Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

LUẬN VĂN:Sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thế kỷ XIX docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.68 KB, 32 trang )








LUẬN VĂN:


Sự hình thành và phát triển
CNXHKH thế kỷ XIX







A- Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa xã hội khoa học là trong ba bộ phận cấu thành nen chủ nghĩa Mác -
Lênin: CNXHKH được C.Mác và Ăng-ghen sáng lập dựa trên hai phát triển vĩ đại là chủ
nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Nhờ hai phát kiến ấy các ông đã đi
đến kết luận một cách lôgic rằng: CNXH trước sau sẽ thay bằng CNTB. Trước khi
CNXHKH ra đời dã có những trào lưu, những tư tưởng XHCN không tưởng. Vào giữa
thế kỷ XIX CNTB có những bước phát triển đồng thì bộc lộ những mâu thuẫn ngày càng
rõ rệt cũng xuất hiện những tiền đề cho cách mạng XHCN. Trên cơ sở ấy, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác đã có đủ những căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn để sáng lập
CNXHKH. Từ đó CNXHKH ngày càng gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sản xuất và phong
trào công nhân, vừa phản ánh vừa soi sáng con đường giai cấp công nhân tiến lên hoàn


thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau này, Lênin lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở Nga, không ngừng kế thừa,
bảo vệ, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăng-ghen mà còn nhắc nhở những người cộng
sản rằng muốn xây dựng thành công CNXH phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng trí
tuệ nhân loại. CNXH không phải là điều không tưởng, nảy sinh một cách hư vô từ đầu óc
con người mà bắt nguồn từ yêu cầu của thực tiễn đời sống, từ những thành quả của
CNTB và chế độ xã hội trước đó giữa mối liên hệ khách quan giữa cái cũ và cái mới theo
quy luật biện chứng phủ định của phủ định, nghĩa là không bác bỏ hoàn toàn cái cũ mà
bảo tồn và phát triển hơn những cái tiến bộ đã đạt trong giai đoạn trước, không như thế sẽ
không thể có sự vận động tiến lên trong thực tiễn cũng như trong tư duy.
Đối với CNXHKH ngày nay, một vấn đề cấp bách phải triển khai nhiều công trình
tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận để phát triển lý luận, làm cho CNXH phản ánh
đúng thực trạng và xu thế của xã hội, của loài người soi sáng con đường đi lên của cách
mạng. Do hình thành và phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn sản xuất và
đấu tranh của phong trào công nhân - nhân dân lao động chính vì thế CNXHKH đáng
đứng trước không ít những thách thức, thù địch phá hoại từ CNTB và các thế lực phản
động.
Chính bởi vậy, việc nắm những lý luận về con đường hình thành và phát triển
cũng như những đặc điểm cơ bản của CNXHKH là một yêu cầu cấp thiết đề ra hiện nay.

Nhận thức rõ điều đó, người viết đã chọn " Sự hỡnh thành và phỏt triển CNXHKH thế
kỷ XIX " làm đề tài tiểu luận cho mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều nhà nghiên cứu ở các viện, nghiên cứu về sự hình thành và phát triển
CNXHKH. Các nhà nghiên cứu đầu ng của việc chủ nghĩa xã hội HVCTQGHCM. Như
TS Nguyễn An Ninh GVVC - Viện CNXH (HVHCQGHCM). Nghiên cứu viện: Nguyên
Tiến Mạnh - Viện CNXH PGS.TS.Vũ Văn Phúc, GS.TS Trịnh Quốc Tuẫn,
HVCTQGHCM Có nhiều bài viết, tác phẩm nghiên cứu có giá trị trên các tạp chí Tư
tưởng văn hoá, Thông tin lý luận CNXH; Tạp chí cộng sản; Báo điện tử Đảng Cộng sản

Việt Nam Đề tài sẽ được tiếp tục nghiên cứu sâu rộng trong thời gian tiếp theo.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
- Tiểu luận hướng tới các đối tượng nghiên cứu chính sau:
+ Các tiền đề cơ bản của CNXHKH.
+ Quá trình hình thành và phát triển CNXHKH thế XIX.
+ Vai trò của C.Mác và Ph.Ăng-ghen .
- Nhiệm vụ chủ yếu:
+ Giúp cho bạn đọc nắm vững được về mặt lịch sử các tiền đề CNXHKH.
+ Làm sáng tỏ con đường phát triển của CNXHKH và luận giải một cách khoa học
và những quy luật bước đi, hình thức, phương án về sự hình thành và phát triển
CNXHKH. Làm sáng tỏ vai trò vĩ đại, lớn lao của C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin.

4- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp kết hợp lịch sử - lôgic, kết hợp phương
pháp như nghiên cứu xã hội, tổng kết chính trị thực tiễn, phát triển, lý luận phương
pháp tổng hợp, biện chứng.
5- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu từ sự hình thành và phát triển CNXHKH thế kỷ XIX.
6- Kết cấu tiểu luận
B. Phần nội dung

Chương I
Những tiền đề ra đời CNXHKH

I- Những điều kiện về kinh tế và xã hội
1. Điều kiện kinh tế
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất và trao đổi TBCN Châu
Âu: phát triển mạnh mẽ gắn liễn với tiến bộ của công nghiệp cơ khí. Cách mạng khoa học
kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ tạo
điều kiện cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh hoàn thành và bắt đầu phát triển

sang một số nước khác.
Cách mạng công nghiệp đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới, đó là nền đại công
nghiệp. Nó đã thúc đẩy nền sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất
xã hội hoá cao dẫn mẫu thuẫn quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiễm hữu tư nhân TBCN
về tưl sản xuất. Phương thức sản xuất tư bản ngày càng phát triển từ đó bộc lộ mâu thuẫn
vốn có của nó. Lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội cao do đó dần dần xoá bỏ
quan hệ sản xuất này thay bằng quan hệ sản xuất khác phù hợp với trình độ, tính chất của
quan hệ sản xuất mới.
2. Điều kiện xã hội
Cách mạng công nghiệp cũng đồng thời tạo ra một lực lượng xã hội mới, đó là giai
cấp vô sản (giai cấp công nhân). Giai cấ vô sản từ khi ra đời đã bị giai cấp tư sản bóc lột
nặng nề đến bần cùng hoá. Điều đó đã dẫn tới mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản
ngày càng trở nên gay gắt, biểu hiện thành những biến động chính trị lớn, như phong trào

đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (Pháp) từ năm 1831 - 1834, phong trào
công nhân của nhà máy dệt thành phố Xilêdi (Đức) năm 1844. Đặc biệt là phong trào
Hiến chương của những người lao động Anh kéo dài từ năm 1835 đến năm 1848. Phong
trào Hiến chương là một phong trào mang tính dân chủ, chứ chưa phải là mang tính chất
xã hội chủ nghĩa, với yêu cầu đưa ra nhiều kiến nghị sửa đổi pháp luật của giai cấp tư sản
cầm quyền một cách có lợi cho cuộc sống của người lao động. Theo Ph.Ăng-ghen, phong
trào Hiến chương đã trở thành một phong trào công nhân thuần tuý Về bản chất phong
trào Hiến chương là một hiện tượng có tính chất xã hội tất cả các công nhân công
nghiệp đều nhất trí rằng họ là những "working men" (công nhân) - đó là danh hêịu họ
rất tự hào, danh hiệu phổ biến trong những cuộc họp của phái Hiến chương, rằng họ họp
thành giai cấp độc lập có những lợi ích và nguyên tắc riêng có thế giới quan riêng, giai
cấp đối lập với mọi giai cấp có của, đồng thời cũng là giai cấp làm cơ sở cho sức mạnh
và khả năng phát triển sau này của dân tộc.
Những điều kiện lịch sử ấy đã cho thấy mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất, mang
tính chất xã hội và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu
sản xuất đã được thể hiện trên bề nổi của xã hội thành mâu thuẫn không thể điều hoà giữa

giai cấp tư sản bóc lột thống trị và giai cấp những người lao động làm thuê bị bóc lột.
Tình hình thực tế lịch sử đã báo hiệu rằng xã hội không thể sống yên ổn dưới sự thống trị
của giai cấp tư sản, rằng bản thân giai cấp tư sản là không thể tương dung với sự tồn tại
của một xã hội đang đòi hỏi cần có sự công bằng và bình đẳng giữa người với người.
Giai cấp tư sản là một lực lượng đã góp phần công sức có ý nghĩa quyết định vào
sự hình thành nền công nghiệp lớn, có ý nghĩa lịch sử trọng đại như một vũ khí thủ tiêu
chế độ quân chủ chuyên chế, nhưng nó đã không thấy rằng nền công nghiệp lớn còn là
điều kiện vật chất bảo đảm cho giai cấp công nhân thoát khỏi tình trạng phân tán để đoàn
kết nhau lại và hơn nữa còn là điều kiện vật chất quyết định sự sụp đổ không thể tránh
khỏi trong tương lại của bản thân giai cấp tư bản cầm quyền.
Các phong trào đấu tranh của công nhân đã chĩa thẳng mũi nhọn vào kẻ thù của
mình là giai cấp tư sản và khẳng định giai cấp vô sản đã trở thành chính trị độc lập có khả
năng trở thành lực lượng xã hội quan trọng, có vai trò cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội
mới. Tuy nhiên, các phong trào đấu tranh thời kỳ này đều thất bại mà nguyên chủ yếu của
nó, sau này được C. Mác và Ăng-ghen chỉ rõ là chưa có một lý luận cách mạng dẫn

