Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

TIỂU LUẬN: Thực hiện chính sách giáo dục - Đào tạo ở Hải Phòng hiện nay - thực trạng và giải pháp ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.54 KB, 100 trang )






















TIỂU LUẬN:


Thực hiện chính sách giáo dục - Đào tạo

ở Hải Phòng hiện nay - thực trạng và
giải pháp




















Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách phát triển GD-ĐT luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định
chính sách công ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Thế giới đang ở những năm cuối của
thập niên đầu tiên thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển mạnh
mẽ cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức. Nhân loại đang hướng tới một cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba lấy tri thức làm động lực phát triển; khoa học - công nghệ
trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. GD-ĐT là nền tảng của sự
phát triển khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội
hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm
và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát
triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. GD-ĐT trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh
“nhân văn hoá” tiến trình toàn cầu hoá, biến toàn cầu hoá thành điều có ý nghĩa đối với

tất cả các quốc gia, với từng con người. GD-ĐT phải đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực có
chất lượng cao cho xã hội.
Sau hơn 20 năm, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn. Việt Nam đang bước vào thời kỳ
phát triển mạnh với vị thế về diện mạo mới. Kinh tế liên tục phát triển đạt tốc độ tăng
trưởng cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Việt Nam đang
tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Mặc dù có những thành tựu, nền kinh tế
nước ta vẫn là nền kinh tế có mức thu nhập thấp. Các chỉ số về kết cấu hạ tầng, phát triển
con người vẫn ở mức thấp so với nhiều nước khu vực và trên thế giới. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN còn nhiều hạn chế, vướng mắc, chưa đồng bộ. Trong giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng
trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất
nước. GD-ĐT càng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đảng ta đã xác định: “Giáo dục - đào tạo là


quốc sách”, tư tưởng, quan điểm của Đảng được thể chế hoá, hoạch định thông qua các
chính sách của Nhà nước, của ngành GD-ĐT. Thực trạng sự nghiệp GD-ĐT và công tác
xây dựng chiến lược GD-ĐT của nước ta đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn,
bất cập trong việc hoạch định thực hiện các chính sách. Tháo gỡ và đổi mới GD-ĐT như
mục tiêu đặt ra phải quan tâm đến xây dựng hệ thống chính sách.
Thời kỳ trước đổi mới, Hải Phòng đã có đóng góp nhiều thành tựu cho đất nước về
kinh tế - xã hội. Từ đổi mới đến nay, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã năng động,
sáng tạo thực hiện các Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước và có các chính
sách để xây dựng, phát triển thành phố “đô thị loại một cấp quốc gia”. Trong đó có các
chính sách về GD-ĐT đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã xác định: “Đổi mới
mạnh mẽ, phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tăng cường đầu tư phát triển GD-ĐT theo quan điểm “là quốc sách hàng đầu” để tiếp tục
thực hiện toàn diện các mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,

phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng con người Hải Phòng phát triển toàn
diện cả về thể lực, trí lực, có tác phong công nghiệp, khoa học và có phẩm chất đạo đức,
lối sống trong sáng, lành mạnh”[44, tr.18].
Vai trò và thực trạng công tác GD-ĐT tạo trong bối cảnh chung của đất nước và
địa phương hiện nay đang rất cần có một cái nhìn, một hướng nghiên cứu mới về thực
hiện chính sách GD-ĐT. Từ hướng tiếp cận chính trị học về quá trình thực hiện chính
sách GD-ĐT của ngành GD&ĐT thành phố Hải Phòng, tác giả chọn: “Thực hiện chính
sách giáo dục - đào tạo ở Hải Phũng hiện nay - Thực trạng và giải phỏp” làm đề tài
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau
được thể hiện dưới các hình thức như: đề tài khoa học; giáo trình; bài báo; bài đăng tạp
chí Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề nghiên cứu dưới
các góc độ tiếp cận như:
2.1. Tiếp cận dưới góc độ lý thuyết chính sách công


- Hồ Văn Thông (Chủ biên, 1999), Tìm hiểu về khoa học chính sách công, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống các vấn
đề về chính sách công dưới góc độ lý thuyết như: khái niệm về chính sách công và khoa
học chính sách công; phân tích chính sách công trong thực tế; những khuynh hướng phát
triển cơ bản của chính sách công, công trình là tài liệu tham khảo quan trọng của luận
văn.
- Đoàn Thu Hà, Nguyễn Ngọc Huyền (Chủ biên, 2000), Giáo trình Chính sách
Kinh tế xã hội, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Công trình đã đề cập đến vấn đề nghiên
cứu trên các khía cạnh như: các công cụ quản lý kinh tế - xã hội; hoạch định và chính
sách kinh tế - xã hội; tổ chức thực thi chính sách kinh tế - xã hội; phân tích chính sách
- Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Chính sách công: Cơ sở lý luận,
Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đề tài đã nghiên
cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về chính sách công như: lý thuyết chính

sách công; các công cụ nghiên cứu chính sách công; các cách tiếp cận khi nghiên cứu
chính sách công.
- Chu Văn Thành (Chủ biên, 2004) Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là tập hợp các
bài viết về dịch vụ công, trong đó có giáo dục với tư cách là những dịch vụ công chủ yếu
mà Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp. Trong cuốn sách này, vấn đề nghiên cứu được đề cập
đến dưới góc độ vĩ mô, mang tầm quốc gia, đó là việc hoạch định và thực thi chính sách
giáo dục dưới góc độ chung.
- Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên, 2006), Giáo trình hoạch định và phân tích chính
sách công, Nxb Giáo dục. Cuốn sách đã đề cập đến chính sách công dưới góc độ chung
nhất, bao gồm các vấn đề như: nhận thức về chính sách công; hoạch định chính sách
công; tổ chức thực thi chính sách công; phân tích chính sách công.
2.2. Tiếp cận dưới góc độ chính sách giáo dục, tổng kết kinh nghiệm thực hiện
chính sách giáo dục- đào tạo
- Tiếp cận với góc độ này trong những năm gần đây, phải kể đến một số công
trình tiêu biểu: Phạm Tất Dong (1993), Giáo dục - đào tạo - nền tảng của chiến lược con


