Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN VĂN: Phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Kon Tum ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.12 KB, 90 trang )








LUẬN VĂN:

Phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở tỉnh Kon Tum






Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Việt Nam đã bước vào năm thứ 20 thực hiện đường lối đổi mới đất nước
với nhiệm vụ trọng tâm là công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức nhằm đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 trong bối cảnh khoa học công nghệ
và toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, làm gia tăng gay gắt tính chất cạnh tranh trong cuộc
đua phát triển giữa các quốc gia. Sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước mà Việt Nam đang tiến hành trong điều kiện mới có thành công hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào sức sáng tạo của nguồn lực con người Việt Nam. Nhận thức rõ điều này,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Nguồn lực con người Việt Nam là vốn quí nhất
trong điều kiện các nguồn lực khác của chúng ta còn hạn chế, do đó “lấy việc phát triển
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [9, tr.85]


Sự thành công của cách mạng Việt Nam có sự đóng góp tích cực của mỗi con
người, mỗi cộng đồng người, mỗi địa phương trên đất nước Việt Nam, trong đó có đồng
bào các dân tộc thiểu số - một bộ phận đặc biệt quan trọng cấu thành nguồn lực con người
Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên trình độ phát
triển giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam vẫn còn có sự chênh lệch khá lớn về mọi mặt,
trong đó có trình độ phát triển của nguồn nhân lực, biểu hiện tập trung ở chất lượng của
nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số còn thấp, chưa đáp ứng được với yêu cầu của tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kon Tum là một tỉnh miền núi, nằm trong khu vực Tây Nguyên và là tỉnh có tỷ lệ
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm số đông trong dân cư (51,14%), và là chủ thể đóng vai trò
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của tỉnh. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ, đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum đã cùng với đồng bào Tây
Nguyên và nhân dân cả nước đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Từ sau khi giải phóng đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các DTTS ở Kon
Tum vẫn không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng, tích cực sản
xuất, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần.

Song, một thực trạng đang diễn ra trong nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở
KonTum là đông về số lượng, yếu về chất lượng, thể hiện rõ nét và tập trung ở trình
độ học vấn, trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động của lực
lượng này còn rất thấp, cộng với chịu ảnh hưởng nặng nề của những phong tục tập
quán, lối sống còn những nét cỗ hủ, lạc hậu. Bên cạnh đó, nhiều chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu
số cũng chưa được cụ thể hoá một cách phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng
dân tộc sống trên địa bàn tỉnh KonTum. Do đó, nhiều tiềm năng to lớn, nhất là tiềm
năng con người của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh KonTum vẫn chưa được khai
thác và sử dụng có hiệu quả, chưa chuyển hoá thành nội lực cho sự phát triển nhanh
và bền vững, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của tỉnh. Đây là một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh Kon Tum.

Vì vậy, việc nghiên cứu khoa học nhằm “Phát triển nguồn nhân lực các dân tộc
thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Kon Tum” là vấn đề đang
đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với tiến trình phát triển của tỉnh Kon Tum trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề
được đề cập nghiên cứu ở những mức độ và góc độ khác nhau. Nhiều công trình đã nghiên
cứu một cách có hệ thống các vấn đề về nguồn nhân lực, về giáo dục - đào tạo, về nâng
cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, đáng chú ý là những công trình
sau:
- "Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam" do TS. Đỗ Minh Cương -
PGS.TS Nguyễn Thị Loan chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Cuốn sách làm rõ
quan điểm, định hướng chiến lược và giải pháp chủ yếu cho việc phát triển năng lực giáo dục bậc
cao ở nước ta trong thời kỳ mới.
- "Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam" của tác giả TS. Bùi Thị
Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách tập trung làm rõ trí tuệ,

nguồn lực trí tuệ, vai trò, đặc điểm, thực trạng phát huy và xu hướng phát triển của nguồn
lực trí tuệ Việt Nam- bộ phận tinh hoa trong nguồn nhân lực Việt Nam thời gian qua. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn
lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN.
- "Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài" của Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc
Hưng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Quyển sách tập trung giới thiệu
khái quát về lịch sử giáo dục Việt Nam. Những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ đặt ra đối
với giáo dục Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng và nguồn nhân lực cho đất
nước trong thời kỳ CNH, HĐH.
- "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước", do PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.

Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực và việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực nước ta đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- "Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta" của PGS.
Trần Văn Tùng, Lê ái Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Cuốn sách giới thiệu
khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở một số nước trên thế giới dưới tác động của giáo
dục - đào tạo, đồng thời nêu bật vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam.
Vấn đề con người, nguồn nhân lực cũng là đề tài nghiên cứu của một số luận án,
luận văn đáng chú ý: Luận án tiến sĩ "Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước" của tác giả Đoàn Văn Khái (2000); Luận án tiến sĩ "Trí thức
người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu
số phía Bắc)" của Trịnh Quang Cảnh, 2001; Luận án tiến sĩ "Phát huy nguồn lực thanh
niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay" của tác giả
Nguyễn Thị Tú Oanh (1999); Luận văn thạc sĩ "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh" của tác giả Vũ Thị

Phương Mai (2004); Luận văn thạc sĩ "Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre" của tác giả Lê Thị Mai (2005).
Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết về
vấn đề nguồn nhân lực các DTTS và đã được đăng tải trên các Tạp chí như: “Chính sách
dân tộc đã thực sự đi vào cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kon Tum” của
Nguyễn Thanh Cao, tạp chí Tư tưởng Văn hoá 2004; “Chính sách cử tuyển- một chủ
trương đúng trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục,
đào tạo ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số” của Nguyễn Thị Mỹ Trang- Lại Thị Thu
Hà, Tạp chí Dân tộc học 2005; “Dạy nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc
thiểu số tại Kon Tum” của Lê Văn Quyền, Tạp chí Lao động và xã hội 2005; “Vấn đề dân
số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số ở nước ta” của Nguyễn Thế Huệ, Tạp chí
Cộng sản 2004 Các bài viết này bước đầu đề cập đến các vấn đề cấp bách hiện nay như
giáo dục - đào tạo, việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số Nhìn chung chưa có một công

