Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

LUẬN VĂN: Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 124 trang )

LUẬN VĂN:

Hoạt động tự quản của cộng đồng
dân cư trong việc thực thi quyền lực
nhà nước ở cơ sở


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong dịng chảy phát triển của lịch sử có một lực lượng to lớn để làm nên sức
mạnh và niềm tự hào của dân tộc. Đó chính là nhân dân. Những nhà tư tưởng lớn của dân
tộc đã từng có những tổng kết: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “dân vi
quý, xã tắc thứ chi”... Dân chính là chủ thể của dân tộc, tự đứng lên bằng chính sức mạnh
nội sinh, tình đồn kết, lịng nồng nàn u nước để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Cuộc
kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ chính là cuộc kháng chiến thần thánh,
như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, đó là cuộc “chiến tranh nhân dân”, bởi nó được
gột lên từ chính sự cố kết của cộng đồng, ý thức tự giác của mỗi một người dân, niềm tin
vào chính nghĩa, vào ngày mai thắng lợi.
Ngày nay đất nước đã sang một trang mới, công cuộc đổi mới bước đầu đã giành
được những thành tựu đáng kể, chủ thể tiên phong trong cơng cuộc đổi mới chính là nhân
dân, bài học xuyên suốt các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X mà Đảng ta quán triệt khi
lãnh đạo đất nước đó chính là “lấy dân làm gốc”, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền,
của dân, do dân, vì dân, các mặt trận đồn thể đều trên cơ sở tập hợp rộng rãi quần chúng
nhân dân. Trên bình diện lý luận và thực tiễn đều có sự xuất hiện của nhân dân với tư
cách là chủ thể của xã hội. Mặt khác ta cũng thấy rằng, xã hội càng phát triển thì đi kèm
theo nó là những nguy cơ, các nguy cơ không hề được dập tắt mà trái lại nó lại được nhân
lên trong những điều kiện mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định:
đất nước ta đối diện với những “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được


khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây
bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta” [19, tr.22]. Đối diện và chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ những nguy
cơ này chính là những người dân, đặc biệt là những người dân ở cơ sở - cộng đồng dân cư -


người dân ở đây tồn tại cùng chiều dài của lịch sử dân tộc, nơi nẩy sinh các mối quan hệ xã
hội vững bền của dân tộc.
Ngày nay cùng sự đi lên của đất nước thì cộng đồng dân cư chính là nhân tố để
kiến tạo nên một xã hội mới. Nhưng chính trong điều kiện hiện nay, lại đặt ra vấn đề
là làm sao phát huy được hiệu quả của cộng đồng dân cư, đặt nó trong yêu cầu cần
được tự giác cao. Có một chủ thể nhận biết và phát huy được giá trị của cộng đồng
dân cư một cách trực tiếp nhất là chính quyền cơ sở, là vai trò quản lý, chỉ đạo của
nhà nước bằng pháp luật, bằng các chính sách, quy định hiện hành nhưng vấn đề là
phát huy tính hiệu quả của nó tới mỗi một người dân, “bàn tay dài” của Nhà nước có
với tới dân cư ở cơ sở khơng, người dân miền xi cũng như miền ngược có được ấm
no, sung túc khơng, có bị đe doạ hay bị bóc tách tại cộng đồng mà mình đang sinh
sống khơng? Vấn đề khơng phải là khơng có chính quyền, khơng có pháp luật, khơng
có chính sách, nhưng vấn đề là án lệnh khơng được thực thi, chính sách khơng được
chấp hành. Ở đây, chính là mối quan hệ giữa chủ trương và hiệu quả, giữa quản lý của
chính quyền và tự quản của cộng đồng dân cư; những kết quả mà mỗi cá nhân cần
thực hiện, khơng có gì tốt bằng tự thân chủ thể hành động, phát huy sức mạnh nội tại
và một bên là sự quản lý của chính quyền cơ sở, cần tránh hai thái cực: buông lỏng
quản lý hay o ép hoạt động chủ động tích cực của cộng đồng. Vậy ở đây đặt ra vấn đề
thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở.
Có một nhân tố tác động sâu sắc đến cộng đồng dân cư cơ sở, đó chính là cơ
chế thị trường. Một mặt thị trường là sản phẩm tiến bộ của nhân loại nhưng mặt khác
cơ chế của nó tác động rất khốc liệt, song hành với nó thì người dân phải đối mặt với
cơm, áo, gạo, tiền, xăng dầu, lửa điện. Người nơng dân sau một đêm tỉnh dậy thấy
mình khơng cịn là chính mình nữa, nguy cơ về tương lai sẽ ra sao khi ruộng đất

khơng cịn, nguy cơ của sản phẩm làm ra bị tư thương ép giá, tương lai con cái học
hành như thế nào với mức học phí quá cao tại một trường học nào đó. Chúng ta vẫn
nói đến dân chủ tức dân là chủ và dân làm chủ; nhưng thực tế có như vậy khơng?
Cộng đồng dân cư chính là nơi chứa đựng những hậu quả của việc quyền lực nhà
nước, quyền lực của dân, quyền lực của luật pháp, của những cá nhân được uỷ quyền
nhưng khơng được kiểm sốt chặt chẽ. Tại chính những cơ sở, một số cán bộ tự xem


mình là “quan cơ sở” lợi dụng quyền lực cá nhân để trục lợi, đục khoét của dân, trong
sớm chiều trở thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Vậy nên các chính sách, pháp
luật về đến cộng đồng dân cư khơng được chấp hành hoặc bị méo mó, xun tạc. Đơn
thư tố giác của người dân từ các cơ sở cộng đồng cứ gửi lên chồng chất mà không
được giải quyết kịp thời. Tất cả những điều này đang giằng xé lấy đời sống thực tiễn
của người dân; cái quyền lực của đa số, của một xã hội công dân sẽ được thể hiện và
phát huy như thế nào? Cộng đồng dân cư phải làm gì để tự bảo vệ mình, khơng có một
liều thuốc vắcxin để phịng ngừa hữu hiệu hết cho các loại bệnh. Phải chăng người
dân tại các cộng đồng cần chủ động đề xuất, chủ động tổ chức, chủ động kết nối, chủ
động thực hiện, chủ động kiểm tra, giám sát....Tựu trung lại đó chính là tính tự quản
của cộng đồng dân cư ở tại chính quyền cơ sở.
Chính quyền cơ sở- nơi được xem là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị nhưng
lại chịu sự chi phối trực tiếp nhất trong việc thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật
của nhà nước, nơi mà người dân được phát huy quyền làm chủ của mình với nhiều vấn đề
thực tế nhất.
Đại hội X của Đảng xác định: “Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân
dân có vai trị quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào
dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới,
từng bước tìm ra quy luật phát triển là chìa khố của thành cơng” [19, tr.71]. Để thực
hiện được điều đó thì một vấn đề quan trọng là chúng ta cần phải nâng cao vai trò chủ
động của cộng đồng dân cư như một lăng kính phản ngược lại để chứng minh cho tính
hiệu quả trong quản lý của nhà nước tại cơ sở.