đường, chưa chỉ ra mục tiêu của cuộc đấu tranh, chưa có con đường và biện pháp đấu
tranh đúng đắn. Nghiên cứu thực tiễn của phong trào đấu tranh và nhất là sự thất bại của
nó. C. Mác và Ăng-ghen nhận thấy rắng, muốn cho phong trào công nhân giành thắng lợi
phải có lý luận cách mạng soi đường. Hai ông đã tập trung xây dựng học thuyết cho
phong trào công nhân, đó chính là lý luận của CNXHKH.
Tiểu kết: Những cơ sở kinh tế - xã hội khách quan cho ra đời của CNXHKH để
thay thế các trào lưu XHCN và CSCN đã tỏ rõ lỗi thời, không có khả năng đáp ứng
những yêu cầu chính trị cấp bách của giai cấp công nhân.
II- Những tiền đề tư tưởng lý luận
Cơ sở kinh tế và cơ cấu xã hội TBCN là mảnh đất hiện thực cho CNXHKH sinh
thành. Song chưa đủ, nó còn có những tiền đề tư tưởng lý luận cần thiết để ra đời.
1. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu thế kỷ XIX
 CNXHKT Pháp: Bước vào thế kỷ XIX nước Pháp với sự cầm quyền của giai cấp
tư sản phản động đứng đầu là Napôlêon Bônnapác đã bóp chết mọi thành quả cách mạng

còn lại chỉ là những gì cho giai cấp tư sản Xã hội Pháp có nhiều biến động, dù kinh tế
phát triển cut đời sống của nhân dân Pháp vẫn tối tăm, tuy với hình thức và các thể chế
chính trị có khác nhau nhưng thực chất như Ăng-ghen đã chỉ rõ: Đó là nô lệ mới, với ách
thống trị của chế độ phong kiến, tư sản và dân chủ cộng hoà. Với nhiều hình thức đấu
tranh khác nhau. Năm 1823 công nhân Pa-ri nổi dậy khởi nghĩa chống ách thống trị của
phái tư sản dưới thời Luy Philip. Năm 1831 - 1834 công nhân Lyông khởi nghĩa vũ trang,
tất cả các cuộc khởi nghĩa, nổi dậy của quần chúng lao động chống các thế lực thống trị ở
Pháp đã chứng minh mâu thuẫn ở Pháp không thể điều hoà cuộc sống xa hoa truỵ lạc của
GCTS và tình cảnh khốn cùng của giai cấp công nhân so với "Những lời hứa hẹn hoa mỹ
của các nhà khai sáng thì những thể chế chính trị xã hội dựng lên chỉ là bức biếm hoạ
làm cho người ta thất vọng chua vay". Những người sớm nhận ra những thất vọng ấy đã
xuất hiện đó là Xanhximông, Phuriee.
- Xanhximoong (1760 - 1825): Sinh ra trong một gia đình quý tộc Pháp lâu đời,
hồi nhỏ đã bộc lộ những tố chất thông minh. Trong những năm đầu thế kỷ XIX
Xanhximông sống trong hoàn cảnh nghèo túng, song Xanhximông đã ra đời nhiều tác
phẩm như "Khảo luận học về con người" (1813; "Vạn vật hấp dẫn" (1813); "Ngụ ngôn"
(1819); "Đạo cơ đốc mới" (1825) Nội dung: Quan tọng trong các học thuyết chính trị

của Xanhximông là lý luận về giai cấp và xung đột giai cấp, một yếu tố mới mr trong lịch
sử tư tưởng XHCN cho đến lúc bây giờ.
Tuy nhiên điều kiện kinh tế, xã hội phức tạp và trình độ tư duy của bản thân không
cho phép ông quan niệm chính xác nguồn gốc và những đặc điểm kinh tế - xã hội của giai
cấp. Đánh giá về cách mạng Pháp 1789, Xanhximông cho rằng: Đại cách mạng Pháp là
thắng lợi của đẳng cấp thứ ba, tức là đại đa số trong dân tộc, bao gồm những người sản
xuất và buôn bán với đẳng cấp ăn không ngồi rồi bao gồm quý tộc và thầy tu sau đó là
GCTS, giai cấp giàu có trong đẳng cấp thứ ba đã giành lấy quyền. Do đó trong đầu óc
Xanhximông sự đối lập đẳng cấp thứ ba và những đặc cấp và đặc quyền mang hình thức
đối lập Đánh giá về nhận thức Xanhximông, Ăng-ghen viết: "Năm 1802 mà hiểu được
rằng: cách mạng Pháp là một cuộc đấu tranh giữa giai cấp quý tộc, GCTS và những
người không có của thì đó là sự phát triển hết sức thiên tài". Còn theo C.Mác nhận xét,

với tác phẩm cuối cùng của ông là: "Đạo cơ đốc cần lao" và ông tuyên bố rằng "giải
phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối cùng của ông" Ông ước mơ xây dựng một xã
hội, trong đó: "Chế độ sở hữu phải được tổ chức sao cho có lợi nhất cho toàn xã hội về
mặt tự do và về mặt kinh tế"
Những quan điểm của Xanhximông đã bộc lộ những hạn chế. CNXH mà ông sáng
tạo ra vẫn duy trì chế độ tư hữu còn mang nặng tính không tưởng và sắc thái tôngiáo. Để
xây dựng xã hội mới ông chủ trương dùng biện pháp hoà bình Do những hạn chế nhưng
với những dự kiến sắc sảo, đặc biệt với tấm lòng vì hạnh phúc người cần lao
Xanhximông được lịch sử ghi nhận là nhà tư tưởng vĩ đại, học thuyết của ông đã trở
thành một trong những tiền đề lý luận của CNXHKH.
- Phơrăngxoa Marisáclơ Phuriê (1772 - 1837): Ông sinh ra trong một gia đình
buôn bán, sớm theo nghề buôn Phuriê được C.Mác mệnh danh là "thuỷ tổ của CNXH" và
được Ăng-ghen coi là "nhà châm biễm lớn người miêu tả tài tình xã hội tương lại, có
niềm tin sâu sắc vào thắng lợi cuối cùng của CNXH"
Nội dung: Một trong những nội dung sắc sảo là sự phê phán lên án xã hội tư sản,
ông đã lấy lời hứa của GCTS trước cách mạng so với hiện thực sau cách mạng: "Ông đã
thẳng tay lột trần cảnh khốn cùng về vật chất và tinh thần của thế giới tư sản, đồng thời
ông đối chiếu cảnh khốn cùng ấy với lời hứa hẹn rực rỡ của nhà khai sáng trước kia về
một xã hội chì có lý tính chi phối, về một nền văn minh đem lại đời sống hạnh phúc cho

tất cả mọi người; về khả năng hoàn thiện vô tận của con người Ông chỉ ra rằng đâu
dâu những câu nói hết sức hoa mỹ cũng tương ứng với một hiện thực thảm hoạ nhất và
chút lên những lời châm biễm chu cay lên sự phá sản không gì cứu vãn được của những
lời nói trống rỗng ấy". Trong tác phẩm chống Đuyrinh Ph.Ăng-ghen đánh giá: "Phuriê
nắm phép biện chứng một cách cũng tài tình như Hêghen là người đương thời với ông".
Phuriê mong muốn xây dựng một xã hội mới: "xã hội hài hoà", "xã hội đảm bảo"
trong đó có sự thống nhất giữa cá nhân và tập thể mỗi con người riêng biệt có thể tìm
thấy điều có lợi cho họ trong cái lợi chung của toàn xã hội Nhìn chung lý luận của
Phuriê chứa đựng những yếu tố biện chứng nhưng cũng nhiều mâu thuẫn tương tự như
Xanhximông ông chủ không chủ động xoá bỏ chế độ tư hữu và phản đối bạo lực quá độ