trình nào nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về phát triển nguồn nhân lực các dân tộc
thiểu số ở Kon Tum. Việc nhận thức rõ hơn, đánh giá đúng thực trạng nguồn nhân lực các
dân tộc thiểu số là cơ sở thực tiễn quan trọng để tìm ra phương hướng, giải pháp phát triển
và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực này phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH vẫn là một
đề tài cần được tiếp tục nghiên cứu, nhất là từ góc độ chính trị, xã hội và từ thực tiễn của
một tỉnh như Kon Tum.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
- Mục tiêu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng và xu hướng phát triển nguồn nhân lực
các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum, luận văn đề xuất những phương hướng cơ bản và giải
pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số của Kon Tum trong tiến
trình CNH, HĐH của tỉnh.
- Nhiệm vụ: Luận văn làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực các
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp CNH, HĐH; phân tích những nhân tố tác động đến sự
phát triển của nguồn nhân lực này.
- Phân tích thực trạng của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số, từ đó đưa ra những
dự báo khoa học về xu hướng phát triển của nó trong sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh.

- Xây dựng hệ thống quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển
nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum trong quá trình CNH, HĐH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số của tỉnh KonTum
trong sự nghiệp CNH, HĐH - chủ yếu là nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động.
- Phạm vi nghiên cứu: từ góc độ chính trị - xã hội đề tài nghiên cứu quá trình phát
triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum, đặc biệt từ khi thực hiện
chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (từ 1991 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: những vấn đề của luận văn được luận giải dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước
ta; những chủ trương, chính sách của Đảng bộ và ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum về các
vấn đề liên quan đến đề tài. Ngoài ra, những công trình nghiên cứu gần đây về vấn đề này

được tác giả quan tâm coi trọng nghiên cứu và kế thừa.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, lôgíc
lịch sử, cùng các phương pháp bổ trợ của các ngành khoa học liên ngành khác như phân
tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học để nghiên cứu sự phát triển nguồn nhân lực
các dân tộc thiểu số dưới góc độ chính trị - xã hội.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng việc phát triển nguồn nhân lực các dân tộc
thiểu số tỉnh Kon Tum trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Đề xuất một hệ thống các quan điểm và giải pháp nhằm phát triển nhanh nguồn
nhân lực các dân tộc thiểu số ở KonTum đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của tỉnh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- ý nghĩa lý luận của luận văn:
ở những mức độ nhất định những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy một số vấn đề của chủ nghĩa xã
hội, như vấn đề nguồn nhân lực, vấn đề dân tộc v.v
- ý nghĩa thực tiễn:

Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin cậy để các
cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách phát
triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp CNH, HĐH của Kon Tum
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở tỉnh Kon Tum

1.1. Nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số
1. 1.1.Những quan niệm chung

* Quan niệm về nguồn nhân lực:
Ngày nay, trong quá trình đổi mới và phát triển, vấn đề nguồn lực phát triển của
một quốc gia, dân tộc đang được đặc biệt chú ý nghiên cứu. Xác định được các nguồn lực
là điều hết sức quan trọng, đảm bảo khả năng thực thi của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Dựa vào các tiêu chí khác nhau người ta phân loại các nguồn lực như: Nguồn lực con
người, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, nguồn vốn, nguồn lực
bên ngoài (sự hợp tác quốc tế) .v.v Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng
tham gia vào quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội, nhưng mức độ tác động và vai trò của
chúng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội không giống nhau. Trong tất cả các
nguồn lực thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, vì nó tham gia vào quá trình sản
xuất và tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bởi vì phải thông qua hoạt
động của con người thì các nguồn lực khác mới có thể phát huy được tác dụng, mới có thể
biến tiềm năng thành hiện thực. Chính con người phát hiện và sáng tạo ra những nguồn lực
mới phát triển và phát huy nguồn lực tinh thần và sử dụng nó để phục vụ con người. Nói
đến nguồn lực con người tức là nói đến những gì cấu thành khả năng, năng lực, sức mạnh
sáng tạo của con người.
ở nước ta khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX, tuy nhiên cho đến nay mới ở mức độ nghiên cứu, ở những góc
độ, khía cạnh khác nhau.
Giáo sư Viện sỹ Phạm Minh Hạc cho rằng: "Nguồn lực con người là dân số và
chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe, trí tuệ, năng lực và
phẩm chất" [14, tr.328]. GS.TS Hoàng Chí Bảo quan niệm "Nguồn lực con người là sự kết
hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động và triển

vọng mới phát triển của con người” [1, tr.14]. Ngoài thể lực và trí lực, theo tác giả "cái làm
nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực
tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của
mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi sáng tạo” [1, tr.15]. Xét theo nghĩa đó, nguồn nhân lực
bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sự sâu sắc đổi mới thường xuyên các năng lực trí tuệ,
năng lực thực hành, tổ chức quản lý

Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: Nguồn lực con người là quý
báu nhất Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm
chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền
với một nền khoa học công nghệ hiện đại [10, tr.9]. Quan niệm này nêu lên một cách toàn
diện những yếu tố cần có của người lao động với tư cách là nguồn lao động - nguồn lực
quan trọng nhất của quốc gia.
Bên cạnh đó, khái niệm "nguồn lực con người", "tài nguyên con người" cũng
được sử dụng phổ biến. Theo một số tác giả thì đây là khái niệm đều được dịch từ cụm từ
Human Resources. TS. Đoàn Văn Khái cho rằng: trong thực tế, khái niệm "nguồn nhân
lực" ngoài nghĩa rộng được hiểu như "nguồn lực con người", thường còn hiểu theo nghĩa
hẹp là nguồn lao động, có khi còn được hiểu là lực lượng lao động. Khái niệm "tài nguyên
con người" được sử dụng với ý nghĩa nhấn mạnh phương diện khách thể của con người,
coi con người như một nguồn tài nguyên, một loại của cải quý giá cần được khai thác triệt
để, hợp lý có hiệu quả, nhất là nguồn tiềm năng trí tuệ.
Từ một số cách tiếp cận và những nội dung trên có thể hiểu nguồn nhân lực là
phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt là chất lượng người với tất cả những
tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm nên sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.
* Quan niệm về nguồn nhân lực các DTTS:
Dân tộc thiểu số:
Trong từ điển bách khoa Việt Nam và nhiều từ điển tiếng Việt khác đã nêu rõ
khái niệm này:

