Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bối cảnh thương mại quốc tế và định hướng cho Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.14 KB, 7 trang )

BỐI CẢNH THƢƠNG MẠI QUỐC
TẾ VÀ ĐỊNH HƢỚNG CHO VIỆT
NAM

Trƣớc cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thƣơng mại thế giới đã bị ảnh
hƣởng nặng nề. Theo ƣớc tính của Tổ chức Thƣơng mại thế giới
(WTO) thì thƣơng mại toàn cầu bị sụt giảm hơn 10% trong năm
2009; một con số trầm trọng nhất so với nhiều thập niên qua. Mặc
dù sự sụt giảm này là hệ quả của cuộc suy thoái, việc phục hồi đẩy
mạnh giao thƣơng sẽ là một trong những đầu tàu quan trọng kéo
nền kinh tế thế giới đi lên.

Hơn bao giờ hết, những diễn biến và xu hướng của thương mại quốc tế
sẽ tạo ra những ảnh hưởng nhất định trong nền kinh tế thế giới. Ở
phương diện quốc gia, nắm bắt được những hiện tượng này rất cần thiết
trong việc hoạch định chính sách để đưa nền kinh tế tiến sâu vào quá
trình hội nhập toàn cầu một cách có hiệu quả.
Không giẫm lại vết xe lịch sử
Trong cơn bộc phát của cuộc suy thoái, đã có nhiều lo lắng cũng như
cảnh báo về khả năng các quốc gia sẽ áp dụng tràn lan các chính sách
bảo hộ để hạn chế bớt nạn thất nghiệp đang gia tăng. Người ta đã liên
tưởng đến Đạo luật Thuế quan Smoot-Hawley mà Mỹ ban hành vào năm
1930 ở thời kỳ Đại khủng hoảng. Đạo luật này đã làm tăng mạnh thuế
quan đối với gần như hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ. Hệ quả
là các nước khác cũng trả đũa bằng việc tăng thuế nhập khẩu của họ, dẫn
đến suy sụp thương mại thế giới, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng
lịch sử này.
Cảnh báo trên là thận trọng, nhưng tình hình thực tế đã cho thấy hệ
thống mậu dịch toàn cầu ngày nay đã ngăn ngừa hữu hiệu tình trạng tràn
lan của bảo hộ và chiến tranh thương mại. Theo báo cáo gần đây của


WTO, mặc dù các nước đã áp dụng một số biện pháp hạn chế giao
thương, không có nước thành viên nào áp dụng rộng rãi các biện pháp
bảo hộ cũng như các biện pháp trả đũa. WTO ước lượng rằng các biện
pháp hạn chế thương mại được áp dụng từ tháng 10-2008 đến tháng 10-
2009 chỉ làm ảnh hưởng tối đa khoảng 1% khối lượng thương mại thế
giới.
Để giảm bớt áp lực bảo hộ tăng cao do diễn
biến xấu của tỷ lệ thất nghiệp, một số nƣớc
đã tìm cách “xả van” thông qua một số biện
pháp hạn chế thƣơng mại trong phạm vi cho
phép của luật lệ. Theo số liệu của WTO, số
lƣợng của các cuộc điều tra chống bán phá
giá, chống bán trợ giá, và tự vệ đƣợc thực
hiện trong khoảng thời gian hoành hành của
cuộc suy thoái đã tăng cao so với thời điểm
trƣớc đó. Ví dụ, nếu nhƣ năm 2007 có 163
cuộc điều tra chống bán phá giá thì con số
này đã tăng lên 212 trong năm 2008, và đƣợc dự báo là còn tăng cao
hơn cho toàn năm 2009. Tuy nhiên, tình trạng này không thể gọi là
bộc phát vì vẫn chƣa cao bằng con số 366 trƣờng hợp trong năm
2001.
Theo một số liệu khác có được từ kết quả theo dõi của Global Trade
Alert thì trong khoảng thời gian từ tháng 11-2008 đến tháng 9-2009 các
nước đã ban hành 192 biện pháp có tính chất bảo hộ thương mại. Số
lượng các biện pháp được sử dụng tăng cao từ tháng 1 đến tháng 5-2009
(khi cơn suy thoái toàn cầu đang cao độ) nhưng đã bắt đầu giảm dần sau

Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng trong
chuyến thăm Nhật

Bản.
đó. Với xu hướng này thì có thể thấy rằng khả năng bộc phát tràn lan của
bảo hộ cũng như chiến tranh thương mại toàn cầu là không có.
Giới hạn của tự do hóa đa phƣơng
Sự thành công trong việc chống lại sự tràn
lan của các chính sách bảo hộ trong bối
cảnh hiện nay cũng nhƣ sự gia tăng thƣơng
mại thế giới trong những thập niên qua tất
nhiên là đã nhờ phần lớn vào sự hiện hữu
của WTO (và GATT trƣớc đây). Thông qua
các vòng đàm phán đã kết thúc, các nƣớc
thành viên đã đi đến nhiều cam kết ràng
buộc nhằm thúc đẩy tự do hóa thƣơng mại
ngày càng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, sự trì trệ của vòng đàm phán Doha trong hơn tám năm qua đã
cho thấy những giới hạn nhất định của việc thúc đẩy tự do hóa thương
mại đa phương. Mặc dù vòng Doha được cho là hướng đến các mục tiêu
phát triển để giúp đỡ các nước đang phát triển hưởng được nhiều lợi ích
hơn từ thương mại, những bất đồng về tự do hóa lĩnh vực nông nghiệp
(một quan tâm hàng đầu của các nước đang phát triển) vẫn còn quá lớn
để đi đến một thỏa hiệp thật sự vì mục đích phát triển.
Trong Hội nghị Bộ trưởng Thương mại của các nước thành viên WTO
vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 vừa qua, nhiều nước đã kêu gọi cần kết
thúc vòng Doha trong năm 2010. Nhưng khả năng này phụ thuộc rất lớn
vào động thái của Mỹ. Chính phủ Obama, mặc dù cũng tỏ ra quan tâm
đến thương mại nhưng vấn đề y tế và hai cuộc chiến ở Afghanistan và
Iraq vẫn là ưu tiên chính sách hàng đầu hiện nay. Do đó, liệu Mỹ có đủ
quyết tâm chính trị để giúp đạt được một kết cục trong năm 2010 hay
không là câu hỏi đang được đặt ra.


Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết thăm Tây
Ban Nha.
Những khó khăn trong đàm phán đa
phƣơng toàn cầu đã thúc đẩy các nƣớc chọn
phƣơng pháp mở rộng giao thƣơng tƣơng
đối dễ hơn thông qua con đƣờng ký kết các
hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng
hoặc trong khu vực. Và hiện tƣợng này đã
tăng mạnh trong những năm gần đây. Theo
số liệu của WTO, hiện nay có hơn 200 hiệp
định thƣơng mại tự do đang có hiệu lực đã
đƣợc thông báo với WTO (con số này sẽ lớn hơn nhiều nếu tính luôn
các hiệp định đã ký kết nhƣng chƣa có hiệu lực cũng nhƣ các hiệp
định đang đƣợc thƣơng lƣợng hoặc đang trong trạng thái đề xuất).
Riêng Mỹ hiện cũng đang có 17 hiệp định song phƣơng có hiệu lực
và ba hiệp định khác đang chờ đƣợc thông qua. Sự thông qua của
Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản gần đây cũng nằm
trong xu hƣớng này.
Tuy nhiên, sự gia tăng các hiệp định thương mại tự do đã làm cho các
hoạt động xuất/nhập khẩu trở nên phức tạp hơn rất nhiều do phải áp
dụng các mức thuế quan cũng như quy tắc xuất xứ khác nhau tùy theo
đối tượng có thuộc dạng được ưu đãi đặc biệt hay không. Jagdish
Bhagwati, chuyên gia quốc tế hàng đầu về thương mại, gọi tình trạng
này giống như “tô mì spaghetti” (có hàm ý là rối rắm, lộn tùng phèo).
Ông cũng cho rằng các hiệp định thương mại tự do cũng mang tính bảo
hộ (nhìn ở phương diện toàn cầu), bởi vì những ưu đãi đặc biệt chỉ dành
cho các thành viên trong hiệp định.
Nhận xét đó đúng ở phương diện thuần thương mại và ở phạm vi toàn
cầu. Tuy nhiên, trong thực tế thì không thể bỏ qua yếu tố chính trị. Hiệp

định thương mại tự do cũng là một công cụ thiết yếu của chính sách
ngoại giao. Do đó, việc sử dụng các lợi ích thương mại để thắt chặt thêm
các mối quan hệ chiến lược là điều cần thiết.
Phát triển bền vững
Từ những nỗ lực mở rộng giao thương thông qua con đường ký kết riêng
lẻ các hiệp định thương mại tự do trong khi đàm phán đa phương toàn
cầu bị trì trệ thì có thể thấy rằng thương mại là một yếu tố rất quan trọng

Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết thăm Ý.
trong chiến lược phát triển quốc gia. Tuy nhiên, để có thể có những lợi
ích thật sự thì thương mại phải được lồng trong bối cảnh phát triển bền
vững.
Ở khía cạnh này, trong phạm vi quốc gia, người ta đã nhận ra là cần phải
có những chiến lược cụ thể để giải quyết các tác động tiêu cực lên môi
trường do các hoạt động sản xuất để phục vụ xuất khẩu gây ra. Điều này
đặc biệt rất quan trọng đối với các nước đang phát triển bởi vì các mặt
hàng xuất khẩu của họ đa phần là từ nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong phạm vi toàn cầu, trước những báo động về vấn đề biến đổi khí
hậu, việc giảm thiểu khí thải carbon (CO2) càng trở nên cấp bách. Hội
nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của 192 quốc gia nhóm họp tại
Copenhagen (Đan Mạch) trong tháng 12-2009 cũng không nằm ngoài
mục đích chính là cố tìm ra một thỏa thuận toàn cầu cho việc cắt giảm
loại khí thải gây nhiều tranh cãi này.
Trong quá trình tìm kiếm các giải pháp hợp lý, thương mại là một yếu tố
không thể tách rời. Một lý do quan trọng là vì nếu các nước có những
khác biệt về mức độ cắt giảm thì sẽ dẫn đến những chênh lệch về tính
cạnh tranh của hàng hóa giữa các nước. Ví dụ, nếu Mỹ có yêu cầu cắt
giảm khí thải cao hơn Trung Quốc thì các nhà sản xuất thép (một ngành
công nghiệp thải nhiều khí CO2) của Mỹ sẽ phải tốn chi phí nhiều hơn

