nguyễn Đức Mai, “Tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/1996


5

trong số nhiều cách thức tổ chức khác nhau mà nhân loại đã biết đến. Mô hình tố
tụng tranh tụng đã hình thành và tồn tại ở mỗi quốc gia dưới tác động của nhiều
yếu tố, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, truyền thống pháp lý,... Mục đích của
mô hình này là nhằm đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối giữa bên buộc tội (cơ quan
công tố) và bên bào chữa trong suốt quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Đây là
mô hình tạo ra nhiều cảm hứng cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng
TTHS của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, mô hình này có một quy trình
tố tụng, đặc biệt trong giai đoan xét xử thể hiện tính công bằng cao, thể hiện qua
vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Ở giai đoạn tiền xét xử, công
tố viên và luật sư có quyền điều tra, thu thập chứng cứ như nhau. Khi xét xử,
chứng cứ của họ đều được đưa ra để thẩm tra trước Tòa, đều có quyền lựa chọn
nhân chứng để thẩm tra...Thông qua đối tụng giữa công tố viên và luật sư mà
Tòa án gồm đoàn bồi thẩm và thẩm phán chủ tọa phán quyết về sự thật khách

quan và quyết định hình phạt. Mô hình này cho phép luật sư có thể tham gia đầy
đủ vào quá trình tố tụng nên Tòa án có thể thêm được một nguồn thông tin giá
trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án thì đoàn bồi thẩm được tiếp cận chứng cứ của cả bên buộc
tội và bên gỡ tội. Điều này bảo đảm cho mục đích tìm ra sự thật khách quan và
chất lượng tranh tụng được nâng lên.
Trong mô hình tố tụng tranh tụng không tồn tại “một hồ sơ hình sự” theo
nghĩa sử dụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn. Bên buộc tội và bên bào chữa
đều có quyền lập tài liệu, hồ sơ và khi ra phiên tòa xét xử, cả hai bộ hồ sơ đều
không có giá trị chứng cứ mà chỉ có chứng cứ nào được trình bày và thẩm tra tại
Tòa bằng miệng, được Tòa án chấp nhận thì đó mới là chứng cứ và được sử
dụng để định tội.
Tranh tụng còn được nhìn nhận trên phương diện là một hoạt động tố tụng
hình sự, tranh tụng được thể hiện như là “một quá trình cọ sát các quan điểm,
lập luận về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia
vào quá trình THHS nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án”8 và đỉnh
8

Lê Tiến Châu, Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2003


6

điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa trước Tòa án có vai trò là trọng tài.
Tranh tụng không chỉ đòi hỏi Tòa án phát huy vai trò phán xét của mình để đưa
ra sự thật khách quan của vụ án mà còn đòi hỏi mỗi người tham gia hoạt động tố
tụng phải phát huy vai trò của mình. Cụ thể, Tòa án giữ vai trò trung gian, trọng
tài cho cuộc đấu giữa Luật sư và Kiểm sát viên. Trong đó Luật sư giữ vai trò là
Người bào chữa và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, Kiểm sát viên và cơ quan
điều tra với vai trò là bên buộc tội để tìm ra công lý. Hay nói cách khác, tranh

tụng trong phiên tòa chính là một trong các hoạt động tố tụng được tiến hành bởi
các bên tham gia tố tụng nhằm mục đích đưa ra các luận điểm, ý kiến của mình
để bảo vệ quan điểm hoặc bác bỏ luận điểm và những lời buộc tội của phía bên
kia dưới sự điều khiển công minh, chính trực của Tòa án.
Như vậy, khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau: tranh tụng có thể được hiểu như là một hoạt động của TTHS; tranh tụng
được hiểu như một nguyên tắc của TTHS và tranh tụng cũng được hiểu như một
kiểu mô hình tố tụng. Mỗi cách hiểu nêu trên đều tiếp cận vấn đề “tranh tụng” ở
những góc độ khác nhau tùy mục đích nghiên cứu. Trong phạm vi luận văn này,
khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự được hiểu dưới góc độ là một hoạt
động trong tố tụng hình sự. Qua phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm về tranh
tụng trong TTHS như sau:
Tranh tụng trong TTHS là hoạt động của các chủ thể tố tụng có chức
năng đối trọng nhau (chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội) dưới sự trọng tài
của Tòa án để bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của phía đối
lập, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở đó giúp Tòa
án giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ, bảo vệ lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức.
Về khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Tố tụng hình
sự là một quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, quá trình đó trải qua
nhiều giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án. Ở mỗi giai đoạn có
chức năng, nhiệm vụ khác nhau, hoạt động tố tụng có đặc điểm khác nhau, giai
đoạn trước làm tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau dựa vào kết quả của giai