Dân tộc thiểu số: dân tộc có số dân ít (có thể là hàng trăm, hàng ngàn
và cho đến hàng triệu) cư trú trong một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc,
trong đó có một dân tộc có số dân đông, trong các quốc gia có nhiều thành
phần dân tộc, mỗi dân tộc thành viên có hai ý thức: ý thức về tổ quốc chung
và ý thức về dân tộc mình. Những DTTS có thể cư trú tập trung hoặc rải rác
xen kẽ, thường ở những vùng ngoại vi, vùng hẻo lánh, vùng điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội còn khó khăn. Vì vậy, các Nhà nước tiến bộ thường thực

hiện chính sách bình đẳng dân tộc, nhằm xóa bỏ dần những chênh lệch trong
sự phát triển kinh tế - xã hội giữa dân tộc đông người và các dân tộc thiểu số
[33, tr.655].
Như vậy, quan niệm trên đã nói lên nét đặc thù của các DTTS đó là: có số dân ít, cư trú
trong một quốc gia thống nhất; trong quốc gia đó có thể có hai, ba, bốn, thậm chí vài chục
DTTS như ở Việt Nam, Trung Quốc, Nga [34, tr.239].
DTTS dù dân số ít song có tiếng nói riêng và có thể có chữ viết riêng, những
phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa bản địa có nhiều nét độc đáo riêng. ở một
số nước thuộc địa, phụ thuộc do bị chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản thực hiện chính
sách đồng hóa cưỡng bức và chính sách ngu dân, nên một số dân tộc thiểu số có thể mất
dần tiếng nói và những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 thành phần dân tộc. Dân tộc Kinh (Việt) là
dân tộc đa số, chiếm 83,6% dân số, 53 dân tộc còn lại là DTTS.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam dù nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa có khác nhau, song luôn luôn đoàn
kết chống ngoại xâm. Khi đất nước hòa bình thì cùng làm ăn sinh sống trong sự
hòa hợp bình đẳng. Sự cộng cư lâu đời, cộng với sự thử thách khắc nghiệt thường
xuyên của thiên tai và chiến tranh đã làm cho các dân tộc anh em gắn bó chặt chẽ
với nhau. Tình đoàn kết giữa các dân tộc đã trở thành truyền thống lịch sử, là giá
trị tinh thần cực kỳ to lớn của nhân dân Việt Nam. Truyền thống này đã được Hồ
Chí Minh gìn giữ, bồi đắp và biến thành sức mạnh vật chất to lớn trong cuộc chiến
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

* Đặc điểm nguồn nhân lực các DTTS:
+ Hầu hết các DTTS sống xen kẽ với nhau và cư trú chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa,
vùng núi cao hiểm trở và những địa bàn trọng yếu có vị trí chiến lược quan trọng về kinh
tế an ninh, quốc phòng và còn có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề môi trường sinh thái.
Trong tiến trình lịch sử, các DTTS đã khai phá những vùng đất hoang vu, khó khăn để tồn
tại và phát triển đồng thời góp phần quan trọng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh
thổ quốc gia.

+ Các DTTS đoàn kết thống nhất trong cộng đồng chung, có truyền thống yêu
nước nồng nàn và là lực lượng cách mạng to lớn. Điều đó, được chứng minh qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào các DTTS đã đoàn kết thống
nhất, một lòng một dạ dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đóng góp sức người sức của vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Ngày nay, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, đồng bào các DTTS không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống cách
mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, tích cực
sản xuất, XĐGN, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, đấu tranh chống các thế lực thù
địch đang tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, cùng nhau xây dựng đất nước,
góp phần tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc
+ Các DTTS có nền văn hoá rất đa dạng và phong phú mang đậm bản sắc của
dân tộc mình, cho dù có sự phát triển giao thoa giữa các nền văn hoá, giữa các dân tộc với
nhau.Tuy nhiên, do nhiều dân tộc cư trú ở những địa bàn xa xôi, hiểm trở, tách biệt, không
thuận lợi cho phát triển nên việc bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hoá của các dân tộc, việc loại bỏ
những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu và việc tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ cũng gặp
nhiều khó khăn.
+ Chất lượng nguồn nhân lực các DTTS nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu của quá trình CNH, HĐH. Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực này,
nhưng hiện nay so với dân tộc đa số, trình độ học vấn của nguồn nhân lực các DTTS nhìn
chung còn rất thấp, tỷ lệ mù chữ, tái mù chữ cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề
thấp, lực lượng lao động tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, ở nông thôn và hầu

hết chưa qua đào tạo. Bên cạnh đó, đồng bào các DTTS còn chịu ảnh hưởng nặng của
những tư tưởng, tâm lý, thói quen của người sản xuất nhỏ và các phong tục tập quán cũ,
lạc hậu. Đó là những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình phát triển của nguồn
nhân lực này.
* Quan niệm về phát triển NNL các DTTS:
Suy cho cùng, toàn bộ học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin là hướng tới giải
phóng con người khỏi mọi sự áp bức bóc lột, bất bình đẳng xã hội; tạo mọi điều kiện để