Thực tiễn cấp bách như thế bởi nó liên quan đến vận mệnh của người dân, của
những nhu cầu thiết yếu của một xã hội công dân sinh động tại các cộng đồng dân cư cơ
sở, nhưng lý luận để soi đường, để hướng dẫn, để tổ chức, để lý giải một cách sâu sắc có
tính hệ thống thì đơi lúc lại chậm hơn một bước, nếu khơng nói đó là sự tụt hậu của lý
luận trong vấn đề này. Ở nước ta, thực tiễn đặt ra cho tính tự quản của cộng đồng dân cư
khơng phải là mới, nó xuất hiện ở miền bắc từ đầu những năm 60, khi tính tự quản của
cộng đồng đánh giặc giữ nước chuyển sang tính cộng đồng của xây dựng quê hương,
nhưng để phát huy tính tự quản của người dân tại các cộng đồng dân cư dưới sự bảo hộ


của nhà nước thì lại là một quá trình đề xuất của người dân. Đến nay, vấn đề này qua các
cơng trình lý luận nghiên cứu vẫn cịn rất ít, có chăng chỉ là những đề xuất giải pháp khi
các tác giả muốn phát huy tính hiệu quả của hệ thống chính trị, của tổ chức cơ sở đảng,
của nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội, của quy chế dân chủ, của hiệu quả thực thi
pháp luật, của vấn đề nơng thơn, nơng nghiệp... Trong khi đó phải nhìn nhận một cách
khách quan rằng, đất nước ta đi từ xã hội phong kiến thuần nông, với hơn 70% dân số
làm nghề nông, cả một xã hội rộng lớn nằm ở đây, xoay xung quanh nó là một hỗn hợp
những vấn đề, những nội dung đan xen và khơng đan xen, chính đáng và khơng chính
đáng, hình thức hay thực quyền đều hiển hiện ở đây. Trên thế giới, nghiên cứu vấn đề này
với tính cách là xã hội dân sự, còn ở nước ta vấn đề này mới được đặt ra và chưa được
giải quyết thấu đáo, đặc biệt là triển khai và áp dụng lý thuyết này phù hợp với điều kiện
đặc thù của Việt Nam. Và trong thực tiễn thì các nước như cộng hồ liên bang Đức,
Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Hàn Quốc đều đã triển khai mạnh mẽ giao quyền tự quản cho
cộng đồng dân cư như một phương cách hữu hiệu nhất cho việc làm chủ của người dân
và thực sự đã thành một đối trọng tạo cân bằng quyền lực trong xã hội. Vì vậy chúng ta
cần có một hệ thống lý luận cho vấn đề này xứng tầm với yêu cầu của thực tiễn.
Sở dĩ chọn cộng đồng dân cư xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ an
làm mẫu nghiên cứu, bởi xuất phát nằm trong địa bàn tỉnh Nghệ An là cộng đồng dân cư
trung chuyển các đặc thù của cộng đồng dân cư miền Bắc và miền Nam. Người dân Nghệ
An đơng đúc với nhiều loại hình cộng đồng tiêu biểu như cộng đồng dân cư thuần nông,

cộng đồng dân cư dân tộc, cộng đồng dân cư nông công dịch vụ, cộng đồng dân cư nông
trường... Cộng đồng dân cư Nghệ An luôn tự hào về truyền thống cố kết cộng đồng trong
việc giữ làng, giữ nước, tinh thần sáng tạo, hiếu học của ông đồ xứ Nghệ, ý chí quật
cường của Xơ viết Nghệ tĩnh vv... Ngày nay, hồ cùng khí thế đổi mới của cả nước, dù xa
các trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, nhiều vấn đề thực tiễn bức xúc nổi cộm,
nhiều điều kiện khó khăn, lực cản khách quan và chủ quan, nhưng cộng đồng dân cư
Nghệ An vẫn là một cộng đồng tiêu biểu của cả nước trong việc phát huy sức mạnh nội
sinh, nhằm phát huy tính tự quản của mình mà xã Đồng Văn là một điển hình.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tơi chọn đề tài “Hoạt động tự quản của cộng
đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở”(Qua khảo sát thực tiễn ở


xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) làm luận văn thạc sĩ chun ngành
Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu của tơi các cơng trình nghiên cứu về hoạt động tự quản của cộng
đồng dân cư là không nhiều, đặc biệt là các nhà nghiên cứu chưa đi sâu bàn bạc các nội
dung trọng tâm, các giải pháp cụ thể của nó, để từ đó khái quát lên thành một hệ thống lý
luận đem áp dụng vào thực tiễn. Thường thì các tác giả đã đề cập đến ít nhiều về tính tất
yếu của cộng đồng dân cư trong việc tồn tại và phát triển của nó, về vai trị nên áp dụng
tính tự quản ở cộng đồng cơ sở mang tính chất thuận chiều từ hệ thống chính trị từ trên
xuống chứ chưa thực sự xem nó là một chủ thể thực sự của việc nghiên cứu. Có nhiều tác
giả cũng đã mục sở thị các mơ hình chính quyền địa phương các nước trên thế giới nhưng
vẫn là một lý luận mở, bởi các tác giả cũng chưa nhắc đến việc ứng dụng cụ thể trong
điều kiện Việt Nam, đặc biệt là thực tiễn hiện nay ở các cộng đồng dân cư Việt thì tính tự
quản được thể hiện và phát huy như thế nào. Một số cơng trình khác cũng đã bóc tách
được vấn đề cộng đồng dân cư ra khỏi chính quyền nhưng dụng ý của tác giả cũng là để
phát huy có hiệu quả các chính sách của nhà nước ở cơ sở, đặc biệt là chính sách với cấp
xã. Tuy nhiên khi nghiên cứu về đề tài này thì khơng thể bỏ qua các cơng trình nghiên
cứu sau:

- Đề tài: “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” do TS Nguyễn Văn Sáu làm chủ
nhiệm. Đây là đề tài huy động được đông đảo tập thể các nhà nghiên cứu lý luận giàu
kinh nghiệm, nó đã đáp ứng được phần nào thực tiễn đang đặt ra cho việc đổi mới và
nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở theo tinh thần Nghị quyết trung ương
5 khoá IX. Các tác giả đã cung cấp được khá đầy đủ những cơ sở thực tiễn và lý luận về
cộng đồng làng xã hiện nay như thực trạng và giải pháp xây dựng chính quyền cơ sở, vấn
đề phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ, huy động các nguồn nhân lực và
tài chính từ cộng đồng, vấn đề huy động sức dân, các giải pháp để chống đói nghèo ở
cộng đồng dân cư làng xã. Tác giả lấy thực tế từ các địa phương cơ sở để chứng minh cho
tính đúng đắn của lý luận.
- Đề tài: “Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng ứng dụng cho Việt Nam”
của tác giả Đặng Kim Sơn. Đây là một cách nghiên cứu theo hướng khá mới mẻ và thú


vị. Thơng qua các mơ hình, các hộp dữ liệu ở các nước cũng như của đất nước mình mà
tác giả đã dày công nghiên cứu, mổ xẻ để lý giải về mối quan hệ giữa con người với con
người trong cộng đồng thành một lực lượng ngang hàng với nhà nước và thị trường. Tên gọi
cộng đồng trong sách này để chỉ loại cơ chế quan hệ và xử thế của từng cá nhân hoặc giữa
các nhóm người với nhau theo một số quy luật trong xã hội loài người.
Bằng các dẫn chứng của mình, tác giả đã nêu ra được những mặt tốt đẹp của cơ
chế cộng đồng như lá chắn để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, môi trường phát triển xã hội,
khắc phục được những mặt yếu của cơ chế này như tính cục bộ họ mạc huyết thống, đúng
sai đều dễ lây truyền. Đây cũng chính là một cơ sở để hiểu về cộng đồng dân cư sinh
động, đa dạng và phức tạp.
- Đề tài: “Vai trị của các đồn thể nhân dân trong đảm bảo dân chủ ở cơ sở”.
PGS.TSKH.Phan Xuân Sơn.. Tác giả đã nghiên cứu sâu sắc và khoa học về một vấn đề
mà tác giả xem là hướng nghiên cứu đúng và cần đầu tư hơn nữa. Đó chính là xã hội
cơng dân (cách nói hiện đại về cộng đồng dân cư) nền tảng cho vấn đề chính sách dân
tộc; sức mạnh của cộng đồng thể hiện ở khả năng phân cấp, giao quyền, mức độ tham gia
ra quyết định và tự huy động lực lượng của nhân dân, trình độ hoạt động tự giác và tự

