Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

ngành dệt may Việt Nam sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.75 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
I.LỜI MỞ ĐẦU
II.NỘI DUNG
*CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỆT MAY TRONG ĐIỀU
KIỆN VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI WTO…..…………………………………………...………………………...3
1.1.Dệt may và đặc đỉêm của ngành dệt may ………………………………………3
1.2.Quy định của WTO ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam..4
1.3.Những cơ hội và thách thức với ngành dệt may Việt Nam sau khi Việt Nam là
thành viên của WTO………………………………………………………………..7
* CHƯƠNG2: THỰC TRẠNG, TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP
WTO…………........................................................................................................14
2.1. THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRƯỚC KHI GIA
NHẬP WTO………………………………………………………………………14
2.1.1Thị trường xuất khẩu của Việt Nam trước khi gia nhập WTO………………14
2.1.2Thị trường nguyên phụ liệu của ngành dệt may trước khi gia nhập WTO…..15
2.1.3Cơ sở hạ tầng và nhân lực ngành dệt may trước khi gia nhập WTO………...15
2.1.4.Chính sách của nhà nước đối với ngành dệt may………………………........16
2.2.THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP
WTO………………………………………………………………........................16
2.3TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI…………………….24
2.3.1. Thuận lợi……………………………………………………………………25
2.3.2. Khó khăn …………………………………………………………………...25
2.3.3. Triển vọng ………………………………………………………………….26
2.4 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHO NGÀNH DỆT MAY…………………..29
2.4.1. Các giải pháp về chính sách:………………………………………………..29
2.4.2. Nhóm giải pháp về thị trường………………………………………………30
2.4.3. Sự nỗ lực của chính bản thân doanh nghiệp………………………………..30
III.KẾT LUẬN…………………………………………………………………...32
DANH MỤC THAM KHẢO………………………………………………….....33




I.LỜI MỞ ĐẦU
Tòan cầu hoá và hội nhập quốc tế đang là xu thế chung của thế giới.Tiến
trình hội nhập và sự tham gia chính thức của Việt Nam vào WTO từ hơn 3 năm nay
mang lại những cơ hội và những thách thức mà doanh nghiệp phải vượt qua.
Dệt may là một ngành phát triển tương đối mạnh của kinh tế Việt Nam, là
một ngành chủ lực có tỷ trọng xuất khẩu cao và được nhà nước chú trọng phát
triển; có thể nói đó là ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam, ngành sản xuất mũi
nhọn và đang trên đà phát triển mạnh.Gia nhập WTO đem lại cho ngành dệt may
nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít những khó khăn đòi chúng ta phải nhanh
chóng bắt kịp được và hoà mình vào dòng chảy đó.Sau 3 năm gia nhập WTO,
chúng ta có dịp nhìn lại và phân tích , đánh giá thực trạng ngành dệt may của đất
nước, nhằm tìm ra phương hướng và giải pháp thúc đẩy tốc độ phát triển cho
ngành. Do vậy, em chọn đề tài nghiên cưú “ngành dệt may Việt Nam sau 3 năm
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO” với mong muốn phần nào có thể
giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể hiểu thêm vai trò quan trọng trong
việc thích nghi với các quy tắc của tổ chức WTO; đồng thời mạnh dạn đưa ra một
số phương án giải quyết các vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh đó giúp các cá nhân, tổ
chức có cái nhìn toàn cảnh về thực trạng ngành dệt may Việt Nam, từ đó có những
chiến lược phát triển phù hợp, góp phần tạo dựng uy tín và vị thế của ngành trên
trường quốc tế. Đề hoàn thành đề án, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của
giảng viên PGS.TS Nguyễn Thị Xuân Hương. Đây là bài viết với vấn đề tương đối
rộng nên không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô.
Kết cấu của đề tài gồm 2 phần:
Chương1:Cơ sở lý luận chung về tổ chức WTO và ảnh hưởng của các hiệp
định thương mại trong khuôn khổ WTO đến ngành dệt may Việt Nam
Chương2: Thực trạng ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO
II.NỘI DUNG

*CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỆT MAY TRONG ĐIỀU
KIỆN VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI WTO
1.1.Dệt may và đặc đỉêm của ngành dệt may
Ngành công nghiệp dệt may là một ngành sử dụng nhiều lao động đơn giản,
vốn đầu tư ban đầu không lớn ,nhưng có tỉ lệ lãi khá cao, chính vì vậy sản xuất dệt
may thường phát triển mạnh và có hiệu quả ở các nước đang phát triển. Sản xuất
ngành dệt may có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến sản xúât và buôn bán quốc tế,
trong lịch sử của nền mậu dịch thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong
những sản phẩm đầu tiên tham gia vào thị trường, nó có những đặc điểm chủ yếu
sau:
♦ Sản phẩm dệt may có nhu cầu rất phong phú, đa dạng tuỳ theo đối tượng tiêu
dùng, người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khác
nhau về khu vực địa lý, tuổi tác… sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục.
♦ Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu
mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng tâm lý đổi mới, độc đáo và gây ấn
tượng của người tiêu dùng.
♦ Nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm, người tiêu
dùng thường căn cứ vào nhãn mác để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tên tuổi của
các hãng nổi tiếng trên thế giới đều gắn liền với mỗi nhãn mác sản phẩm.
♦ Tập quán và thói quen tiêu dùng là một yếu tố quyết định nguyên liệu và
chủng loại sản phẩm, yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ tới thời cơ bán hàng. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nhà xuất khẩu trong vấn đề giao
hàng có thời hạn.
♦ Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ.
Trước đây có hiệp định về hàng may mặc, việc buôn bán các sản phẩm dệt may
được điều chỉnh theo những thể chế thương mại đặc biệt mà nhờ đó, phần lớn các
nước nhập khẩu thiết bị hạn chế số lượng để hạn chế hàng dệt may nhập khẩu. Mặt
khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với những hàng
hoá công nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nước nhập khẩu còn đề ra những điều

kiện đối với hàng dệt may nhập khẩu. Tất cả những hàng rào đó ảnh hưởng rất
nhiều đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới trong thời gian qua.
Ở Việt Nam, dệt may cũng là một trong những ngành được chú trọng phát triển
khi Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với những ưu thế về nguồn
nhân công dồi dào, lượng vốn đầu tư không lớn, khả năng thu hồi vốn nhanh, Việt
Nam có thể đẩy mạnh hoạt động của ngành dệt may để vừa thu về giá trị xuất khẩu
lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vừa giải quyết được việc làm
cho phần lớn người lao động. Ngành dệt may Việt Nam hiện nay có vị trí quan
trọng trong sự phát triển của công nghiệp và kinh tế- xã hội của đất nước, là thước
đo hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế. Với nhiều thương hiệu mạnh, kỹ thuật sản
xuất được nâng cao, sản phẩm xuất khẩu ngày càng nhiều, dệt may Việt Nam đang
ngày càng khẳng định vị thế của mình trong ngành dệt may khu vực và thế giới.

1.2.Quy định của WTO ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành dệt may Việt
Nam
1.2.1.Giới thiệu khái quát về tổ chức thương mại thế giới – WTO
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organisation), gọi tắt là WTO, có
tiền thân là GATT (Hiệp định chung về thương mại). tại vòng đàm phán của GATT
tại Uruguay vào tháng 04/1994 các nước tham gia đã nhất trí thông qua “Hiệp định
thành lập WTO”, chọn đặt trụ sở tại Geneva (Thụy Sĩ). Bản Hiệp định này có nội
dung chung bao gồm: 1 lời nói đầu, 16 chương và 6 phụ lục.
WTO là tổ chức thương mại quốc tế đầu tiên đưa ra các luật lệ và qui tắc
mậu dịch điều chỉnh quan hệ giữa các nước trên qui mô rộng rãi toàn cầu, kể cả các
qui định về giám sát và giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước.Khi trở
thành thành viên chính thức của tổ chức này, các quốc gia được hưởng các quyền
lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ sau:
1.2.1.1.Các quyền lợi của các thành viên WTO
o Được hưởng chế độ tối huệ quốc (MFN) của các nước: Các bên tham gia
phải đối xử đối với các hàng hóa xuất khẩu của các nước thành viên theo nguyên
tắc không phân biệt đối xử.