con người phát triển toàn diện. Khẳng định điều này, Ph.Ăngghen viết: “Dĩ nhiên xã
hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi một cá
nhân riêng biệt” [19,tr.406]. Như vậy,để phát triển xã hội phải lấy sự phát triển con
người làm mục đích, hướng tới xây dựng con người hoàn thiện với tư cách là chủ thể
của sự phát triển xã hội. Trong tiến trình của cuộc cải biến cách mạng, con người luôn
luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình đó. Thực tế cho thấy, ở đâu các
lực lượng cách mạng mà đánh giá đúng vai trò của con người, biết phát huy nó một
cách có hiệu quả thì sự nghiệp cách mạng ở đó giành thắng lợi.
Ngày nay trong điều kiện quốc tế hoá quan hệ kinh tế thế giới, hoạt động sản xuất
thương mại, trao đổi thông tin khoa học - kỹ thuật, chuyển giao công nghệ đang phát triển
mạnh; xu thế chung của các nước là cùng nhau giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội,
văn hoá và sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau giữa các nước, các khu vực, giữa các vùng,
các dân tộc khác nhau của đời sống xã hội ngày càng trở nên sâu sắc hơn đã khiến cho mối
quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên gắn bó.
Hiện nay, Việt Nam đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức
nhằm thực hiện chiến lược vừa phát triển “tuần tự” vừa “đi tắt đón đầu” để tránh nguy cơ
tụt hậu, lạc hậu, tạo ra sự phát triển nhanh nên nhất thiết phải coi trọng phát triển nguồn
lực con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, trong giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH theo cách đó phải được hoạch định, được xuất phát từ quan niệm

của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu phải xây dựng con người,
phát triển con người.
- Một số quan niệm phát triển nguồn nhân lực:
Liên hợp quốc sử dụng khái niệm "phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa
rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
UNESCO sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa hẹp, đó
là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với phát

triển của đất nước.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), phát triển nguồn nhân lực không phải chỉ có
sự chiếm lĩnh hành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung, mà là phát triển năng lực và sử dụng
năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề
nghiệp và cuộc sống cá nhân.
ở nước ta “phát triển nguồn nhân lực” được các nhà khoa học Việt Nam nêu khá
nhiều trong các công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:
Theo GS.VS.TS Phạm Minh Hạc:
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho con
người trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực làm cho con
người trở thành những người lao động có những năng lực phẩm chất mới và
cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [14, tr.285].
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển nguồn nhân lực được coi là quá trình
làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn
yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội [5, tr.13]. Theo tác giả, quá trình này bao gồm sự
phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng
động xã hội và sức sáng tạo của con người.
Như vậy, mặc dù với nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về phát triển
nguồn nhân lực, song tựu chung lại, phát triển nguồn lực con người chính là nhằm phát

triển con người cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về thể chất, trong sáng về tinh thần Tuy nhiên,
sự phát triển đó phải gắn với từng đối tượng, từng dân tộc.
Tiếp thu các quan điểm nêu trên trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng cộng
sản Việt Nam thống nhất quan điểm: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình “đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức” nhằm “tranh thủ cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN” [13, tr.87]. Một trong những đặc trưng của kinh tế tri
thức là phát triển chủ yếu dựa vào tri thức. Mà tri thức là do con người sáng tạo ra. Do vậy,

sự thành bại trong công cuộc đổi mới và CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức hoàn toàn phụ thuộc vào sức lực và trí tuệ sáng tạo của con người Việt Nam. Vì vậy,
chăm lo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo ra năng lực nội sinh cho phát triển
trở thành vấn đề cốt tử của cách mạng nước ta.
Mặt khác, Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp còn ở tình trạng nghèo
nàn lạc hậu, tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta không chỉ dựa vào nguồn lực
tự nhiên vốn có của đất nước, mà trước hết phải phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
nguồn lực con người Việt Nam, trong đó nguồn nhân lực các DTTS đóng vai trò quan
trọng trong tiến trình phát triển chung của đất nước
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nguồn lực này chủ
yếu còn ở dạng tiềm năng, chưa được chú ý, khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả
trong phát triển. Do đó xây dựng chiến lược nhằm phát triển toàn diện nguồn nhân lực này,
tạo ra năng lực nội sinh trong tiến trình phát triển là một nhiệm vụ cần thiết. Để phát huy
có hiệu quả nguồn nhân lực trước hết là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho đồng bào DTTS, trên cơ sở đó tạo ra một đội ngũ người lao động có
chất lượng, một nguồn nhân lực dồi dào. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có sự kết
hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, với nâng cao chất
lượng cuộc sống để tạo điều kiện và cơ hội cho mọi thành viên trong cộng đồng nâng cao
trình độ học vấn và văn hoá, trình độ tay nghề và kỹ năng lao động, chăm sóc sức khoẻ
cho đồng bào các DTTS, khơi dậy và phát huy tinh thần lao động tích cực, tự giác, năng

lực làm chủ và khả năng sáng tạo của mỗi con người, đồng thời phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực các DTTS là quá trình làm biến đổi về số
lượng, về cơ cấu ngành nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này một cách phù
hợp với điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của từng dân tộc, đồng thời làm gia tăng các giá
trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng cho người DTTS nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá

Thứ nhất, nguồn nhân lực các DTTS là chủ thể thực hiện quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở vùng đồng bào DTTS và là chủ thể hưởng thụ những thành quả mà
công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang lại.
Trong học thuyết duy vật lịch sử của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin
coi con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu,
yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất, mà hơn nữa con người còn
đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Bằng hoạt động lao động sản
xuất, con người đã cải tạo tự nhiên để thoả mãn nhu cầu của mình, đồng thời cải tạo
chính bản thân mình. Ph.Ăngghen viết: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải , là
điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một mức mà
trên ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [20,
tr.641].
Đối với đồng bào các DTTS, chính sách dân tộc nhất quán: “Bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” [13, tr.121] của Đảng và Nhà nước ta đang từng
bước đi vào cuộc sống, làm cho đồng bào các dân tộc nhận thức rõ được tầm quan trọng
của sự nghiệp CNH, HĐH. Chính vì vậy, bằng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, các
DTTS cùng với nhân dân cả nước đóng vai trò là chủ thể tích cực tham gia trực tiếp vào
quá trình lao động sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời góp phần
quan trọng vào quá trình CNH, HĐH, mà trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
nơi địa phương đồng bào sinh sống, thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo, định canh