chủ của cơ sở. Từ đây tác giả đã đề ra việc thực hiện tự trị và tự quản bằng cách nâng cao
hiệu quả hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
- Đề tài: "Tổ chức quản lý ở thôn, ấp, bản. Thực trạng và giải pháp đổi mới, hoàn
thiện” của TS Phạm Hữu Nghị. Xuất phát từ quan điểm: Thôn, ấp, bản không phải là cấp
chính quyền mà là một tổ chức của công đồng dân cư, tác giả đã đề xuất đã đề xuất
những giải pháp đổi mới, hoàn thiện các thiết chế để quản lý nó. Tác giả khẳng định rõ:
Trưởng thôn chỉ là người đại diện cho cộng đồng dân cư và bỏ quy định trưởng thôn là
người đại diện cho UBND xã; đồng thời UBND xã chịu trách nhiệm quản lý hành chính
nhà nước trên tồn bộ địa bàn xã, cịn thơn chỉ là đơn vị tổ chức do nhân dân tự quản; các
thiết chế quản lý ở thôn, ấp, bản là thiết chế tự quản chứ không phải đại diện của chính
quyền xã, cánh tay nối dài của chính quyền xã; mặt khác cần đổi mới phương thức xây
dựng hương ước, quy ước cho phù hợp với tính đặc thù của mỗi cộng đồng dân cư.
- Một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ:


Hoàng Đức Sơn, Những đặc điểm cơ bản của hệ thống chính trị đảm bảo tốt dân chủ ở
cơ sở, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2000.
Chu Văn Hưởng, Vấn đề phân cấp, phân quyền trong thực thi quyền lực nhà nước
ở địa phương hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,2008.
Trần Khánh Sơn, Đổi mới hệ thống chính trị cấp Huyện ở Nghệ An hiện nay, Luận
văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2008.
Ngồi ra cịn có các cuốn sách làm cơ sở lý luận thiết thực cho việc nghiên cứu
đề tài này như:
- Vấn đề quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính trị, (Báo cáo tổng hợp kết
quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2008). PGS, TSKH Phan Xuân Sơn,Học
viện CT-HC QG Hồ Chí Minh
- Một số lý thuyết và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, 2005, Thang Văn Phúc,
Nguyễn Đăng Thành (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã. Ban tổ chức cán bộ Chính
phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

- Hương ước trong q trình thực hiện dân chủ ở nơng thơn Việt Nam hiện nay,
TS Đào Duy Úc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Hệ thống chính trị cơ sở. Đặc điểm xu hướng - những vấn đề bức xúc (Kỷ yếu),
TS Vũ Hồng Cơng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2001.
- Hoạch định chính sách ở Việt Nam hiện nay - Tiếp cận bước đầu thông qua q
trình hoạch định chính sách đối với cán bộ cấp xã, (Trích từ đề tài cấp bộ: Chính sách và
những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam). TS Nguyễn Đăng
Thành, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.
- Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn nước ta hiện nay. PGS Hồng Chí Bảo,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay. Đồng chủ biên
PGS,TSKH Phan Xuân Sơn-ThS Lưu Văn Quảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Chính sách và chiến lược giảm bất bình đẳng và nghèo đói, Diễn đàn kinh tế tài
chính Việt Pháp, 2003.


- Nơng hội làng. Hồ Chí Minh. Trích Văn kiện Đảng toàn tập (giai đoạn 19241930).
- Dân tộc học đại cương, Lê Sỹ Giáo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
- Tâm lý người Việt Nam đi vào cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá -những diều cần
khắc phục, Phạm Minh Hạc, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2004.
- Chuyện nhà chuyện nước, Hữu Thọ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
- Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
- Văn hố Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm. Trần Quốc Vượng, Nxb Văn hoá dân tộc,
Hà Nội, 2000.
- Chủ nghĩa tam dân. Tôn Trung Sơn. Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội,
1995.
- Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi (Báo cáo nhanh về tình hình phát triển
thế giới năm 1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Thể chế chính trị, PGS,TS Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2004.

* Các bài báo:
- ThS Nguyễn Hoàng Anh (2002), “Trưởng thơn và vai trị tự quản ở cộng đồng
dân cư cơ sở”, đặc san 3, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
- TS Đặng Đình Tân (2002), “Chính quyền cấp xã-Một số vấn đề đặt ra hiện nay",
đặc san 3, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
- Bùi Ngọc Sơn (2002), “Trống làng nào làng ấy đánh”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, Số 12.
- Phùng Văn Hùng (2006), “Tăng cường tính tự quản của chính quyền địa phương
góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và điều hành ngân sách nhà nước”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, Số 4.
- Nguyễn Văn Thâm (2000), “Một số vấn đề quản lý nhà nước ở thơn bản hiện
nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 1.
- Nguyễn Hữu Hải (2005), “Vài nét về chính quyền địa phương Đan Mạch”, Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 1.


- Nguyễn Đức Hạnh (2001), “Vài nét về chính quyền địa phương Hoa Kỳ”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp,Số 2
- Nguyễn Xuân Diên (2002), “Thẩm phán làng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
2.
Nhìn chung các cơng trình, các bài viết đã đóng góp những kiến giải nhất định có liên
quan đến tính tự quản của cơng đồng dân cư với việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở, tuỳ
góc độ nghiên cứu mà các tác giả đã có cách khai thác lý luận và gắn với thực tiễn khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu chun sâu tồn diện về tính tự quản của cộng đồng
dân cư với việ thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở. Đặc biệt là lấy mẫu thực tế ở xã Đồng văn,
Huyện Thanh Chương, Tỉnh Nghệ An. Vì vậy việc chọn đề tài này để nghiên cứu sẽ góp phần
làm sáng tỏ thêm lý luận và thực tiễn về vấn đề nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động tự
quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở qua khảo sát tại xã