người, Tạp chí Cộng sản (3). Phạm Văn Đồng (1999), Về giáo dục - đào tạo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Trung tâm thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Toàn cảnh
giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đình Hoà (2001), Mối quan
hệ giữa giáo dục, đào tạo và công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Triết học (9). Phạm
Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (2003),Về giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Thị
ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo: Kinh nghiệm
Đông á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đặng Bá Lãm (2003), Giáo dục Việt Nam những
thập niên đầu thế kỷ XXI: chiến lược phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Lê Văn Giạng
(2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Nguyễn Hữu Châu (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

- Đề tài “Luận cứ khoa học cho việc đề xuất chủ trương, chính sách phát triển
giáo dục phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối
cảnh hội nhập quốc tế sâu và đầy đủ” của “Quỹ Hoà bình và phát triển” do bà Nguyễn
Thị Bình nguyên Phó Chủ tịch nước làm Chủ tịch. Các tác giả cho rằng, đây là công trình
lớn của quốc gia, đề xuất việc đầu tiên cần làm là lập Uỷ ban cải cách giáo dục, uỷ ban có
nhiệm vụ soạn thảo chiến lược giáo dục và phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 với
tầm nhìn 2030 và xa hơn.
- Đề tài “Tác động của các chính sách đổi mới giáo dục đại học đối với sự phát
triển quy mô của hệ thống giáo dục đại học” của TS Trần Văn Hùng - Viện Chiến lược
và chương trình giáo dục làm chủ nhiệm. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu
thực trạng về sự tác động của các chính sách đổi mới giáo dục đại học đối với sự phát
triển quy mô của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn vừa qua ở nước ta
và đề xuất những định hướng cho việc xây dựng chính sách phát triển giáo dục đại học
đến năm 2010.
- Đề án “Cải cách giáo dục Việt Nam - phân tích và đề nghị” của nhóm nghiên
cứu giáo dục Việt Nam (người Việt ở nước ngoài và trong nước) đã xem xét một cách
tương đối toàn diện tính hợp lý của chiến lược thị trường hoá nền giáo dục Việt Nam (ở


nước ta được gọi bằng “xã hội hoá”), phân tích và rút ra những vấn đề rất hữu ích cho
giáo dục Việt Nam: Mục tiêu của giáo dục và trách nhiệm xã hội; giáo dục và vấn đề
ngân sách nhà nước; kế hoạch cho hệ thống giáo dục.
Ngoài ra, cũng có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ viết về chính sách thuộc
chuyên ngành khác nhau liên quan đến GD-ĐT được bảo vệ ở Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, như:
- Nguyễn Thị Tứ (1993), Một số vấn đề chủ yếu của chính sách giáo dục - đào tạo
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội.
- Nguyễn Danh Thuận (2005), Cơ sở khoa học để xây dựng chính sách đầu tư đào
tạo tài năng nghệ thuật ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.

Các tác giả của các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận
về chính sách công, dịch vụ công, chính sách GD-ĐT trên nhiều phương diện khác nhau.
Những công trình này đã phân tích vai trò của GD-ĐT trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội; làm rõ mối quan hệ giữa phát triển GD-ĐT với phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
trong thời kỳ đổi mới.
Một số công trình đã phân tích, đánh giá được các mặt tích cực, hạn chế trong
quá trình phát triển GD-ĐT, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế khi tiến hành phát
triển GD-ĐT trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Một số tác giả đã đưa ra những dự báo về xu thế phát triển GD-ĐT ở nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; đưa ra những kiến
nghị về nâng cao chất lượng GD-ĐT Tuy nhiên, vẫn chưa có các công trình nghiên
cứu quá trình thực hiện chính sách GD-ĐT trên thực tế, đặc biệt việc thực hiện chính
sách đó ở một địa phương nhất định. Do đó, nghiên cứu về thực hiện chính sách GD -
ĐT ở Hải Phòng dưới góc độ chính trị học thì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở
nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu thực trạng quá trình thực hiện chính sách GD-ĐT ở Hải Phòng trong


giai đoạn 2000-2009.
- Đưa ra một số giải pháp về việc thực hiện hiệu quả chính sách GD-ĐT ở Hải
Phòng đáp ứng yêu cầu thời kỳ phát triển mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu việc thực hiện chính sách GD-ĐT từ góc độ lý luận.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách GD-ĐT ở Hải Phòng trong giai đoạn từ
năm 2000 đến 2009.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả chính sách GD-ĐT ở Hải
Phòng giai đoạn 2010-2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình thực hiện chính sách GD-ĐT ở Hải Phòng trong khoảng thời gian từ
năm 2000 đến 2009.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình thực hiện các chính sách GD-ĐT ở Hải Phòng từ năm 2000 đến 2009
(bao gồm bộ máy hành chính, các cơ quan chức năng, sở, phòng và hệ thống các trường
học ở các cấp học, ngành học và trình độ đào tạo ).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD-ĐT và thực hiện
chính sách về GD-ĐT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn được triển khai bằng
những phương pháp cụ thể sau: tiếp cận hệ thống; lịch sử - logic; phân tích - tổng hợp;
phân tích thống kê và xử lý tài liệu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào quá trình nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách GD-ĐT
ở Hải Phòng hiện nay.