o Được bảo đảm và ổn định cho việc xâm nhập các thị trường của các nước
thành viên vì hàng xuất khẩu được hưởng thuế suất giới hạn.
o Được đảm bảo bằng bộ máy điều hành của WTO và nguyên tắc các nước
thành viên cùng tích cực trao đổi, đàm phán về vấn đề thương mại để giải quyết các
tranh chấp thương mại giữa các thành viên và tìm giải pháp vượt qua các khó khăn.
o Sử dụng tích cực vai trò của WTO như là diễn đàn cho các cuộc thương
thuyết đa phương hay song phương trong các vấn đề thương mại.
o Được WTO giúp đở về kỷ thuật , thông tin và đào tạo.
1.2.1.2.Nghĩa vụ của các nước thành viên WTO:
o Phải tuân thủ các nguyên tắc đã thỏa thuận chung và không còn được tự do
lựa chọn chính sách thương mại riêng biệt.
o Phải dành cho các nước thành viên khác chế độ tối huệ quốc (MFN) bằng
biện pháp cắt giảm đáng kể thuế nhập khẩu, chỉ bảo vệ nền công nghiệp nội địa
bằng các biện pháp thương mại khác như hạn ngạch, trợ cấp, ưu đãi riêng , v.v…
o Phải tuân thủ thể chế điều hòa các tranh chấp thương mại trong Hiệp định
về qui chế của WTO, không được kế hoạch hóa lưu thông hàng hóa giữa hai bên để
dành lại ưu thế cho riêng một nước nào đó.
o Phải cung cấp thường xuyên , đầy đủ các thông tin về cơ cấu quản lý kinh
tế quốc gia, chính sách ngoại thương và cả hệ thống thuế quan.
1.2.2.Quy định của WTO ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành dệt may
Việt Nam
1.2.2.1 Hiệp định tổng quan về thuế quan và thương mại (1994)
Một số hiệp định của WTO có thể điều chỉnh hoạt động của ngành may mặc.
Thứ nhất, Hiệp định Tổng quan về Thuế quan và Thương mại (1994) được ký kết
vào năm 1994 có những quy định chung về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia
đối với hoạt động trao đổi hàng hóa, trong đó có hàng dệt may. Theo đó, hàng dệt
may xuất khẩu của thành viên WTO vào một nước thành viên khác sẽ nhận được
những đối xử tốt nhất (chẳng hạn, về thuế nhập khẩu) mà nước thành viên ấy dành
cho các thành viên WTO.
1.2.2.2. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại

Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại cũng có thể ảnh hưởng
đến hoạt động của ngành dệt may. Với mục tiêu nhằm bảo đảm các quy định, tiêu
chuẩn, thủ tục kiểm định và chứng nhận không tạo ra những trở ngại không cần
thiết đối với thương mại, rõ ràng, Hiệp định này có thể ảnh hưởng đến việc vận
dụng các hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế nhập khẩu hàng dệt may ở các nước
thành viên.
Trong những năm gần đây, các quốc gia thành viên đã áp dụng rất nhiều quy
định và tiêu chuẩn kỹ thuật, với lý do nhằm bảo đảm cho hàng hóa đủ chất lượng
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân bản xứ - vốn có mức sống cao hơn -
hoặc nhằm khuyến khích các xã hội hiện đại sử dụng các hàng hóa thân thiện với
môi trường. Tuy vậy, những lý do này thường được sử dụng để bào chữa cho
những rào cản kỹ thuật có tác động bóp méo quá mức cần thiết. Bản thân việc đáp
ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của nước ngoài cũng gây ra những khoản chi phí không
nhỏ cho các nhà sản xuất và xuất khẩu, và làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng
xuất khẩu.
1.2.2.3. Các quy định về xuất xứ của hàng hóa
Các quy định về xuất xứ của hàng hóa cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng
thâm nhập thị trường của các sản phẩm dệt may. Các quy định này liên quan đến
các tiêu chí được sử dụng nhằm xác định xem sản phẩm được sản xuất ở đâu. Đây
là một phần quan trọng trong quy định thương mại vì nhiều chính sách có phân biệt
giữa các nước xuất khẩu (liên quan đến hạn ngạch, thuế suất ưu đãi, chống bán phá
giá, v.v.), trong khi quá trình toàn cầu hóa đang khiến các sản phẩm được sản xuất
qua các công đoạn ở nhiều nước khác nhau trước khi đến với người tiêu dùng cuối
cùng.
Theo Hiệp định về Quy định xuất xứ, các thành viên WTO phải bảo đảm các
quy định xuất xứ được ban hành và thực thi một cách minh bạch, mà không có tác
dụng hạn chế, bóp méo, hay gián đoạn đối với thương mại quốc tế, và được quản lý
một cách thống nhất, đầy đủ, và hợp lý. Về dài hạn, Hiệp định hướng tới sự hài hòa
hóa các quy định về xuất xứ của các nước thành viên WTO, ngoại trừ các quy định
trong một số hiệp định ưu đãi thương mại (như hiệp định thương mại tự do). Tất cả