định cư, góp sức người, sức của vào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; từng bước xoá bỏ
phương thức sản xuất lạc hậu, kém hiệu quả, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
khắc phục tình trạng chênh lệch quá lớn giữa vùng núi, vùng sâu, vùng xa với vùng đồng
bằng.
Thứ hai, nguồn nhân lực các DTTS là chủ thể sáng tạo, giữ gìn, phát huy và
hưởng thụ các giá trị bản sắc văn hoá dân tộc của các tộc người, góp phần làm phong phú
và đa dạng nền văn hoá chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá dân tộc có chiều sâu cội nguồn có chiều dài
lịch sử và chủ thể sáng tạo văn hoá rất thông minh, cần cù. Đó là kết quả hàng nghìn năm lao

động, sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, trong đó không thể không nói đến sự đóng góp to lớn của nguồn nhân lực các DTTS
trong nền văn hoá chung.
Văn hoá mang tính dân tộc vì nó được sáng tạo, lưu truyền trong cộng đồng dân
tộc với một sắc thái riêng và được kết tinh trong quá trình lao động, sản xuất, nó thể hiện
đặc tính riêng như: phong cách truyền thống, khát vọng, thế giới tinh thần, tâm hồn, nhân
cách của con người, thể hiện sức sống, trình độ phát triển của mỗi dân tộc. Thông qua đó,
văn hoá của mỗi vùng, mỗi dân tộc thể hiện tính đặc sắc, tính độc đáo, đặc thù, chẳng hạn:
Nét độc đáo của vùng văn hoá Tây Bắc được thể hiện ở : các làn điệu Xoè Thái,
múa khèn của người Mông, tục uống rượu cần bên bếp lửa, bộ Sử thi Đẻ đất, Đẻ nước,
Trường ca út Thêm, làn điệu Then
Vùng văn hoá Trường Sơn - Tây Nguyên đó là nghệ thuật cồng chiêng, lễ bỏ mả,
tục đâm trâu, tượng nhà mồ, đặc biệt là các trường ca nổi tiếng như: Trường ca Đam San,
Xing Nhã, Đăm Di
Vùng văn hoá Tây Nam Bộ là nơi có sự hiện diện của đồng bào Khơ-me với nghệ
thuật sân khấu Dù Kê, Dì Kê đặc sắc
Tất cả các yếu tố văn hoá trên thể hiện tính độc đáo của mỗi dân tộc, từ đó tạo
nên bản sắc văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, việc tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại để bổ sung làm phong phú và phát triển nền văn hoá dân tộc

theo hướng hiện đại, đang trở thành cơ hội của các quốc gia, các dân tộc. Nguyên Tổng Bí
thư Đỗ Mười khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, các hoạt
động văn hoá văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong
phú đời sống tinh thần Việt Nam. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá
phải được thấm đậm ” [21,tr.268].
Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải đấu tranh không khoan nhượng với xu thế lai
căng làm băng hoại văn hoá bản địa truyền thống của đồng bào các DTTS. Thực tế hiện
nay cho thấy, xu thế “Kinh hoá” đang diễn ra đã làm mất đi những nét văn hoá riêng của
một bộ phận DTTS, ví dụ: nhà Sàn, nhà Rông được thay thế bằng những vật liệu mơí (xi

măng, sắt thép ); hay trang phục truyền thống ít được giới trẻ ưa chuộng, thay vào đó là
các bộ âu phục; một số phong tục, tập quán như cưới xin cũng ít nhiều bị thay đổi từ trang
phục cho đến hình thức tổ chức ; hiện tượng nam nữ thanh niên không thiết tha với những
làn điệu truyền thống của dân tộc mình; bên cạnh đó, còn xảy ra tình trạng đáng lo ngại
như: nạn đào bới cổ vật, trộm cắp nhạc cụ truyền thống của các dân tộc v.v
Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các DTTS trong giai đoạn hiện
nay là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp
thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của
từng dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào các DTTS tiếp tục phát triển,
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá mới.
Thứ ba, nguồn nhân lực các DTTS là chủ thể giữ gìn an ninh biên giới, giữ vững
chủ quyền quốc gia và đấu tranh làm thất bại những âm mưu chia rẽ, phá hoại của các thế
lực thù địch.
Xuất phát từ đặc điểm cư trú của đồng bào DTTS ở những địa bàn vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, đặc biệt lại là những vùng biên giới giáp với các nước, đó là những nơi thông
thương, phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá nhưng cũng là địa bàn có nhiều vấn đề phức
tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Lợi dụng những vấn đề đó, trong những
năm gần đây, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tăng cường tuyên truyền, kích động
chống phá cách mạng, khoét sâu vào những vấn đề nhạy cảm như: đất đai, sự chêch lệch
mức sống , kết hợp với việc lợi dụng vấn đề tôn giáo ở Việt Nam để tuyên truyền đạo

trái phép vào vùng DTTS nhằm tạo nền tảng tư tưởng và xã hội cho sự ra đời của “Nhà
nước Đề Ga tự trị”, “Nhà nước Khơmer Crôm”, “Vương quốc Mông” Mặt khác, các thế
lực thù địch còn kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, gieo rắc quan điểm về quyền tự trị
dân tộc, về một nhà nước riêng, hoặc tổ chức các cuộc bạo động, gây rối nhằm lật đổ chính
quyền cách mạng, điển hình là bạo động chính trị diễn ra ở Tây Nguyên đòi thành lập
“Nhà nước Đề Ga tự trị” vào tháng 02/2001 và tháng 4/2004.
Trong những năm qua, nhằm đấu tranh làm thất bại những âm mưu chia rẽ, phá
hoại của các thế lực thù địch, Đảng ta chủ trương tiếp tục thực hiện đường lối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội

để tiến hành CNH, HĐH đất nước. Thấm nhuần tư tưởng và quan điểm trên, Đảng ta đã và
đang tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác vận động quần chúng nhân dân, trong đó việc
tuyên truyền đối với đồng bào DTTS là nhiệm vụ quan trọng góp phần xây dựng khối đại
đoàn kết và giữ vững chủ quyền quốc gia.
Thứ tư, nguồn nhân lực các DTTS là chủ thể giữ gìn bảo vệ môi trường sinh thái
vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo ra sự phát triển bền vững.
Cũng như các quốc gia đang phát triển, Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề
về môi trường, trong đó, rừng đang chịu sức ép lớn do hậu quả của chiến tranh, tình trạng
khai thác bừa bãi, không đảm bảo tái sinh rừng liên tục, tình trạng du canh du cư, đốt rừng
làm nương rẫy, cháy rừng, khai thác mở rộng lâm trường, sắn bắn thú rừng đã xâm hại
đến tài nguyên rừng một cách nghiêm trọng.
Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để có đất sản xuất, mở rộng phát
triển công nghiệp, đảm bảo chất lượng dân số mà rừng không bị tàn phá, môi trường
không bị xâm hại, tạo bước cho sự phát triển bền vững-tức là sự phát triển không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện nay mà còn không làm tổn hại đến lợi ích của các thế hệ
tương lai.
ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức rõ tầm quan trọng và mối quan
hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế xã hội và công tác bảo vệ môi trường. Do cư trú chủ yếu
ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nên đồng bào các DTTS đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc bảo vệ rừng. Do vậy, đồng bào các DTTS chính là chủ thể bảo vệ và

tái tạo rừng trực tiếp nhất, lâu dài nhất, bởi vì, rừng gắn bó với phần lớn cuộc sống của họ.
Trước hết, rừng làm nương rẫy, cung cấp các nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống hàng
ngày như: gỗ làm nhà, củi đốt, nguyên liệu đan lát, rau, măng, củ quả, các loại chim thú
Con người sống với rừng, hoà tan vào rừng và vì rừng, chính vì vậy mà khi làm rẫy, lập
làng đều có sự tính toán hợp lý, không gây lãng phí, không tàn phá, vừa đủ để sinh tồn. Do
đó, để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường trong tình hình gia tăng dân số như hiện nay
cần phải có những chính sách cụ thể, thiết thực: định canh, định cư, nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường sinh thái, giao đất giao rừng cho từng hộ gia đình để tự họ quản lý. Có như vậy
đồng bào các DTTS mới thực sự trở thành chủ thể giữ gìn bảo vệ môi trường sinh thái, tạo

sự phát triển bền vững.
Tóm lại, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn nhân lực
các DTTS đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất cho chính bản thân
và xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, đấu tranh chống các thế lực thù
địch, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” của chúng và là lực lượng quan trọng
trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, phát huy vai trò của nguồn nhân lực các
DTTS là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện
thành công Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX đề ra:
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập thống nhất Tổ quốc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vững bước đi lên CNXH
[12, tr.12-13].
1.2. Đặc điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Kon Tum và những yêu
cầu về sự phát triển Nguồn Nhân Lực các dân tộc thiểu số của tỉnh
1.2.1. Đặc điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Kon Tum
Kon Tum là một tỉnh nghèo nhất trong cả nước. Sau ngày tái lập tỉnh (1991),
phần lớn cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế kém phát triển, trình
độ dân trí thấp. Bên cạnh đó, do điều kiện vị trí địa lý hiểm trở, giao thông không thuận
lợi nên tốc độ phát triển của Kon Tum còn chậm so với các tỉnh trong cả nước.

Những năm gần đây, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Kon Tum đã đoàn kết, nhất trí, khắc phục khó khăn, phát
huy những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, huy động nội lực, tranh thủ ngoại lực, từng
bước đưa Kon Tum vươn lên thoát nghèo, tạo “thế và lực” mới trong hội nhập và phát
triển. Vì vậy, cùng với cả nước, Kon Tum thực hiện CNH, HĐH mà trọng tâm và cấp bách
là phải CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, để giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ của tỉnh. Do vậy,
CNH, HĐH ở Kon Tum có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Kon Tum tập trung chủ yếu vào công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nước ta phấn đấu đến
năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện mục tiêu
đó, Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “ Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [13, tr.76].
Vận dụng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra, Đại hội tỉnh Đảng bộ
lần thứ XIII của Kon Tum đã xây dựng chương trình nhằm xác định mục tiêu nhiệm vụ,
giải pháp nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh:
Tiếp tục giữ vững và phát huy sức mạnh đoàn kết nội bộ, thống nhất trong
Đảng, đoàn kết nhân dân các dân tộc trong tỉnh, khai thác có hiệu quả mọi
nguồn lực, tập trung đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn, bảo đảm khai thác có hiệu quả các lợi thế, tiềm năng kinh tế của địa
phương, nhất là về đất đai, tài nguyên rừng, thủy điện, thủy lợi, chăn nuôi đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa Kon Tum thoát nghèo [27, tr.120].
Vì vậy, từ năm 1991 đến nay được sự quan tâm của Trung ương, lãnh đạo tỉnh và
các cấp, các ngành hữu quan, ngành nông nghiệp Kon Tum đã có những chuyển biến rõ
nét. Trong những năm đầu tái lập tỉnh, ngành nông nghiệp Kon Tum chủ yếu là sản xuất
theo hướng tự cung, tự cấp, tình trạng thiếu đói giáp hạt xảy ra hàng năm. Đứng trước tình
hình ấy, Kon Tum đã tiến hành tăng cường khai hoang, cải tạo đồng ruộng, chuyển đổi cơ

cấu giống, áp dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để tăng năng suất cây trồng,
vật nuôi.
Đồng thời, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất
lương thực, Kon Tum tập trung chủ yếu vào cây lúa và ngô, bằng các chương trình khai
hoang, cải tạo ruộng, giảm diện tích lúa rẫy. Nếu năm 1996, diện tích lúa đông xuân là
3.383 ha thì năm 2004 tăng lên 5.848 ha; diện tích ngô tăng khá, từ 3.248 ha (1996) lên
8.667 ha (2004) [35]. Cùng với mở rộng diện tích, trình độ thâm canh lúa của nông dân
cũng được nâng cao nhờ áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đặc biệt đưa giống mới vào
canh tác. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày và lâu năm

