Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

LUẬN VĂN: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.37 KB, 119 trang )


















LUẬN VĂN:

Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự
của Viện kiểm sát










mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm
sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu
trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm
2002.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể
hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã
hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số
08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình
tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm
nhiệm vụ Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật;
những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh
bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ.
Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu cầu này ngành
kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá
trình giải quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự góp phần có hiệu quả
trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động




của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn
để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị
bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng bắt khẩn
cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì không chứng minh được
bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình chỉ thì có 1939 người bị áp dụng
biện pháp tạm giam; trong thời gian từ 1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925
vụ/ tổng số 49684 vụ án VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v
Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất đối
với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng không nhỏ
đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung trước
quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật
như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003
nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói
riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của
luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS.
Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng " Kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hỡnh sự của Viện kiểm sỏt " là
hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nên tôi đã chọn đề tài này làm
đề tài cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình
sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình
khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm
1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác
giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát

điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù



có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại
nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố
- điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn
nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp
luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự
trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định
mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn.
Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và cải cách tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này
trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong
hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng
hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ
năm 1999 đến nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự; hoạt động
kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực
và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực

hiện chức năng này.



Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố -
điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay
trên địa bàn toàn quốc.
4. ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây
dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố -
điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh
phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công
tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được
những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Hơn
nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp
vụ của mình.
5. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để phục
vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động
kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.

Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều
tra vụ án hình sự.



Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.





Chương 1
một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố -
điều tra
trong tố tụng hình sự

1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do
nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất
vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết
vụ án được gọi là tố tụng hình sự.
Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa luật - Đại
học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [6].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn
tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi
giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm

thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu:
Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất
định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng
có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh,
khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự
pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [5].
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao
gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai



đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử
phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét
lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình
sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai
đoạn khởi tố - điều tra. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm của
giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố
tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
a) Khái niệm
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn
này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan, được
áp dụng một số biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ
tính xác thực của các tin báo, tố giác về tội phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh
các tin báo, tố giác về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau
tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà

nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến
tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan
đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết
phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của
người tố giác tội phạm v.v
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời điểm bắt
đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được
xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các thông tin tố
giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời



gian của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp
của các tin báo, tố giác về tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý.
Theo quy định Luật tố tụng hình sự thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng
tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm.
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của
tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình
sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết
luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết luận
chính xác các nội dung đó thì phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng
hình sự đó là giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: "Là giai đoạn đầu tiên của
quá trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi
tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải
quyết vụ án hình sự" [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của

giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, có thời
hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố
giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ xác định có
hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết
định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố,
ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải



quan, Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám
nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai
của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
a) Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá
trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến
chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ
án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang
VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp
luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai
đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều
tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.

Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật
tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều
tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không
quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm
trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu
trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia
hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng
VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi
quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ



sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều
tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy
định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan
đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành
thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là
CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt
động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các
quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng,
khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:
Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do
Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm,
người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho
việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định

nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các
biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể
rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận
điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm
và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội
và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định



nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện
pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là
CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu
do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là những
chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan
đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT
kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện
pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính
chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai
người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét
khẩn cấp; bắt tạm giam v.v Các biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của
Luật tố tụng hình sự.
1.2. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự

1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan bộ máy chính quyền
thực dân phong kiến tồn tại trên đất nước ta gần 100 năm. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản tuyên ngôn độc
lập đánh dấu sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam.
Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây dựng và
củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan nhà nước và mọi
công dân là một trong những yêu cầu cấp bách cần thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu
cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát
các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát, quan
điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc và pháp chế". Lênin



xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều mà Lênin gọi "pháp chế chỉ có một" với ba
yêu cầu "phải có sự thống nhất về pháp chế trong toàn nước cộng hòa"; "phải có luật duy
nhất trong toàn nước công hòa" và "phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo pháp luật một
cách thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất,
trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy, muốn có pháp chế thống nhất không thể
không thành lập cơ quan VKS.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy Nhà nước
ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban hành
được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức
năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công
dân là một đòi hỏi mang tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan
điểm trên đã được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp

1992 (sửa đổi).
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan
VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137).
Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy định trên với nội dung quy định rõ
Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Sự điều chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan tâm nghiên
cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi
mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua.
Nên, với mục đích đi sâu nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự để giúp chúng ta nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của
VKS với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Đồng thời đưa đến sự nhận thức
chung, thống nhất của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả



các quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 trong thực tiễn, góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương diện, hướng
hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó. Với quy định tại Điều
137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS
nước ta.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn kiện
của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày 02 /1/2002 của
Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và
Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định

nghĩa pháp lý chung nhất của khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến
nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Một thực tế chúng ta phải thừa
nhận rằng:
Trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến
lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ
chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó đã không tạo ra được tiền đề cho
việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp [41].
Trong đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Cho nên hiện nay xung
quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác nhau,
tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ bao
gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án"
[40].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc
kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn



nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư pháp" trong thi hành án"
[40].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà
nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ
thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát xã hội. Theo nghĩa
rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận,
một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn
theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát.
Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra,
xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,

hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
(Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Mục đích của của
kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải
quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật
quy định [11].
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm
"kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi trước hết cần phải
khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS. Kiểm sát
các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về
tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của
các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật
được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án và bản
chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là kiểm
tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo
chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự như sau:



Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của
VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực
hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là: Kiểm sát hoạt động
tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc điểm của chúng?
Chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm
sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các cơ quan khác được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt

động kiểm sát khởi tố - điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì hoạt động đó
có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng
hình sự được thực hiện bởi CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra trong giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc
khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng thời
cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt động kiểm
sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?. Theo chúng tôi, đối
tượng của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự chính là các hành vi xử sự của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá
trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa
trên các căn cứ pháp lý là Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và
các văn bản pháp luật khác có liên quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp
luật, cũng như bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự mà
chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Về phạm vi của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự từ trước đến nay đang
là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý luận chúng tôi cho rằng
phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, theo đó các cơ quan tư pháp
có thẩm quyền có trách nhiệm khởi động hoạt động công tố để truy cứu trách nhiệm hình



sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. CQĐT cũng có quyền phát động công tố
nhưng đó là sự phát động nằm trong sự kiểm sát của VKS nên không mang tính độc lập.
Do vậy, khi CQĐT phát động quyền công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các hoạt động
tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng thực hiện theo
quy định của pháp luật, đòi hỏi phai có sự giám sát chặt chẽ của VKS thông qua hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra
các vụ án hình sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặt phát hiện được dấu

hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kêt thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ
quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình
chỉ điều tra vụ án. Việc xác định phạm vi như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của
công tác kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ
bản chất pháp lý của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra
các vụ án hình sự đó là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng
của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự
là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra
vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh, thống nhất.
Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ
án hình sự, cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó như sau:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là
chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ khi có dấu hiệu của
tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án,



chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình
chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp mọi hoạt
động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi
tố - điều tra các vụ án hình sự.
Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là
nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm

chỉnh và thống nhất.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự
Để quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng đã được nêu rõ trong Nghị quyết
đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về "một số
nhiệm vụ trọng tâm của ngành tư pháp trong thời gian tới" và đặc biệt trên cơ sở nội
dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và nội dung của Luật tổ chức VKSND năm
2002, thì vấn đề phân biệt giữa hoạt động thực hành quyền công tố với kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong tố tụng hình sự cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải
được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt động thực tiễn các quy định của
BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền và hoạt
động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong tố tụng hình sự, chúng ta cần thống
nhất về mặt nhận thức các vấn đề: Quyền công tố? Thực hành quyền công tố?
Quyền công tố: là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà nước và
pháp luật. Từ trước tới nay trong pháp luật thực định nhà làm luật nước ta chưa làm rõ và
chưa có một định nghĩa chung về " quyền công tố". Theo quan điểm của chúng tôi trước
hết quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước (quyền lực công), nó ra đời và tồn tại
cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với
bản chất Nhà nước. Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển
của mình thì quyền công tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa một bên



là Nhà nước (với tư cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người thực hiện hành vi
phạm tội (với tư cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt).
Trong quan hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của
Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải
buộc tội được người phạm tội. Nên theo chúng tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử
dụng quyền lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự buộc tội
đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, với nội dung
đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực hiện trong lĩnh vực hình sự, còn trong
lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế thì VKS tham gia để thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và
gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Với việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc xác
định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Tuy vậy, phạm vi
quyền công tố không phải có trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, điều này đã được
thể hiện rõ trong Luật tổ chức VKSND năm 2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng
hình sự nhưng ở giai đoạn này VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự
(Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Do đó giai đoạn thi hành án không có hoạt
động thực hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi quyền công tố
được xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án được xét xử và bản án đã có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Từ nội dung trên có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của Nhà nước,
được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội
người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình khởi tố - điều
tra, truy tố và xét xử tội phạm.
Thực hành quyền công tố: Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được nhà làm
luật nước ta ghi nhận và đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời
hoạt động thực hành quyền công tố cũng đã gắn liền với hoạt động của VKS hơn 40 năm



qua (từ năm 1960). Thế nhưng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
trước đến nay (BLTTHS 1988, cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông
qua) nhà làm luật chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành quyền
công tố".