Đồng văn, Huyện Thanh Chương, Tỉnh Nghệ An, từ đó tìm ra giải pháp hữu hiệu để phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của cộng đồng dân cư trong việc quản lý của nhà nước ở cơ sở đáp
ứng yêu cầu của đổi mới đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm, vai trò, đặc điểm, phương thức của hoạt động tự quản cộng
đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở.
- Nêu những thực trạng hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực
thi quyền lực nhà nước ở cơ sở, làm rõ những nội dung của hoạt động tự quản của cộng
đồng dân cư và sự quản lý của nhà nước ở cơ sở qua khảo sát ở xã Đồng Văn, huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất những giải pháp hữu hiệu để thực hiện tốt hoạt động tự quản của cộng
đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở đáp ứng yêu cầu thực tiễn và
nhiệm vụ trong tình hình mới đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tự quản ở các cộng đồng dân cư thông
qua các Hương ước, quy ước, quy chế dân chủ, mối quan hệ, những vấn đề nổi cộm mà
người dân đặt ra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tính kế thừa, chuyển giao hoạt động tự quản của cộng đồng dân
cư từ lịch sử để lại. Nhưng tập trung nghiên cứu thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nướcvà xã
Đồng Văn, huyện Thanh Chương là điển hình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của nhà
nước; lý luận khoa học, tiến bộ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về những nội

dung liên quan đến hoạt động tự quản của các cộng đồng dân cư ở chính quyền cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa MácLênin, kết hợp chặt chẽ giữa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn; giữa phương pháp phân tích
và tổng hợp, diễn giải và quy nạp, giữa phương pháp lơgíc và lịch sử; đồng thời kết hợp
với điều tra và khảo sát tình hình thực tế.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ vị trí, vai trị, phương thức và phát huy sự chủ động, sáng tạo hoạt động
tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở nói
riêng, chính sách pháp luật của nhà nước, sự phát triển của xã hội nói chung.
- Đánh giá đúng thực trạng tính tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc thực
thi quyền lực nhà nước ở cơ sở và đưa ra một số giải pháp khả thi áp dụng thực tiễn
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo
vận dụng cho các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các cấp chính quyền địa
phương trong cả nước và riêng ở tỉnh Nghệ An.


- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu hoặc những ai
quan tâm vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần ở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.


Chương 1
HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC THỰC
THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư là gì?

1.1.1.1. Cộng đồng
Theo Từ điển Tiếng Việt, cộng đồng là "toàn thể những người cùng sống, có
những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội” [3, tr.192].
Có định nghĩa lại cho rằng: Cộng đồng là “Một tập hợp người sống thành một xã
hội trong cùng thời gian, trên cùng một lãnh thổ đã được xác định, có chung đặc điểm
tâm lý, tình cảm, có quan hệ gắn bó với nhau thành một khối và tạo ra một mạng lưới
thông tin với nhau” [84, tr.15-16].
Khái niệm cộng đồng chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm tương đối khác về
quy mơ, đặc tính xã hội. Nói đến khái niệm cộng đồng có thể là những khối tập hợp
người, các liên minh rộng lớn như cộng đồng thế giới, cộng đồng Châu Âu... Nhỏ hơn,
cộng đồng có thể là một kiểu/ hạng xã hội, căn cứ vào những đặc tính tương đồng về sắc
tộc, chủng tộc hay tôn giáo...Nhỏ hơn, danh từ cộng đồng được sử dụng cho các đơn vị
xã hội cơ bản là gia đình, làng hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính xã hội
chung về lý tưởng xã hội, lứa tuổi, nghề nghiệp, thân phận xã hội [29, tr.15-16].
Quan điểm truyền thống sử dụng thuật ngữ cộng đồng như là một cảm nghĩ, khi
con người có ý thức cộng đồng, là cảm giác chung của cộng đồng được xác nhận thông
qua việc tôn trọng các biểu tượng, các đặc điểm riêng có của cộng đồng.
Quan điểm hiện đại cho rằng:
Cộng đồng là một thuật ngữ dùng để mô tả một tổ chức xã hội đạt trình
độ cao trong tổ chức và hoạt động. Nó là một nơi, một tập thể địa lý giống như
một làng, một thành phố hay một trung tâm. Một cộng đồng là một tổ chức xã
hội có quan tâm đến những nhu cầu cơ bản như kinh tế, xã hội, văn hố, giáo
dục, chính trị... của các thành viên của mình [8, tr.34].


Cộng đồng được xác định là những người sống và làm việc trong một khu vực địa
lý nhất định. Điều đó có nghĩa là cộng đồng bao gồm tất cả các thành viên của gia đình,
khơng chỉ bao gồm chủ hộ. Cộng đồng bao gồm các tổ chức xã hội được thiết lập bởi
chính cộng đồng để đại diện cho các quan điểm của họ" [61, tr.5].
Thuật ngữ cộng đồng còn được hiểu như là một phân thể/ đơn vị/ nhóm người

trong hệ thống xã hội, ở đó mọi người ý thức được những đặc trưng và tính chất chung về
những gì mà mình đang có. Quan niệm mác-xít cho rằng:

Cộng đồng là mối quan

hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của các thành
viên có sự giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp
thành cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của
họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất, sự
tương đồng về điều kiện sống cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu
và phương tiện hoạt động [29].
Về bản chất của cộng đồng hoàn chỉnh, J.H.Fitcher cho rằng, cộng đồng bao gồm 4
yếu tố: (1) tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan này đôi khi được
gọi là tương quan đệ nhất đẳng, tương quan mặt đối mặt, tương quan thân mật; (2) có sự liên
hệ về tình cảm và cảm xúc cá nhân trong những nhiệm vụ và công tác xã hội của tập thể; (3)
có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với những giá trị được tập thể coi là cao cả và có
ý nghĩa; (4) một ý thức đoàn kết với những người trong tập thể [36, tr.79-80].
Vậy, cộng đồng chính là tập hợp những người cùng sống và hoạt động trong
một môi trường tương đồng nhất định như cùng khu vực địa lý, có chung đặc điểm
tâm lý, tình cảm gắn bó, hệ giá trị chuẩn mực, điều kiện sống. Cộng đồng bao gồm
các tổ chức xã hội được thiết lập bởi chính cộng đồng để đại diện cho quan điểm và
hoạt động của họ.
1.1.1.2. Cộng đồng dân cư
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì dân cư là "tồn bộ những người đang cư trú trên
một địa bàn lãnh thổ nhất định một cách tự nhiên trong lịch sử và phát triển không
ngừng” [86, tr.518].
Hoặc có thể định nghĩa dân cư là “tập hợp những người có những điểm giống
nhau làm thành một khối như là xã hội” [3, tr.461]. Theo đó, trong phạm vi luận văn,



cộng đồng dân cư được nhắc tới có thể hiểu là một nhóm dân cư sinh sống trong một thực
thể xã hội, trong một địa vực nhất định, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và có cùng hệ giá trị
chuẩn mực.
1.1.1.3. Hoạt động, hoạt động tự quản
Hoạt động:
Là một phương pháp đặc thù của con người quan hệ với thế giới xung
quanh nhằm cải tạo thế giới theo hướng phục vụ cuộc sống của mình. Trong
mối quan hệ ấy chủ thể của hoạt động là con người, khách thể của hoạt động là
tất cả những gì mà hoạt động tác động vào tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu
của chủ thể. Mục đích trên đây thể hiện trong nhiều lĩnh vực và trên nhiều hoạt
động: Kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, tư tưởng, lý luận văn hố, tâm lý
vv....Nhưng hình thức cơ bản, có ý nghĩa quyết định là thực tiễn xã hội. Hoạt
động thường được chia làm 2 loại: Hoạt động hướng ngoại nhằm cải tạo thiên
nhiên, xã hội. Hoạt động hướng nội nhằm cải tạo bản thân con người. Hai loại
hoạt động ấy gắn liền mật thiết với nhau vì con người chỉ có thể cải tạo mình
trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động bao giờ cũng mang tính
lịch sử qua các thời đại khác nhau [31].
Tự quản:
Là chế độ tổ chức và hoạt động của một xí nghiệp, một đơn vị kinh
doanh, nói rộng ra là của một cộng đồng xã hội do tập thể những người lao
động của nó quản lý, tự quyết định lấy cơng việc của mình như tự đặt kế hoạch
hành động, tự giám sát công việc, tự đánh giá kết quả công việc, hành vi xử sự
của mình mà khơng cần có sự điều hành chỉ huy của người quản lý hoặc bất cứ
người nào khác [31, tr.62].
A. Lagain (1969) đã đưa ra một thang đo gồm 8 mức độ hoạt động của cộng đồng
như sau: Nhân dân kiểm sốt, chủ trì thực hiện; chính phủ phối hợp với các nhóm dân cư
trong quản lý; giao quyền cho các nhóm dân cư; chính phủ đáp ứng một phần các nhu cầu
của nhân dân; chính phủ trao đổi bàn bạc với các nhóm dân; chính phủ thơng báo cho dân
biết; đưa ra quyết định và thơng báo trước; chính phủ vận động nhân dân làm theo [24,
tr.94].



