Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Kiểm soát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 135 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


TRẦN CÔNG HÒA


Kiểm soát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố
- điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát


LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Ngọc Chí




Hà nội - 2004









MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ -
ĐIỀU TRA VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ -
ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
5
1.1.
Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra
vụ án hình sự
6
1.2.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án
hình sự
12
1.3.
Mối quan hệ giữa cơ quan điểu tra và viện kiểm sát trong khởi
tố, điều tra vụ án hình sự
29
1.4.

Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
khởi tố, điểm tra vụ án hình sự
35

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ
40
2.1.
Kiểm sát giai đoạn khởi tố
40
2.2.
Kiểm sát hoạt động điều tra
50
2.3.
Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
67
2.4.
Kiểm sát đình chỉ điều tra vụ án hình sự của CQĐT
79

Chương 3: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG
GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
85
3.1.
Thực trạng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi
tố - điều tra vụ án hình sự
85
3.2.

Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm sát
khởi tố - điều tra vụ án hình sự
103
3.3.
Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động
tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự
107

KẾT LUẬN
121

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
124




NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao









1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của
Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức
năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế
hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án
hình sự thể hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện
quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002
của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức
năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong
suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm
của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ Tăng cường công tác kiểm
sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần
bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm
giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện
kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ,
tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu

cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện
chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.

2
Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự
góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên
cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn còn có những hạn chế trong
việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án
phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều
tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng
bắt khẩn cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì
không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình
chỉ thì có 1939 người bị áp dụng biện pháp tạm giam; trong thời gian từ
1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925 vụ/ tổng số 49684 vụ án
VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v Những hạn chế đó
đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất đối với
những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng
không nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ
pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn
bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm
2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có
nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS.
Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng "Kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của

Viện kiểm sát" là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Nên tôi đã chọn đề tài này làm đề tài cho luận văn của mình.

3
2. Tình hình nghiên cứu
Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra
vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu
và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì,
Luận văn cao học luật, năm 1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn
cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại
thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập
đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại
nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ
kiểm sát khởi tố - điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong
hai chức năng chính của VKS. Hơn nữa, các công trình khoa học đó nghiên
cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật quy định chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự trước đây,
hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy
định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện
hơn.
Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ
bản chất của hoạt động này trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ
chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ

án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát tư pháp
của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ năm 1999 đến
nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải

4
pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong
giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự;
hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được
những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến
nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về
giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS
trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo
sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay trên địa bàn toàn quốc.
4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp
phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong
giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của
VKS trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một
số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong
giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Đồng thời, trong quá trình
nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được những
điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ

kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình.

5
5. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận
văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp,
so sánh và khảo sát thực tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và
hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.



6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA
VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai

đoạn và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính
xác, khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự.
Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa
luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh
chóng, chính xác và đúng pháp luật" [6].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi
giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và
tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu:
Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức
năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ
thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để
giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn
cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [5].

7
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn
giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án
hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án
hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm
không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án
hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố

tụng hình sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo
pháp luật trong giai đoạn khởi tố - điều tra. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình
bày khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt
động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
a) Khái niệm
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng.
Trong giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ
quan Kiểm lâm, Hải quan, được áp dụng một số biện pháp do Luật tố tụng
hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tin báo,
tố giác về tội phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tin báo, tố giác
về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc
vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin
liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận
thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc;
khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm

8
giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm
v.v
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có
thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện
hoặc tiếp nhận các thông tin tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc
khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời gian của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp của các tin
báo, tố giác về tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý.

Theo quy định Luật tố tụng hình sự thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng kể từ khi các cơ quan
tiến hành tố tụng tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm.
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là chỉ xác định có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ
quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết luận chính xác các nội dung đó thì
phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự đó là giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: "Là giai đoạn
đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền
xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho
các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự" [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung,
cơ bản của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau:

9
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên,
có thời hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc
tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ
quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ
xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai
đoạn khởi tố, ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn
có những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

như cơ quan Kiểm Lâm, Hải quan, Những cơ quan này trên cơ sở kết quả
kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan
đến thông tin về tội phạm; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm
tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai
của người tố giác tội phạm v.v
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
a) Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai
của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ
chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ
khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ
hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị

10
đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra
đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều
tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể
cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4
tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm
trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20
tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra
nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết,
thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp

của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc
xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực
hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn
điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có
quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh
tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án,
xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành
thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các
chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn
điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần
giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:

11
Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử
dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề
khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án.
Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều
kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp
phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu
trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như
sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá
trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành

tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ
hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra
quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để
chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ
án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để
kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều
chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu
thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung
cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì
mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm.