Khi đã làm rõ được thế nào là quyền công tố, thì một vấn đề cần có sự nhận thức
thống nhất đó là quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm, hai phạm trù
khoa học pháp lý khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Để bảo đảm
thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm thì Nhà nước phải ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào
thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì
cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho đến Hiến
pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được giao cho cơ quan VKS.
Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó VKS được áp dụng "các biện pháp do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội" (Điều 13
BLTTHS). Tuy nhiên, thực tiễn điều tra và xét xử ở nước ta cho thấy CQĐT và Tòa án
các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số án do CQĐT khởi tố chiếm khoản 95%
và theo như quy định mới của BLTTHS năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự được tập
trung vào một đầu mối là CQĐT. Như vậy, số vụ án mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số án mà CQĐT khởi tố, hơn nữa CQĐT có quyền
bắt người, tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ Chính vấn đề thực tiễn
nói trên là sự thể hiện nguyên tắc công tố trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, tức là
trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện, chứng minh tội phạm và người phạm tội thuộc về các
cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan diều tra, VKS và Tòa án.
Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người đã có hành vi bị coi là tội phạm trong các giai đoạn khởi tố -



điều tra, truy tố và xét xử. Nội dung này được thể hiện khá cụ thể tại các Điều 13 và Điều
17 Luật tổ chức VKS năm 2002.
Từ nội dung khái niệm nói trên và trên cơ sở các quy định của BLTTHS có thể

nêu lên nội dung của thực hành quyền công tố bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, VKS tiếp tục thực hành quyền công tố với những
nội dung: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề
ra yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê
chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của
CQĐT; quyết định việc truy tố; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ giữa kiểm sát
các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002, trong lĩnh
vực tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm sát trong lĩnh vực
tư pháp hình sự, VKS các cấp luôn luôn quán triệt đường lối công tác kiểm sát là đấu
tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tố
tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật; không để lọt tội phạm
đồng thời cũng không được làm oan người vô tội. Nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự là mang tính khách quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có
mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền công tố
được phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố
vụ án hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để bảo đảm việc khởi tố đúng với các
quy định pháp luật, thông qua hoạt động kiểm sát khởi tố xét thấy quyết định khởi tố của



CQĐT không có căn cứ và hợp pháp, tức là quyết định đó trái pháp luật thì VKS yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền chấm dứt ngay hoạt động điều tra, đồng thời ra quyết định hủy bỏ

quyết định khởi tố trái pháp luật, như thế quyền công tố có thể bị triệt tiêu và việc ra quyết
định hủy bỏ tức là VKS đã thực hành quyền công tố. Do vậy, làm tốt chức năng kiểm sát
khởi tố vụ án hình sự sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của VKS được chính xác và đúng
pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và hạn chế được các vi phạm trong việc thực hành
quyền công tố của VKS. Ngược lại nếu thực hiện kiểm sát khởi tố không tốt sẽ mất đi tính
hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố, thậm chí quyết định pháp lý của VKS là vi
phạm pháp luật. Ví dụ, trong trường hợp CQĐT khởi tố vụ án trái pháp luật, nếu kiểm sát
khởi tố không kiểm sát chặt chẽ thì sẽ không phát hiện được vi phạm trong việc ra quyết
định khởi tố của CQĐT thì VKS sẽ không đưa ra được các yêu cầu và biện pháp khắc phục
ngay từ đầu, chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án phải đình
chỉ điều tra.
Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các quyết
định tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố. Nhưng hoạt
động thực hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy định của pháp luật,
muốn vậy trước khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải tiến hành kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hoặc trong
việc khởi tố bị can của CQĐT, tức là VKS tiến hành thực hiện kiểm sát các hoạt động tư
pháp.
Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính xác, đúng pháp luật
thì đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, mà hoạt động kiểm tra này
chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt
động kiểm sát thấy rằng quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là
có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét
thấy quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQĐT là không