so với các nhà sản xuất thép Trung Quốc. Trong trường hợp như vậy, tất
nhiên là các nhà sản xuất thép Mỹ sẽ tạo áp lực lên chính phủ của mình
để đảm bảo tính cạnh tranh của họ. Một giải pháp họ có thể đưa ra là yêu
cầu áp dụng một loại thuế nhập khẩu đối với thép Trung Quốc để điều
chỉnh sự khác biệt về tiêu chuẩn cắt giảm khí thải.
Rõ ràng là yếu tố thương mại sẽ làm cho nỗ lực tìm kiếm và thực thi các
giải pháp cho vấn đề biến đổi khí hậu trở nên phức tạp hơn. Tuy nhiên,
trong khó khăn vẫn có cơ hội. Có một số ý kiến cho rằng hệ thống
thương mại toàn cầu nên ưu tiên cắt giảm mạnh các hàng rào thuế quan
đối với các mặt hàng được sản xuất bằng những công nghệ thân thiện
với môi trường. Đây sẽ là động cơ tốt cho doanh nghiệp thay đổi và phát
minh ra các công nghệ mới phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Một vài định hƣớng
Từ các diễn biến và xu hướng của thương mại thế giới như đã phân tích
ở trên, có thể rút ra một vài định hướng chính sách phù hợp cho Việt
Nam như sau. Thứ nhất, Việt Nam cần phải tập trung định hướng các
hoạt động xuất/nhập khẩu phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Về mặt xuất khẩu, cần hạn chế khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên cũng như các hoạt động chế biến gây tác hại nặng lên môi trường.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất
khẩu thân thiện với môi trường. Ví dụ, dựa trên thế mạnh nông nghiệp
truyền thống, có thể định hướng/hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất thực
phẩm hữu cơ (organic foods) để xuất khẩu vào các thị trường đầy tiềm
năng như Nhật Bản. Sản xuất thực phẩm hữu cơ vừa thân thiện với môi
trường vừa có giá trị xuất khẩu cao hơn.
Về mặt nhập khẩu, cần phải tránh các công nghệ cũ đang bị các nước
khác loại bỏ và tìm cách bán tháo. Bên cạnh đó, cần khuyến khích nhập
khẩu các công nghệ phục vụ cho quá trình phát triển các ngành công
nghiệp phù hợp với phát triển bền vững, chẳng hạn như điện gió và năng
lượng mặt trời.

Thứ nhì, trong các nỗ lực mở rộng giao thương thông qua con đường ký
kết các hiệp định thương mại tự do song phương, Việt Nam cần chú tâm
(a) chọn lựa những đối tác vừa có thể đưa lại lợi ích thương mại và vừa
phục vụ mục tiêu chiến lược ngoại giao như Mỹ, Ấn Độ, Nga… (b) đòi
hỏi đối tác xóa bỏ những rào cản đối với các mặt hàng mà mình đang có
lợi thế so sánh và để đáp lại thì có thể nhượng bộ mạnh tay hơn đối với
các mặt hàng đã bị hàng nhập khẩu các nước khác chiếm lĩnh. Ví dụ, đối
với một số mặt hàng đang bị nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm lĩnh thị
phần thì có thể linh hoạt dành những ưu đãi thuế quan đối với các mặt
hàng này trong lúc thương lượng một hiệp định với Ấn Độ. Nếu được
như vậy thì nhập khẩu từ Ấn Độ sẽ cạnh tranh với nhập khẩu Trung
Quốc trên thị trường Việt Nam thay vì cạnh tranh với các mặt hàng nội
địa khác mà Việt Nam đang cố gắng phát triển.
Thứ ba, Việt Nam cần sử dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá,
và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản
xuất trong nước khi tình thế đòi hỏi phải như thế. Theo đó, Chính phủ
cần tạo điều kiện thông tin tốt về ba biện pháp này để các nhà sản xuất
trong nước nắm rõ luật lệ nhằm tạo ra những áp lực cần thiết khi họ phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề của nhập khẩu ồ ạt.
Đừng nên sợ sẽ bị trả đũa, miễn là áp dụng các biện pháp này phù hợp
với luật lệ. Thực tế cho thấy là các nước đang phát triển ngày càng mạnh
dạn hơn trong việc sử dụng chúng. Dùng luật lệ để bảo vệ quyền lợi của
mình là một việc cần phải làm nếu như muốn trở nên vững vàng hơn
trong các quan hệ thương mại quốc tế.

×