7

đoạn trước và kiểm tra lại tính đúng đắn của giai đoạn trước. Song trong toàn bộ
quá trình tố tụng thì giai đoạn xét xử vụ án tại phiên tòa ở vị trí trung tâm và giữ
vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng.

Bản chất của tranh tụng được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm tại tòa án. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm là
Tòa án giữ vai trò là chủ thể chính trong việc duy trì và hướng dẫn các thủ tục
đối với các bên tham gia tranh tụng tại Tòa. Tuy nhiên, Tòa án không hạn chế
tính chủ động và tích cực của các bên tham gia tranh tụng hoặc “làm thay chức
năng của họ”. Mặt khác, Tòa án cũng không được để cho quá trình tranh tụng
diễn ra theo ý chí chủ quan của các bên.
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đã kết hợp được những điểm
tích cực của tố tụng xét xử và tố tụng tranh tụng. Tranh tụng tại phiên tòa nhưng
vẫn giữ được bản chất của “tố tụng xét hỏi” trên cơ sở kết quả điều tra và các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án. Mặc dù không phải là “tố tụng tranh tụng” nhưng tính
chất tranh tụng tại phiên tòa vẫn là sự tranh luận giữa người có quyền và lợi ích
đối lập nhau như giữa Kiểm sát viên, người bị hại với bị cáo, Người bào chữa;
trong một số trường hợp là giữa Kiểm sát viên với người bị hại; giữa người tham
gia tố tụng với nhau. Trong tranh luận, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố
và Luật sư vẫn là những người tham gia chính. Hội đồng xét xử không phải là
người tham gia tranh tụng mà chỉ là người có tổ chức, điều khiển việc tranh tụng
tại phiên tòa giữa những người có quyền và lợi ích đối lập nhau. Do đó, vai trò
của Hội đồng xét xử mà trực tiếp là chủ tọa phiên tòa trong việc tranh tụng như
thế nào để đạt được mục đích là vô cùng quan trọng. Tranh tụng về bản chất
được hiểu là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng
(bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu
thập và đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản
bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập.
Theo nghĩa này, tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu
như sau: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là những hoạt động
được thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bởi các chủ thể tố


8


tụng có chức năng đối trọng nhau (chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội) dưới
sự trọng tài của Tòa án để bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của
phía đối lập, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp Tòa án
ra phán quyết giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức.
1.2. Phạm vi, nội dung tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Phạm vi của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự
Dưới góc độ là một hoạt động TTHS, việc xác định phạm vi tranh tụng có
ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của vụ án hình sự.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, hiện nay có nhiều quan điểm về phạm vi tranh
tụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quá trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ
giai đoạn khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước khởi tố và quá trình này sẽ
kết thúc khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, tái thẩm, giám
đốc thẩm), thậm chí quá trình này lại còn được tiếp tục trong một số trường hợp
khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại”9.
Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụng chỉ thực sự bắt đầu từ giai đoạn
xét xử vụ án (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, không có giai đoạn xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm) với sự có mặt đầy đủ ba chủ thể: bên buộc tội, bên bào chữa và
Tòa án.10
Theo quan điểm thứ nhất, có thể hiểu rằng, khi nào xuất hiện bên buộc tội
và bên gỡ tội thì khi đó xuất hiện tranh tụng, vì vậy việc tranh tụng được diễn ra
trong điều kiện mà ở đó chỉ cần có chủ thể của hai bên buộc tội và bào chữa
tham gia. Với quan điểm này, quá trình tranh tụng được bắt đầu từ khi xuất hiện
người bị tình nghi phạm tội (khi tạm giữ người bị tình nghi hoặc bắt người phạm
tội quả tang, hoặc khi khởi tố vụ án), cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử và
kết thúc khi có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này
chưa có đầy đủ cơ sở để thuyết phục. Bởi lẽ, trong các giai đoạn điều tra, truy tố,
9