- Luận văn cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện chính sách
GD-ĐT ở Hải Phòng trong giai đoạn 2010-2020; là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có
thẩm quyền và ngành GD&ĐT thành phố Hải Phòng trong việc thực hiện chính sách GD-
ĐT trong thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo
vận dụng cho các nhà lónh đạo, các nhà hoạch định chính sách về giáo dục - đào tạo, các
cấp chính quyền địa phương trong cả nước và ở Hải Phũng núi riờng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu hoặc những ai

quan tâm vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.



Chương 1
Một Số Vấn Đề Lý Luận
Về Thực Hiện Chính Sách Giáo Dục - Đào Tạo

1.1. CƠ Sở Lý Luận Về Chính Sách CÔNG Và Thực Hiện Chính Sách Giáo
Dục - Đào Tạo
1.1.1. Cơ sở lý luận về chính sách công
Khoa học về chính sách công được nghiên cứu ở phương Tây từ những năm 1940
của thế kỷ XX. Nhưng phải đến những năm 1980, chính sách công mới phát triển nhanh
chóng và được coi như một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt với các lý thuyết và các cách
tiếp cận của mình. ở Việt Nam, chính sách công mới được nghiên cứu vào những năm
cuối của thập niên 1990 và những năm đầu của thế kỷ XXI.
Định nghĩa về chính sách công là một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận
trong nghiên cứu khoa học - thực tiễn của khoa học khoa học xã hội, được tập trung ở hai
nhóm chủ yếu sau:
- Nhóm định nghĩa chính sách công với tư cách như là sản phẩm có mục đích của
nhà nước.
Thomas Dye quan niệm đặc trưng hoá chính sách công là “tất cả những gì nhà
nước lựa chọn làm hoặc không làm”. B.Guy Peters lại có một định nghĩa cụ thể hơn: “
Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước một cách trực tiếp hay gián tiếp,
đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi công dân”. James Anderson đưa ra một định
nghĩa chung hơn cho khái niệm chính sách, trong đó chính sách công chỉ là một nội hàm
“chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều

chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”.
- Nhóm định nghĩa chính sách công với tư cách là một tập hợp các bước giải
quyết các vấn đề công cộng.
John Dewey có lẽ là người đầu tiên đưa ra kiểu định nghĩa này. Dewey phân chia
quá trình hoạch định chính sách công thành năm giai đoạn: cảm nhận tình huống có vấn
đề, các định vấn đề, hình thành các giải pháp, xem xét các khía cạnh của các giải pháp và


lựa chọn một giải pháp rồi thực hiện. Sau đó, Harold Lasswell mô tả quá trình chính sách
như là một quá trình ra quyết định có tính sáng tạo bao gồm các bước: tranh luận, đưa ra
các giải pháp, lựa chọn, áp dụng - thực thi và kết thúc.
Cũng có một số tác giả khác đưa ra các định nghĩa về chính sách công theo quan
điểm của lý thuyết hệ thống, trong đó nổi bật là định nghĩa của Garry Brewer và Peter de
Leon: Chính sách công là những quyết định quan trọng nhất của xã hội, là những hành
động có tính chức năng dựa trên sự đồng thuận hoặc phê chuẩn của toàn hệ thống. Theo
hai tác giả này thì quá trình hoạch định chính sách gồm sáu giai đoạn: khởi xướng, tranh
luận, lựa chọn, thực thi, đánh giá và kết thúc.
Cuối cùng, Deborah Stone lại đưa ra một định nghĩa có tính chất phê phán đối với
tất cả các định nghĩa trên: “ Các định nghĩa về chính sách công không bao hàm được cái
mà tôi cho là bản thân của quá trình hoạch định chính sách trong các môi trường chính
trị: đó chính là các cuộc đấu tranh tư tưởng. Hoạch định chính sách là một cuộc đấu tranh
không ngừng trong việc đưa ra các chuẩn mực cho việc phân loại, giới hạn và xác định
các giá trị định hướng hành vi của con người”[48, tr.11-13].
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể, nhưng các định nghĩa trên đều có một xu hướng
chung là muốn thâu tóm khái niệm chính sách công trong tính tổng thể của nó - tức là
tổng thể của các mối quan hệ nhân quả chồng chéo vượt ra ngoài mọi sự phân tích từng
chủ thể cá nhân. Chính sách công là một vấn đề mang bản chất xã hội - nhà nước. Nói
đến chính sách công là nói đến sáu vấn đề quan trọng sau đây:
(1). Chính sách công là sản phẩm của một quá trình thực thi quyền lực chính trị.
(2). Quá trình hoạch định chính sách chủ yếu được diễn ra trong bộ máy nhà nước.

(3). Quá trình hoạch định chính sách bao hàm sự trao đổi thông tin và các nguồn
lực, thảo luận, thương thuyết giữa và trong các thể chế nhà nước.
(4). Quá trình hoạch định chính sách cũng bao hàm sự tương tác với các tổ chức
bên ngoài nhà nước. Nội dung, sự khăng khít và thời gian của những tương tác này cũng
là những chủ đề quan trọng của việc nghiên cứu chính sách công.
(5). Mục đích căn bản của chính sách công là hướng tới việc làm tăng khả năng có
thể xảy ra của một hiện tượng xã hội đang khao khát.


