Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

LUẬN VĂN: Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp ở tỉnh vĩnh phúc docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.43 KB, 81 trang )








LUẬN VĂN:


Tác động của phát triển công nghiệp đối với
nông nghiệp ở tỉnh vĩnh phúc








MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp và nông nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh ví như hai chân của nền
kinh tế. Phát triển công nghiệp có tác động lớn tới nông nghiệp thúc đẩy nông nghiệp
phát triển. Ngược lại nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện tích luỹ vốn ban đầu cho
phát triển công nghiệp. Sau hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt sau Nghị quyết Trung ương 5
(khoá IX) nền nông nghiệp Việt Nam đó đạt những thành tựu khá toàn diện và to lớn, tốc
độ tăng trưởng kinh tế đạt cao, không những đảm bảo an ninh lương thực mà cũn cú sản
phẩm xuất khẩu, một số sản phẩm được thị trường quốc tế ưa chuộng. Tuy nhiên tốc độ
tăng trưởng của nông nghiệp chậm hơn công nghiệp và nền nông nghiệp đang chịu tác
động mạnh mẽ làn sóng phát triển công nghiệp. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần


thứ X chỉ rừ:
Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ
cao…Xây dựng và thực hiện tốt chương trỡnh phát triển công nghiệp phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tập trung nguồn lực phát
triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh,
tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm,
thuỷ sản… [17, tr.196 - 197].
Vĩnh Phúc nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, nhưng có địa hỡnh đa dạng và
được nhiều địa phương trong cả nước biết đến với “khoán hộ” vào thập niên 60 của thế
kỷ XX. Được tái lập năm 1997, tại thời điểm đó nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ
cấu kinh tế, 85% dân cư sống bằng nghề nông, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác, do điều kiện địa lý tự nhiên, Vĩnh Phúc có khả năng phát triển công nghiệp
- dịch vụ. Thực tiễn trong hơn 10 tái lập tỉnh, sự phát triển công nghiệp của Vĩnh Phúc
đó thỳc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp -
xây dựng và dịch vụ (năm 2008 chiếm 82%). Sự chuyển dịch này có ảnh hưởng toàn
diện tới sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Phúc. Phát triển công nghiệp là nền tảng nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, tăng thu ngân sách để có điều kiện tái đầu tư cho
nông nghiệp. Quá trỡnh phỏt triển cụng nghiệp của Vĩnh Phỳc thời gian qua đó tỏc

động lớn tới phát triển nông nghiệp của tỉnh cả tác động tích cực và tác động tiêu cực.
Cần phải có sự nghiên cứu về những tác động này để tỡm ra cỏc giải pháp phù hợp
phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp của
tỉnh. Vỡ vậy, đề tài nghiên cứu “Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông
nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc” được học viên lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ
kinh tế.
2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu liên quan đến luận văn
Nghiên cứu về tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp cho đến nay
vẫn cũn hạn chế, nhưng nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn thỡ đó cú nhiều nhà khoa
học và cỏc tỏc giả quan tõm, cụ thể:
- Nguyễn Phúc Thọ, Tác động tiêu cực của công nghiệp hoá tới nội dung xây dựng

khu công nghiệp tập trung đến sản xuất và đời sống của các hộ nông dân bị thu hồi đất
sản xuất ở xó Nam Sơn, huyện Quế Vừ, tỉnh Bắc Ninh. www.hua.edu.vn.
- Nguyễn Quốc Thanh, Phát triển công nghiệp ở nông thôn gắn với bảo vệ môi
trường. www.quangtri.vn.
- Bùi Huy Đáp - Nguyễn Điền (1996), Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi
mới Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đỡnh Phan (2007), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
- Đặng Kim sơn (2008), Nông nghiệp nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và
mai sau Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS Nguyễn Thế Trường (2008) Hoàn thiện tổ chức sản xuất nông nghiệp ở các
tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
- Phạm Thị Khanh (2005), “Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp bền vững ở Việt
Nam”, Tạp chớ Lý luận chớnh trị, tr 33 - 40.
- Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hỡnh về phỏt triển nụng nghiệp,
nụng thụn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Ngoài ra cũn nhiều luận văn Thạc sĩ kinh tế về đề tài nông nghiệp, nông thôn dưới
các góc độ và ở các địa phương khác nhau.
Tại Vĩnh Phúc cũng đó cú những cụng trỡnh nghiờn cứu như: TS Nguyễn Thế
Trường (2008), Những biến đổi kinh tế - xó hội ở Vĩnh Phỳc giai đoạn 1997 - 2005 Nxb
Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội; Hoàng Đức Tiến (1999) Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp ở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án Thạc sỹ kinh tế; Các đề án
cụ thể hoá Nghị quyết số 03 của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc về “Phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến 2020”.
Những cụng trỡnh nghiờn cứu về lĩnh vực nụng nghiệp, nụng thụn cú rất nhiều và
đó đề cập đến phát triển nền nông nghiệp nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Nhưng nghiên cứu về tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp trên địa bàn
của tỉnh Vĩnh Phỳc thỡ đến nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Vỡ vậy, đề tài nghiên cứu

“Tác động của phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc” được học
viên lựa chọn làm đề tài luận văn Thạc sĩ kinh tế là không trùng lắp với các công trỡnh
nghiờn cứu khoa học đó được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu
- Làm rừ mối quan hệ nụng nghiệp và cụng nghiệp, những tỏc động của quá trỡnh
phỏt triển cụng nghiệp đối với nông nghiệp.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của phát triển công nghiệp tới
nông nghiệp ở Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những
tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trỡnh này để thúc đẩy nông
nghiệp ở Vĩnh Phúc phát triển bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về tác động của phát triển công nghiệp tới nông
nghiệp.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của phát triển công nghiệp tới
nông nghiệp Vĩnh Phúc từ 2004 đến nay, chỉ ra những tác động tích cực, tiêu cực và
nguyên nhân của những tác động đó.

- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế
những tác động tiêu cực để thúc đẩy nông nghiệp Vĩnh Phúc phát triển bền vững trong
thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp
Vĩnh Phúc từ năm 2004 đến 2008, trong đó từ 2004 - 2007 theo địa giới hành chính cũ và
năm 2008 theo địa giới hành chính mới, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp Vĩnh
Phúc trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mỏc- Lờnin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Phúc về
vấn đề tác động của phát triển công nghiệp tới nông nghiệp. Ngoài ra luận văn kế thừa có
chọn lọc các kết quả nghiên cứu của một số công trỡnh, bài viết cú liờn quan đến vấn đề
này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn cũn sử dụng những phương pháp như: Phương pháp trừu
tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rừ thờm những tỏc động của phát triển công nghiệp đối với nông
nghiệp.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của phát triển công nghiệp tới
nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2004 - 2008, đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy hiệu quả tác động phát triển công nghiệp đến phát triển nông nghiệp Vĩnh
Phúc trong thời gian tới.

- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền
các nơi có điều kiện tương đồng như Vĩnh Phúc trong định hướng phát triển ngành kinh
tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng. Ngoài ra cũn cú thể sử dụng làm tư liệu
tham khảo cho giảng dạy KTCT ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện và Trường
chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương 7 tiết.

Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỚI NÔNG NGHIỆP

1.1. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Phỏ vỡ tập quỏn sản xuất truyền thống, hỡnh thành các vùng sản xuất
hàng hoá lớn
Sự phát triển của công nghiệp đó làm thay đổi tập quán sản xuất nông nghiệp
theo kiểu tự cung, tự cấp sang hỡnh thành cỏc mụ hỡnh sản xuất hàng hoá lớn. Trước
đây, khi công nghiệp chưa phát triển, nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu là áp dụng
những phương pháp canh tác truyền thống đó tồn tại cỏch đây hàng thiên niên kỷ, nó
gắn với phong tục, tập quán vùng - miền, gắn với tính tự cung, tự cấp, tính độc canh cây
trồng, vật nuôi và sử dụng các công cụ sản xuất giản đơn, thô sơ dẫn đến năng suất và
sản lượng thấp. Mặt khác, đối với sản xuất nông nghiệp thỡ “vốn đầu tư ít, trong khi đó
đất đai và lao động là các yếu tố chính của sản xuất. Do đó, quy luật lợi nhuận giảm dần
được thể hiện rừ khi phải sử dụng lao động trên đất đai ngày càng cằn cỗi” [37, tr.340].
Việc duy trỡ phương pháp canh tác cũ do nhiều nguyên nhân, nhưng yếu tố quan
trọng là do tính rủi ro và tính không ổn định của ngành nông nghiệp quy định. Nếu để
người sản xuất nông nghiệp chuyển từ những giống cây trồng và công nghệ truyền thống
sang một cây trồng và công nghệ mới với hứa hẹn cho một năng suất, sản lượng cao hơn
nhưng có thể phải chịu rủi ro mất mùa thỡ họ sẽ chọn những cõy trồng và công nghệ đó
được thực tế kiểm nghiệm. Với người sản xuất nông nghiệp tránh được một vụ hay một
năm mất mùa cũn quan trọng hơn nhiều lần là nâng cao sản lượng. Ở nền sản xuất nông
nghiệp truyền thống thỡ tớnh ăn chắc luôn được người nông dân đặt lên hàng đầu.
Tuy nhiờn, ngay trong lũng của nền sản xuất nụng nghiệp truyền thống cũng đó cú
những bước tiến: từ du canh, du cư đến định canh, định cư, ổn định giống cây trồng, vật
nuôi cũng như công nghệ sản xuất đó tạo tiền đề cho sự ra đời phương pháp canh tác
mới. Nhưng để một phương pháp, một công nghệ sản xuất mới được áp dụng vào sản

xuất cần phải có thời gian và một trải nghiệm thực tiễn, khi trải nghiệm đó được cá nhân
hay tập thể chứng minh tính hiệu quả vượt trội, ổn định hơn phương pháp sản xuất cũ tự
khắc nó sẽ được chấp nhận và nhân rộng.
Công nghiệp phát triển đó tỏc động mạnh tới phương thức sản xuất nông nghiệp,
đó phỏ thế độc canh hỡnh thành cỏch thức sản xuất mới đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi -

đánh dấu bước chuyển quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Cơ sở của bước chuyển
này là do những phương pháp canh tác mới được áp dụng rộng rói và đem lại hiệu quả
kinh tế - xó hội cao. Áp dụng phương pháp canh tác mới đũi hỏi phải biết phỏt huy đúng
lúc tác dụng của các dự án thuỷ lợi, sử dụng phân bón hữu cơ cho các loại cây trồng đúng
chu kỳ sinh trưởng, phát triển của cây…nên năng suất, sản lượng tăng, đặc biệt là cây
lương thực.
Công nghiệp phát triển, hàng loạt các máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp
ra đời như: máy cày, máy tuốt, máy xay xát được đưa vào sử dụng nhằm giải phóng
sức lao động. Bên cạnh đó những giống mới được đưa vào sản xuất đó làm tăng sản
lượng lương thực, thực phẩm, nhờ đó người dân đó giải phóng một phần đất đai để
trồng các loại cây công nghiệp, cây lấy gỗ, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi gia súc,
gia cầm. Việc đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi cũng có thể giảm thiểu những tác động
tiêu cực khi mất mùa ở những cây trồng chính, tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh
tế. Chính từ sự đa dạng cây trồng, vật nuôi đó cú tỏc động rất mạnh mẽ đến người sản
xuất nông nghiệp như: thời gian nông nhàn giảm, tỷ lệ sử dụng lao động trong nông
nghiệp tăng, hệ số sử dụng đất cao và thu nhập của người sản xuất nông nghiệp cũng
tăng lên, làm thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.
Công nghiệp phát triển sẽ làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng
hiện đại hơn, hỡnh thành cỏc vựng sản xuất hàng hoỏ lớn tập trung. Tuy nhiờn, quỏ
trỡnh tập trung hoỏ diễn ra chậm và kéo dài hơn so với lĩnh vực sản xuất công nghiệp,
nhưng những thay đổi trong kỹ thuật và cách thức tổ chức của sản xuất nông nghiệp
đó làm cho sản lượng và năng suất lao động trong nông nghiệp tăng mạnh: Lúa của
Việt nam từ 28 tạ/ha năm 1985 tăng lên 49tạ/ha năm 2006, Trung Quốc 53 tạ/ha lên
63 tạ/ha, Inđônêxia 39 tạ/ha lên 63 tạ/ha [33, tr.68]. Sự tăng trưởng này một mặt làm