Nguyễn Đức Mai, Vấn đề tranh tụng hình sự, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Hà Nội, 1999
10
Lê Tiến Châu, Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2003


9

việc buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên đối tụng thực hiện một cách đơn
phương theo ý chí chủ quan của mình, các bên đều có quyền tự thu thập, đưa ra
những tài liệu chứng minh quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm của bên còn
lại, nhưng không có quyền quyết định quan điểm nào, chứng cứ nào là đúng, là
có căn cứ,... Quá trình tranh tụng ở đây còn thiếu một chủ thể giữ vai trò quyết
định đó là Tòa án với chức năng xét xử. Chỉ khi đến giai đoạn xét xử thì Tòa án
mới tham gia với vai trò là trọng tài phán quyết chấp nhận hoặc bác bỏ lập luận
của các bên, quyết định bên nào là người thắng cuộc. Tại phiên tòa, với sự có
mặt đầy đủ các chủ thể, quá trình tranh tụng mới được tiến hành thông qua hoạt
động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án với ba chức
năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Do đó, theo quan điểm cá nhân
của tác giả, quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện
đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự chứng kiến và trọng tài của Tòa
án... Chính vì vậy mà quá trình này chỉ có thể được bắt đầu từ giai đoạn xét xử,
đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tòa.
Về thời điểm kết thúc của quá trình tranh tụng. Có thể thấy, thông qua quá
trình tranh tụng, mâu thuẫn giữa các bên được giải quyết, sự thật của vụ án được
làm sáng tỏ và khi có một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật thì quá
trình tranh tụng sẽ kết thúc. Có ý kiến cho rằng, sau quá trình xét xử sơ thẩm là
quá trình xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, quá trình tranh tụng vẫn
còn tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham gia và các chức

năng được thực hiện. Phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo,
kháng nghị. Dó đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử cũng không được
thực hiện đầy đủ như ở phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, có thể khẳng định rằng
tranh tụng tồn tại ở các giai đoạn tố tụng khi mà ở đó có sự hiện diện của các
bên buộc tội, bào chữa... Theo ý kiến này, tranh tụng tồn tại ở cả giai đoạn giám
đốc thẩm và tái thẩm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm, tranh tụng không tồn tại. Theo quy định của BLTTHS thì giám
đốc thẩm và tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm


10

việc triệu tập những người tham gia tố tụng không phải là bắt buộc, do vậy hầu
như không có sự hiện diện đủ của các bên tranh tụng, nhất là bên gỡ tội, vì vậy
không thể có tranh tụng. Và kết quả của việc giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ đặt dấu
chấm hết cho vụ án (trong trường hợp không chấp nhận kháng nghị) hoặc tạo ra
một quá trình tố tụng mới (nếu phán quyết của Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm chấp nhận kháng nghị, quyết định việc điều tra, xét xử lại vụ án). Như vậy
có thể xác định tranh tụng chỉ tồn tại đến giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
chứ không tồn tại trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.2.2. Nội dung tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Hiện nay, trong khoa học pháp lý còn nhiều ý kiến khác nhau về nội dung
tranh tụng tại phiên tòa. Có ý kiến cho rằng tại phiên tòa các bên chỉ thực hiện
việc tranh tụng trong giai đoạn tranh luận, còn xét hỏi là nhiệm vụ của Hội đồng
xét xử và Viện kiểm sát. Những người khác lại cho rằng tranh tụng được thực
hiện trong hầu hết các giai đoạn của phiên tòa, đặc biệt là trong phần xét hỏi và
phần tranh luận.
Tác giả cho rằng, nếu chỉ thu hẹp việc tranh tụng trong phần tranh luận thì
không đạt được các mục đích tranh tụng đặt ra. Để thực sự tham gia vào quá