Như vậy, cách thức hoạt động của cộng đồng có thể khác nhau, tuỳ vào loại hình
và mức độ của khách thể mà cộng đồng dân cư tác động cũng như tuỳ vào năng lực thấu
hiểu của cộng đồng với các vấn đề liên quan. Thời gian của hoạt động cũng khác nhau.
Điều chú ý là cộng đồng dân cư càng hoạt động tích cực dưới sự hướng dẫn tốt của
những chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước thì hiệu quả hoạt động càng cao.
1.1.1.4. Một số lý thuyết Xã hội học
* Lý thuyết phát triển cộng đồng:
Phát triển cộng đồng là một quá trình biến đổi đưa tới sự thay đổi căn bản chất
lượng của cộng đồng theo xu hướng tiến bộ xã hội và đa dạng văn hoá, văn minh [29,
tr.4]. Về thực chất phát triển cộng đồng là một cách thức triển khai các hoạt động xây
dựng và phát triển trên cơ sở tạo sự hợp lực và đồng thuận của nhiều tổ chức xã hội nhằm
phát huy mọi nội lực bên trong của từng thành viên cộng đồng và của cả cộng đồng.
Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm phát triển cộng đồng vào năm 1956, theo đó
phát triển cộng đồng là một tiến trình, qua đó sự nổ lực của chính dân chúng hợp nhất với
nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội của cả cộng
đồng, để các cộng đồng này có điều kiện hội nhập và đóng góp tích cực vào đời sống
quốc gia.
Hoạt động tự quản dựa trên nguyên lý phát triển cộng đồng bao gồm: Ngun lý
tính tương đối: khơng nên tuyệt đối hoá sự vật, hiện tượng theo một quan niệm nào cả;
nguyên lý tính đa dạng: Cộng đồng được biểu hiện đa dạng, nên phát triển cộng đồng
mang tính đa dạng, phong phú; nguyên lý tính bền vững: cộng đồng ln có tính bền
vững, mặc dù có thể bị biến đổi tính chất nhưng khi cộng đồng cũ bị giải thể thì cộng
đồng mới hình thành; nguyên lý đồng biến: bản chất của cộng đồng là đồng thuận, do đó
mọi thành viên, thành phần cộng đồng đều đồng hành và đồng biến; nguyên lý tự biến:
cộng đồng có năng lực riêng, vì vậy có quy luật riêng là tự vận động và tự phát triển gọi
chung là tự biến; nguyên lý tham gia phát triển: chịu sự tác động của các tổ chức khác,
đặc biệt là chịu sự tác động quan trọng của quản lý nhà nước (còn gọi là hợp biến).
- Hoạt động tự quản thông qua lý thuyết phát triển cộng đồng: Thứ nhất, hướng

tới cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng, với sự cân bằng về vật chất và tinh
thần, qua đó tạo sự chuyển biến xã hội trong cộng đồng. Thứ hai, tạo sự bình đẳng trong


hoạt động của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng kể cả những người thuộc nhóm thiệt
thịi nhất cũng tự mình nêu lên nguyện vọng của mình và được tham gia vào các hoạt
động phát triển, qua đó góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội. Thứ ba, là củng cố các
thiết chế, tổ chức; trong đó nhà nước là trung tâm để tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội
và sự tăng trưởng; cuối cùng là thu hút sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình
phát triển.
* Lý thuyết hành động:
Thuyết hành động gắn liền với cha đẻ của nó là MaxWerber, nó bao gồm:
- Hành động duy cảm: là hành động do các trạng thái cảm xúc hoặc tình cảm, bột
phát gây ra, khơng có sự cân nhắc, xem xét.
- Hành động duy lý - truyền thống: là loại hành động tuân thủ những thói quen,
nghi lễ, phong tục, tập quán từ đời này sang đời khác.
- Hành động duy lý: theo sự phân tích của trí tuệ, dựa trên những phân tích về giá
trị, chuẩn mực (giá trị pháp luật, chuẩn mực đạo đức).
* Lý thuyết xã hội hố: là q trình chủ thể hoá các tin tức của xã hội, là sự tiếp
nhận tri thức, kinh nghiệm xã hội thơng qua lăng kính chủ quan và sự xét đoán của mỗi
cá nhân. Xã hội hố khơng chính thức là sự tương tác xã hội, giữa những người gần gũi
như gia đình, bạn bè, nhóm nghề nghiệp. Xã hội hố chính thức thơng qua các tổ chức xã
hội. Cái cốt lõi của xã hội hoá là sự quản lý của nhà nước với sự tham gia của nhiều
người, nhiều tầng lớp xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
* Lý thuyết xã hội dân sự: Khái niệm “civil society” thường được dịch sang tiếng
Việt là “xã hội dân sự”. Nó được bắt nguồn từ tiếng Hy lạp mà được Aristotl dùng lần
đầu tiên là “Koin nia politika” mà sau này ta vẫn thường dịch là politika (chính trị), từ
này được bắt nguồn từ polis có nghĩa là cộng đồng dân cư thành bang, tức là một cộng
đồng xã hội nhất định. Với Aristotl thì “con người là động vật chính trị” cũng đồng nhất
“con người là động vật xã hội”, trong hệ thống lý luận của ơng thì cái chính trị (the

political) và cái đạo đức (the ethical) khơng có sự khác biệt rõ rệt. Mục tiêu tối thượng
của polis là đảm bảo sự phát triển và hình thành nhân cách của các thành viên trong cộng
đồng, trong đó “chính trị” là sự định hướng hành động của mỗi cá nhân để đạt tới mục
đích chung của cả cộng đồng, đó cũng là mục tiêu hình thành nhân cách sống có trách