tăng khối lượng hàng hoá nụng sản cú thể cung cấp cho xó hội, chuyển bớt một phần
lao động từ nông nghiệp sang các ngành sản xuất khác mà không gây ra sự suy giảm
sản lượng nông nghiệp và đời sống xó hội. Mặt khỏc, lượng cầu về tư liệu lao động và
hàng tiêu dùng trong khu vực nông nghiệp tăng lên đó kớch thớch mở rộng sản xuất ở
những khu vực phi nụng nghiệp. Quỏ trỡnh này đó dần phỏ vỡ nền kinh tế tự nhiờn để

chuyển thành kinh tế hàng hoá.
Việc hỡnh thành cỏc vựng sản xuất hàng hoá tập trung xuất phát từ phát triển của
lực lượng sản xuất nói chung và đũi hỏi nguồn cung nguyờn liệu cho phỏt triển cụng
nghiệp chế biến nụng sản núi riờng. Đây là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất
nông nghiệp hiện đại, nó gắn với các tiến bộ của phát triển công nghiệp, của khoa học -
công nghệ, trong đó công nghệ sinh học làm tăng năng suất cây trồng, cơ giới hoá làm
tăng năng suất lao động.
Đặc điểm chung của các vùng sản xuất hàng hoá tập trung là chú trọng trồng một
hoặc hai loại cây chủ lực như: vùng trồng lúa, vùng trồng cây công nghiệp như: cà phê,
mía…, chuyển từ sản xuất nông nghiệp theo phương thức truyền thống độc canh cây lúa
sang phương thức sản xuất sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi có
năng suất, chất lượng cao.
1.1.2. Sự phát triển nông nghiệp chịu sự tác động mạnh của khoa học - công
nghệ
Trước đây, chúng ta thường quan niệm, sự tăng trưởng của nền kinh tế nói
chung phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như; tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động….
Nhưng các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đó chứng minh, ngoài những yếu tố
trờn cũn cú những nhõn tố khỏc cú khả năng thay đổi và giữ vai trũ quan trọng trong
tăng trưởng và phát triển kinh tế khi mà nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, môi
trường ngày càng ô nhiễm đó là khoa học - công nghệ. Nó được coi là yếu tố đầu vào
của quá trỡnh sản xuất và thỳc đẩy nền kinh tế phát triển theo cả chiều rộng và chiều
sâu. Khi nhận xét về tác động của khoa học - công nghệ C.Mác đó dự đoán: “đến giai
đoạn công nghiệp, việc sản sinh ra sự giàu có thực sự không phụ thuộc nhiều vào thời

gian lao động, mà lại phần lớn phụ thuộc vào tỡnh trạng chung của khoa học và tiến
bộ của kỹ thuật hay sự vận dụng khoa học và sản xuất” [37, tr.276].
Ngày nay, khoa học - công nghệ tạo ra công cụ lao động mới, phương pháp sản
xuất mới, nên các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả hơn, làm biến đổi chất
lượng lao động, cơ cấu lao động, chuyển từ lao động thủ công, giản đơn là chủ yếu sang
lao động bằng máy móc là chính nên năng suất lao động tăng cao. Khoa học - công nghệ

có tác động toàn diện tới nền kinh tế nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, dẫn đến
phân chia thành nhiều ngành nhỏ, xuất hiện thêm nhiều ngành mới, lĩnh vực kinh tế mới.
Mặt khác, nó làm cho thu nhập tăng, cơ cấu tiêu dùng thay đổi, tất yếu cơ cấu sản xuất
cũng phải thay đổi và từ đó làm thay đổi cơ cấu, vị trí các ngành chuyển dịch theo hướng
giảm tương đối tăng tuyệt đối.
Cũng như những ngành kinh tế khác, nông nghiệp cũng chịu tác động mạnh của
khoa học - công nghệ, đây chính là cú hích tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nội bộ
ngành. Khi nền sản xuất nông nghiệp cũn mang tớnh tự cung, tự cấp, độc canh đến định
canh, định cư, đa dạng cây trồng, vật nuôi, đến hỡnh thành cỏc vựng sản xuất hàng hoỏ
tập trung thỡ khoa học - cụng nghệ đóng vai trũ nền tảng. Ngay cả khi một giống mới
được tạo ra đó gắn với cụng nghệ sinh học, nhưng để đưa ra sản xuất đảm bảo tăng năng
suất chỉ trong điều kiện đủ nước, phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật từ công
nghiệp. Sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển khi song hành với các lĩnh vực kinh tế khác.
Sự phát triển của công nghiệp, của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học,
công nghiệp chế biến làm tăng năng suất cây trồng, kết hợp với thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá,
hoá học hoá làm tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Tất cả các yếu tố trên kết
hợp với nhau làm gia tăng sản lượng và từ đây người nông dân có thể bán các nông sản
của mỡnh, nên đó hỡnh thành thị trường - một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng
của ngành nông nghiệp. Khi mà việc chú trọng sử dụng các yếu tố của sản xuất không hoàn
toàn cũn đặt vào đất đai, nước, lao động như sản xuất nông nghiệp truyền thống nữa, thỡ
thay vào đó là việc tạo vốn và tiến bộ của khoa học - công nghệ đóng vai trũ then chốt thỳc
đẩy sự phát triển của nông nghiệp. Ở nước ta giai đoạn 2001 - 2007 khoa học - công nghệ
trở thành yếu tố đóng góp tới 63% vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp [33, tr.67].