các quốc gia đều thừa nhận rằng việc hài hòa hóa các quy định này sẽ góp phần
thúc đẩy thương mại quốc tế. Các quy định về xuất xứ được sử dụng nhằm: thực
hiện các biện pháp và công cụ chính sách thương mại như thuế chống bán phá giá,
các biện pháp tự vệ, v.v.; xác định xem liệu sản phẩm nhập khẩu sẽ nhận được ưu
đãi tối huệ quốc hay chỉ là ưu đãi thương mại; thống kê thương mại; vận dụng các
quy định về nhãn mác; và phục vụ cho mua sắm chính phủ. Tuy vậy, các quy định
này cũng có thể được vận dụng thiếu hợp lý với mục đích bảo hộ. Chính vì vậy,
Hiệp định về xuất xứ hàng hóa có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may.

1.2.2..4. Định giá hải quan
Định giá hải quan cũng là một vấn đề cần được tính đến. Định giá hải quan
là một thủ tục hải quan được thực hiện nhằm xác định giá trị hải quan của hàng
nhập khẩu. Đối với các đơn vị nhập khẩu, quá trình này có ý nghĩa quan trọng như
là mức thuế được áp dụng, vì nếu mức thuế được tính theo tỷ lệ % của giá trị hải
quan, giá trị hải quan cũng ảnh hưởng đến mức thuế phải chịu đối với hàng nhập
khẩu. Hiệp định về định giá hải quan trong khung khổ WTO hướng tới một hệ
thống định giá hàng hóa cho mục đích hải quan được thực hiện một cách công
bằng, đồng nhất, và trung tính. Kể từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, Hiệp
định này đã được thay thế bằng Hiệp định về thực thi Điều VII của GATT 1994, và
chỉ áp dụng đối với quá trình định giá hàng nhập khẩu để áp dụng mức thuế nhập
khẩu theo tỷ lệ %.
Theo đó, định giá hải quan chủ yếu dựa trên giá hàng hóa thực trả - thường
được thể hiện trên hóa đơn - có thực hiện một số điều chỉnh được nêu trong Điều
VIII. 6 phương pháp định giá được sử dụng là: (1) giá trị giao dịch; (2) giá trị giao
dịch của hàng hóa giống hệt; (3) giá trị giao dịch của hàng hóa tương tự; (4)
phương pháp trừ (deduction); (5) phương pháp tính toán (computed method); (6)
phương pháp dự phòng (fall back method).
Hiện tại các Doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng
gia công là chủ yếu, vì vậy các DN chưa thấy rõ được sự ảnh hưởng của Hiệp định
này. Tuy nhiên các DN đang phấn đấu tăng dần tỷ lệ đơn hàng theo phương thức