liên khối liên hiệp ông hướng tới sẽ diễn ra hoà bình.
 CNXHKT ở Anh: Cuộc cách mạng tư sản ANh 1640 đã mở đường cho sự phát
triển của CNTB. Từ nửa sau những năm 30 đến những năm 40, đã diễn ra phong trào đòi
cải cách tuyển cử sôi nổi của công nhân đó là phong trào Hiến chương nổi tiếng trong
lịch sử thế giới trong hoàn cảnh đấu tranh giai cấp ít ồn ào hơn so với nước Pháp ở Anh
đã xuất hiện một nhà cải cách tài năng khuynh hướng cộng sản đó là RôbớcÔoen.
- RôbớcÔoen (1771 - 1858) sinh ra trong một gia đình tiểu thủ công, lúc còn nhỏ
ông đã làm nhiều nghề để kiếm sống. Ông là người đề xướng với chính phủ Anh: "Luật
công xưởng nhân đạo" trong đó chứa đựng nhiều quan điểm về cải tạo xã hội. Là nhà lý
luận Ôoen đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: "Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ
thông công nghiệp"; "Quyển sách về thế giới đạo đức mới" Qua các tác phẩm Ôoen đã
trình bày những quan điểm về CNXHKT một cách sâu sắc.
Nội dung: Cũng giống như nhiều nhà XHCN không tưởng khác trước khi có
khuynh hướng cộng sản Ôoen là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Với lòng thương yêu và tin
tưởng ở con người tiếp thu học thuyết của các nhà khai sáng thế kỷ XVIII là người có
tầm hiểu biết rộng, Ôoen đã thấy rõ vai trò to lớn của cách mạng công nghiệp, nền sản
xuất cơ khí, Ôoen căm thù chế độ tư bản, chế độ tư hữu là nguyên của mọi tội lỗi Dù có
nhiều quan điểm tiến bộ song cũng như Xanhximông và Phuriê, Ôoen đã không tự coi
mình là đại biểu cho lợi ích GCVS, ông muốn lập tức giải phóng toàn nhân loại chứ
không phải trước hết phải giải phóng một giai cấp nhất định nào Ông đặt nhiều niềm
tin, hy vọng vào sự thức tỉnh của chính phủ đang cầm quyền ông còn chủ trương thuyết

phục để các chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc, tạo điều kiện Ôoen thực hiện những cải
cách của mình. Dù có những hạn chế song những công hiến của Ôoen là vô cùng to lớn.
Cùng với Xanhximông, Phuriê học thuyết Ôoen đã được C.Mác và Ph.Ăng-ghen thừa
nhận là tiền đề lý luận của CNXHKH.
Tiểu kết: Trong tác phẩm "Chiến tranh nông dân ở Đức", Ph. Ăng-ghen đã viết
"CNXH lý luận ở Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên vai Xanhximông, Phuriê
và Ôoen. Ba con người đó mặc dầu có tính chất ảo tưởng và không tưởng của nó thuộc về
những trí tuệ vĩ đại nhất của tất cả thời đại, đã tiên đoán một cách thiên tài vô số chân lý

mà ngày nay chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn của chúng bằng cách khoa học".
2. Triết học
Sự ra đời và phát triển của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ
XIX. Trong những điều kiện của chế độ chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về
mặt tư tưởng cho chế độ xã hội đó. Thời kỳ cuối thế kỷ XVIII cuộc cách mạng tư sản
Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước Phổ và Hêghen là người tán dương cuộc cách
mạng đó, điều kiện kinh tế đặc biệt làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thoả
hiệp. Trong giai đoạn này đã xuất hiện một số nhà tư tưởng lớn như Cantơ, Hêghen,
Phoiơbắc đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII
và nửa đầu thế kỷ XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành một tiền đề lý
luận cho sự ra đời của triết học Mác.
- Cantơ (1724 - 1804): Trong tác phẩm "Lịch sự tự nhiên phổ thông và lý thuyết
bầu trời" đã trình bày những nét nổi bật về những quan niệm biện chứng về giới tự nhiên.
Ông đã nêu giả thuyết có giá trị về sự hình thành của vũ trụ bằng cơn lốc và kết tụ của
các khối tinh vân Triết học Cantơ là trích học nhị nguyên luận Khi nhận xét và đánh
giá về Cantơ, Lênin cho rằng triết học đó là sự dung hoà chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa
duy tâm thiết lập sự thoả thuận giữa hai chủ nghĩa đó, kết hợp hai khuynh hướng triết học
khác nhau và đối lập với nhau trong hệ thống duy nhất.
Hêghen (1770 - 1831): Là nhà biện chứng là nhà triệt học duy tâm khách quan,
triết học của ông đầy những mâu thuẫn. Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy
siêu hình, ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và được duy dưới
dạng một quá trình Trong quan điểm xã hội Hêghen đứng trên lập trường công nghiệp

hoá xô vanh. Hệ thống triết học Hêghen thực chất của nó"là ở chỗ lấy cái tâm lý làm
điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới tự nhiên". (Lênin)
Lútvich Phoiơbắc (1804 - 1872): là nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước
Mác, đại biểu nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân
chủ Đức. Phoiơbắc đã có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử ngắn nhưng đã tạo ra thành quả kỳ
diệu trong lịch sử triết học. Từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học

siêu hình thế kỷ XVII - XVIII là những tư tưởng biện chứng đạt đến trình độ một hệ
thống lý luận. Mặc dù, có những hạn chế nhưng với những thành quả của nó sự này đã
được Mác và Ăng-ghen khắc phục và kế thừa nâng lên một trình độ lý luận mới công
nghiệp duy vật hiện đại, là cơ sở quan trọng góp phần vào sự ra đời của CNXHKH.
3. Kinh tế chính trị học:
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ Wiliam petty (1623 - 1687) đến
Adam Smith (1723 - 1790) và kết thúc là ở Đavi Ricardo (1772 1823). A. Smith là nhà
kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của chủ nghĩa tư bản. Ông là người mở ra giai
đoạn mới cho sự phát triển của khoa học kinh tế chính trị, là một trong những người tiền
bối lớn nhất để lại một công trình đồ sộ. Những luận điểm đúng đắn của CNTB. Ông là
người mở ra giai đoạn mới cho sự ra đời của khoa học kinh tế chính trị, những luận điểm
đúng đắn trong học thuyết của ông đã được D. Ricardo phát triển đã được C. Mác hoàn
thiện Ricardo là một nhà kinh tế thời đại công nghiệp cơ khí của CNTB, là đỉnh cao của
lý luận kinh tế chính trị tư sản cổ đển và đã phát triển yếu tố khoa học của kinh tế chính
trị tư sản cổ điển Đồng thời lý luận kinh tế chính trị phê phán CNTB trên lập trường
của những người tiểu tư sản. Cùng với sự phê phán đó là sự phê phán của CNTB của
những người theo CNXH không tưởng như Simon, Owen, Fourier.
Giữa thế kỷ XIX C. Mác và Ph. Ăngghen đã làm một cuộc cách mạng trong lịch
sử các học thuyết kinh tế. Dựa vào những thành tựu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển,
áp dụng phương pháp DVBC và DVLS vào nghiên cứu kinh tế học thuyết của C. Mác
" Ra đời là sự kế thừa thẳng thắn và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất
sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong CNXHKH". Kinh tế chính trị
do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lậo là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách
mạng. C. Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư hòn đá tảng trong học thuyết

kinh tế macxit. C. Mác đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất
TBCN, nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu
thuẫn của CNTB. CNTB tất yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới, cao hơn,
tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất CSCN.
Học thuyết Macxit được phát triển nâng lên trình độ cao hơn bởi V. I. Lênin. Ông