(6). Các thể chế nhà nước có quyền và trách nhiệm đối với các vấn đề công cộng
thường chính thống hoá các hoạt động của họ bằng cách tuyên bố rằng, những chính sách
của họ là vì lợi ích chung chứ không thiên vị một nhóm, một khu vực, hoặc một cá nhân
nào.
H.K.Colebatch, tác giả cuốn “Chính sách” (Policy) cho rằng, chính sách thường có
ba đặc trưng: sự chặt chẽ, tính thứ bậc và tính công cụ.
Sự chặt chẽ: là sự giả định rằng tất cả các phần nhỏ của hành động phù hợp với
nhau, chúng tạo thành bộ phận của một chỉnh thể có tổ chức, vượt hệ thống duy nhất và
chính sách liên quan đến hệ thống này được điều hành như thế nào.
Tính thứ bậc: tiến trình chính sách là những người ở trên cùng đưa ra các hướng
dẫn. Chính sách được xem là quyết định có tính cưỡng chế về những gì sẽ được làm
trong lĩnh vực cụ thể nào đó.
Tính công cụ: chính sách được hiểu là sự theo đuổi những mục đích cụ thể (những
mục tiêu chính sách).
Chính sách có ba thuộc tính: thẩm quyền, kỹ năng và trật tự. Trước hết chính sách
dựa vào thẩm quyền: quyền hành làm cho chính sách trở nên hợp pháp và các vấn đề chính
sách xuất hiện và bắt nguồn từ các nhân vật nắm quyền hành. Thứ hai, tính kỹ năng: chính
sách được xem, như một tiến trình mang quyền lực của tổ chức đặt vào một một khu vực vấn
đề cụ thể nào đó. Tri thức chính sách được chia nhỏ thành các khu vực chức năng: chính
sách giáo dục, chính sách giao thông. Tính trật tự: chính sách là một hệ thống và sự nhất
quán. Quyết định chính sách không thể tuỳ tiện hoặc thất thường [6, tr.11,12].

Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến lược
sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan
tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha
đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và bảo vệ an toàn Tổ
quốc” [51, tr. 99-100].
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Chính sách là chiến lược và kế hoạch cụ thể nhằm
đạt một mục đích nhất định, dựa vào một đường lối chính trị chung và tình hình thực tế
mà đề ra’’ [50, tr.157].


Các tác giả của Tập bài giảng Chính trị học của Viện Chính trị học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Chính sách công là chương
trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [54, tr.
257].
Theo tác giả Nguyễn Hữu Hải trong “Giáo trình Hoạch định và phân tích chính
sách công" thì, “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn
đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [18, tr.14].
Trong thang bậc của hệ thống quyền lực nhà nước, mọi cấp chính quyền đều có
thể có những chính sách trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình. Với nghĩa này người
ta có thể chia chính sách công ra thành hai loại: chính sách quốc gia (áp dụng cho toàn bộ
đất nước) và chính sách địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện, và cấp xã).
Cho dù có thể có những cách hiểu khác nhau, song nhìn chung, một cách cô đọng
nhất có thể xem chính sách công là chương trình hành động của nhà nước nhằm giải
quyết các vấn đề cụ thể. Hoặc chính sách công là tập hợp các văn bản, được quyết định
bởi chủ thể nắm quyền lực nhà nước, nhằm quy định mục đích và cách thức, hành động
của những đối tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề mà xã hội quan tâm.
Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất của đường
lối, nhiệm vụ cụ thể. Muốn định ra chính sách đúng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn
trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định

trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ
thể.
Chính sách công còn được hiểu là các quan điểm, cách thức, biện pháp của nhà
nước nhằm cụ thể hoá đường lối của đảng cầm quyền tác động đến các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhằm đạt được mục tiêu trong mỗi thời kỳ khác nhau.
Mỗi chính sách được triển khai trên thực tế phải trải qua một chu trình với nhiều
công đoạn khác nhau. Chu trình chính sách là tất cả các công việc từ đầu đến cuối của
một chính sách, kể từ khi nảy ra ý tưởng tới việc định hình, kiểm nghiệm, sửa đổi hoặc
huỷ bỏ nó. Việc thực hiện chính sách công diễn ra theo một logic, trật tự và đặc biệt có


tính kế thừa rất cao.
Quá trình thực hiện chính sách công chính là việc lần lượt thực hiện các bước sau:
(1) Xác lập nghị trình hành động; (2) Xây dựng chính sách hay ra quyết định chính sách;
(3) Triển khai thực hiện chính sách (4) Tổng kết, đánh giá chính sách hay phân tích tác
động của chính sách và cuối cùng là những phản hồi đối với các chính sách đang được áp
dụng, từ đó có thể dẫn tới việc xem xét lại hay chấm dứt chính sách công đó.
Như vậy, chính sách công là một chu trình khép kín. Quá trình hình thành chính
sách công trên thực tế là quá trình các chủ thể lợi ích đưa ra yêu cầu của mình và các chủ
thể chính sách căn cứ vào yêu cầu lợi ích của xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ lợi
ích phức tạp ấy. Cụ thể các bước trong chu trình như sau:
Bước 1: Xác lập nghị trình
Xác lập nghị trình thực chất là xác định vấn đề gì cần được quan tâm, ra chính
sách. Đó là các yếu tố đầu vào của hệ thống chính sách.
Một chính sách ra đời bao giờ cũng là sản phẩm đầu ra của cả một hệ thống. ở tầm
vĩ mô, đó là sản phẩm của hệ thống chính trị. Quá trình tạo ra được “sản phẩm đầu ra”
phải trải qua nhiều công đoạn. Trước hết, đó là phải xác định được vấn đề của chính sách.
Vấn đề của chính sách nằm ngay trong các nhu cầu chính sách (hay còn gọi là nhu cầu
chính trị). Các nhu cầu này xuất phát từ lợi ích cá nhân, các nhóm xã hội, của các đảng
chính trị, thậm chí của các quốc gia cần được đáp ứng.