FOB, do vậy việc hiểu biết Hiệp định này là một việc cần thiết để các DN chủ động
sử dụng được lợi thế của phương pháp định giá này tăng tính cạnh tranh của sản
phẩm may mặc Việt Nam khi hội nhập thế giới.
1.2.2.5.Quy định về việc bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may
Một hiệp định khác có thể ảnh hưởng đến ngành dệt may khi gia nhập
WTO là quy định về việc bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may, sau
khi Hiệp định về Dệt May (ATC) chấm dứt vào cuối năm 2004. Trước đây, trong
giai đoạn 1974-1994, theo Hiệp định về thỏa thuận đa sợi (MFA), hạn ngạch nhập
khẩu hàng dệt may được đàm phán song phương giữa các thành viên WTO, qua đó
cho phép nhập khẩu hàng dệt may không chịu điều chỉnh hoàn toàn của GATT.
Trong giai đoạn 1995-2004, Hiệp định ATC được thực hiện với vai trò là một công
cụ chuyển đổi, giúp đưa các sản phẩm dệt may trở lại quy trình tự do hóa theo
GATT 1994. Kể từ 01/01/2005, hàng dệt may xuất khẩu từ một nước thành viên
WTO sang một nước thành viên khác sẽ không còn chịu hạn ngạch nữa. Như vậy,
với việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ không còn gặp phải vấn đề hạn ngạch khi
xuất khẩu hàng dệt may nữa. Điều này giúp Việt Nam có nền tảng cạnh tranh công
bằng hơn, ít nhất là về mặt pháp lý, với các nước sản xuất hàng dệt may khác như
Ấn Độ, Băng-la-đét, Trung Quốc, v.v.
1.3.Những cơ hội và thách thức với dệt may Việt Nam sau khi Việt Nam là
thành viên của WTO
Gia nhập WTO từ ngày 11/01/2007, Việt Nam có điều kiện hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất
khẩu do các rào cản thương mại như hạn ngạch dệt may vào Hoa Kỳ đã được dỡ
bỏ. Nhưng đổi lại, Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế và các
hàng rào bảo hộ khác (Riêng thuế nhập khẩu hàng dệt may đã giảm khoảng 2/3, cụ
thể hàng may mặc từ 50% giảm xuống còn 20%, vải từ 40% xuống 12%, sợi xuống
còn 5%) c ụ thể là:
1.3.1.Những cơ hội dành cho ngành dệt may Việt Nam
Sau khi gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam sẽ nhận được những đối xử
tương tự như các nước thành viên WTO khác dành cho nhau.

Thứ nhất, hàng dệt may của Việt Nam khi xuất khẩu vào một nước thành
viên WTO sẽ nhận được đối xử tối huệ quốc mà nước thành viên ấy dành cho các
thành viên WTO khác. Điều này có nghĩa là về số lượng xuất khẩu: Hạn ngạch vào
các thị trường được dỡ bỏ, doanh nghiệp dệt may có thể tự do xuất khẩu theo nhu
cầu thị trường;
Thứ hai, khi đã thâm nhập được thị trường một nước thành viên WTO, hàng
dệt may của Việt Nam sẽ không còn bị phân biệt với sản phẩm bản xứ nữa mà thay
vào đó sẽ được đối xử bình đẳng về thuế, phí, lệ phí, các qui định liên quan đến
việc bán hàng, cạnh tranh...
Thứ ba, khi gặp tranh chấp thương mại, hàng dệt may của Việt Nam có thể
nhận được bảo vệ từ cơ chế xử lý tranh chấp trong khung khổ WTO.
Thứ tư, trong những trường hợp khó khăn, ngành dệt may Việt Nam có thể
nhận được bảo hộ tạm thời từ cơ chế tự vệ.
Thứ năm, sau khi gia nhập WTO, hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam sẽ
không còn chịu hạn ngạch khi xuất khẩu vào các nước thành viên khác nữa.
Thứ sáu, ngành dệt may Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ đầu tư nước
ngoài, đi kèm với trình độ quản lý và kỹ thuật công nghệ mới.
Cuối cùng, việc trở thành thành viên WTO cho thấy những nỗ lực cải cách
và phát triển kinh tế của Việt Nam đã được quốc tế công nhận, và đây là cơ sở để
Việt Nam tham gia đàm phán và thực thi các cam kết tự do hóa thương mại ngày
một sâu rộng hơn.
Như đã trình bày ở trên, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã tham ký
kết các hiệp định khác như VJCEP, AANZFTA, AJCEP. Chính những hiệp định
này cho thấy doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể sẽ nhận được tiếp cận thị
trường tốt hơn.
1.3.2.Những thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam
Cái được lớn nhất của ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO là thị
trường xuất khẩu, nhưng ngược lại, các doanh nghiệp cũng sẽ phải chia sẻ thị
trường nội địa cho các đối thủ nước ngoài. Có thể nói sự kiện Việt Nam đạt được
thỏa thuận với Mỹ về việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mở ra hy