12
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là
mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp
đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó
là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại;
tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v Các
biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự.
1.2. KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP TRONG KHỞI TỐ - ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng
hình sự
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan bộ máy chính
quyền thực dân phong kiến tồn tại trên đất nước ta gần 100 năm. Ngày 2

tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thay mặt toàn thể nhân dân
Việt Nam đọc bản tuyên ngôn độc lập đánh dấu sự ra đời của Nhà nước dân
chủ nhân dân Việt Nam.
Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình
xây dựng và củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ
quan nhà nước và mọi công dân là một trong những yêu cầu cấp bách cần
thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan
nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát các hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám
sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc
và pháp chế". Lênin xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều
mà Lênin gọi "pháp chế chỉ có một" với ba yêu cầu "phải có sự thống nhất về
pháp chế trong toàn nước cộng hòa"; "phải có luật duy nhất trong toàn nước
công hòa" và "phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo pháp luật một cách

13
thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải thiết lập một nền pháp
chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy, muốn có
pháp chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy
Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật
do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì
việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng
pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là một đòi hỏi mang tính khách
quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã được thể chế
hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi).

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng
của cơ quan VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137). Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ
thể hóa quy định trên với nội dung quy định rõ Viện kiểm sát thực hiện chủ
yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Sự điều chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan
tâm nghiên cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như
trong quá trình đổi mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp
nước ta trong thời gian qua. Nên, với mục đích đi sâu nghiên cứu làm rõ chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự để giúp chúng ta
nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của VKS với hoạt động của các
cơ quan nhà nước khác. Đồng thời đưa đến sự nhận thức chung, thống nhất
của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả các quy
định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 trong thực tiễn, góp phần bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa.

14
Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương
diện, hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động
đó. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật
tổ chức VKSND năm 2002 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ
quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các
văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08
ngày 02 /1/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên nhà

lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất của khái
niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận
thức khác nhau về khái niệm này. Một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng:
Trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng
mức đến lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư pháp ít
được sử dụng trong ngôn ngữ chính trị, pháp luật và khoa học.
Điều đó đã không tạo ra được tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn
đề về tư pháp [41].
Trong đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Cho nên hiện
nay xung quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều
quan điểm khác nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp
chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án" [40].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp
bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ

15
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và
phần "tư pháp" trong thi hành án" [40].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền
lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như
từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám
sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là
giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám
sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm
sát tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát. Phạm vi
kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều

tra, xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân
và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật (Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002). Mục đích của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho
pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên
cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định
[11].
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái
niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi
trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng
hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà
nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên,
khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các
hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ
quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp
luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các
vụ án và bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong

16
tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các
chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái
niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng
hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các
cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho
pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là:
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc
điểm của chúng?

Chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS thực
chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và
các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra với tính
chất là một chức năng của VKS thì hoạt động đó có bản chất pháp lý là kiểm
tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực
hiện bởi CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra trong giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm
việc khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt
động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?.
Theo chúng tôi, đối tượng của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự
chính là các hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình
sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là
Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và các văn bản pháp

17
luật khác có liên quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật,
cũng như bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự
mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Về phạm vi của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự từ trước
đến nay đang là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý
luận chúng tôi cho rằng phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm
xảy ra, theo đó các cơ quan tư pháp có thẩm quyền có trách nhiệm khởi động
hoạt động công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi phạm tội. CQĐT cũng có quyền phát động công tố nhưng đó là sự phát
động nằm trong sự kiểm sát của VKS nên không mang tính độc lập. Do vậy,
khi CQĐT phát động quyền công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các hoạt

động tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm cơ sở truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm cho các
hoạt động tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phai có sự
giám sát chặt chẽ của VKS thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình
sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặt phát hiện được dấu
hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kêt thúc điều tra bằng bản kết luận
điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc khi
CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Việc xác định phạm vi như vậy là
thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của công tác kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án
hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đó là
kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan
tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự
như sau:

18
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ
án hình sự là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp
mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật
tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự, cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó
như sau:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án
hình sự là chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu

từ khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến
hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều
tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp
mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong quá trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự.
Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án
hình sự là nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực
hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tƣ pháp với thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự
Để quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng đã được nêu rõ trong
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 08 ngày 02/1/2002 của Bộ
chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành tư pháp trong thời gian
tới" và đặc biệt trên cơ sở nội dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi)
và nội dung của Luật tổ chức VKSND năm 2002, thì vấn đề phân biệt giữa
hoạt động thực hành quyền công tố với kiểm sát các hoạt động tư pháp trong