như: sắn, mía, cà phê, cao su Đến nay về cơ bản nhân dân trong tỉnh đã thoát khỏi cảnh
đói giáp hạt, đồng thời tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao, cung cấp nguyên liệu dùng
cho công nghiệp chế biến và hàng hoá có giá trị xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc ở Kon Tum.
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Kon Tum diễn ra với tốc độ chậm, quy
mô nhỏ bé, sử dụng công nghệ, trang thiết bị lạc hậu là phổ biến.
Cùng với cả nước, KonTum thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều
kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, tuy vậy, đến nay cũng đã đạt được những thành tựu bước
đầu đáng kể. Tổng sản phẩm (GDP) bình quân hàng năm tăng 11%; giai đoạn 2000-2005
tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng từ 15,69% lên 19,04%, thương mại dịch vụ tăng từ
38,05% lên 38,58%, nông - lâm - thủy sản từ 45,49% giảm còn 42,38%. Thu ngân sách
nhà nước đạt 280 tỷ đồng/năm.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Kon Tum tập trung phát triển theo hướng sản xuất
hàng hoá và có những chuyển biến tích cực. Công nghiệp xây dựng tăng trưởng cao, nhiều
cơ sở sản xuất công nghiệp được xây dựng mới, mở rộng về quy mô. Một số doanh nghiệp
nước ngoài liên doanh đầu tư sản xuất kinh doanh và kinh tế tư nhân đóng trên địa bàn tỉnh
đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần
thu nguồn ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động. Theo số liệu của UBND
tỉnh, hiện nay Kon Tum có trên 400 doanh nghiệp, trong đó có 37 doanh nghiệp nhà nước.
Các doanh nghiệp này chủ yếu kinh doanh các mặt hàng nông sản và chế biến nông sản,

giải quyết hơn 15.000 lao động trong tỉnh. Ngoài các công trình thủy điện, thuỷ lợi, giao
thông do Trung ương đầu tư, một số công trình thủy điện nhỏ, đường biên giới, đường đến
trung tâm cụm xã được tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp, mạng lưới điện đến
100% số xã với trên 92,3% số hộ được sử dụng điện [27, tr.14].
Việc mở rộng đô thị và phát triển kinh tế đô thị được quan tâm đầu tư, xây dựng,
đã hoàn thành quy hoạch chi tiết và đang tiến hành đầu tư cơ sở hạ tầng của các khu, cụm
công nghiệp, kinh tế cửa khẩu
Về thương mại - dịch vụ có bước phát triển tăng đều qua các năm. Thị trường
xuất khẩu được mở rộng, hoạt động bưu chính, viễn thông có bước chuyển biến mạnh

trong việc hiện đại hoá trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần nâng số dân được
sử dụng điện thoại.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong những năm qua, nền kinh tế Kon Tum
còn có những hạn chế: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra, hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp kém, đầu tư manh mún, hiệu quả thấp; tính cạnh tranh của
nền kinh tế còn thấp, chất lượng sản phẩm hàng hoá chưa cao, chưa có những sản phẩm
chủ lực, chưa có những doanh nghiệp mạnh về sản xuất kinh doanh và trong lĩnh vực xuất
- nhập khẩu; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa phù hợp với điều kiện đặc thù của
tỉnh. Tiềm năng, lợi thế cây trồng vật nuôi chưa được khai thác, lựa chọn cho đầu tư phát
triển hợp lý để mang lại hiệu quả cao. Giá trị ngành công nghiệp, dịch vụ đạt thấp, chưa
đóng vai trò quan trọng và thúc đẩy phát triển kinh tế. Một số dự án trên địa bàn triển khai
không thành công, có dự án thất bại, các chương trình, dự án trọng điểm chưa được tập
trung chỉ đạo quyết liệt, không hoàn thành đúng tiến độ.
Tiến trình CNH, HĐH nông thôn còn chậm và chưa rõ nét, chưa có lĩnh vực đột
phá, nông nghiệp chưa phát huy được lợi thế, nhất là lợi thế vùng nguyên liệu và phát triển
chăn nuôi. Công tác trồng rừng được quan tâm, tuy nhiên công tác quản lý rừng còn lỏng
lẻo, tình trạng phá rừng làm rẫy còn diễn ra khá phổ biến. Hoạt động thương mại dịch vụ
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS chậm phát triển; chưa đảm bảo
yêu cầu tiêu thụ sản phẩm nông sản và kích thích sản xuất phát triển. Công tác quy hoạch
và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các đô thị, các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa

khẩu, các tuyến điểm du lịch chưa được quan tâm đúng mức. Việc đổi mới, sắp xếp, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là công tác cổ phần hoá còn
rất chậm, lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Kinh tế tập thể chưa có sự chuyển biến mạnh cả về
chất và lượng, nhiều hợp tác xã hoạt động mang tính hình thức. Khu vực doanh nghiệp tư
nhân có quy mô và hoạt động sản xuất hạn hẹp, chưa đủ sức để mở rộng ngành nghề. Vì
vậy, vấn đề tạo thêm việc làm cho người lao động, nhất là lao động người DTTS là việc rất
khó khăn đối với tỉnh.
Thực trạng trên cho thấy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Kon Tum còn nhỏ bé

và tốc độ khá chậm, chưa rõ nét, vì vậy, rất cần sự tác động tích cực của nhiều yếu tố,
trong đó phát triển nguồn nhân lực được xem là bước đột phá nhằm tạo ra động lực thúc
đẩy mạnh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở gắn bó
chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, phát triển mạnh công nghiệp chế biến.
Thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có lợi thế gắn với chế
biến, tiêu thụ sản phẩm, vì vậy, xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hoá hiệu quả, bền vững, có sức cạnh tranh là một nhiệm vụ quan trọng của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Với lợi thế là một tỉnh đất rộng, lực
lượng lao động khá dồi dào, việc đầu tư khai thác lợi thế này là một nhiệm vụ quan trọng.
Tuy nhiên nông nghiệp không thể phát triển nhanh được nếu không có sự hỗ trợ của công
nghiệp và khoa học - công nghệ. Thực tế các tỉnh Tây Nguyên cho thấy: công nghiệp, nhất
là công nghiệp chế biến phát triển mạnh thì nông nghiệp cũng phát triển theo như Đắc Lắc,
Gia Lai Sự phát triển của nông nghiệp có mối quan hệ tương hỗ với sự phát triển công
nghiệp và dịch vụ. Trong mối quan hệ đó, công nghiệp hỗ trợ đắc lực và phục vụ cho nông
nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có như vậy các sản phẩm
nông nghiệp mới có cơ hội trở thành hàng hoá, mới có thể tiếp cận được với thị trường và
có sức cạnh tranh cao.
Khi mới tách tỉnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành công nghiệp hết sức nghèo
nàn, lạc hậu. Trước tình hình đó, ngành công nghiệp Kon Tum đã sắp xếp, tổ chức lại sản