đã có những cống hiến lớn lao vào việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và
kinh tế chính trị của C. Mác nói riêng. Đây là những tiền đề tư tưởng, lý luận khoa học
góp phần cho sự ra đời CNXHKH thế kỷ IXI.
4. Khoa học - kỹ thuật
Cùng với sự ot của CNTB là sự phát triển mạnh mẽ của KHKT. Vào đầu thế kỷ
XIX loài người đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội.
- Khoa học tự nhiên thời kỳ này đã xuất hiện các học thuyết mới như Định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng: học thuyết về tế bào; học thuyết tiến hoá của
Đacuyn. Những phát minh này đã giúp cho C. Mác và Ph. Ăngghen có cơ sở khoa học để
nghiên cứu các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực xã hội và xây dựng học thuyết duy vật
lịch sử của mình.
- Khoa học xã hội: Thời kỳ này các lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị và CNXH
đã phát triển rực rỡ, tiêu biểu là triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học nổi tiếng như
Hêghen và Phoiơbắc, kinh tế chính trị cổ điển Anh với Adamsmith và Ricardo và đặc biệt
là lý luận của CNXH không tưởng của Xanh xi mông, Phuriê và Ô oen.
Như vậy, gắn liền với sự xuất hiện đầy đủ những tiền đề kinh tế - xã hội,
CNXHKH còn dựa trên sự chín muồi của các tiền đề tư tưởng - lý luận. Đó là kết quả của
sự kế thừa những tinh hoa trí tuệ của loài người phát triển qua các thời đại mà đầu thế kỷ
XIX đã đạt tới đỉnh cao.
Tóm lại, sự xuất hiện những tiền đề nêu trên đã tạo những tiền đề khách quan ở
mức đầy đủ để CNXH do Mác và Ăngghen xây dựng thực sự trở thành khoa học.
III. vai trò của Mác và Ăngghen trong sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Các Mác (5.5.1818 - 14.3.1883) và Phridrich Ăngghen (28.10.1820 -
5.8.1855) ngay từ thời niên thiếu đã là những nhà nhân đạo chủ nghĩa

ở Mác và Ăngghen đã sớm có một chí hướng, một lý tưởng phấn đấu cho hạnh
phúc loài người, với lòng yêu thương con người.
Các Mác 91818 - 1883): Sinh trưởng trong một gia đình tri thức (bố là luật sư) ở
thành phố Tơrevnước, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều hợp đồng của cách mạng tư sản

Pháp.
Năm 1834, trong luận văn tốt nghiệp trung học Mác đã thể hiện hệ tư tưởng nhân
đạo qua quan niệm về hạnh phúc. Mác viết "Nếu con người làm việc chỉ vì bản thân thì
may ra có thể trở thành một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái vĩ đại, một nhà
thơ ưu tú, nhưng không bao giờ có thể trở thành một con người thực sự hoàn thiện và vĩ
đại Lịch sử thừa nhận những cử nhân là những người làm việc cho mục đích chung và
do đó mà bản thân họ cũng trở nên cao thượng hơn; kinh nghiệm cho thấy rằng, người
nào đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất, thì người đó sẽ là kẻ hạnh phúc nhất". Việc
chọn nghề đối với Mác cũng nhằm thực hiện lý tưởng nhân đạo của mình
Năm 1841 khi Mác 23 tuổi trong bản luận văn tiến sĩ với đề tài "Sự khác nhau
giữa triết học về tự nhiên của Đêmôcrit và Êpiquya" Mác đã có tinh thần phê phán mặc
dù vẫn còn đứng trên lập tr của chủ nghĩa duy tâm (cho chủ nghĩa duy tâm là một chân
lý), nhưng đã thấy được mối quan hệ hai chiều trong quan hệ giữa con người với môi
trường khách quan, khả năng con người có thể cải tạo môi trường khách quan đó. Mác
không tán thành quan niệm triết học của Đêmôcrit vì chỉ thấy tính tất yếu, chi phối của tự
nhiên đối với con người, mà không thấy khả năng chủ quan đối với giới tự nhiên. Đó là
quan điểm triết học dẫn đến khuynh hướng quyết định luận.
Đối với Êpiquya một mặt Mác bênh vực và đứng về phía Êpiquya trên quann quan
hệ qua lại giữa môi trường với con người, mặt khác Mác cũng phê phán Êpiquya về quan
niệm tự do tuyệt đối của ông
Cũng với những tư tưởng tự do sơ khai trong lĩnh vực triết học dần dần đã hình
thành những tư tưởng tự do trong lĩnh vực chính trị của Mác.
Phridrich Ăngghen (1820 - 1895): Sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt ở
thành phố Béc men. Nên Mác đã học qua bậc đại học và có học vị tiến sĩ thì Ăngghen lại
không học hết năm cuối cùng của trung học. Thời niên thiếu do ảnh hưởng sâu sắc của
gia đình về mặt tôn giáo nên Ăngghen gắn bó với tôn giáo nhiều hơn là sống với xã hội.
Nhưng dần dần trong đầu óc Ăngghen đã nảy sinh những hoài nghi xung đột giữa sự thật

và giả dối, tình trạng đối nghịch giữa giàu và nghèo làm xói mòn đức tin tôn giáo.
Ăngghen đã chứng kiến một xã hội có đời sống nghèo khổ, những cuộc xung đột xảy ra,

xã hội đã gây ấnt sâu sắc đối với Ăngghen với chính cuốn "Đời sống của chúa
Giêduycrit" của Davitxtrauxnước 91835) đã góp phần giúp Ăngghen đoạn tuyệt với tôn
giáo và gợi ý cho Ăngghen tìm đến với triết học Hêghen. Từ đó ở Ăngghen hình thành
dần dần một quan niệm mới về thế giới hướng vào những vấn đề chính trị - xã hội thay
thế cho đức tin tôn giáo.
Như vậy, Mác đã sớm nhận thấy cần phải có triết học để tìm hiểu đời sống thực tế
xã hội, còn Ăngghen lại từ đời sống thực tế mà thấy cần phải có triết học làm công cụ.
2. Sự chuyển biến từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản
chủ nghĩa của C. Mác và Ph. Ăngghen
Sự phát triển về mặt triết học của Mác và Ăngghen từ CNDT đến CNDV xét về
mặt lịch sử tất yếu xảy ra cùng lúc với bước chuyển từ lập trường cách mạng sang lập
trường cộng sản chủ nghĩa. Không có bước chuyển này thì không thể có sự hoàn thiện
nhiều hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bản thân bước
chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản tất yếu đòi hỏi một
cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học. Xây dựng CNDVBC và CNDVLS và xây dựng
một quan điểm mới về kinh tế chính trị học.
Chủ nghĩa dân chủ cách mạng của hai ông đều biểu hiện ở lập trường đấu tranh
kiên quyết chống chế độ phong kiến chuyên chế và những thể chế của nó. Đòi quyền tự
do dân chủ, mong muốn cải thiện căn bản cơ sở đời sống kinh tế - xã hội và chính trị cho
nông dân bằng một cuộc cách mạng xã hội. Trong thời kỳ còn là nhiều nhà dân chủ cách
mạng, Mác và Ăngghen đã liên hệ với nhiều người thuộc phái Hêgen trẻ lúc bấy giờ về
phương diện triết học, nhưng họ khác về phương diện thực tiễn.
ảnh Mác
- Đối với Mác, năm 1842 lúc mà 24 tuổi đã đánh dấu hoạt động thực tiễn bằng
công tác báo chí với vai trò chủ báo "Vùng sông Ranh", ông đã có bước đi đầu tiên trên
con đường hoạt động cách mạng thực tiễn. Từ đời sống chính trị xã hội từ những chính
sách của chế độ phong kiến chuyên chế thần quyền của Liên bang Đức, từ những ý kiến
và thái độ khác nhau trong cuộc tranh luận về chế độ kiểm duyệt báo chí và các vấn đề xã
hội khác, nhất là từ những cảnh tượng tương phản giữa những kẻ giày phong kiến, tư sản