Trong thời điểm mà những vấn đề nêu trên trở thành bức xúc, trong khi xã hội vẫn
tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích của các nhóm dân cư, các lực lượng chính trị,
xã hội khác nhau thì làm sao có thể lựa chọn được vấn đề đúng cho chính sách. Điều này
liên quan đến yếu tố đầu vào thứ hai là thông tin. Các thông tin đến được với các nhà
khoa học từ các nguồn khác nhau: từ truyền miệng, qua dư luận, thông qua những kiến
nghị bằng văn bản qua hệ thống chính quyền, thông qua truyền thông đại chúng, từ các
kết quả nghiên cứu khoa học, từ hoạt động vận động hành lang, và từ nguồn thu thập
thông tin chính thức của hệ thống các cơ quan hoạch định chính sách.
Vấn đề đặt ra ở đây là cho dù một vấn đề xã hội thực sự bức xúc hoặc một sáng
kiến chính sách rất tốt, nhưng nếu không có cách nào để đưa nó vào trong chương trình


nghị sự, thì nó sẽ không thể trở thành chính sách được. Đây là quá trình thực thi quyền
lực chính trị và quyền lực nhà nước rất phức tạp thông qua hệ thống chính trị và hệ thống
xã hội, mà kết quả phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan của các lực lượng chính trị,
của xã hội và của các nhà hoạch định chính sách.
Bước 2: Xây dựng và ban hành chính sách
Từ tất cả các thông tin trên, hệ thống hoạch định chính sách phải xác định được
vấn đề nào cần đặt vào chương trình nghị sự. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định cần có
một tầm nhìn dài hạn. Họ phải dự báo trong thời gian 5 năm, 10 năm, hoặc 20 năm tới,
tình hình kinh tế - xã hội sẽ phát triển như thế nào; các nguồn lực được sử dụng như tài
chính, nguồn nhân lực và các cơ sở vật chất khác, để việc thực thi chính sách đạt kết quả
tốt. Chính sách có thể đem lại lợi ích và thiệt hại tiềm năng cho các đối tượng nào liên
quan. Trên cơ sở đó, cơ quan hoạch định chính sách tiến hành các bước sau:
+ Thu thập, phân tích thông tin.
+ Phát triển các phương án giải quyết vấn đề.
+ Xây dựng liên minh chính trị.
+ Đàm phán, thoả hiệp và thông qua chính sách.
+ Các vấn đề chính trị đặt ra trong quá trình ra chính sách.
Cụ thể, trong quá trình hoạch định chính sách phải tiến hành thu thập, nắm bắt

thông tin để đưa ra được các chính sách bám sát vào những vấn đề của thực tiễn sinh
động, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của địa phương.
Các chính sách cũng phải đạt mục tiêu phát huy tính đoàn kết, thống nhất giữa các
dân tộc, thuyết phục được người dân tự giác trong quá trình thực hiện.
Bước 3: Triển khai thực hiện chính sách.
Các chính sách khi được thông qua đều phải được tổ chức triển khai. Giai đoạn
này bao gồm: ban hành các văn bản có tính pháp lý, quy định trách nhiệm, quyền hạn
cũng như việc thực thi các hành động và biện pháp cụ thể. Để triển khai có hiệu quả
chính sách, cần đảm bảo ba điều kiện tối thiểu:
- Cơ quan được giao nhiệm vụ các nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực
- Cơ quan này phải có đủ thẩm quyền kỹ thuật chuyên môn để biến các mục tiêu


thành các chương trình hành động cụ thể thích hợp.
- Cơ quan này cũng phải chịu trách nhiệm về các hoạt động triển khai nó.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả tập trung vào vấn đề triển khai thực hiện chính
sách, cụ thể là việc thực hiện chính sách GD-ĐT ở thành phố Hải Phòng trong giai đoạn
2000-2009.
Bước 4: Tổng kết đánh giá chính sách
Khâu quản lý chính sách có đạt được những mục tiêu đặt ra hay không phải được
thể hiện trong công đoạn tổng kết, đánh giá. Vì vậy, tổng kết để đánh giá quá trình triển
khai, hiệu quả triển khai và các tác động thực tế của chính sách. Việc đánh giá chính sách
được thực hiện trên một số khía cạnh như: đánh giá chính trị, đánh giá kỹ thuật, đánh giá
toàn diện, phân tích chi phí lợi nhuận, phân tích từ góc độ thông tin, những hạn chế của
chính sách, những kinh nghiệm được rút ra để phục vụ cho việc đề xuất, soạn thảo những
chính sách mới phù hợp hơn.
1.1.2. Thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo
Thực hiện chính sách GD-ĐT là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách
công. Trong thực tiễn có nhiều loại chính sách khác nhau, xuất phát từ tầm quan trọng
của GD-ĐT, chính sách GD-ĐT là một trong những chính sách quan trọng. Chính sách

GD-ĐT nhằm phát triển GD-ĐT với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực
phát triển xã hội và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Theo Từ điển Bách khoa:
Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm
chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất,
nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Đây là một hiện tượng xã hội đặc trưng
của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành
một chức năng sinh hoạt không thể thiếu được và không bao giờ mất đi ở mọi
giai đoạn phát triển của xã hội. Giáo dục là một bộ phận của quá trình tái sản
xuất mở rộng sức lao động xã hội, một trong những nhân tố quan trọng nhất
thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt. Giáo dục mang tính lịch sử cụ thể, tính


chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục biến đổi
theo các giai đoạn phát triển của xã hội, theo các chế độ chính trị - kinh tế của
xã hội [57].