trình chứng minh, các bên tham gia tranh tụng phải được phép đưa ra chứng cứ,
thực hiện việc xét hỏi, xem xét vật chứng, để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện,
chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá từ các góc độ, cách nhìn nhận
khác nhau cả của bên buộc tội cũng như bên gỡ tội. Hơn nữa, theo tố tụng hình
sự của nhiều nước, nhất là các nước theo truyền thống án lệ, phiên tòa không
được phân chia rõ rệt thành phần xét hỏi, phần tranh luận thì quan điểm cho rằng
tranh tụng chỉ xảy ra trong phần tranh luận là không chính xác.
Theo tác giả, nội dung tranh tụng tại phiên tòa bao gồm:
Thứ nhất, để các bên đưa ra chứng cứ mới bằng cách yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ
được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên
tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng
thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách


11

quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng; cho nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ
tội; trong khi đó bên bào chữa (người bào chữa, bị can, bị cáo) không được
quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại
phiên tòa. Vì vậy, cho nên pháp luật tố tụng quy định các bên tham gia tố tụng
có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa ra các chứng cứ
mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của Tòa án là đảm bảo để các bên thực hiện quyền
tố tụng này; tránh trường hợp sợ phiền phức, sợ phiên tòa đi chệch quỹ đạo
chuẩn bị nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
Thứ hai, thực hiện việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi thực chất là cuộc
điều tra chính thức tại phiên tòa để xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì
vậy, các bên tham gia tranh tụng đều có quyền xét hỏi dưới sự điều khiển của

chủ tọa phiên tòa từ hỏi người khác, xem xét vật chứng, tài liệu. Việc xét hỏi này
chỉ kết thúc khi Tòa án thấy rằng thông qua xét hỏi sự thật khách quan, đối
tượng chứng minh trong vụ án đã được xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan
đến việc giải quyết đã được làm rõ. Vì thế cho nên, thủ tục tố tụng hiện hành
quy định quyền thu thập chứng cứ chỉ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, quy
định gánh nặng xét hỏi cho Tòa án, quy định chỉ cho phép một số ít các bên
tham gia xét hỏi (đại diện Viện kiểm sát, luật sư) cần được xem xét lại từ góc độ
tranh tụng;
Thứ ba, phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua việc điều tra chính
thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tranh tụng đều có cách nhìn
nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng tố
tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên
tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật
khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án cân nhắc trước khi ra phán quyết. Các
đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tranh tụng tại phiên
tòa sẽ giúp cho Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh
giá để ra phán quyết;


12

Thứ tư, phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do
nhiều lý do khác nhau như kỹ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật
chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật
được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nội dung của
tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham
gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết
vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: trong phiên tòa hình sự, đại
diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ cáo trạng, bảo
vệ việc buộc tội; người bào chữa đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để gỡ tội,

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo,...
Thứ năm, đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi
ích liên quan. Mỗi bên tham gia tranh tụng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nội dung không thể thiếu trong tranh tụng là
các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy định của pháp luật
để bảo vệ quyền và lợi ích đó. Tùy theo tư cách tố tụng của mình mà phạm vi
xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý kiến của mỗi người tham gia tranh tụng cũng có
khác nhau: đại diện Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng, người bào chữa, bị cáo bảo
vệ quan điểm không có tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên đơn dân
sự đòi hỏi việc bồi thường, bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường,...
Như vậy, qua các nội dung trên của tranh tụng có thể thấy rằng, tranh tụng
tại phiên tòa là hình thức tố tụng mà trong đó Tòa án thay mặt nhà nước xác
định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên Tòa, nghe ý kiến
của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
1.3. Ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa
trên nhiều phương diện khác nhau.
1.3.1. Ý nghĩa pháp lý
Hoạt động tranh tụng trong phiên tòa xét xử sở thẩm vụ án hình sự mang
ý nghĩa pháp lý đặc biệt quan trọng, điều này được thể hiện cụ thể như sau:


13

Thứ nhất, việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là sự thể hiện cụ thể nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, Nghị quyết số 08,
Nghị quyết số 49 và Hiến pháp năm 2013. Đó là bảo đảm cần thiết để bị cáo khi
tham gia tố tụng có thể chống lại việc buộc tội đối với mình một cách chủ động.
Do là người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội, nên bị cáo tham gia tố tụng một

cách thụ động. Vì vậy, thực hiện tranh tụng tại phiên tòa là bảo đảm giúp họ đưa
ra lý lẽ, chứng cứ bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ tội cho mình.
Thứ hai, thực hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm quá trình tố tụng này
sẽ không được lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ ba, thực hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
thực hiện chức năng cơ bản của BLTTHS. Bởi lẽ, hoạt động TTHS được thực
hiện đầy đủ, chính xác trên cơ sở vận hành ba chức năng: buộc tội, bào chữa và
xét xử. Thiếu hoặc thực hiện không đầy đủ ba chức năng trên dẫn đến tình trạng
xét xử phiến diện, không đầy đủ, vi phạm nguyên tắc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Việc bảo đảm thực hiện tranh tụng tại phiên tòa khẳng định sự
song song tồn tại hai chức năng cơ bản không thể thiếu được của BLTTHS bên
cạnh chức năng xét xử, đó là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Hai
chức năng này không chỉ tồn tại song song mà nó còn đối lập và chế ước nhau
tạo ta một cơ chế tranh tụng có hiệu quả nhất trong hoạt động tố tụng nhằm giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Đồng thời tranh tụng tại phiên tòa cũng là bảo
đảm cho việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Đó là biểu
hiện cụ thể của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS. Điều mà Nghị quyết số 08 và
49 của Bộ Chính trị, cũng như Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi cần được thực hiện
trong hoạt động tư pháp hình sự, đặc biệt là trong hoạt động xét xử hiện nay.
Có thể nói, việc bảo đảm thực hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là điều kiện cần thiết để bảo đảm pháp chế trong tố tụng. Nó đòi
hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng chức năng của mình trong
khuôn khổ của pháp luật, không thiên vị hay coi nhẹ chức năng buộc tội hay gỡ


14

tội; tôn trọng việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như nguyên

tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của bị cáo,
nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án,… bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
khách quan, đúng pháp luật.
1.3.2. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Trên phương diện chính trị - xã hội, cần hiểu tranh tụng là một sản phẩm,
giá trị của nền dân chủ thực sự. Điều này đã được chứng minh qua quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của TTHS thế giới. Trong các nhà nước cổ đại,
trung cổ hầu như giai cấp thống trị thời kỳ này không ghi nhận tranh tụng như là
một nguyên tắc, một hoạt động của TTHS, bởi lẽ, các nhà nước thời kỳ này phần
lớn là các nhà nước chuyên chế của chủ nô và phong kiến, sự tồn tại của nhà
nước là để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị bóc lột, trong xã hội không thể có
bình đẳng và càng không thể có dân chủ. Chính điều này là cơ sở chính trị cho
việc không thể có việc ghi nhận tranh tụng là một hoạt động trong TTHS, các
hành vi xúi giục người khác làm đơn thưa kiện (Điều 17 – Quyển 16 Hoàng Việt
luật lệ) đều bị trừng trị, việc phán quyết của quan tòa dựa trên lời nhận tội của bị
cáo và các bị cáo phải tự tay viết lời nhận tội (Điều 15 – Quyển 20 Hoàng Việt
luật lệ)...
Trong thời đại ngày nay, dân chủ được coi là một trong những giá trị lớn
nhất của nền văn minh nhân loại, không có dân chủ sẽ không có bình đẳng,
không có tiến bộ và không có văn minh. Do vậy, các quyền và lợi ích của mỗi cá
nhân, từng chủ thể trong xã hội cần phải có sự bảo vệ ngày một tốt hơn về mặt
pháp lý và thực tế. Khoản 1 Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 196611 quy định rõ: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an
toàn cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bi tước quyền tự
do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà
luật pháp đã quy định”. Lĩnh vực TTHS được coi là một trong những lĩnh vực
nhạy cảm nhất trong việc bảo đảm quyền về an toàn cá nhân. Do vậy để đảm
11