và những người nghèo công, nông Mác thấy được tính chất giai cấp và sự bất công của
nhà nước, thần quyền, trên một số báo, Mác đã nêu lên những quan niệm mới về mối
quan hệ giữa triết học - tôn giáo và chính trị, mà biểu hiện của chính trị trước hết là nhà
nước Mác đã nêu lên một quan niệm chính trị quan trọng là phải tách rời nhà nước ra
khỏi nhà thờ. Tuy nhiên quan niệm của Mác lúc đó về nhà nước chưa đầy đủ cơ sở duy
vật về lịch sử và thái độ bênh vực nghèo khổ mới theo quan điểm pháp lý và đạo đức,
chưa có quan điểm kinh tế chính trị học.
Năm 1843 với tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền" của Hêgen,
Mác đã tỏ thái độ dứt khoát với CNDT của Hêghen, đánh dấu bước chuyển lập trường
dân chủ cách mạng sang lập trường CSCN. Chính trong tác phẩm này lần đầu tiên Mác
nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đồng thời cũng chỉ ra những điều kiện
cho giai cấp vô sản thủ tiêu chế độ TBCN.
Trong suốt những năm 1843 - 1847 với các tác phẩm viết riêng và viết chung với
Ăngghen, Mác lần lượt làm rõ:
Sự khác biệt giữa người công nhân nói chung tức con người "lý tưởng" của GCTS
với con người riêng tư, tức con người cụ thể trong xã hội tư sản. Ông vạch ra rằng hiến
pháp tư sản nói đến "bình đẳng", "tự do", nhưng đó chỉ là GCTS và giai cấp địa chủ dạng
tư sản hoá là chủ yếu. Vì vậy, nếu chỉ có cải cách chính trị thôi thì không thể xoá bỏ được
sự khác nhau giữa công nhân với con người riêng tư, giữa con người có của và con người
không có của và cũng không thể thủ tiêu mâu thuẫn giữa nhà nước và xã hội.
Sự ra đời của GCVS, tầm quan trọng của lý luận và sự cần thiết phải kết hợp lý
luận với phong trào của quần chúng. GCVS hình thành do sự phát triển công nghiệp, có
sứ mệnh tự giải phóng, đồng thời giải phóng tất cả các tầng lớp lao động khác trong xã
hội khỏi ách áp bức bóc lột. Muốn vậy cần phải đưa lý luận vào phong trào vô sản, từng
bước làm cho người vô sản đi từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế bước sang trình
độ đấu tranh chính trị. Ông tháy rõ tầm quan trọng của lý luận và sự cần thiết phải kết
hợp lý luận với phong trào quần chúng thể hiện ở chỗ như Mác đã nói: "Lý luận sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" và nếu "triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình thì giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ
khí tinh thần của mình". CNCS không chỉ là sáng kiến tinh thần theo kiểu những nhà


không tưởng mà về thực chất đó là kết quả tất yếu của sự phát triển biện chứng của bản
thân chế độ sở hữu kinh tế.
Năm 1844 cùng với Ăngghen, Mác đã khẳng định: "Giai cấp vô sản đang thi hành
bản án mà chế độ tư hữu, trong khi đẻ ra giai cấp vô sản, đã làm ra mình, cũng giống
như nó đang thi hành bản án mà lao động làm thuê, trong khi sản xuất ra sự giàu có cho
kẻ khác và sự khốn cùng cho bản thân, đã làm ra cho mình. Sau khi thắng giáo dục vô
sản dù sao cũng không thể nào trở thành mặt tuyệt đối của xã hội, vì rằng chỉ có sự tiêu
diệt và tiêu diệt mặt đối lập của mình thì nó mới giành được thắng lợi. Với thắng lợi của
giai cấp vô sản bản thân giai cấp vô sản và mặt đối lập chi phối nó là chế độ sở hữu, đều
tiêu vong".
Đến năm 1845 cùng với Ăngghen, Mác đã phát triển sâu thêm những quan niệm
duy vật lịch sử. Hai ông đã khắc phục về cơ bản ảnh hưởng của CNDT tự biên và còn phê
phán những quan điểm duy vật thuần tuý, tức là những quan điểm duy tâm xã hội và chỉ
biết duy vật trong giới tự nhiên mà thôi. Nếu các tác phẩm trước, CNCS còn được xem
như một thứ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và được phân tích về mặt triết học nhiều hơn
thời lúc này, hai ông nhất trí rằng: Xây dựng CNCS về thực chất là có tính chất kinh tế, là
tạo điều kiện vật chất để có được một phương thức sản xuất liên hiệp giữa những người
lao động. Tóm lại, hai ông đã bước đầu phân tích về sự ra đời và phát triển của GCVS, về
sự hình thành của CNXH và sự hình thành của CNCS trong tương lai không còn chỉ theo
quan điểm triết học mà theo quan điểm kinh tế.
Đến những năm 1846 - 1847 ông phê phán những quan điểm kinh tế tiểu tư sản
đồng thời phê phán cả những khuynh hướng XHCN không tưởng và bảo thủ. Ông nhấn
mạnh chừng nào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản biểu hiện rõ nét và mạnh mẽ hơn trên
tinh thần tự giác chính trị thì người ta không cần "vắt óc" của mình ra, mà chỉ cần chú ý
đến thực tế diễn ra trước mắt mà đạt lại thực tế ấy một cách có phân tích đúng đắn, làm rõ
được thực chất của các sự kiện. Đến khi ấy, khoa học do vận động của lịch sử sản sinh ra,
sẽ tham gia vào vận động lịch sử ấy một cách hoàn toàn tự giác, chủ động, không còn
mang tính cách lý thuyết suông nữa thì khoa học đã trở thành khoa học cách mạng.
ảnh Ăngghen

- Đối với Ăngghen, từcuối năm 1842 đã đánh dấu bước chuyển từ chủ nghĩa dân
chủ cách mạng sang CNCS. Giai đoạn mới trong sự tiến triển những quan điểm của

Ăngghen gắn với việc ông đến với nước Anh. ở đây ông thấy sự đối kháng của hai giai
cấp vô sản mà GCTS biểu hiện một cách hết sức gay gắt. Việc phân tích những mối quan
hệ đó, tất nhiên, về mặt kinh tế - xã hội, đưa Ăngghen đến những kết luận theo tinh thần
CNXHKH tương lai. Tháng 12/1842 các bài viết của mình trên báo Rênani, Ăngghen đã
có những bước tiến về tư tưởng thừa nhận sứ mệnh XHCN của GCVS. Ông coi giai cấp
vô sản là tương lai của tiến bộ xã hội, ông tin cách mạng xã hội sẽ có tính chất bạo lực
Trong bài báo "Những thắng lợi của phong trào cải cách xã hội trên lục địa" đăng trên tờ
báo các nhà XHCN Ôonăng lượng ở Anh tháng 11/1843. Ăngghen đã phân tích các
phong trào XHCN ở Anh, Pháp, Đức đã ra kết luận cách mạng triệt để trong cơ cấu xã
hội có cơ sở của nó là chế độ sở hữu tập thể
Năm 1844 Ăngghen viết xong tác phẩm: "Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh".
Trong tác phẩm này chứa đựng nhiều quan điểm tương tự như quan điểm của Mác, đó là
một sự trùng hợp kỳ thú và tất yếu. Trong tác phẩm của mình, Ăngghen cũng đi tới một
số kết luận về vai trò cách mạng của giai cấp công nhân, về sự sụp đổ của CNTB là
không thể tránh khỏi
Từ cuối năm 1844 cho đến khi "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" ra đời, cả Mác và
Ăngghen thông qua các tác phẩm viết chung và riêng đã thể hiện q chín muồi dần dần
những quan điểm duy vật về lịch sử, về chính trị học CNXHKH. Trong tác phẩm "Gia
đinh và thần thánh" (1844), Mác và Ăngghen đã thể hiện các tưt về:
+ Quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển kinh tế với sự phát triển xã hội.
+ Vai trò quần chúng và cá nhân trong lịch sử, những quan điểm về lịch sử được
hoàn thiện thêm.
+ Vai trò cách mạng và bản chất sự mệnh lịch sử của GCCN được hai ông lý giải
rõ thêm và đã tiến gần chỗ vạch ra bản chất sứ mệnh lịch sử của GCCN là xoá bỏ giai
cấp.
Năm 1848 C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"
theo sự uỷ nhiệm của Đại hội đại biểu đồng minh với những người cộng sản, họp tháng