Mục tiêu của việc đưa khoa học - công nghệ vào nông nghiệp là nhằm thúc đẩy sản
xuất tăng trưởng, phát triển nhanh, cải biến nền nông nghiệp lạc hậu thành nền nông
nghiệp tiên tiến, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng sản lượng và giá trị thu nhập trên
một đơn vị đất đai, mặt nước, tăng năng suất, sản lượng và giá trị thu nhập trên lao động
nông nghiệp và nông thôn và cuối cùng là nâng cao mức sống và thu nhập của nông dân
[10, tr.296]. Trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp thỡ phương thức canh

tác: thâm canh, xen canh, tăng vụ đi đôi với việc ứng dụng khoa học - công nghệ sẽ là
một phương thức canh tác tốt nhất để nâng cao hệ số sử dụng đất, tăng khối lượng sản
phẩm và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích.
Công nghệ sinh học hiện đại đang tạo ra những chuyển biến cách mạng trong lĩnh
vực nụng nghiệp và cụng nghiệp thực phẩm nhờ sử dụng rộng rói kỹ thuật gen, kỹ thuật
tế bào, kỹ thuật lên men mới và kỹ thuật enzim. Trong nông nghiệp, hiệu quả của việc
ứng dụng công nghệ sinh học thể hiện trước hết trong việc tạo ra các giống mới có thời
gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, khả năng chống dịch bệnh tăng, chịu hạn và các tác
nhân khác từ thiên nhiên. Điều này cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của công nghệ sinh
học trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của công nghiệp, của tiến bộ khoa học -
công nghệ và của các điều kiện kinh tế - xó hội, con người có khả năng làm thay đổi môi
trường một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, sự thay đổi môi trường này phải đảm bảo vừa
thu được từ thiên nhiên nhiều sản phẩm nhất phục vụ cho cuộc sống của con người vừa
phải nâng cao được tính tái tạo của tự nhiên, bảo vệ và cải tạo môi trường sống.
Ngày nay, với một hệ thống công nghệ mới như: công nghệ thông tin, sinh học,
năng lượng mới, vật liệu mới đó mở ra cơ hội phát triển mới cho nhiều ngành. Đối với
nông nghiệp thỡ cụng nghệ sinh học tạo sự đột phá toàn diện và được công nghệ
thông tin phổ biến rộng rói mang tớnh toàn cầu đó hướng tới phát triển một nền nông
nghiệp sinh thái, phục tráng và đổi mới hệ thống giống, tái tạo lại thảm thực vật rừng,
khai thác tiềm năng to lớn của biển…Với những thành tựu của công nghệ sinh học, loài
người không chỉ đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh từ tự nhiên cho
hơn 9 - 10 tỷ người vào giữa thế kỷ XXI mà cũn cú khả năng khôi phục cân bằng sinh

thỏi, giữ gỡn đa dạng sinh học toàn cầu [21, tr.309]. Chớnh vỡ vậy, cỏc nước đó và
đang tiến hành nghiên cứu khoa học để áp dụng vào sản xuất nông nghiệp tạo bước
phát triển đột phá trong nông nghiệp. Một trong những nước đó cú bí quyết sử dụng
khoa học - công nghệ để tăng năng suất, chất lượng nông sản vươn lên nắm thế chủ
động chi phối thị trường gạo thế giới như Thái Lan (giá gạo của Thái Lan hiện nay
đang chi phối giá thị trường gạo thế giới).

Ở nước ta, nhiều Nghị quyết và văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước nhấn
mạnh việc đưa nhanh khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, coi đây là khâu
đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội và chấn hưng nền nông
nghiệp Việt Nam. Hiện tại ở Việt Nam đó hỡnh thành cỏc kờnh hỗ trợ chuyển giao cụng
nghệ ở như:
- Hỗ trợ theo kênh khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư: Đây là kênh chính thức
và quan trọng nhất của Nhà nước nhằm cung cấp cho người sản xuất nông nghiệp tiếp
cận và làm chủ những kiến thức sản xuất nông nghiệp hiện đại.
- Hỗ trợ qua kênh chương trỡnh, dự ỏn của Nhà nước nhằm đào tạo kỹ thuật,
chuyên môn nghiệp vụ cho cả lao động trực tiếp và lao động quản lý trong nụng nghiệp.
- Hỗ trợ thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; bao gồm các hoạt động
chuyển giao công nghệ ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ và trồng rừng, bảo
quản nông sản
Nhỡn chung, trong bối cảnh như hiện nay thỡ nụng nghiệp chịu tỏc động mạnh
của công nghiệp, của tiến bộ khoa học - công nghệ, nó được coi là các yếu tố đầu vào và
hỗ trợ đầu ra rất hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp.
Từ hai đặc điểm cơ bản của phát triển nông nghiệp dưới sự tác động của phát triển
công nghiệp, có thể rút ra một số nhận xét:
+ Sự vận động, thay đổi từ sản xuất nông nghiệp thống sang sản xuất nông nghiệp
hàng hoá là một đũi hỏi khỏch quan. Đặc biệt dưới tác động của công nghiệp chế biến và
dịch vụ nông nghiệp ngày càng phát triển hoàn thiện đó làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp, cơ cấu lao động, quy mô sản xuất, cơ cấu thu nhập. Bên cạnh đó,
do nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn của xó hội cũng như đũi hỏi của nền kinh tế nờn

ngành nụng nghiệp phải cú sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để đáp ứng tư liệu
tiêu dùng thiết yếu của con người và khai thác lợi thế so sánh của từng loại giống cây
trồng, vật nuôi và của từng vùng.
+ Lao động khu vực nông nghiệp dưới tác động của phát triển công nghiệp có sự
phân công lao động mới trên cơ sở hỡnh thành và phỏt triển cỏc nghề mới như: tiểu thủ
công nghiệp, làng nghề truyền thống, dịch vụ…theo phương châm “ly nông bất ly hương”.

Từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông
thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, làm biến đổi bộ mặt
nông thôn.
+ Chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp đũi hỏi luụn phải được nâng cao đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển công nghiệp. Đối với người lao động trực tiếp trong nông
nghiệp phải vừa có kiến thức chuyên ngành vừa có kiến thức thực tiễn; với những người
lao động sống ở khu vực nông thôn nhưng không tham gia trực tiếp sản xuất nông nghiệp
mà lao động ở lĩnh vực khác thỡ phải cú sự nhậy bén trong nắm bắt công nghệ cũng như
lựa chọn nghề cho phù hợp.
+ Các tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng vào sản xuất, quản lý, kinh
doanh, thực hiện thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, tin học hoá vào sản
xuất nông nghiệp đó tạo đà cho nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Thành tựu của công
nghệ sinh học đó làm thay đổi căn bản cách thức quản lý sản xuất kinh doanh ở khu vực
kinh tế nông nghiệp theo hướng lấy cơ cấu, quy mô và nhu cầu thị trường làm cơ sở
quyết định cơ cấu, quy mô sản xuất và cơ cấu sản phẩm nhằm kết hợp hài hoà giữa sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm từ ngay trong phương án sản xuất, kinh doanh.
+ Kết cấu hạ tầng nông nghiệp từng bước được đầu tư theo hướng kiên cố hoá,
hiện đại hoá. Phong cách lao động nông nghiệp truyền thống có bước chuyển mạnh sang
phong cách lao động công nghiệp (tính năng động, sáng tạo) và tổ chức kỷ luật cao trong
lao động.
1.2. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ
NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Tác động của công nghiệp đối với nông nghiệp