nhiệm của mỗi cộng đồng.. Chính vì vậy Aristotl xác định rõ rằng bản chất chính trị của
một cộng đồng chính trị là xã hội dân sự, ở đó khơng có sự cưỡng bức mà chỉ chú trọng
đến hoạt động tham gia tự nguyện của các thành viên cộng đồng cùng nhau chia sẻ việc
điều hành cộng đồng vì mục đích chung của cộng đồng. Ý thức về xã hội dân sự đã có
một bước phát triển mạnh mẽ trong thời cận đại với các nhà tư tưởng như J. Rodin
(Pháp), T.Hobbes (Anh), B.Spinoza (Hà lan) và đến thế kỷ XVIII, J. J.Rousseau đã phát
triển nó lên một trình độ hồn chỉnh hơn, đối với ơng, con người mất đi quyền tự nhiên
của mình nên cần đảm bảo bằng một hình thức liên hiệp là Khế ước xã hội nhằm để bảo
vệ tài sản của các cá nhân cũng như toàn bộ sức mạnh chung của xã hội và các thành viên
xã hội gọi cơ chế chính trị ấy là Nhà nước. Các tác giả cùng thời như J.Locke hay
Montesquieur thì cho rằng nhân dân hợp thành xã hội - nó là tối thượng và khi thiết lập
nhà nước, tuy tính tối thượng chuyển sang Nhà nước nhưng Nhà nước khơng thể nuốt
mất xã hội. Cịn trong tư tưởng của Hegel thì xã hội dân sự là một nơi mà các cá nhân
được tự do theo đuổi những lợi ích, những khác biệt của mình, liên kết với nhau bằng sự
cần thiết lẫn nhau và, với tư cách đó, nó khơng phụ thuộc trực tiếp vào nhà nước chính
trị, nhưng mặt khác ông cũng cho rằng xã hội dân sự khơng thể trở thành dân sự được
nếu nó khơng được nhà nước cai quản về mặt chính trị - chỉ có việc thực thi một quyền
lực cơng cộng tối cao của một nhà nước hợp hiến mới có thể giải quyết được những xung
đột của xã hội dân sự với tính bất cơng của nó, tổng hợp những lợi ích cụ thể thành một
cộng đồng chính trị chung. Khác với Hegel xem xã hội dân sự là một “vật ban tặng” của
tự nhiên thì C.Mác coi xã hội dân sự kết quả của sự phát triển lịch sử tự nhiên, C.Mác
khẳng định: "Xã hội dân sự bao gồm toàn bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một
giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Nó bao trùm tồn bộ đời sống
thương mại và cơng nghiệp của giai đoạn lịch sử ấy, ở mức độ này, nó vượt khỏi khn

khổ nhà nước và quốc gia, tuy rằng ở bên ngồi, nó phải tự khẳng định với tư cách quốc
gia và, ở bên trong, phải tự tổ chức với tư cách nhà nước” và khi không cịn sự đối kháng
giai cấp nữa thì xã hội cũ bị sụp đổ và C.Mác cho rằng sẽ khơng có sự xuất hiện một giai
cấp thống trị mới, “sẽ không cịn một quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó nữa vì
quyền lực chính trị là sự tóm lược chính thống của đối kháng trong xã hội dân sự” và “tự
do là chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao của xã hội, thành một cơ quan phụ thuộc vào xã


hội, và ngay cả ngày nay nữa, các hình thức nhà nước tự do hay không tự do là tuỳ ở chỗ
trong những hình thức ấy “sự tự do của nhà nước bị hạn chế nhiều hay ít” [42, tr.554]. Xuất
phát từ quan điểm này của C.Mác ta thấy rằng càng chính trị hố, nhà nước hố các tổ
chức, các cộng đồng dân cư thì càng hạ thấp vai trị của xã hội công dân và cản trở sự
phát triển của xã hội công dân. Điều này cũng cho thấy, tại sao ở các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây, các tổ chức xã hội được tổ chức rộng khắp nhưng là vì “cánh tay nối
dài” của nhà nước nên xã hội cơng dân ở các nước đó lại kém phát triển và yếu ớt. Theo
C.Mác, xã hội công dân khơng phải là lĩnh vực chính trị, nhưng mọi hoạt động của xã hội
cơng dân đều có ảnh hưởng đến nhà nước. Vì vậy các thể chế của xã hội cơng dân mang
những hình thức chính trị nhất định. Như vậy xây dựng xã hội công dân, một mặt phải thừa
nhận vai trị độc lập khách quan của nó đối với nhà nước, mặt khác khơng phủ nhận những
hình thức chính trị của nó [60, tr.14].
Vậy nên, xã hội dân sự không những đảm đương chức năng đào luyện con
người thành những cơng dân sống và làm việc có trách nhiệm với xã hội, hướng hoạt
động của họ tới mục tiêu phát triển chung của cộng đồng và xã hội mà cịn là diễn đàn
xã hội để cá nhân có điều kiện trao đổi các kỹ năng sinh hoạt và làm việc, nâng cao
trình độ dân trí của mình. Với nghĩa đó, xã hội dân sự có mối liên hệ mật thiết với
khái niệm vốn xã hội trong việc chỉ ra sự liên kết và gắn bó của cá nhân con người
với cộng đồng và truyền thống văn hoá. Bên cạnh việc đề cập đến vai trò liên đới của
các tổ chức xã hội dân sự trong quan hệ với nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp
quyền, thông qua sự tham gia tích cực của người dân vào các hoạt động chính trị, kinh
tế và xã hội. Bên cạnh việc kết hợp với nhà nước cùng giải quyết các vấn đề phát triển

chung của địa phương và quốc gia thì xã hội dân sự cịn tích cực tham gia góp ý, giám
sát các hoạt động của nhà nước và kinh tế thị trường nhằm đảm bảo tính cơng bằng xã
hội, giảm thiểu sự lạm quyền, tham nhũng cũng như những phản phát triển gây tác hại
cho cộng đồng và xã hội. Như vậy, hoạt động của xã hội dân sự đóng vai trị quan
trọng trong việc thiết lập đồng thuận, đồn kết xã hội vì mục tiêu phát triển chung.
Khái niệm xã hội dân sự được quy chiếu ở xã hội nơng nghiệp cổ truyền ở nước
ta thì đó là cộng đồng dân cư ở cơ sở. Khái niệm cộng đồng thường vẫn được dùng
trong khoa học, người ta vẫn thường hiểu cộng đồng đã tồn tại lâu đời trong lịch sử, gắn


bó với những thăng trầm của dân tộc. Điều này lại càng phù hợp với tiến trình đi lên của
đất nước, quá trình dựng nước và giữ nước là một q trình gắn bó cùng sự phát triển của
cộng đồng, vai trị của cộng đồng có tác dụng tích cực đối với nước ta vì nó tích luỹ được
vốn xã hội (Social capital) là các tiêu chuẩn và quan hệ xã hội cho phép nhân dân có khả
năng phối hợp các hành động tập thể. Điều này cũng khác với xã hội phương Tây, khái
niệm này trong xã hội hiện đại được họ hiểu là xã hội dân sự bởi trong q trình quản lý
của mình có những việc nhà nước khơng làm được, “bàn tay hữu hình” của nhà nước mà
Maynard Keynes đặt tên không thể bao hết các hoạt động chính trị, xã hội buộc phải giao
lại cho “bàn tay bán vơ hình” là các tổ chức khác, các tổ chức này được xây dựng trên cơ
sở của sự thương lượng, hợp tác, thuyết phục đại diện cho hành động, có mặt ở tất cả các
cấp, thậm chí toàn cầu mà C.Mác trong phê phán học thuyết của Hêghen đã dùng lần đầu
tiên.
Ở nước ta, với đặc thù của một nước nông nghiệp cổ truyền với chủ nghĩa yêu
nước dân tộc cao cả, trong đời sống xã hội Việt Nam, xã hội dân sự gắn với những thiết
chế xã hội mang tính truyền thống có mặt trong các làng xã nông thôn, những tổ chức
quần chúng - “xã hội dân sự ở nơng thơn” đã đóng vai trị lịch sử quan trọng và tích cực
trong cấu trúc xã hội dân sự Việt Nam [47]. Đó là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, là
nơi người dân trực tiếp và bằng các hoạt động tự quản thích hợp, tương trợ, giúp đỡ nhau trong
sản xuất và đời sống, cùng nhau giải quyết các công việc của nội bộ cộng đồng, là nơi tồn tại và
duy trì bao đời nay “các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư trên cơ sở quan hệ truyền thống

gắn bó trong đời sống vật chất và văn hoá” [17, tr.171-173]. Dù được thành lập theo mục tiêu và
hướng dẫn của Đảng và Nhà nước nhưng các thiết chế phi quan phương và các tổ chức đã
hoạt động như một chiếc cầu nối giữa Đảng với nhân dân hướng đến thực hiện các nhiệm vụ
phát triển cụ thể, phục vụ cho phúc lợi của cộng đồng dân cư cơ sở.
1.1.2. Quyền lực nhà nước ở cơ sở
1.1.2.1. Quyền lực nhà nước
Quyền lực trong xã hội có cấu trúc phức tạp, được tạo thành từ nhiều loại quyền
lực khác nhau. Có quyền lực đạo đức, quyền lực tơn giáo, quyền lực dịng họ.Trong số rất
nhiều loại quyền lực đồng thời tồn tại trong sự đan xen, thâm nhập và ảnh hưởng lẫn
nhau tạo thành một chỉnh thể của quyền lực trong xã hội.


Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay của liên minh giai cấp, tập
đoàn xã hội (hoặc của nhân dân trong điều kiện của CNXH), nó nói lên khả năng của một
giai cấp thực hiện lợi ích của mình. “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo
lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [43, tr.628].
Một trong những nguồn gốc của quyền lực nhà nước là quyền lực cơng cộng, là
“sức mạnh của ý chí chung” của cả cộng đồng dân cư cùng sống trên một lãnh thổ, nhưng
là quyền lực công cộng trong điều kiện "xã hội bị phân chia thành những mặt đối lập
không thể điều hồ được, mà xã hội đó bất lực khơng sao loại bỏ được” [45, tr.251].
Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Do vậy
xét về bản chất, quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện
bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra. Cho nên, quyền lực nhà nước được
thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau. Một trong những điểm phân biệt với phương thức
thực hiện các loại quyền lực chính trị khác là ở chỗ, quyền lực nhà nước được tổ chức thành
cả một hệ thống thiết chế và có khả năng vận dụng các cơng cụ của nhà nước từ tay giai cấp
này sang tay giai cấp khác trực tiếp dẫn tới sự thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị.
Trong một xã hội có giai cấp thì quyền lực nhà nước có hai chức năng cơ bản là: Chức năng
thống trị chính trị và chức năng xã hội [26].
1.1.2.2. Quyền lực nhà nước ở cơ sở

Theo Rousseau thì quyền lực nhà nước "được thiết lập từ những cá thể thành viên
hợp lại tạo ra nó” và "những bộ phận quyền hành được chia tách như vậy đều phụ thuộc
vào quyền lực tối cao, đều giả định phải có ý chí tối cao, mỗi bộ phận đều chỉ nhằm thực
hiện ý chí tối cao đó” [54, tr.71-82].
Ở nước ta Cấp cơ sở trong hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính nhà nước hiện
hành của ta hiện nay: Trung ương - tỉnh, thành phố - quận, huyện và xã. Bốn cấp quản lý
này được tổ chức theo một hệ thống dọc. Từ trên xuống sẽ là trung ương - địa phương và
cơ sở. Nếu nhìn dưới lên sẽ là cơ sở - địa phương và toàn quốc.
Theo Ph.Ăngghen, một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước là
Nó phân chia thần dân của nó theo địa vực, v.v..người ta lấy sự phân
chia địa vực làm điểm xuất phát và người ta đã để cho những công dân thực
hiện những quyền lợi và nghĩa vụ của họ tại nơi họ cư trú, không kể họ thuộc


bộ tộc, thị lạc nào. Cách tổ chức những công dân của nhà nước theo địa vực họ
cư trú như thế, là một đặc điểm chung cho tất cả các nhà nước [43, tr.253].
Và sự phân chia như trên cũng chính là sự phân cấp, phân quyền của quyền lực
nhà nước. Tức là "Phân định quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm bằng cách quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, để vừa bảo
đảm việc điều hành tập trung, thống nhất của chính phủ, đồng thời phát huy dân chủ,
nâng cao tính năng động của mỗi địa phương, cơ sở” [76].
Quyền lực nhà nước ở cơ sở chính là vị trí, vai trị của chính quyền cơ sở thực
hiện chức năng quản lý nhà nước trọng phạm vi địa giới hành chính cơ sở. Chính quyền
cơ sở vừa là đại diện cho quyền lực của nhân dân trong địa bàn, được người dân bầu ra,
thực hiện ý chí chung của cộng đồng dân cư trong địa bàn; đồng thời cũng thay mặt
quyền lực nhà nước ở địa phương. Quyền lực nhà nước ở cơ sở thể hiện quyền đưa ra
những quy định, quyết định, quyền cưỡng chế thực hiện những quy định, quyết định đó;
quyền xét xử những vi phạm các quy định, quyết định và pháp luật nói chung theo những
phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định cho chính quyền cơ sở có hiệu lực với mọi
đối tượng.

Chính quyền cơ sở gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là tổ chức đại
diện chính thức cho tồn bộ dân cư trên địa bàn. Tính đại diện chính thức thể hiện ở việc
Hội đồng nhân dân là cơ quan nhà nước do nhân dân ở địa bàn trực tiếp bầu ra, thay mặt
nhân dân, trên cơ sở yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và pháp luật, quyết định những
vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân ở đơn vị hành chính cơ sở.
Chính quyền cơ sở trực tiếp thực hiện quyền lực nhân dân trên địa bàn. Nhân dân sử
dụng quyền lực của mình thơng qua Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của mình. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành với các công cụ (pháp luật,
thẩm quyền ra quyết định) và phương tiện quản lý (bộ máy giúp việc) nhằm đảm bảo thực hiện
quyền lực nhân dân [9].
1.2. HOẠT ĐỘNG TỰ QUẢN CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG VIỆC
THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN


1.2.1. Hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở - Những nội dung cơ
bản
1.2.1.1. Những cơ sở để đánh giá hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư cơ
sở
Thứ nhất, cộng đồng dân cư cơ sở của Việt Nam gắn bó hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước với sự tồn tại bền vững của thiết chế làng xã, nói đến cộng đồng dân cư cơ sở cổ
truyền là chúng ta nói đến cơ sở kinh tế của nó là chế độ cộng hữu về tư liệu sản xuất - ruộng
đất công của làng xã. Có 3 lần biến cách: Thế kỷ XV khi chế độ quân điền thực hiện; cuối
thế kỷ XIX khi thực dân Pháp đặt ách thống trị; cách mạng Tháng tám năm 1945 và cải cách
ruộng đất.
Từ thế kỷ XV trở đi, các thái ấp thuộc quyền chiếm hữu và các vương hầu thời
nhà Lý-Trần bị thủ tiêu trong thế kỷ trước ngày càng phải nhường chỗ cho quan hệ địa
chủ - tá điền. Về mặt cai trị thì trong các làng xã, đứng đầu là xã trưởng, vừa đại diện cho
quyền lợi của cộng đồng dân cư trong làng, vừa đại diện cho quyền lực của chính quyền
xã. Điều quan trọng là từ đấy xã trưởng do dân bầu lên. Vậy q trình tư hữu hố ruộng
đất lại tạo cho làng xã một diện mạo tự quản, duy trì quyền tự trị cho đến năm 1921 - thời

điểm chính quyền thuộc địa bắt tay vào cải cách hành chính xã [1].
Sự biến chất của cộng đồng dân cư cơ sở cổ truyền diễn ra một cách sâu sắc vào
các thế kỷ XVII-XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ sở ruộng đất công bị phá vỡ nghiêm trọng.
Khá phổ biến là xu thế đề cao quyền lực của địa chủ ở phạm vi từng làng và dần dần hình
thành hệ thống tôn ti trong đời sống cộng đồng dân cư cơ sở. Các thế lực phong kiến
trong làng chia nhau quyền quyết định mọi việc, việc cắt đặt xã trưởng về danh nghĩa do
bầu cử nhưng trong thực tế lại là do tầng lớp này chi phối [79, tr.32].
Trong cộng đồng dân cư cơ sở cổ truyền, nền đại sở hữu khơng phát triển vì tổ
chức chính quyền khơng thiện cảm với họ, vì tổ chức kinh tế khơng thuận lợi và vì phong
tục lạc hậu chống lại chính họ. Ví dụ: Trong thời kỳ này nhà nước cấm chuyển nhượng
ruộng đất vì nó đảm bảo cho người dân cơ sở ln có phần mình trong việc phân chia
ruộng cơng. Như thế nhà nước không tập trung được ruộng đất.