Cùng với khái niệm giáo dục người ta còn dùng khái niệm đào tạo, Từ điển Bách
khoa định nghĩa:
Đào tạo là hệ thống các biện pháp, các tổ chức đào tạo và giáo dục của
một nước. Đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho
người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ
thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhân
một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển
xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người.
Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn với giáo
dục đạo đức, nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo (trình độ học vấn) của
một người còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và tham

gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút kinh nghiệm của người đó
quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo
một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao. Tuỳ theo tính chất
chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn
và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ cho nhau với những nội
dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học,
kĩ thuật và văn hoá của đất nước. Khái niệm giáo dục nhiều khi bao gồm cả các
khái niệm đào tạo. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên sâu,
đào tạo cơ bản, đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa [57].
Đào tạo là một dạng đặc thù của giáo dục nên quá trình đào tạo cũng tuân theo
những quy luật chung của giáo dục. Song, do những đặc điểm riêng của đào tạo (mục
tiêu, đối tượng, phương pháp) nên trong thực tế giáo dục người ta thường tách riêng giáo
dục, đào tạo.
Qua những nghiên cứu, phân tích khái niệm chính sách công; giáo dục và đào tạo
ở trên, tác giả luận văn cho rằng: Chính sách GD-ĐT là hệ thống những quan điểm,


đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; các Bộ, ngành trung ương và chính quyền địa
phương về hoạt động GD-ĐT nhằm phát triển và hoàn thiện công tác GD- ĐT với mục
đích “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ quan niệm về chính sách GD-ĐT như trên, theo tác giả, thực hiện chính sách
GD-ĐT là quá trình biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các
hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hoá các chính sách GĐ-ĐT
đã đề ra.
ở Việt Nam, chính sách quốc gia (trong đó có chính sách về GD-ĐT) trong giai
đoạn hiện nay có thể được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Bộ máy chính sách của Nhà nước Việt Nam



















Huy
ện ủy

Huy
ện

Th
ủ t
ư
ớng

Chính phủ
VP Chính ph



Ch
ủ tịch UBND tỉnh

UBND tỉnh
B
ộ và c
ơ quan ngang b


S


T
ổng bí th
ư

Bộ chính trị
VP Trung ương

Các ban c
ủa
Đ
ảng

Bí thư t
ỉnh ủy

Tỉnh ủy
Các ban


CHủ TịCH NƯớC
CH
ủ TịCH QH
UBTVQH
QUốC HộI
BCH TRUNG ƯƠNG
X
ã


Đ
ảng ủy xã

H
ội
đ
ồng nhân
dân tỉnh
H
ội
đ
ồng nhân
dân huyện
H
ội
đ
ồng nhân
dân xã




Nguồn: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học, Tập bài giảng
Chính trị học, Hệ cử nhân chính trị, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Sơ đồ này chia theo hai trục: trục Nhà nước - Đảng, và trục Trung ương - địa
phương. Sơ đồ này chưa thể hiện được hết các đặc điểm của bộ máy chính sách nước ta,
tuy nhiên nó mô tả được hai đặc điểm quan trọng nhất của bộ máy, đó là: cơ chế song
trùng trực thuộc và sự phân định chức năng quản lý - lãnh đạo. Sơ đồ này cũng thể hiện
được nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong công cuộc đổi mới của nước ta - đó là đảm
bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính trị.
Cho đến nay, quan hệ giữa các cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) cũng như giữa
các cơ quan Đảng và Nhà nước vẫn rất phức tạp và chồng chéo. Vai trò và sự phân công,
phân quyền giữa các ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp vẫn chưa rõ ràng. Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp vẫn chưa đủ năng lực và cơ sở vật chất để hoàn thành trách
nhiệm ngày càng cao. Các đổi mới về chức năng như vậy đòi hỏi phải thay đổi tổ chức và
thiết chế tương ứng cũng như việc quản lý ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, thực tế nước ta cho thấy sự cần thiết phải xây dựng quá trình ra chính
sách một cách khoa học, huy động được trí tuệ tập thể, thoả mãn được các nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân, khắc phục sự phiến diện và áp đặt tiềm ẩn của cơ quan ra
chính sách hiện nay. Việc huy động và tham khảo ý kiến của đông đảo cán bộ, nhân
dân, việc tuyên truyền giải thích chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi
các chính sách theo đúng như dự kiến.
Như vậy, có thể khái quát hoá sự đổi mới của bộ máy chính sách của nước ta
diễn ra trong 3 lĩnh vực chính: chức năng (sự chuyển giao theo chiều ngang Đảng -
Nhà nước, cũng như chiều dọc trung ương - địa phương), thiết chế (cải cách bộ máy
hành chính và bộ máy của Đảng), và quá trình (sự tham gia của các cơ quan tham
mưu, cán bộ đảng viên và nhân dân). Đây cũng là vấn đề mang tính cấp bách trong
hoạch định chính sách của nước ta.
1.2. Chính Sách Giáo Dục - Đào Tạo TRONG Thời Kỳ CÔNG Nghiệp Hoá,
Hiện Đại Hoá



1.2.1. Nội dung của chính sách giáo dục - đào tạo
Trong luận văn này, tác giả xem xét các chính sách GD-ĐT Việt Nam thực hiện
bởi quyền lực nhà nước (và các đường lối, Nghị quyết của Đảng được thể chế hoá thông
qua quyền lực nhà nước) được quy định bởi Hiến pháp, luật pháp và văn bản quy phạm
pháp luật.
Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (Hiến pháp 1992
sửa đổi) thì phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo
dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục
là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo
những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo
đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [49, tr.211].
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn
bằng.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo dục
phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; thực hiện phổ cập giáo
dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức
giáo dục khác.
Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản hồ Chí Minh, các tổ
chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng [49, tr.211].
Về thẩm quyền hoạch định chính sách GD-ĐT, theo quy định của Luật tổ chức
Chính phủ thì Chính phủ quy định chính sách cụ thể về giáo dục để đảm bảo phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu; ưu tiên đầu tư, khuyến khích các nguồn lực để phát triển
sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng
nhân tài. Thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội
dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chức