có căn cứ và hợp pháp VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ
quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các
hoạt động tố tụng. Ví dụ, theo quy định mới của BLTTHS năm 2003, quyết định khởi tố
bị can của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị
can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
khởi tố bị can nhằm bảo đảm quyết định khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, nếu qua
hoạt động kiểm sát xét thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS
quyết định phê chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, ngược lại quyết định khởi
tố bị can không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền đề cho
hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi
phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra sẽ kéo
theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trong giai
đoạn điều tra khi chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện cũng sẽ
làm tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát. Ví dụ khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khấn cấp của
CQĐT thì làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ người
bị bắt của CQĐT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh hoặc có quyết định phê
chuẩn của VKS, đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật.
Khi truy tố bị can ra Tòa án để xét xử, tức là VKS thực hành quyền công tố, hoạt
động đó thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Nhưng quyết định truy tố của
VKS cũng phải bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp và điều đó có nghĩa là bản thân
VKS trong giai đoạn truy tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật. Muốn bảo đảm
quyết định truy tố có căn cứ thì phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động kiểm sát điều
tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì VKS sẽ nắm được
nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội của bị can và các tình tiết liên
quan khác của vụ án và đó chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật, ngược lại nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động kiểm sát điều tra
thì có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai. Cho nên, hoạt động kiểm sát điều tra là cơ sở rất




vững chắc cho hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và xét xử. Bên
cạnh đó, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố lại là tiền đề làm phát
sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên tòa xét xử.
Như vậy, giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong
lĩnh vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với
nhau, nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược
lại; kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại.
Mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp chỉ song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện,
khởi tố điều tra cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.2.3. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố- điều tra vụ
án hình sự ở nước ta từ năm 1945 đến nay
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành được độc lập và
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa
án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự
nhằm mục tiêu là bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân.
Tiền thân của cơ quan VKS là cơ quan Công tố viện được thành lập theo sắc lệnh
số 33/SL ngày 13/9/1945, vào giai đoạn đó Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống
cơ quan Tòa án, sau Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc
lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số 19 ngày
16/2/1947 quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công
tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công
tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này
Công tố viện chỉ có chức năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử. Cho nên trong
giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến 1950 tổ chức Công tố nằm trong hệ thống Tòa án.




Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958,
thực hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định
thành lập cơ quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố. Từ thời điểm này
Viện công tố tách khỏi hệ thống Toà án thốngvà trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó
Phủ Thủ tướng đã ban hành Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 quy định về nhiệm vụ và
tổ chức của Viện công tố, trong đó có quy định: "Nhiệm vụ của Viện công tố là điều tra
và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp
luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra " [7], như vậy ngoài chức năng truy
tố theo luật hình sự những kẻ phạm pháp, Viện công tố còn có chức năng trong việc
giám sát chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án hình sự. Từ giai đoạn này trở đi, chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện công tố bắt
đầu được hình thành và thực hiện. Đến năm 1959, Quốc hội ban hành Hiến pháp 1959 trong
đó đã quy định tổ chức cơ quan VKSND thành một hệ thống độc lập với Chính phủ và chỉ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành
Luật tổ chức VKSND năm 1960 để cụ thể hóa chức năng của VKS trong đó có chức năng
kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Với việc ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960
đã đánh dấu sự hình thành hệ thống cơ quan VKS từ trung ương đến địa phương, đồng thời
khẳng định chức năng hiến định là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Cũng trong thời gian này VKSNDTC và
Bộ công an đã ban hành nhiều thông tư liên bộ quy định trách nhiệm của hai ngành
trong công tác phối hợp phòng chống và đấu tranh tội phạm, cụ thể là thông tư số 427-
TTLB ngày 28/6/1963 đã quy định trách nhiệm của từng ngành đối với việc điều tra xử
lý tội phạm, thông tư quy định: Cơ quan Công an điều tra đảm nhiệm việc điều tra tất cả
các vụ án phản cách mạng và những tội phạm phức tạp. Còn VKS chủ yếu là làm nhiệm
vụ kiểm sát điều tra, đồng thời trong phạm vi điều kiện và khả năng của mình sẽ trực
tiếp và điều tra một số loại phạm pháp kinh tế và hành vi phạm pháp đã tương đối rõ.
Đến giai đoạn những năm 80, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980
trong đó quy định chức năng của VKS như sau: "Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ

×