Được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết 2200 ngày 16/12/1966
của Đại hội đồng liên hợp quốc, có hiệu lực ngày 23/3/2976, căn cứ theo Điều 49, Việt Nam gia nhập ngày
24/09/1982


15

bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị tình nghi là tội
phạm, của những người bị buộc tội, Công ước yêu cầu các quốc gia phải có một
cơ quan tài phán thực sự độc lập, không thiên vị; người bị tình nghi phạm tội
phải có đầy đủ thời gian và điều kiện cần thiết để bảo đảm được quyền bào chữa
của mình, Điều 14 của Công ước này quy định rõ:
“1. Mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán. Mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có
thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để
quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định
quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự,...;
2. Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho
tời khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật;
3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền
được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu
sau:
...
b) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ
với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
...
d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự
trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu
chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định
trong trường hợp lợi ích đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu

không có đủ điều kiện trả;
e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội
mình và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tòa và thẩm vấn
họ tại phiên tòa với những điều kiện tương tự như đối với người làm chứng buộc
tội mình;
...
g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận là mình có tội...”
Có thể nói đây là những quy định mang tính nền tảng để mỗi quốc gia
thành viên thể chế hóa thành luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của


16

các bên trong tố tụng hình sự. Thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong TTHS sẽ
là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia TTHS, bảo đảm dân chủ thực sự trong tố tụng
hình sự. Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay thì các giá trị về dân chủ, nhân quyền trong TTHS càng
được đề cao hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, Nghị quyết số 08-NQ/TW đã nhấn
mạnh “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa...”, “Việc pháp quyết của Toán
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,...”. Nghị quyết số 48NQ/TW chỉ rõ: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân
chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, đảm bảo sự
tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đảm bảo chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn
cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp”, “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt
việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với
luật sư”.

1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn
Việc Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành một nguyên tắc có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Thực tiễn xét xử
các vụ án hình sự thời gian qua cho thấy các Tòa án, Viện kiểm sát đã có nhiều
cố gắng đảm bảo cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm việc
tranh tụng tại phiên tòa thực sự dân chủ, khách quan, ra được bản án có căn cứ,
đúng pháp luật và có sức thuyết phục cao, được nhân dân đồng tình ủng hộ, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ
của công dân. Song so với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, yêu cầu cải
cách tư pháp thì nhiều phiên tòa hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn sơ thẩm còn
nhiều hạn chế, việc tranh tụng tại phiên tòa chưa được đảm bảo, dẫn đến án cải,
sửa, hủy còn nhiều. Một trong những nguyên nhân là do lý luận về giai đoạn xét
xử sơ thẩm hình sự, trong đó có vấn đề tranh tụng chưa được làm sáng tỏ. Do


17

đó, việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng cũng như thể chế nguyên tắc này trong
các văn bản pháp luật, cũng như áp dụng trong thực tế có ý nghĩa rất lớn trong
hoạt động TTHS, góp phần giải quyết các vụ án được dân chủ, minh bạch, đảm
bảo lợi ích hợp pháp cho cá nhân, cơ quan tổ chức.
1.4. Quy định của pháp luật hiện hành về tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nhấn
mạnh: “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,

quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”. Thể
chế hóa tư tưởng này, ngoài việc tiếp tục kế thừa có chọn lọc các quy định của
BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 có nhiều quy định nhằm thực hiện và
bảo đảm tranh tụng trong TTHS. Cụ thể:
Về chủ thể thực hiện tranh tụng: Việc tranh tụng tại Toà án chủ yếu được
diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Các chủ thể thuộc bên gỡ tội, bao gồm bị
cáo, người bào chữa. Điều 50 BLTTHS năm 2003 quy định bị cáo có các quyền:
được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của
Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; quyền được
tham gia phiên toà; được giải thích về quyền và nghĩa vụ... So với BLTTHS năm
1988 thì BLTTHS năm 2003 đã mở rộng hơn các quyền của bị cáo. Đặc biệt,
quyền "trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa” của bị cáo được nhấn mạnh tại
điểm g, khoản 2, Điều 50 của Bộ luật.
Để tạo điều kiện tốt nhất cho việc tranh tụng tại phiên tòa xét xử, Điều 58
BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng ngay từ
khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81


18

và Điều 82 của bộ luật. Bên cạnh việc tiếp tục ghi nhận các quyền cơ bản của
người bào chữa, BLTTHS 2003 đã quy định khá nhiều các quyền cho người bào
chữa như: có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ; xem các biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan
đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian,
địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; sao chụp tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa; được quyền tham gia hỏi và tranh luận
dân chủ tại phiên tòa; được khiếu nại hành vi tố tụng của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng... Các quyền và nghĩa vụ của bị đơn dân sự hoặc người đại

diện hợp pháp của họ được quy định tại Điều 53 BLTTHS. Nhằm bảo đảm cho
họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, BLTTHS năm
2003 đã chú trọng tới mở rộng tranh tụng tại phiên tòa với quy định bị đơn dân
sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền "trình bày ý kiến tranh luận tại
phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn” tại điểm đ, khoản 2
Điều 53. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thuộc bên bào chữa còn được quy
định tại một số điều luật khác của BLTTHS như: Điều 10, Điều 24, Điều 62,
Điều 201, Điều 207, Điều 212, Điều 215,…
Đối với các chủ thể của chức năng buộc tội tại phiên tòa như Kiểm sát
viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ,
BLTTHS cũng quy định những quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Theo quy định
của BLTTHS 2003 thì Viện kiểm sát có các quyền và nghĩa vụ sau: có trách
nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10); áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; bảo đảm cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa (Điều 11); giải thích và bảo đảm cho những người tham gia
tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ (Điều 62); thu thập, xem xét và đánh
giá chứng cứ (các Điều 65 và 66); Điều 37 BLTTHS đã quy định cụ thể về các
hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa: "đọc cáo trạng, quyết định của VKS
liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận


19

tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa”. Song hành với quyền công tố, Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa còn có quyền "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản
án, quyết định của Toà án”. Ngoài ra, người bị hại, nguyên đơn dân sự tham gia

tố tụng thực hiện chức năng buộc tội ở một mức độ nhất định. Để các chủ thể
này có thể thực hiện chức năng của mình trong tố tụng hình sự, pháp luật quy
định cho họ những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định được quy định tại các
Điều 51, Điều 52 BLTTHS như quyền "trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”; quyền "khiếu nại quyết định, hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Trình tự, thủ tục tranh tụng tại phiên toà: Trong TTHS, hoạt động tranh
tụng được thể hiện rõ nét trong phiên toà xét xử sơ thẩm. Phần lớn các quan
điểm khoa học hiện nay đều xác định hoạt động tranh tụng được bắt đầu ngay từ
phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn cước của bị
cáo, công bố thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích quyền nghĩa
vụ của bị cáo, chủ toạ phiên toà phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia
tố tụng xem có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm
vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng
mặt thì chủ toạ phiên toà cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên toà hay
không. Nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định. Như vậy, việc
các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng,
tài liệu mới để HĐXX xem xét chính là những đảm bảo cho việc xét hỏi và là cơ
sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa. Do đó, cần phải xem quá trình
tranh tụng tại phiên tòa đã được bắt đầu ngay ở phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Trên thực tế, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa bắt đầu rõ nét nhất bằng việc
Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng trong phần xét hỏi tại phiên toà. Thủ tục xét hỏi
được quy định tại Chương XX của Bộ luật gồm 11 Điều. Khoản 2, Điều 207
BLTTHS quy định: "Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến
các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền


×