19
tố tụng hình sự cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải được làm
rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt động thực tiễn các quy định của
BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thực hành
quyền và hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong tố tụng
hình sự, chúng ta cần thống nhất về mặt nhận thức các vấn đề: Quyền công
tố? Thực hành quyền công tố?
Quyền công tố: là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà
nước và pháp luật. Từ trước tới nay trong pháp luật thực định nhà làm luật
nước ta chưa làm rõ và chưa có một định nghĩa chung về " quyền công tố".
Theo quan điểm của chúng tôi trước hết quyền công tố là một loại quyền lực

nhà nước (quyền lực công), nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại
của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước.
Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của
mình thì quyền công tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa
một bên là Nhà nước (với tư cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người
thực hiện hành vi phạm tội (với tư cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự và phải chịu hình phạt). Trong quan hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được
người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải buộc tội được người
phạm tội. Nên theo chúng tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử dụng quyền
lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là
sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm, với nội dung đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực
hiện trong lĩnh vực hình sự, còn trong lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính,
kinh tế thì VKS tham gia để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành

20
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Với
việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc
xác định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội.
Tuy vậy, phạm vi quyền công tố không phải có trong mọi giai đoạn của tố
tụng hình sự, điều này đã được thể hiện rõ trong Luật tổ chức VKSND năm
2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng hình sự nhưng ở giai đoạn này
VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án
nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự (Điều 23
Luật tổ chức VKSND năm 2002). Do đó giai đoạn thi hành án không có hoạt
động thực hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi
quyền công tố được xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án

được xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Từ nội dung trên có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của
Nhà nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm
hình sự và buộc tội người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện
trong suốt quá trình khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.
Thực hành quyền công tố: Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được
nhà làm luật nước ta ghi nhận và đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm
pháp luật, đồng thời hoạt động thực hành quyền công tố cũng đã gắn liền với
hoạt động của VKS hơn 40 năm qua (từ năm 1960). Thế nhưng trong các văn
bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay (BLTTHS 1988,
cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông qua) nhà làm luật
chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành quyền công
tố".
Khi đã làm rõ được thế nào là quyền công tố, thì một vấn đề cần có sự
nhận thức thống nhất đó là quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai
khái niệm, hai phạm trù khoa học pháp lý khác nhau, không thể đồng nhất hai
khái niệm này với nhau. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu

21
tranh chống tội phạm thì Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố.
Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện
để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội,
thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho
đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được
giao cho cơ quan VKS. Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó VKS được áp
dụng "các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm
và xử lý người phạm tội" (Điều 13 BLTTHS). Tuy nhiên, thực tiễn điều tra và
xét xử ở nước ta cho thấy CQĐT và Tòa án các cấp cũng khởi tố vụ án hình

sự, thậm chí số án do CQĐT khởi tố chiếm khoản 95% và theo như quy định
mới của BLTTHS năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự được tập trung vào
một đầu mối là CQĐT. Như vậy, số vụ án mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số án mà CQĐT khởi tố, hơn nữa CQĐT
có quyền bắt người, tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ
Chính vấn đề thực tiễn nói trên là sự thể hiện nguyên tắc công tố trong pháp
luật tố tụng hình sự nước ta, tức là trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện, chứng
minh tội phạm và người phạm tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng bao
gồm: Cơ quan diều tra, VKS và Tòa án.
Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là
việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã có hành vi bị coi là tội phạm
trong các giai đoạn khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử. Nội dung này được thể
hiện khá cụ thể tại các Điều 13 và Điều 17 Luật tổ chức VKS năm 2002.
Từ nội dung khái niệm nói trên và trên cơ sở các quy định của
BLTTHS có thể nêu lên nội dung của thực hành quyền công tố bao gồm:

22
Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án,
khởi tố bị can.
Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, VKS tiếp tục thực hành quyền công tố
với những nội dung: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của
CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố;
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ
giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố
tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002,

trong lĩnh vực tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập,
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện
chức năng của ngành kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS các cấp
luôn luôn quán triệt đường lối công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm
gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của
các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật; không để
lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm oan người vô tội. Nên việc thực
hiện đồng thời hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính khách
quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với nhau. Mối quan
hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền
công tố được phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong khởi tố vụ án hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để

×