danh khoa học, các loại hình trường lớp và các hình thức giáo dục khác; thực hiện phổ


cập giáo dục trung học cơ sở và chống tái mù chữ.
- ở cấp Trung ương
Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo;
tham mưu cho Chính phủ xây dựng chính sách giáo dục theo quy định của Luật tổ chức
Chính phủ và Nghị định số 85/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ
Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan khác trong
việc hoạch định chính sách GD-ĐT.
- ở cấp địa phương
+ HĐND cấp tỉnh quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp GD-ĐT;
quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động GD-
ĐT ở địa phương.
+ UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm về phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về GD-ĐT trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, UBND tỉnh chịu
trách nhiệm trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển GD-
ĐT trên địa bàn tỉnh trình HĐND cấp tỉnh thông qua hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
+ Sở GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về giáo dục trong phạm vi toàn tỉnh. Xây dựng và trình UBND cấp tỉnh quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển giáo dục ở địa phương; tổ chức thực hiện
sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ HĐND cấp huyện quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng
mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung.
UBND cấp huyện chịu trách nhiệm trước UBND cấp tỉnh về phát triển giáo dục
mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn huyện. Xây dựng các chương trình, đề án
phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua; tổ

chức và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chương trình, đề án giáo dục đã được phê
duyệt; đảm bảo các điều kiện về ngân sách và biên chế giáo viên, cơ sở vật chất và kỹ


thuật để thực hiện theo quy định của pháp luật.
Phòng GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn huyện. Chủ trì xây dựng và trình UBND cấp huyện
các chương trình, đề án phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện; tổ chức thực hiện sau
khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ HĐND cấp xã quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em
vào học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình phổ cập tiểu học; tổ chức các
trường mầm non, thực hiện bổ túc văn hoá và xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi.
UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo thẩm quyền về giáo dục trên
địa bàn xã.
1.2.2. Nội dung của việc thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo
- ở cấp Trung ương
Theo quy định pháp luật thì Bộ GD&ĐT là cơ quan tham mưu cho Chính phủ
trong quản lý nhà nước về GD&ĐT. Các Bộ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn quản lý nhà nước quy định tại Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của mỗi Bộ; đồng thời phối hợp với Bộ GD&ĐT bảo đảm
sự thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Các Bộ, ngành tham gia ý kiến với Bộ
GD&ĐT xây dựng chương trình khung giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp theo
quy định tại khoản 3 Điều 5 của Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2000
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục. Cụ
thể, trong việc thực hiện chính sách GD-ĐT, Bộ GD&ĐT có thẩm quyền:
+ Chỉ đạo, kiểm tra các cơ sở giáo dục trực thuộc thực hiện các quy định về mục
tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và
quản lý hệ thống văn bằng theo quy định.
+ Thực hiện quản lý các cơ sở giáo dục trực thuộc về tổ chức, biên chế, nhân sự,
tài chính, tài sản và cơ sở vật chất theo quy định của pháp luật; bảo đảm các điều kiện

giảng dạy, học tập và các hoạt động khác của các cơ sở giáo dục trực thuộc.
+ Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục đối với
các cơ sở giáo dục trực thuộc; xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các cơ sở


giáo dục trực thuộc theo quy định của pháp luật.
+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ
Nội vụ và các cơ quan có liên quan, tổng hợp chỉ tiêu đào tạo và bồi dưỡng hàng năm và
đưa kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
chịu trách nhiệm về tính hợp lý, sự đáp ứng nhu cầu thực tiễn và cân đối về cơ cấu nguồn
nhân lực được đào tạo.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xây dựng dự toán, phân bố,
tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; xây dựng các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức về tài chính - ngân sách; bảo đảm tài chính và thực hiện thanh tra, kiểm tra tài chính
- ngân sách đối với lĩnh vực GD-ĐT theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước và các
văn bản pháp luật có liên quan.
+ Phối hợp với Bộ Nội vụ thực hiện những quy định về quản lý biên chế ngành
GD-ĐT quy định tại Điều 8, Điều 9, Điều 11 của Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19
tháng 6 năm 2003 của Chính phủ và thực hiện quản lý viên chức sự nghiệp giáo dục và
đào tạo theo quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 49 của Nghị định số 116/2003/NĐ-CP
ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán
bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước.
- ở cấp địa phương
+ HĐND cấp tỉnh giám sát việc thực hiện chính sách giáo dục trong phạm vi tỉnh,
đảm bảo cho công tác GD-ĐT phát triển đúng quy hoạch, kế hoạch và định hướng của
địa phương.
+ UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm về phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về GD-ĐT trên địa bàn tỉnh và có những nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
(1). Thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển GD-ĐT trên

địa bàn tỉnh theo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh đã thông qua hoặc đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; bảo đảm các điều kiện về ngân sách, biên chế giáo viên, cơ sở vật
chất và kỹ thuật; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện của Sở GD&ĐT, các Sở, Ban, ngành có
liên quan và UBND cấp huyện.