11/ 1847 với tính cách một cương lĩnh của Đảng. Tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa Mác, trong đó CNXHKH. Nói riêng về CNXHKH, những nguyên lý, lý luận, cơ
bản của nó, lần đầu tiên được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày một cách chặt chẽ và hệ

thống. Với ý nghĩa đó, "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là bản khai sinh của CNXHKH,
đánh dấu sự chín muồi lý tưởng CSCN của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Vấn đề có ý nghĩa cơ bản nhất là: "Tuyên ngôn" đã chỉ ra quy luật khách quan của
sự vận động và phát triển của xã hội, theo đó CNTB tất yếu bị diệt vong, CNXH tất yếu
ra đời thay thế CNTB C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá khách quan vai trò của
GCTS: "GCTS, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
cộng lại". Nhưng, ngay trong lúc tạo ra những thành tựu to lớn ấy, giai cấp tư sản cũng
tạo ra trong lòng xã hội tư bản những mâu thuẫn rất gay gắt Trên cơ sở khái quát sự
phát triển của xã hội loài người, các tác giả tuyên ngôn đã khẳng định, tất cả các xã hội
tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Xã hội tư bản hiện địa thay
thế xã hội phong kiến không hề xoá bỏ mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nó chỉ
thay thế giai cấp cũ, điều kiện áp bức cũ, hình thức đấu tranh cũ bằng giai cấp mới, điều
kiện áp bức mới và hình thức đấu tranh mới mà thôi
Trong tác phẩm này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội có sứ mệnh
thay thế CNTB bằng CNSH theo con đường cách mạng vô sản. Đó là giai cấp công nhân,
giai cấp mà khi giải phóng mình cũng đồng thời giải phóng mọi người lao động khỏi áp
bức, bóc lột. Với việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của GCCN, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
biến CNXH từ không tưởng thành khoa học. Bởi vì, các nhà tư tưởng XHCN trước Mác
không tìm thấy lực lượng nào có thể hiện thực những tư tưởng nhân đạo mà họ đưa ra. Sự
vận động tất yếu từ CNTB lên CNXH không thể biến thành hiện thực nếu không có vai
trò của CGCN. Khẳng định vai trò của GCCN trong việc xoá bỏ CNTB, xây dựng CNXH
không phải vì C.Mác và Ph.Ăngghen xuất phát từ tình cảm của các ông với tầng lớp
nghèo khổ, bị áp bức, mà vì những điều kiện khách quan đã quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp đó.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đã làm sáng tỏ vai trò của Đảng Cộng sản trong

cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN chống lại GCTS nhằm xóa bỏ CNTB, xây dựng
CNXH. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, những người cộng sản (tức Đảng Cộng
sản) là đội tiên phong của GCCN, có lợi ích thống nhất với lợi ích của GCCN và nhân
dân lao động: "Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai
cấp vô sản ".

Các tác giả của Tuyên ngôn đã chỉ ra con đường và biện pháp để tiến lên CNCS là
CMVSCN. Đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của loài người, bởi lẽ, nó "là sự đoạn tuyệt
triệt để nhất với những mối quan hệ sở hữu kế thừa trong quá khứ". Điều đó có nghĩa,
cách mạng CSCN xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất - cơ sở kinh tế
của CNTB, và do đó, xoá bỏ sự thống trị của GCTS, xoá bỏ CNTB, xây dựng CNCS.
Như vậy, Tuyên ngôn đã công khai tuyên bố mục tiêu, lý tưởng của những người cộng
sản, chỉ rõ CMCSCN là con đường thể hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN. Để làm được
điều đó, cách mạng CSCN phải trải qua hai giai đoạn, trong đó "bước thứ nhất trong
cuộc cách mạng công nhân là GCVS biến thành giai cấp thống trị, là giành lấn dân chủ"
và bước thứ hai "GCVS sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước tước đoạt lấy toàn bộ
tư bản trong tay GCTS, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức
là trong tay GCVS đã tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng nhanh số lượng những
lực lượng sản xuất"
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đã dự báo khoa học và nêu lên những đặc điểm
cơ bản của xã hội CSCN. Các tác giả đã phác hoạ mô hình CNCS trên cơ sở kế thừa
những tư tưởng CSCN của các nhà không tưởng Pháp, Anh thế kỷ XIX, và trên cơ sở
xem CNXH là sự phủ định biện chứng đối với CNTB ở trình độ phát triển cao của nó
Do vậy, "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" vừa là tác phẩm kinh điển về chủ nghĩa
xã hội khoa học, vừa là cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công
nhân quan trọng.
Với sự uyên bác về trí tuệ, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn; lòng
trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân và kiên định lập trường giai cấp đã
giúp cho Mác và Ăngghen nhận thức đúng được quy luật phát triển của xã hội loài người,
nhất là quy luật vận động của CNTB, đồng thời hai ông đã phát hiện một lực lượng xã

hội có thể chuyển xã hội sang một giai đoạn mới. Vì vậy, Mác và Ăngghen đã làm một
cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử loài người và đã có những phát hiện lớn:
- CNDVLS: Mác và Ăngghen cho rằng "tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội", do
đó, muốn đi tìm nguyên nhân cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội phải đi tìm đó
trong lòng xã hội (cần phải tìm từ nguyên nhân kinh tế, từ đời sống, lợi ích vật chất, chứ
không phải từ ý thức). Đây là nguyên lý rất quan trọng mà trước đó các nhà triết học khác
chưa tìm thấy được.

Mác và Ăngghen chỉ rõ rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội loài người. Khi quan hệ sản xuất không
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất hiện tại và xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp hơn. Sự phá vỡ này đã dẫn tới sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế xã hội khác phù hợp và tiến bộ hơn.
Học thuyết giá trị thặng dư: Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm duy vật
về lịch sử vào việc phân tích nền sản xuất TBCN, Mác và Ăngghen đã đi tới kết luận:
Việc GCTS chiếm đoạt phần lao động không được trả công của người vô sản làm thuê là
hình thức cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của sự bóc lột công nhân
do phương thức ấy đẻ ra. Dù cho nhà tư bản có mua sức lao động của công nhân đúng với
giá trị của nó chăng nữa thì trên thực tế, nhà tư bản vẫn thu được nhiều giá trị hơn số tiền
bỏ ra mua sức lao động. Tổng số tiền này rút cuộc biến thành tư bản, ngày càng lớn lên
và thuộc quyền sở hữu của GCTS.
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Nhờ nhiều phát kiến khoa
học trọng đại này, Mác và Ăngghen có căn cứ vững chắc để khẳng định rằng, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển, được
biểu hiện trong đời sống xã hội thành mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp tư sản
và GCCN. Mâu thuẫn này nhất định sẽ dẫn đến kết cục là lực lượng sản xuất do GCCN là
người đại biểu phá vỡ quan hệ sản xuất do TCTS bảo vệ. GCCN là lực lượng cách mạng
được lịch sử giao phó sứ mệnh xoá bỏ GCTS cùng với chế độ tư hữu bóc lột của CNTB,
xây dựng CNXH và CNCS. Làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN là phát hiện

lớn thứ ba của Mác và Ăngghen. Đây cũng là sự khác biệt căn bản về bản chất giữa
CNXHKH với các khoa học khác.
Tóm lại, C. Mác và Ph. Ăngghen có vai trò to lớn trong quá trình phát triển từ
CNXH không tưởng đến khoa học.


Chương II
sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
đến cuối thế kỷ XIX

I- giai đoạn C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Giai đoạn 1848 - 1871
Sau "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục bổ sung,
phát triển CNXHKH. Qua tổng kết kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp
và Đức trong thời kỳ 1848 - 1851, hai ông đã rút ra một số kết luận hết sức quan trọng
làm phong phú thêm lý luận của CNXHKH: Để giành được quyền thống trị về chính trị,
giai cấp, công nhân cần phá bỏ bộ máy nhà nước quan liêu tư sản, xây dựng một nhà
nước mới, nhà nước dân chủ tư sản tức là chuyên chính vô sản. Kinh nghiệm được tổng
kết trong các tác phẩm kinh điển của Mác như: "Đấu tranh giai cấp" ở Pháp 1848 - 1850,
"Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bonapac" (1851 - 1852), trong tác phẩm của Ăngghen
"Chiến tranh nông dân ở Đức" (1850) trong nhiều bài viết thư từ của hai ông. Những tư
tưởng lý luận macxit trong các tác phẩm trên:
Cuộc cách mạng 1848 - 1849 đã chứng tỏ sự cần thiết phải có đảng độc lập của
giai cấp vô sản trên quy mô toàn quốc ở tất cả các nước. Không có một đảng như vậy thì
công nhân nhất định thất bại, trong tất cả mọi trường hợp đảng công nhân không bao giờ
theo đuổi GCTS. Tổ chức đảng phải đứng song song với những người dân chủ chính thức
và làm cho mỗi cơ sở của mình thành trung tâm của hiệp hội công nhân.
Một đảng vô sản cách mạng phải là một đảng quần chúng, phải liên minh với mọi
lực lượng tiến bộ của đất nước để phối hợp hành động theo những điều kiện khách quan
của sự phát triển xã hội chứ không phải là một đảng quyết định, phải liên minh với mọi