Do yêu cầu chinh phục tự nhiên, khai phá mở mang đất đai, để tồn tại và chống đỡ
lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, người Việt phải sớm hình thành cố kết cộng đồng. Từ
đây quan hệ nhà-làng xuất hiện, nó bền vững trong suốt chiều dài của lịch sử.
Cùng với sự phát triển của nền nông nghiệp trong cộng đồng dân cư cơ sở thì các
cơng xã nơng thơn của người Việt cũng có những biến đổi và phân bổ dù nó diễn ra rất
chậm chạp..
Cho đến thời kỳ văn hố Đơng Sơn cách đây 2.000 năm, những mầm mống của một
nhà nước sơ khai cùng với kết cấu làng xã mới xuất hiện, nhà nước đó trên thực tế chỉ là sự
mở rộng liên cộng đồng dân cư cơ sở, một tổ chức đứng trên các cộng đồng dân cư cơ sở để
điều hành chung. Nhà nước thời kỳ Hùng Vương với một đặc trưng chi phối là tính cộng
đồng dân cư ở cơ sở [69].
Mỗi cộng đồng dân cư cơ sở Việt là một đơn vị tự trị. Việt Nam giống như một “liên
bang thôn xã”. Với một đời sống kinh tế đơn giản, sinh hoạt làng xã thơ sơ, thiếu đường giao
thơng và ít có nhu cầu, các làng chỉ có thể sống độc lập với nhau và tự cung, tự cấp. Dưới
mắt chính quyền, làng là một gốc gác nhân cách, trong việc nước người ta chỉ biết làng chứ
không phân biệt cá nhân, thường thì các cơng việc nội bộ vẫn do làng tự giải quyết, chính

quyền rất ít khi can thiệp. Làng có thể được coi như một nhà nước nhỏ, được cai quản bởi
một hội đồng kỳ mục gồm các chức sắc, những người có học hành đỗ đạt. Chỉ có làng mới
biết được số dân cư và đất đai của mình, nhà nước khơng tiếp xúc trực tiếp với dân làng. Để
thu thuế tuyển mộ lính thì quy định cho mỗi làng một con số nhất định và để cho nó tự do
phân bổ đến các thành viên của mình. Như vậy nhà nước xuất hiện nhưng tính giai cấp của
nó chưa có gì nổi bật, nhà nước “siêu cộng đồng cơ sở” không đối lập với cộng đồng dân cư
cơ sở mà mang đậm nét cộng đồng dân cư cơ sở. Từ quan hệ trong cộng đồng dân cư cơ sở
là quan hệ nhà - làng ở rộng tới làng - nước và tạo thành quan hệ nhà – làng - nước.
Thiết chế cộng đồng dân cư cơ sở chi phối đến nhà nước thông qua thiết chế làng
việt cổ truyền với cả hai mặt tích cực và tiêu cực ảnh hưởng sâu sắc đến tận ngày nay mà
vẫn chưa phát huy hết hay xố bỏ hết.
Thứ hai, khơng giống như các xã hội phương Tây hay phương Đông, trong tiến trình
lịch sử ở Việt Nam khơng có sự giải thể các quan hệ công xã thị tộc để hình thành chế độ tư
hữu, từ đây khẳng định vai trị cá nhân; sự biến đổi ở đây từ cơng xã thị tộc gắn với quan hệ


huyết thống sang cơng xã nơng thơn và hình thành quan hệ láng giềng như một quan hệ tự
nhiên giữa các gia đình, các cá thể. Trong mơi trường kinh tế tự túc, nguyên tắc “an toàn trên
hết” quyết định, người nông dân thà giảm đến mức tối thiểu xác suất gặp tai hoạ còn hơn là
tăng đến mức tối đa thu nhập bình quân. Nhưng một mối quan tâm của người dân trong cộng
đồng dân cư cổ truyền là quan hệ huyết thống “họ và làng chồng lên nhau, quan hệ huyết
thống và quan hệ địa vực chồng lên nhau”. Thời Lý Trần thì loại cộng đồng dân cư này là khá
phổ biến, mang cấu trúc gia tộc phụ hệ, trọng đó mối ràng buộc huyết thống rất sâu sắc. Dòng
họ tồn tại như một kiểu tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư cơ sở cổ truyền lấy họ làm cơ sở và
các quan hệ họ hàng cũng là nền tảng của quản lý làng xã [83].
Sức vượt trội ngay từ đầu đã thuộc về cộng đồng chứ khơng phải là cá nhân nổi
trội nào đó. Do sức vượt trội ấy mà cá nhân lệ thuộc tuyệt đối vào cộng đồng cơ sở.
Trong cộng đồng dân cư cơ sở thì cá nhân tồn tại giữa một đơn vị tập thể, mỗi người
hành động chịu sự chi phối và đánh giá của họ hàng, của láng giềng, những mâu thuẫn,
những xích mích nội bộ trong mỗi một cộng đồng dân cư cơ sở là luôn xuất hiện nhưng

bao trùm lên trên hết vẫn là tình đồn kết, thơng qua những tình cảm thường nhật và trên
cơ sở tình cảm và quan hệ quyền lợi, người nơng dân xích lại gần với lý tưởng tương trợ và
đoàn kết. Họ gắn với nhau thành một khối chống lại quyền lực của quan lại hoặc của kẻ
nào đó muốn chiếm đoạt một vài món lợi làm thiệt hại cho cả cộng đồng. Phong tục, tập
quán trong cộng đồng được ý thức như là luật pháp. Và trong quá trình phát triển sâu rộng
khi đã có nhà nước và luật pháp của nhà nước phong kiến, sức mạnh của tập quán, tục lệ
trong các cộng đồng dân cư cơ sở vẫn còn sức chi phối, khơng ít trường hợp lấn át cả luật
pháp của nhà nước.
Thứ ba, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc bị phong kiến phương Bắc cai trị với
sức mạnh cố kết cộng đồng người Việt đã chống lại âm mưu đồng hố dân tộc và đã hình
thành được bản sắc của riêng mình, hoạt động tự quản đã xuất hiện trong tâm thức, tâm
linh để hình thành nên bản lĩnh của mình chống lại sự đồng hố của một quốc gia có trình
độ văn minh cao hơn. Khơng chấp nhận sự áp đặt văn hoá, ý thức tự vệ và bảo vệ những
giá trị riêng của cộng đồng làng xã của mình là nét nổi bật trong ý thức người Việt. Ở
mọi thời đại lịch sử đã qua, cộng đồng dân cư cơ sở phải dành hết nỗ lực và tinh lực cho
chiến tranh giải phóng để bảo vệ quyền sống, quyền tồn tại của mình, bảo vệ độc lập chủ


×