xuất, giải thể, sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước có quy mô quá nhỏ, sản xuất - kinh
doanh không hiệu quả. Trong quá trình tìm hướng đi cho ngành, dựa trên tiềm năng lợi thế
của mình, tỉnh ủy Kon Tum đã ban hành Nghị quyết số 04/NQ-TU ngày 29-4-1997 “về
phát triển công nghiệp chế biến và điện khí hoá nông thôn”. Theo đó, Kon Tum xây dựng và
đưa vào hoạt động cơ sở sản xuất có quy mô lớn như: Xí nghiệp may thêu xuất khẩu vốn đầu
tư 26 tỷ đồng, công suất 650 nghìn sản phẩm/năm. Nhà máy đường với nguồn vốn 132 tỷ
đồng, nhà máy chế biến gỗ, mủ cao su [18, tr.331] Cùng với việc thành lập các nhà máy
chế biến, việc phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp cũng được tập trung phát
triển như vùng nguyên liệu cà phê, cao su, hồ tiêu, sắn Tính đến cuối năm 2005, có

17.684 ha cao su, 12.042 ha cà phê, 3.355 ha mía, 24.228 ha sắn [35].
Nhằm thu hút đầu tư, tạo nguồn vốn cho ngành công nghiệp chế biến, Kon Tum
đã ban hành nhiều cơ chế chính sách thông thoáng, khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia. Vì vậy, công nghiệp chế biến phát triển tương đối nhanh chiếm 95% cơ cấu
ngành, với những sản phẩm chủ lực là đường kết tinh, gỗ và tinh bột sắn, ngoài ra còn có
các sản phẩm khác như: cà phê, cao su, hồ tiêu Đến hết năm 2005, Kon Tum có 01 nhà
máy sản xuất đường kết tinh công suất 1500 tấn mía cây/ngày, sản lượng 17.071.000 tấn,
công nghiệp chế biến gỗ - lĩnh vực có nhiều đóng góp cho phát triển công nghiệp của địa
phương trong thời gian qua cũng phát triển mạnh. Năm 2005, ngành xẻ gỗ phục vụ 9.730
m
3
gỗ xây dựng cơ bản, 4.500 m
3
gỗ tinh chế và gần 386,3 nghìn sản phẩm giường, tủ,
bàn, ghế các loại phục vụ xuất khẩu. Song nhìn chung, công nghiệp chế biến gỗ có quy mô
nhỏ, công nghệ lạc hậu, gia công theo đơn đặt hàng là chủ yếu. Hiện nay, toàn tỉnh có 04
nhà máy tinh bột sắn đã và đang xây dựng nhằm thu mua và chế biến sắn phục vụ cho xuất
khẩu [35].
Công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu ở nông thôn đã góp phần thúc
đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn, từng
bước hiện đại hoá nông thôn. Thông qua các nhà máy chế biến, hàng vạn lao động nông
thôn được giải quyết, thu nhập được nâng lên, góp phần xoá đói giảm nghèo. Công nghiệp
chế biến cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho Kon Tum. Năm 2005, kim ngạch xuất

khẩu đạt gần 10 triệu USD, trong đó sản phẩm công nghiệp chế biến chiếm hơn 80% tổng
kim ngạch [16, tr.32].
Tuy vậy, ngành công nghiệp Kon Tum phát triển chưa đồng đều, chất lượng và
hiệu quả một số lĩnh vực chưa cao, khả năng cạnh tranh thấp. Công nghiệp chế biến chiếm
tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành nhưng sự tác động đến việc thay đổi cơ cấu và phát triển
cây trồng vật nuôi chưa mạnh, phát triển chưa bền vững. Vì vậy, mục tiêu của giai đoạn

2006-2010 là tập trung phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp chế biến nông - lâm
sản, chú trọng những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và vùng nguyên liệu dồi dào, có thị
trường tiêu thụ trong nước và nước ngoài, củng cố vững chắc các sản phẩm hiện có, đầu tư
phát triển sản phẩm mới từ cao su, phát triển sản phẩm sau đường, các ngành tiểu thủ
công nghiệp, thủ công mỹ nghệ và các ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp giảm nhanh các sản phẩm sơ chế, phát triển công nghiệp
chế biến gắn với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giải quyết nguồn nhân lực dư
thừa ở nông thôn. Thực hiện mục tiêu đó, ngành công nghiệp Kon Tum mới có khả năng
phát triển một cách ổn định và bền vững, tạo thế và lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh trong những năm tới.
1.2.2. Những yêu cầu cơ bản về sự phát triển nguồn nhân lực các dân tộc
thiểu số tỉnh Kon Tum
Thứ nhất, phát triển mạnh nguồn nhân về số lượng và chất lượng, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Phát triển nguồn nhân lực các DTTS tỉnh Kon Tum là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Với lực
lượng chiếm hơn 40% lao động toàn tỉnh, các DTTS đóng vai trò rất quan trọng làm thay
đổi diện mạo tỉnh nhà. Tuy nhiên, nếu lực lượng lao động đông nhưng chỉ với lòng nhiệt
tình và ý chí cách mạng thì chưa đủ để Kon Tum thực hiện CNH, HĐH. Trước yêu cầu của
CNH, HĐH đòi hỏi Kon Tum phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực này, một lực
lượng chưa được chú trọng khai thác và sử dụng và chủ yếu còn ở dạng tiềm năng. Thực tế
hiện nay cho thấy, CNH, HĐH ở Kon Tum rất chậm, quy mô nhỏ bé. Tình trạng này do
nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ yếu là nguồn nhân lực vừa thừa vừa thiếu,

×