vọng gia tăng xuất khẩu cho các doanh nghiệp dệt may. Tuy nhiên, điều đó không
có nghĩa tương lai chỉ toàn màu hồng.một số khó khăn mà các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam phải đối mặt khi gia nhập WTO.
1.3.2.1.Sức ép cạnh tranh về nguồn lao động :
Đầu tiên, chúng ta phải kể đến nguồn lao động trong nước bị chia sẻ, giá lao
động sẽ tăng lên, cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng gay gắt hơn. Do yêu
cầu về lao động của ngành Dệt May tăng rất nhanh nên khả năng đáp ứng của cơ sở
đào tạo không theo kịp. Dẫn đến tình trạng tranh giành lao động giữa các doanh
nghiệp trong ngành tăng lên đã đến mức báo động.Vậy vấn đề khó khăn của các
doanh nghiệp dệt may về thu hút lao động có tay nghề cao sẽ càng khó khăn hơn do
tự do giữa các nước sẽ làm lao động có tay nghề cao dịch chuyển dần sang các
nước có thu nhập cao hơn. Mặt khác, các lao động chưa có tay nghề cao thì cần có
được sự đào tạo.
Một ví dụ điển hình : Tại TP. HCM hiện nay, dù có mực lương bình quân 1,5
triệu đồng/tháng nhưng nghề may vẫn không hấp dẫn lao động. Công ty cổ phần
may Sài Gòn 2 xuất khẩu chủ lực vào thị trường Hoa Kỳ với sản phẩm vest nữ, mặt
hàng không nằm trong danh mục giám sát của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, đang có
nhiều thuận lợi khi được các nhà nhập khẩu đề nghị nâng sản lượng xuất khẩu từ
80.000 bộ/tháng hiện nay lên 100.000-120.000 bộ/tháng, nhưng cũng đang gặp khó
khăn vì thiếu nguồn lao động ( hiện đang thiếu khoảng 2000 lao động để lấp đầy 40
chuyền may tại nhà máy số 1 ở huyện Củ Chi ).
1.3.2.2.Hàng rào kĩ thuật :
Ngay trong ngày chúng ta vui mừng Việt Nam chính thức gia nhập WTO,
Hoa Kỳ đã đưa ra cơ chế giám sát hàng dệt may xuất khẩu từ Việt Nam trong các
cam kết gia nhập WTO của nước ta. ( Theo Hiệp hội dệt may thêu đan TP. HCM )
Điều nay đã gây ra 1 khó khăn lớn trong kỹ thuật cho nước ta từ ngay khi gia
nhập WTO. Không chỉ riêng có Mỹ đưa ra những rào cản kỹ thuật đối với ngành
Dệt may VN, mà hầu hết các nước có hàng VN nhập khẩu đều đưa ra những rào
cản kỹ thuật, khiến dệt may VN phải đối đầu với nhiều thách thức. Ví dụ như với
thị trường Nhật Bản (đứng sau thị trường Mỹ và EU), rào cản kỹ thuật là việc yêu

cầu các sản phẩm phải có chứng chỉ sạch và thân thiện với môi trường.Ngành Dệt
may VN đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật mới trong việc bảo vệ
môi trường cho người tiêu dùng Mỹ, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Theo đạo luật
này, các lô hàng XK vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3 xác nhận sản
phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Nhà sản xuất sẽ
phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Theo rào
cản kỹ thuật này, VN phải có 1 phòng thí nghiệm hiện đại đủ tiêu chuẩn để được
phía Mỹ công nhận và cấp giấy chứng nhận.
Áp lực này khiến ngành Dệt may phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn sản
phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời đầu tư
nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật.
Được biết, theo Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May thống kê, phần lớn các thiết bị
nghiên cứu, thử nghiệm chất lượng hàng dệt may được đầu tư từ những năm 90,
nay đã cũ và lạc hậu.
Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt-may VN cho biết: “Ngành Dệt
may đang phải quan tâm đến việc bảo vệ môi trường nơi sản xuất, xây dựng thêm
các khu công nghiệp dệt nhuộm có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn tại một
số địa phương như Thái Bình, Nghệ An, Trà Vinh… Ðồng thời xây dựng phòng thí
nghiệm sinh thái tại Viện dệt may, làm cơ sở cấp chứng chỉ an toàn cho hàng xuất
khẩu và kiểm tra các loại hàng hóa, bảo đảm an toàn cho người sử dụng tại Việt
Nam cũng như tại các thị trường nhập khẩu. Ngoài ra là việc xây dựng và quản lý
các tiêu chuẩn an toàn sản phẩm và các hàng rào kỹ thuật cần thiết, nhằm bảo vệ
người tiêu dùng và thị trường trong nước “.
1.3.2.3.Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư nhiều vào ngành dệt may nước
ta tạo nên áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam :
Như đã nói ở phần 1 và phần 2 : nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc
thu hút lao động và các hàng rào về kĩ thuật do các nước nhập khẩu đặt ra. Khi gia
nhập WTO, mở cửa thị trường, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
và được đối xử ưu đãi như các doanh nghiệp trong nước. Như vậy, dệt may nước ta

sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài cả về vốn, thu hút nguồn lao
động và cả kĩ thuật quản lí, công nghệ sản xuất tiên tiến.
1.3.2.4. Chưa chủ động được nguyên phụ liệu dệt may :

Bảng 1 thể hiện cân đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đọan
2005-2020. Ta thấy nhu cầu sử dụng cũng như năng lực sản xuất bông, sợi nhân
tạo, vải, chỉ và filamen đều tăng lên qua các giai đoạn( năng lực sản xuất bông; chỉ
và filamen;vải; năm 2010 lần lượt tăng lên 55%; 74,29%;61,8% so với năm 2005).
Bảng 1 : Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai
đoạn 2005-2010
Mặt hàng Đơn vị
2005 2010 2020
Năng
lực
Nhu
cầu
Nhập
khẩu
Năng
lực
Nhu
cầu
Nhập
khẩu
Năng
lực
Nhu
cầu
Nhập
khẩu

Bông
1000
tấn
11 165 154 20 255 235 60 430 370
Sợi nhân
tạo
1000
tấn
140 140 260 220 600 370
Chỉ và
filamen
1000
tấn
260 510 250 350 790 440 650 1.350 700
Vải
Triệu
m2
618 2.280 1.662 1.000 3.525 2.525 2.000 5.950 3.950
Tuy nhiên, xét trên tổng nhu cầu sử dụng các nguyên phụ liệu trên thì năng lực
sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước , còn phải nhập khẩu
từ nước ngoài với số lượng lớn thể hiện qua các số liệu ở bảng tính dưới đây:
2005 2010
Mặt hàng
Năng
lực
Nhu
cầu
Nhập
khẩu
Năng

lực Nhu cầu
Nhập
khẩu
Bông 6.67% 100% 93.38% 7.84% 100% 92.16%
Sợi nhân
tạo 100% 100% 118.18% 100%
Chỉ và
filamen 50.98% 100% 49.02% 44.30% 100% 55.70%
Vải 27.11% 100% 72.89% 28.37% 100% 71.63%
Hiện nay, khó khăn và cũng là áp lực lớn nhất của ngành Dệt may là chưa tạo
được nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Nguyên liệu phục vụ cho ngành Dệt may
được nhập khẩu tới 90% ( thống kê vào năm 2007 ) và % ( vào năm 2009 ). Mục
tiêu chiến lược của ngành Dệt may đặt ra đến năm 2010 là phải đạt sản lượng
20.000 tấn bông xơ, năm 2015 đạt 40.000 tấn. Tuy nhiên hiện nay, diện tích trồng
bông tại VN lại trông không đồng đều, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên (42%),
vùng duyên hải miền Trung (33%), miền Bắc (20%) và Đông Nam bộ (5%). Theo
thống kê cho thấy trong niên vụ 2007-2008 diện tích trồng bông trên cả nước là
7.446ha cho sản lượng 2.709 tấn, đến niên vụ 2008-2009 diện tích trồng bông
giảm mạnh còn dưới 3.000 ha. Ngành dệt may đã khuyến khích và quy hoạch tăng
thêm diện tích trồng bông. Theo kết hoạch niên vụ 2009-2010 ước đạt khoảng
10.000 nghìn tấn. Tuy vậy con số này vẫn còn xa với mục tiêu 20.000 tấn ngành đã
đặt ra.
Bảng 2 : Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008
Đơn vị tính: Triệu USD
Nhập khẩu
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Bông 105.4 190.2 167.21 219.0 268 468
Sợi 317.5 338.8 339.59 544.6 744 788
Vải các loại 1.805,4 1.926,7 2.398,96 2.984,0 3.980 4.454
Nguyên phụ liệu