lực lượng tiến bộ của đất nước để phối hợp hành động theo những điều kiện khách quan
của sự phát triển xã hội chứ không phải là một đảng bè phái
Cuộc cách mạng 1848 bắt đầu diễn ra ở Pháp, nơi mà lớp quý tộc tài chính có đặc
quyền của giai cấp đại tư sản nắm chính quyền, đã có những chính sách làm cho các tầng
lớp khác nhau nhất của xã hội bất mãn. Tầng lớp tư sản công nghiệp bất mãn với các loại
thuế má và hạn chế, muốn xông lên nắm quyền. GCVS, giai cấp tiểu tư sản (nông dân và
thợ thủ công) đều đòi hỏi cải cách và cải thiện đời sống của mình. Tất cả các giai cấp và

tầng lớp đối lập với giới cầm quyền đều có một yêu sách chung thống nhất là thiết lập
chế độ cộng hoà. Pari bắt đầu các cuộc đấu tranh của quần chúng, đặc biệt phát triển
mạnh sau vụ bắn giết những người biểu tình ngày 23/2 và kết quả đã đưa đến chỗ lật đổ
chính phủ và vua Lui Philip Oóc lêăng chạy trốn. Chính phủ lâm thời tư sản lại được
thành lập. Dưới sức ép của quần chúng, chính phủ lâm thời đã tuyên bố thành lập nhà
nước cộng hoà và công bố sắc lệnh về quyền lao động, về ngày làm việc 10 giờ, đồng
thời thành lập uỷ ban về vấn đề công nhân, đặt trụ sở ở Luých xăm bua, do Lui Bôlăng
một người XHCN tiểu tư sản - một trong hai đại biểu của công nhân chính phủ lâm thời
cầm đầu. Lui bơlăng đã cho là trong tình hình duy trì chế độ TBCN, có thể thể hiện "tổ
chức lao động" và xây dựng CNXH dưới hình thức các xưởng quốc gia và các hội loại
sản xuất của công nhân và thợ thủ công. Những ảo tưởng về "CNXH không giai cấp" và
chính sách không giai cấp" (sau được gọi là "thuyết Lui Bơlăng" đã được công nhân
hưởng ứng rộng rãi bằng việc lập ra các hội, các câu lạc bộ, đã tiến hành một vài cuộc bãi
công. Công nhân hoạt động rất tích cực từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1848 các cuộc đấu
tranh của công nhân đã diễn ra ở nhiều thành phố: Pari, Lyon, Mác xây Song họ không
đạt được yêu sách của mình.
Để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, chính phủ đã lập ra một đội
cận vệ vũ trang cơ động về cơ bản gồm những phần tử mất gốc giai cấp. Tháng 6, công
nhân đã khởi nghĩa để trả lời lệnh của chính phủ huỷ bỏ các xưởng quốc gia, gây ra tình
trạng thất nghiệp tăng lên. Nhưng công nhân khởi nghĩa không có sự lãnh đạo chung
cũng không có kế hoạch tấn công nên ngày 26/6 cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp. Trong
những ngày khởi nghĩa tháng 6, công nhân Pari đã đưa ra những khẩu hiệu: "Đả đảo chế

độ người bóc lột người". "Nước cộng hoà xã hội và dân chủ muôn năm" Cuộc khởi
nghĩa tháng 6 cũng chỉ ra rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để tiêu diệt chế độ
TBCN mà không được nông dân ủng hộ, không có sự liên minh với nông dân thì nhất
định bị thất bại. Một bài học quan trọng của khởi nghĩa là phải vạch trần những ảo tưởng
của CNXH tiểu tư sản: chủ nghĩa Bơ lăngki, mà trước hết là lý thuyết Bơlăng. Mặt khác,
những sự kiện sau đó cũng chứng tỏ rằng không có sự ủng hộ của công nhân, những
người cộng hoà tiểu tư sản và tư sản cũng không thể giữ vững được chính quyền cũng
không thể thực hiện được những cải tạo dân chủ. Thực tế là nền cộng hoà thứ hai đã bị
thủ tiêu khá nhanh chóng. Ngày 10 tháng 10 năm 1948 Lui Bônapac đã thắng lợi trong

cuộc bầu cử tổng thống, do khôn khéo lựa gió tranh thủ các giai cấp đặc biệt là lợi dụng
nông dân.
Năm 1851, ông ta làm cuộc đảo chính và ngày 2 tháng 12 năm 1852 tuyên bố là
hoàng đế Napôlêon đệ tam, nước Pháp trở lại về thời kỳ phản động về thời kỳ phản động
về chính trị.
Cuộc cách mạng Pháp 1848 đã thúc đẩy các cuộc đấu tranh cách mạng trong các
quốc gia Đức, ở Bađen, Ghetxen Đã thành lập chính phủ tự do tư sản, ở Xắcxôni,
Bavari đã thành lập các chính phủ liên hiệp với sự tham gia của GCTS và địa chủ. Sau
đó, những cuộc đấu tranh cách mạng cũng đã xuất hiện trong các tỉnh của vương quốc
Phổ 4/1848 công nhân đã thành lập ở Beclin uỷ ban trung ương công nhân, ở Kinnơ
(Tây Phổ) xuất hiện liên minh công nhân có 7000 hội viên Sau đó các cuộc đấu tranh
diễn ra đều thất bại.
Cuộc cách mạng 1848 - 1849 tuy bị thất bại nhưng không phải là không có kết
quả. Các giai cấp cầm quyền đã bắt buộc phải chấp nhận một loạt cải cách có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ TBCN. Mặt khác, nó đánh mạnh và làm tiêu tan
những ảo tưởng, những ảnh hưởng của các trào lưu XHCN không khoa học trước Mác.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp bắt đầu vào những năm 50 và sự thoái trào của
cuộc đấu tranh cách mạng, dẫn đến sự tăng cường của các thế lực phản động chính trị ở
châu Âu. Cho nên lúc này không có khả năng thực tế cho cuộc cách mạng vô sản. Nội
dung khách quan của quá trình lịch sử vẫn là phong trào dân chủ tư sản, kể cả phong trào

dân tộc tiến bộ.
Trong ban lãnh đạo Đồng minh, những người cộng sản đã có sự chia rẽ, cảnh sát
Phổ đã phái bọn khiêu khích và đặc vụ vào các công xã của Đồng minh và sang cả nước
Anh. Căn cứ vào những biên bản bịa đặt các phiên họp của "Đồng minh của những người
cộng sản" và những "văn kiện" khác, chính phủ Phổ đã tổ chức ở Kiônnơ một vụ án và đã
kết án nhiều hội viên của Đồng minh giam tù với các thời hạn khác nhau Tình thế của
đồng minh những người cộng sản kết sức khó khăn. Cho nên ngày 17/10/1852 theo đề
nghị của C. Mác: "Đồng minh những người cộng sản" đã có nghị quyết tự giải thể. Phong
trào công nhân ở khắp nơi đều đi xuống. Chỉ đến cuối những năm 50 đầu những năm 60
phong trào công nhân mới lại được phục hồi (ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ) và đó là điều kiện
thuận lợi cho sự thành lập tổ chức quốc tế của công nhân. Ngày 28/9/1864 Hội liên hiệp