(2). Thực hiện quản lý nhà nước đối với các loại hình trường, lớp học được giao
theo thẩm quyền. Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể, đình chỉ hoạt động
của các trường THPT, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường THCN thuộc tỉnh, trung
tâm GDTX, trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tỉnh, trung tâm kỹ thuật tổng hợp -
hướng nghiệp trên cơ sở bảo đảm đúng quy hoạch, điều kiện và thủ tục quy định của Bộ
GD&ĐT.
(3). Chỉ đạo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong tỉnh.
(4). Quyết định công nhận trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông đạt chuẩn quốc gia theo đúng các quy định của Bộ GD&ĐT.
(5). Quy định tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của Sở GD&ĐT theo
hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Bộ GD&ĐT.
(6). Hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp GD-ĐT trong việc lập kế hoạch biên
chế và thực hiện định mức biên chế sự nghiệp GD-ĐT theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT;
kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, tổ chức bộ máy và
biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp GD-ĐT.
(7). Quản lý và kiểm tra việc thực hiện tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi và việc
cấp bằng, chứng chỉ theo quy định của pháp luật.
(8). Tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và phổ cập giáo
dục trên địa bàn tỉnh.
(9). Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về giáo dục ở địa phương theo
quy định của pháp luật.
(10). Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong GD-ĐT theo quy định
của pháp luật.
(11). Trình HĐND cấp tỉnh phê duyệt tổng biên chế hành chính và biên chế sự

nghiệp GD-ĐT của tỉnh hàng năm trên cơ sở định mức biên chế do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành. Quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế hành chính của Sở GD&ĐT.
+ Trách nhiệm của Sở GD&ĐT.
Sở GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về giáo dục trong phạm vi toàn tỉnh:


(1). Thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển GD-ĐT ở địa
phương; tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
(2). Chịu trách nhiệm quản lý các trường trực thuộc: trung tâm giáo dục thường
xuyên, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục cấp
tỉnh, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, trường, lớp dành cho người tàn tật,
trường, cơ sở thực hành sư phạm.
(3). Giúp UBND cấp tỉnh quản lý công tác chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức, biên
chế nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động giáo dục khác của các cơ sở giáo dục theo
quy định của pháp luật.
(4). Trình UBND cấp tỉnh cấp phép hoạt động của các tổ chức dịch vụ du học tự
túc trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra hoạt
động của tổ chức này theo quy định của pháp luật và phân công của Chủ tịch UBND cấp
tỉnh.
(5). Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện về chuyên môn, nghiệp vụ đối với
Phòng GD&ĐT và các cơ sở giáo dục trực thuộc các Sở, ngành khác.
(6). Chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị sự nghiệp giáo dục trực thuộc lập kế hoạch biên
chế; tổng hợp và lập kế hoạch biên chế sự nghiệp giáo dục toàn tỉnh theo hướng dẫn của
cơ quan có thẩm quyền quản lý việc này.
(7). Tổ chức lập dự toán ngân sách giáo dục hàng năm của tỉnh gửi Sở Tài chính,
Sở kế hoạch và Đầu tư, lập dự toán chi các chương trình mục tiêu quốc gia theo quy định
của pháp luật. Sau khi được UBND cấp tỉnh giao dự toán ngân sách, phối hợp với Sở Tài
chính phân bổ và giao dự toán chi ngân sách, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện.
(8). Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành và UBND cấp huyện thực hiện xoá mù

chữ và phổ cập giáo dục trên địa bàn.
(9). Tổ chức ứng dụng các kinh nghiệm, thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến
trong giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, sáng kiến của địa phương; quản lý, chỉ đạo công
tác nghiên cứu khoa học - công nghệ trong các trường, các cơ sở giáo dục trực thuộc sở
quản lý.
(10). Hướng dẫn, chỉ đạo phong trào thi đua, xây dựng và nhân điển hình tiên tiến


về giáo dục trên địa bàn tỉnh.
(11). Quản lý, chỉ đạo việc xây dựng, bảo quản, sử dụng tài sản và cơ sở vật chất
trường học; công tác phát hành sách giáo khoa, ấn phẩm giáo dục, thiết bị thí nghiệm và
các phương tiện giáo dục khác theo quy định.
(12). Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; xử lý vi phạm và
giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
+ HĐND cấp huyện giám sát việc thực hiện chính sách GD-ĐT trên địa bàn
huyện. UBND cấp huyện thực hiện việc thực hiện các chương trình, đề án phát triển sự
nghiệp giáo dục của huyện; tổ chức và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chương trình,
đề án giáo dục đã được phê duyệt; đảm bảo các điều kiện về ngân sách và biên chế giáo
viên, cơ sở vật chất và kỹ thuật để thực hiện theo quy định của pháp luật. Quản lý nhà
nước các cơ sở giáo dục - đào tạo đóng trên địa bàn. Chỉ đạo việc xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục trên địa bàn huyện và thực hiện các quy định về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế
thi. Chỉ đạo, triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, thực hiện cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về tài chính và tổ chức đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục của
huyện theo quy định của pháp luật.
Phòng GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn huyện. Tham mưu cho UBND cấp huyện thực hiện
các chương trình, đề án phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện; tổ chức thực hiện sau
khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Giúp UBND cấp huyện quản lý công tác chuyên
môn, nghiệp vụ, tổ chức, biên chế, nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động khác của
các trường mầm non, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trường THCS, trường phổ thông

dân tộc bán trú, trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục huyện theo quy định của pháp
luật. Hướng dẫn, kiểm tra các cơ sở giáo dục đào tạo công lập thuộc phạm vi quản lý của
huyện, xây dựng kế hoạch biên chế sự nghiệp hàng năm để UBND cấp huyện trình cấp
có thẩm quyền quyết định. Chủ trì, phối hợp với các phòng và UBND cấp xã thực hiện
phổ cập giáo dục trên địa bàn huyện. Hướng dẫn, chỉ đạo phong trào thi đua của ngành,
xây dựng và nhân điển hình tiên tiến về giáo dục trên địa bàn huyện. Quản lý, chỉ đạo
việc xây dựng, bảo quản, sử dụng tài sản và cơ sở vật chất trường học; việc phát hành

×