máy móc, phụ
tùng
1.825,9 1.724,3 1.774,2 1.952,0 2.152 2.376
Cộng nhập (chưa
kể hóa chất thuốc
nhuộm)
4.054,2 4.180,0 4.679,96 5.699,6 7.144 8.086
Kim ngạch xuất
khẩu
3.609,1 4.385,6 4.838,4 5.834,0 7.794 9.082
Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may
Mặc dù ngành Dệt may đã có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu và có
chính sách hỗ trợ giá cho nông dân, nhưng vấn đề giá còn rất nan giải. Nếu giá thấp
hơn so với các cây trồng khác sẽ khó khuyến khích được nông dân tham gia trồng
bông, và mục tiêu 1 tỷ mét vải vào năm 2010 sẽ còn gặp nhiều khó khăn và thách
thức. Và như vậy, thách thức tiếp theo của ngành Dệt may là phải làm thế nào tạo
được vùng nguyên liệu ổn định, không bị phụ thuộc vào nước ngoài như hiện nay.
1.3.2.5.Các chính sách bảo hộ, trợ cấp của chính phủ bị dỡ bỏ :
Thứ nhất, hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn. Nếu như hiện nay,
thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%,
thuế nhập khẩu sợi là 20% thì khi vào WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện đúng cam
kết theo Hiệp định Dệt may (với mức giảm thuế lớn, ví dụ thuế suất đối với vải
giảm từ 40% xuống 12%, quần áo may sẵn giảm từ 50% xuống 20% và sợi giảm từ
2% xuống 5%). Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta vì lúc nước sẽ phải
cạnh tranh với vải Trung Quốc nhập khẩu.
Thứ hai, nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ ở các thị
trường xuất khẩu lớn hơn.
Thứ ba, với cam kết xóa bỏ các hình thức trợ cấp không được phép, ngành
dệt may không còn được hưởng một số loại hỗ trợ như trước đây như các hình thức
hỗ trợ XK và thưởng XK từ Quỹ hỗ trợ XK; các biện pháp miễn giảm thuế hoặc

tiền thuê đất gắn với điều kiện XK; các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển...
Bảng 3: Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2015 2020
Dệt may 124,7134,0634,7435,2835,6133,31 28,59
Sợi 4,00 -4,97 -4,46 -4,06 -3,81 -3,10 -2,66
Quần áo 135,7058,0258,4457,7257,4858,26 57,83
Thảm dệt 56,00 25,0225,2225,3825,4719,81 20,32
Sản phẩm thêu ren (ngoại trừ
thảm)
62,33 17,4417,6917,9018,0516,03 16,31
Các cam kết giảm thuế đối với hàng dệt may nhập khẩu sẽ làm giảm mức độ
bảo hộ đối với ngành dệt may. Bảng 3 thể hiện ước tính mức độ bảo hộ thực tế -
mức tăng giá trị gia tăng của ngành trong trường hợp có bảo hộ so với trường hợp
không có bảo hộ - của các ngành dệt may. Theo đó, mức độ bảo hộ thực tế của các
ngành dệt may sẽ tăng nhẹ trong giai đoạn 2008-2010, trước khi giảm liên tục trong
các năm tiếp theo cho đến 2020. Mức độ bảo hộ thực tế đối với các sản phẩm quần
áo được duy trì khá ổn định kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đối với thảm
dệt và các sản phẩm thêu ren, tỷ lệ bảo hộ thực tế chỉ tăng nhẹ trong giai đoạn
2007-2010, trước khi giảm xuống trong giai đoạn 2015-2020. Riêng sản phẩm sợi
còn không nhận được bảo hộ từ hàng rào thuế quan, thể hiện qua tỷ lệ bảo hộ nhỏ
hơn 0 trong giai đoạn 2007-2020.

×