công nhân quốc tế (Quốc tế I) đã được thành lập tại cuộc mít tinh quốc tế của công nhân
ở Lôn Đôn. Hoạt động Quốc tế I trước công xã Pari (1871) đã diễn ra trong những năm
CNTB được xác lập và chiến thắng. Tư tưởng của chủ nghĩa Mác được truyền bá ngày
càng rộng, vì nó gắn bó hữu cơ với cuộc sống, sự phát triển và cuộc đấu tranh của
GCCN. Do đó đã diễn ra quá trình kết hợp lý luận cách mạng với phong trào công nhân
Quốc tế I góp phần nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp cho công nhân, phân rõ giữa ranh
giới giữa các lực lượng trong phong trào công nhân quốc tế giúp cho các trào lưu tả
khuynh xuất hiện trong đó.
ý nghĩa hoạt động của Quốc tế I những năm 60 đặc biệt là ở chỗ nó đã đưa ra cho
các công nhân tiên tiến một cương lĩnh đấu tranh về cả kinh tế - xã hội lẫn chính trị và lần
đầu tiên những biện pháp tổ chức giai cấp công nhân đã được kết hợp với mục đích cuối
cùng của phong trào vô sản, với việc giải phóng hoàn toàn GCVS. Công xã Pari năm
1871 là con đẻ tinh thần của Quốc tế I, nó được thành lập vào thời điểm CNTB trước độc
quyền kết thúc, và CNTB bắt đầu chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. Công xã Pari mở đầu
cho thời kỳ mới trong sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.
Thời kỳ này, Mác và Ăng-ghen đã xây dựng và phát triển một số luận điểm quan
trọng của CNXHKH: GCCN phải trở thành giai cấp thống trị, phải đập tan nhà nước của
GCTS, xây dựng nhà nước của GCCN, chứ không chỉ giản đơn là chiếm lấy bộ máy nhà

nước đó. GCCN phải liên minh với giai cấp nông dân vì họ là những người lao động
chiếm đại đa số trong dân cư và cũng bị bóc lột, họ có thể đi với GCCN trong cách mạng
XHCN. Tư tưởng cách mạng không ngừng được hai ông nêu ra và phân tích những điều
kiện để thực hiện cuộc cách mạng này, trong đó nhấn mạnh đến tính chất phức tạp, gay
go của cuộc cách mạng của GCCN.
2. Giai đoạn 1871 - 1895:
Hoạt động của Mác và Ăng-ghen có liên quan đến công xã Pari và tổng kết kinh
nghiệm của công xã. Ngày 18/3/1871 là ngày mở đầu của cuộc cách mạng vô sản đầu
tiên trong lịch sử. Chính quyền ở Pari đã hoàn toàn chuyển vào tay nhân dân. Do những
yếu tố khách quan và chủ quan không thuận lợi nên công xã chỉ tồn tại trong vòng 72
ngày. Nhưng sự nghiệp của nó là bất tử. Những nguyên tắc của công xã là vĩnh cửu và
không bị tiêu diệt, những nguyên tắc ấy sẽ được đặt ra trong chương trình nghị sự, chừng
nào GCCN chưa được giải phóng.

Sau thất bại của Công xã Pari đã là yếu tố đưa đến thắng lợi tạm thời của thế lực
phản động chẳng những ở Pháp, mà ở tất cả các nước châu Âu. Đồng thời tổng hội đồng
phải chịu sự tấn công của GCTS và bọn cơ hội trong ban lãnh đạo Hội liên hiệp công
nhân quốc tế.
Tháng 9/1871 ở Lôn Đôn đã họp Hội nghị Quốc tế I. Tham dự Hội nghị có đại
biểu của hầu hết các trào lưu trong Quốc tế như những người theo CNXH, phái Pruđông
tả, phái Blăngki, phái Bacunin, phái công đoàn Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm lịch
sử của Công xã Pari, đề ra những cơ sở chiến lược, sách lược của phong trào vô sản trong
điều kiện mới. Phân tích nguyên nhân sự thất bại của công xã, Hội nghị đã đi đến kết luận
cần thành lập ở mỗi nước một đảng độc lập của GCCN, coi như điều kiện quyết định
thắng lợi của cách mạng vô sản.
Giữa những năm 70, ở Đức, các nước châu Âu khác và Mỹ bắt đầu hình thành các
đảng công nhân và XHCN trong các quốc gia. Vì vậy hình thức lãnh đạo cũ không còn
phù hợp với hoàn cảnh mới, cho nên năm 1876, Hội nghị quốc tế ở Philadenphia đã
thông qua nghị quyết về chấm dứt hoạt động của Quốc tế I.
Từ những năm 70 đến những năm 90 là thời kỳ tích tụ và tập trung sản xuất và tư

bản bắt đầu gắn với sự ra đời của các công ty tư bản độc quyền. Sự xuất hiện của công ty
tư bản độc quyền, sự tăng cường cạnh tranh trên thị trường thế giới đã đưa đến chỗ GCTS
trút những khó khăn lớn lên vai GCCN. Để cạnh tranh GCTS đã hạ thấp tiền lương, tăng
cường độ lao động, kéo dài thời gian làm việc nên đời sống công nhân đặc biệt khó
khăn, nhất là vào thời gian khủng hoảng kinh tế. Do đó, phong trào công nhân lại phát
triển với những cuộc bãi công có tính tổ chức, tính quần chúng tinh thần chiến đấu bền
bỉ. Tuy nhiên tình thế cách mạng cũng chưa xuất hiện nên đây là thời kỳ phát triển tương
đối "hoà bình" của CNTB.
Sự thành lập của chính đảng của giai cấp công nhân ở các nước đã không làm mất
đi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Các đảng ấy đã học tập
sử dụng chế độ đại nghị tư sản, để tổ chức giáo dục chuẩn bị cho cuộc đấu tranh trong
tương lai.
Ngày 14/3/1883 C. Mác mất. Phong trào công nhân quốc tế bị tổn thương nặng nề.
Song vào lúc đó, GCVS đã trưởng thành, các ,lh giữa quốc tế của nó được củng cố, chủ
nghĩa Mác được truyền bá vào phong trào công nhân, các đảng vô sản các nước được

thành lập mà phần lớn dựa theo nguyên tắc của CNXHKN. Do đó ngày 14/7/1889 Quốc
tế II đã được thành lập tại Đại hội quốc tế ở Pari nhân kỷ niệm 100 năm ngày phá ngục
Baxti. Ăng-ghen coi Quốc tế mới là tổ chức kế thừa Quốc tế cũ (Quốc tế I), đồng thời
người cũng cảnh báo cho các lãnh tụ Quốc tế II phải đề phòng nguy cơ sa vào lập trường
cải lương, nhất là đánh giá quá cao hoạt động nghị trường.
Sau khi C. Mác mất, Ph. Ăng-ghen dành hẳn 10' năm còn lại để tiếp tục phát triển,
bổ sung một số nguyên lý của CNXHKN, nổi bật là hoàn thiện bộ tư bản, trong đó ông
phân tích một cách khoa học để vạch ra bản chất quy luật vận động của CNTB và đi tới
kết luận: Sự sụp đổ của CNTB là tất yếu, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là thực
hiện nhiệm vụ thủ tiêu CNTB và xây dựng thành công CNXH, CNCS.
Ngày 5/8/1895 Ăng-ghen qua đời. Trong vòng vài năm sau đó Quốc tế II về cơ
bản còn thi hành đường lối cách mạng. Nhưng về sau nó đã sa vào nguy cơ mà Ăng-ghen
đã cảnh báo. Ăng-ghen mất, Lênin đã viết một bản cáo phó trong đó Người đã ca ngợi
công lao của Ăng-ghen gắn liền với sự ca ngoại Mác, Lênin viết: "Mác và Ăng-ghen là

những người đầu tiên đã giải thích trong các tác phẩm khoa học của mình rằng CNXH
không phải là một điều bịa đặt của những kẻ mộng tưởng mà mục đích cuôi cùng và là
kết quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội hiện đại"
Tóm lại, vấn đề có tính quy luật trong sự phát triển của CNXHKH là tổng kết
những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN và nhân dân lao động
chống GCTS và cuộc đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng phi Macxit, trước hết là
những tư tưởng cơ hội, xét lại trong phong trào công nhân. Lý luận của CNXHKH được
C. Mác và Ph. Ăngghen phát triển thể hiện tính khoa học, tính cách mạng, tính chiến đấu
rõ rệt trong cuộc đấu tranh kiên trì chống các hệ tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và tàn dư của
CNXHKT để định hướng hoạt động cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vì sự
thắng lợi của CNXH và CNCS.
II. giai đoạn V. I. Lênin kế thừa và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Sơ lược về Lênin
chèn ảnh
V. I. Lênin sinh ngày 22/4/1870 ở Ximbiếc trong một giai đoạn trí thức cách
mạng. Năm 1887 Lênin vào học trường Đại học Luật ở Ca-dan, nhưng chẳng bao lâu thì
bị bắt vì đã tích cực tham gia phong trào cách mạng của sinh viên, bị đuổi khỏi thường và

×