Ngày nay các ngành kinh tế đều sử dụng các sản phẩm của nhau nhằm đưa ngành
mỡnh phỏt triển theo cả chiều rộng và chiều sõu, đồng thời nhằm khai thác tối ưu các yếu
tố sản xuất. Do đó, sự phát triển của ngành này thúc đẩy ngành kia phát triển đang tồn tại
như những quy luật kinh tế phổ biến. Sự phát triển của công nghiệp cũng vậy, nó đang
đưa các hoạt động kinh tế lên một trỡnh độ sản xuất cao, trong đó có nông nghiệp, và nó
được thể hiện ở:

Một là: Công nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp; để đảm bảo
cho việc sản xuất lương thực, thực phẩm (hay tư liệu sinh hoạt thiết yếu) cho nhu cầu tiêu
dùng của con người và nhu cầu này có xu hướng ngày càng tăng theo thị hiếu và quy mô
dân số. Để thực hiện được nhiệm vụ này nông nghiệp không thể tự thân vận động nếu
không có sự hỗ trợ của công nghiệp như: phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, máy cơ giới
trong các khâu từ làm đất đến thu hoạch, do đó làm nõng cao trỡnh độ công nghệ của sản
xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, công nghiệp có vai trũ quan trọng trong quỏ trỡnh xõy
dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp như hệ thống kênh mương cứng, trạm
bơm, đường nội đồng…. Tất cả làm cho năng suất lao động, chất lượng nông sản tăng.
Hai là: Công nghiệp vừa tạo thị trường vừa tạo điều kiện cần thiết tăng giá trị sản
phẩm nông nghiệp; khi thu nhập của dân cư thành thị nâng lên do công nghiệp ở đó phát
triển sẽ là thị trường tiêu thụ các sản phẩm của nông nghiệp như: gạo, rau quả các loại,
thịt gia súc, gia cầm…. Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến phát triển làm cho các sản
phẩm nông nghiệp nâng cao giá trị, tăng khả năng tích trữ, vận chuyển, làm cho sản phẩm
nông nghiệp thêm phong phú về chủng loại, từ đó mở ra khả năng tiêu thụ mới không
những ở thị trường trong nước mà cũn làm cho “cỏc sản phẩm từ nụng nghiệp, nụng thụn
của nước ta phải có mặt trong từng căn hộ, từng bữa ăn của người nước ngoài” [22,
tr.15], tạo vị thế mới cho nông sản và tham gia vào phân công lao động cũng như thị
trường thế giới. Nhờ có công nghiệp chế biến đó góp phần khắc phục khuyết tật của nền
sản xuất nông nghiệp đó là tính thời vụ cao, khó bảo quản, khó vận chuyển. Chính sự
phát triển của công nghiệp chế biến, sự tác động của công nghiệp chế biến nông sản vào
nền nông nghiệp hàng hoá tạo cơ sở giải quyết những vấn đề xó hội, nõng cao đời sống

dân trí…là mục tiêu của quá trỡnh phỏt triển, song cũng là cơ sở xó hội của quỏ trỡnh
phỏt triển cụng nghiệp [26, tr.16].
Ba là: Công nghiệp đó thỳc đẩy sự ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp
tạo ra bước đột phá mới về giống cây trồng, vật nuôi. Với những giống cây trồng, vật
nuôi có nhiều đặc tính ưu việt vượt trội về chu kỳ sinh trưởng, phát triển, có khả năng
kháng bệnh tốt, đa dạng nông sản hơn, năng suất - chất lượng hơn…, dưới tác động của
công nghệ sinh học đó tạo ra dũng sản phẩm phong phỳ, đa dạng và có giá trị cao.

Bốn là: Công nghiệp phát triển dẫn đến mở rộng đất sản xuất công nghiệp, thu hút
lao động từ nông nghiệp; khi nền nông nghiệp chịu tác động mạnh của công nghiệp; cơ
giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, tin học hoá…được ứng dụng sẽ tạo khả năng giải
phóng sức lao động rất lớn. Bên cạnh đó, công nghiệp phát triển cũng sẽ tạo ra các ngành
sản xuất mới, hỡnh thành cỏc khu công nghiệp mới, khu chế xuất mới và chính những cái
mới này đũi hỏi phải cú quỹ đất, có nguồn lao động dồi dào để vận hành, đến đây cơ cấu
lao động trong toàn xó hội cú sự dịch chuyển từ lao động nông nghiệp sang công nghiệp
và các lĩnh vực kinh tế khác. Như vậy, công nghiệp thu hút lao động từ nông nghiệp và
việc thu hút này ngày càng tăng đó gúp phần giải quyết lao động dư thừa trong khu vực
nông thôn, lao động nông nhàn và lao động dư thừa trong xó hội, làm tăng thu nhập, thúc
đẩy người lao động tự học tập nõng cao tay nghề, trỡnh độ chuyên môn, kỷ luật lao động.
Khi phân tích sự tác động của công nghiệp đối với nông nghiệp V.I.Lênin khẳng
định:
Ngoài máy móc ra sự cần thiết phải cày bừa ruộng đất tốt hơn nữa sẽ đưa
đến chỗ thay thế những công cụ thô sơ trước đây, bằng những công cụ cải tiến
hơn, và thay thế gỗ bằng sắt, bằng thép. Sự thay đổi đó sẽ đưa đến chỗ phải
xây dựng tại chỗ những nhà máy chế tạo ra những công cụ đó, vỡ cụng nghiệp
thủ cụng khụng thể làm ra được những công cụ tốt như thế và nhờ có sự phát
triển của công nghiệp chế biến bằng máy móc và công nghiệp khác cho nên
yêu cầu về khoáng sản cũng ngày một tăng thêm [28, tr.89]
V.I.Lờnin cũn nhấn mạnh thờm:

Cụng nghiệp là chỡa khoỏ để cải tạo nông nghiệp lạc hậu và phân tán
trên cơ sở tập thể hoá…. Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho nông nghiệp
đến mức tối đa những công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc tiến và đẩy
mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ sở kỹ thuật mới và việc cải tạo một nền nông
nghiệp bị chia nhỏ, phân tán là một việc làm hết sức khó khăn cần phải đi dần
từng bước nhưng liên tục và kiên quyết bền bỉ, làm cho nông nghiệp chuyển
qua một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở của nền đại sản xuất, đưa nông nghiệp lên
ngang tầm trỡnh độ công nghiệp xó hội chủ nghĩa. Nếu làm được việc đó thỡ

thắng lợi cuối cựng của chủ nghĩa xó hội mới được đảm bảo [28, tr.157 - 159].
Từ thực tiễn cỏch mạng và qua nghiờn cứu V.I.Lờnin cho rằng Chủ nghĩa xó hội
chỉ cú thể thắng khi xõy dựng được một nền sản xuất hiện đại trên cơ sở vật chất kỹ thuật
tiên tiến, năng suất lao động vượt trội hơn hẳn Chủ nghĩa tư bản.
Khi nói về sự tác động của công nghiệp đối với nông nghiệp Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi công nghiệp - nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế, chúng có tác động hỗ
trợ nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, Người chỉ rừ: “Muốn tiến lờn Chủ nghĩa xó hội
thỡ phải phỏt triển cụng nghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vỡ hai
ngành đó khắng khít với nhau” [29, tr.136] hay “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân
của nền kinh tế… hai chân đi khoẻ và đi đều thỡ tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi
đến mục đích” [30, tr.544 - 545]. Công nghiệp phải phục vụ nông nghiệp, sự phục đó
phải thiết thực và hiệu quả, Người chỉ rừ: Quan trọng nhất trong đời sống nhân dân là vấn
đề ăn, để giải quyết tốt lương thực phải dồi dào. Muốn như vậy thỡ cụng nghiệp phải
giúp cho nông nghiệp nhiều máy tăng thuỷ lực, máy cày, máy bừa, phân bón hoá
học [30, tr.352]. Người tiếp tục khẳng định giữa công nghiệp và nông nghiệp có sự liên
hệ khăng khít trong tiến trỡnh công nghiệp hoá, được biểu hiện ra bên ngoài như những
hoạt động kinh tế, trao đổi sản phẩm giữa hai ngành; “Công nghiệp phát triển thỡ sẽ giỳp
nụng thụn ta về thuỷ lợi, về phõn bún, về nụng cụ cải tiến, về mỏy móc nông nghiệp, về
sức điện…[30, tr.15].
1.2.2. Tác động của nông nghiệp đối với phát triển công nghiệp

Nông nghiệp có tác động lan toả đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xó hội, trong
đó có tác động mạnh mẽ đối với quá trỡnh phỏt triển cụng nghiệp, những tỏc động đó thể
hiện ở:
Một là: Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nhiều
ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Những yếu tố đầu vào này đáp ứng yêu cầu các nhà máy,
xí nghiệp chế biến về số lượng, chất lượng và chủng loại sản phẩm sẽ thúc đẩy ngành
công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất
nhằm nâng cao giá trị nông sản và đa dạng về sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của thị trường trong nước cũng như quốc tế. Để có sự phát triển đồng bộ giữa nông

nghiệp và công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến phải có các nhóm giải pháp hợp qui
luật phát triển của từng ngành cả về tư liệu sản xuất, qui trỡnh kỹ thuật, qui mụ, tổ chức
sản xuất và quan hệ lợi ích kinh tế. J.Stalin chỉ ra; không thể phát triển được công
nghiệp nếu trong nước không có nguyên liệu, không có lương thực cung cấp cho công
nhân, nếu không có một nền nông nghiệp phát triển ít nhiều đến mức có thể làm thị
trường chủ yếu cho công nghiệp và Ông khẳng định muốn phát triển công nghiệp phải
có ba điều kiện: một là, phải có thị trường trong nước mà thị trường trong nước lại chủ
yếu là nông dân; hai là, nông nghiệp phải đảm bảo nguồn nguyên liệu tương đối phát
đạt; ba là, phải làm cho nông dân có thể dự trữ một số lượng cần thiết về nông sản để
cung cấp cho công nghiệp, cung cấp cho công nhân và Ông đó nhắc lại cõu núi của
Lờnin: muốn xõy dựng cụng nghiệp thỡ cần phải bắt đầu từ nông nghiệp [28, tr.171].
Đương thời Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: “Muốn phỏt triển cụng nghiệp, phỏt triển kinh
tế núi chung phải lấy việc phỏt triển nụng nghiệp làm gốc, làm chớnh. Nếu khụng phỏt
triển nụng nghiệp thỡ khụng cú sơ sở để phát triển công nghiệp vỡ nụng nghiệp cung cấp
nguyờn liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hoá của công nghiệp làm ra”
[30, tr.180] và Người cũn nhấn mạnh “Nụng nghiệp phải cung cấp đủ lương thực và
nguyên liệu để phát triển công nghiệp, để đảm bảo công nghiệp hoỏ xó hội chủ nghĩa” [30,
tr.379].
Ngày nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ngành dệt may đó
cú nhiều sản phẩm được làm ra từ chất liệu hoá học như; bông hoá học, len hoá học…nhưng

vẫn không thể thay thế và phủ nhận hoàn toàn tác dụng của những cây công nghiệp này đối
với các ngành dệt may hiện nay.
Hai là: Nông nghiệp là thị trường lớn tiêu thụ các sản phẩm của nhiều ngành kinh
tế, trong đó các sản phẩm của ngành công nghiệp là không thể thiếu và ngày có xu hướng
gia tăng. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong
cơ cấu nền kinh tế, cư dân chủ yếu sinh sống ở khu vực nông thôn. Bên cạnh đó quá
trỡnh cụng nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp đó tạo sức bật cho kinh tế khu vực nụng
nghiệp phỏt triển theo hướng sản xuất hàng hoá, thu nhập của người dân ngày càng tăng
nên nhu cầu mua sắm cũng không ngừng tăng lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định; nông

thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng hoá của công nghiệp sản xuất ra. Đồng thời, sẽ cung cấp
đủ lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu có sẽ
giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển
mạnh hơn nữa [29, tr.91]. Nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế quốc dân và để
nông nghiệp phát triển phải đặt nông nghiệp trong mối quan hệ tổng thể với các ngành
khác trong nền kinh tế, Người chỉ rừ, “Cần mở rộng cụng nghiệp, nụng nghiệp,
thương nghiệp để nâng cao sức sản xuất và cải thiện đời sống cho nhân dân” [29,
tr.516].
Thực tiễn đó chứng minh nụng nghiệp đóng vai trũ quan trọng đối với sự tồn tại
của xó hội loài người, mọi sự tiến bộ của khoa học - công nghệ chỉ làm thay đổi hỡnh
thức, tập quán sản xuất nông nghiệp hướng tới tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các ngành công nghiệp và nhu cầu
tiêu dùng của xó hội.
Ba là: Nông nghiệp là khu vực cung cấp nguồn lao động cho công nghiệp; trong
quỏ trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thỡ sức
lao động trong các ngành kinh tế nói chung được giải phóng, trong đó nông nghiệp dưới
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đó làm cho lao động dôi dư
nhiều và một đũi hỏi tất yếu phải dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp
và các lĩnh vực hoạt động khác. Tuy nhiên sự dịch chuyển này phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: Năng suất lao động trong nông nghiệp phải không ngừng tăng lên; công nghiệp và

dịch vụ ở thành thị và nông thôn phải mở rộng; chất lượng nguồn nhân lực phải đáp ứng
yêu cầu của công nghiệp. Đây là xu hướng có tính quy luật trong phân công lại lao động
xó hội.
C.Mác đó dự đoán công nghiệp hoá sẽ chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các
lĩnh vực kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ: Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác
động của công nghiệp hoá có tính chất cách mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo
nghĩa là công nghiệp lớn làm cho không cũn nụng dõn nữa, tức là cũn cỏi thành trỡ của
xó hội cũ, và thay thế nông dân bằng người làm thuê. Do đó mà ở nông thôn, những nhu
cầu cải biến xó hội và cuộc đấu tranh giai cấp, được nâng lên ngang với trỡnh độ ở thành

thị” và “chỉ có nền nông nghiệp lớn sử dụng máy móc, mới tạo cho nền kinh doanh nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa” [28, tr.84].
Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển số lao động khu vực nông thôn cao, ngay cả
khi quá trỡnh cụng nghiệp hoá được tiến hành thành công cũng không sử dụng hết số lao
động này. Một dự báo của Tổ chức Carnegie về Trung Quốc cho thấy vào năm 2020 lúc
nông nghiệp trong GDP cũn 4,8%, lao động nông nghiệp vẫn cũn 34,6% và dõn số nụng
thụn cũn 45%. Theo dự bỏo, cựng thời điểm đó ở Việt Nam nông nghiệp trong GDP sẽ
cũn 9,6%, lao động nông nghiệp từ 22,6 đến 49% và lao động nông thôn sẽ từ 61,3 đến
72,6% [2, tr.1]. Bên cạnh đó, con đường ngắn nhất để giảm khoảng cách giàu nghèo và
thu nhập trong các khu vực kinh tế là dịch chuyển lao động, nhưng nếu để tỡnh trạng dịch
chuyển lao động khu vực nông thôn ra thành thị, ra các khu công nghiệp, cụm cụng
nghiệp tập trung kiếm việc làm một cỏch tự phỏt thỡ sẽ nảy sinh nhiều vấn đề xó hội như:
quy mô sản xuất sẽ tăng nhưng khó quản lý, lao động nông nghiệp bị già và nữ hoỏ, trỡnh
độ thâm canh truyền thống sẽ được áp dụng…Trong điều kiện như vậy sẽ dẫn đến mất an
ninh lương thực, thực phẩm, xó hội sẽ mất ổn định.
Bốn là: Nông nghiệp là ngành đóng vai trũ quan trọng trong bảo vệ tài nguyờn
thiờn nhiờn và mụi trường sinh thái trước sức ép về chất thải công nghiệp. Trước làn
sóng phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề trong khi đó công tác quản
lý về mụi trường chưa theo kịp nên để lại hậu quả nặng nề về chất thải. Trong khi đó rác
thải rắn hàng năm thải ra hàng triệu tấn mà biện pháp chủ yếu là chôn lấp, công nghiệp

chế biến rác thải phát triển chậm. Đứng trước thực trạng đó nông nghiệp đang góp phần
quan trọng lâu dài trong bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Ngoài ra, nông nghiệp là ngành sản xuất ra tư liệu tiêu dùng cho con người.
Những tư liệu tiêu dùng này ngày càng tăng và đa dạng theo sự phỏt triển của xó hội loài
người. C.Mác cho rằng; con người để sống phải có thức ăn, quần áo, nhà ở và những của
cải vật chất khác, sau đó mới nói đến các hoạt động khác [24, tr.13]. Nông nghiệp cung cấp
lương thực, thực phẩm, việc làm, thu nhập nờn nú cú vai trũ quan trọng trong đảm bảo đời
sống nhân dân và là cơ sở của sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xó hội. Bờn cạnh đó
nông nghiệp cũn cung cấp khối lượng nông sản hàng hoá ở dạng thô hoặc qua chế biến cho

xuất khẩu tạo tích luỹ để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế. Đặc biệt nông nghiệp có thể
là chỗ dựa cho nền kinh tế trong thời kỳ khủng hoảng.
1.2.3. Đường lối phát triển công nghiệp và nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta
thể hiện qua các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng
Thấy được vị trí và tầm quan trọng của sự tác động qua lại của công nghiệp và
nông nghiệp trong quá trỡnh phỏt triển kinh tế của đất nước, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta
đặc biệt quan tâm tới hai lĩnh vực kinh tế quan trọng này và đó đề ra chủ trương, đường
lối cho phỏt triển cụng nghiệp và nụng nghiệp trong từng thời kỳ phự hợp với tỡnh hỡnh
cụ thể của Việt Nam, phấn đấu đạt mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng
bằng, dõn chủ, văn minh. Cụ thể:
Đại hội III (1960), Đảng ta xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên
suốt thời kỳ quá độ và nông nghiệp có vị trí quan trọng trong quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ
đất nước.
Đại hội IV (1979), nhấn mạnh ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
lý, trờn cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đại hội V (1982), thể hiện rừ hơn quan điểm của Đảng về vai trũ của nụng nghiệp
đối với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước:
…tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu…, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng
một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp

hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp
lý. Đó là những nội dung chính của công nghiệp hoỏ xó hội chủ nghĩa [13,
tr.62 - 63].
Đại hội VI (1986), thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, nông nghiệp luôn được
Đảng ta đặc biệt quan tâm, đó cú nhiều văn bản chỉ đạo tạo bước ngoặt cho sản xuất nông
nghiệp; Nghị quyết 10, ngày 5/4/1988 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nụng
nghiệp; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 - khoá VI xác định hộ gia đỡnh là đơn vị kinh
tế tự chủ.
Đại hội VII (1991) đưa ra quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn. Tại Hội nghị Trung ương 5 - khoá VII “…phải sớm phát triển công nghiệp
nông thôn, đặc biệt công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản…cần phát triển công
nghiệp nông thôn một cách toàn diện, từ công nghiệp hàng tiêu dùng đến công nghiệp vật
liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí chế tạo và sửa chữa với qui mô vừa và nhỏ” [18,
tr.13]. Tư tưởng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn được thể hiện
rừ hơn trong văn kiện Hội nghị Trung ương 7 - khoá VII
Trong những năm trước mắt, khả năng về vốn cũn cú hạn chế, nhu cầu
việc làm rất bức bỏch, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tỡnh hỡnh kinh
tế - xó hội chưa thật ổn định vững chắc. Vỡ vậy, cần tập trung nỗ lực đẩy
mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn…từng bước hiện đại hoá
các ngành nghề tiểu thủ công truyền thống có thị trường tiêu thụ lớn trong và
ngoài nước [19, tr.7].
Đại hội VIII, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, trong
đó coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Đại hội IX, khẳng định “Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp lên một trỡnh độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công
nghệ sinh học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, quy hoạch và sử dụng
đất hợp lý; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá…chú trọng công nghệ chế
biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao

động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới…” [16, tr.92 -
93].
Đặc biệt đến Nghị quyết Trung ương 5 - khoá IX, nêu rừ; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường, thực hiện cơ khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ,
trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu
sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá trên thị trường [20, tr.93].
Đại hội X, với chủ đề; nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta

ra khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển đó thể hiện sự tổng kết nhiều vấn đề hệ trọng nhất của
đất nước. Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, nhất là công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp Đại hội tiếp tục khẳng định:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp…gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa
phương…khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần
bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và
chăn nuôi tập trung… [17, tr.88 - 89].
Như vậy, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trong định hướng phát triển kinh
tế của Đảng ta được thể hiện qua các kỳ Đại hội cho thấy, trong từng thời điểm công
nghiệp luôn gắn với nông nghiệp. Từ chỗ xác định nông nghiệp là tiền đề để tiến hành
công nghiệp hoá đến việc phát triển công nghiệp phải thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Quá trỡnh nhận thức của Đảng về phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp hoá,
hiện đại hoá xuất phát từ đặc thù của nước nông nghiệp nhằm khơi dậy khu vực kinh
tế nhiều tiềm năng, chuẩn bị các tiền đề cho quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu nội tại của phát triển nông nghiệp mà cần phải gắn với
công nghiệp để nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao
động, đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội theo hướng bền vững.
1.3. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ TỈNH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỊ THU HẸP DO TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HèNH
THÀNH CÁC KHU CễNG NGHIỆP
Việc giải quyết những tác động trong phát triển công nghiệp đối với nông nghiệp
không những là vấn đề kinh tế, lợi ích mà cũn là vấn đề mang tích chất xó hội phức tạp.
Nếu chỉ giải quyết về mặt lợi ớch kinh tế, nghĩa là khi thu hồi ruộng đất chỉ bồi thường là
xong sẽ để lại hậu quả xó hội ngày càng trầm trọng hơn, vỡ tỷ lệ thất nghiệp gia tăng điều
mà tất cả các nền kinh tế đều tỡm mọi giải phỏp để khắc phục. Như vậy để ổn định cuộc
sống cho người lao động khi chịu những tác động từ phát triển công nghiệp là rất cần

thiết và cần nhiều giải pháp mạnh, đồng bộ thỡ mới thực hiện thành công. Để có thêm
những kinh nghiệm của các địa phương trong cả nước về vấn đề này rất có ý nghĩa với
Vĩnh Phỳc.
Qua khảo sỏt, nghiờn cứu tỡnh hỡnh của cỏc địa phương như: Bắc Giang, Hải Dương,
Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam và Bỡnh Dương có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh và có
những điều kiện tương đồng, chúng tôi thấy các tỉnh đó cú những cỏch giải quyết riờng của
mỡnh về việc diện tớch đất nông nghiệp bị thu hẹp do mở rộng và phát triển các khu công
nghiệp trên địa bàn của tỉnh. Cụ thể:
Ở Bắc Giang, tỉnh đó lập kế hoạch chi tiết, công khai để dân được biết biết và góp
ý kiến về vấn đề thu hồi diện tích đất nông nghiệp để phát triển các khu công nghiệp.
Đồng thời tỉnh cũn ban hành và thực hiện chớnh cỏc chính sách khác hỗ trợ cho người
dân có đất bị thu hồi như: hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho người dân có
đất bị thu hồi bằng hỡnh thức cụ thể: giao đất sản xuất - kinh doanh - dịch vụ phi nông
nghiệp.
Ở Hải Dương, tỉnh đó đề ra cơ chế hỗ trợ 100% phí học nghề cho những lao động
đó bàn giao từ 50% diện tớch đất canh tác trở lên.

Ở Hà Nội, thành phố đó thành lập quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho
người có đất bị thu hồi, cấp thẻ học học nghề miễn phí, hỗ trợ chi phí học văn hoá, chi
phí học nghề và cho vay vốn để kinh doanh.
Ở Bỡnh Dương và Hà Nam, tỉnh đó thực hiện quy hoạch tỏi định cư gắn với tạo
việc làm, đầu tư ngân sách cho dạy nghề, phát triển ngành nghề, mở rộng sản xuất, dịch
vụ gắn với khu công nghiệp, khu kinh tế.
Như vậy, có thể nói, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp để hỡnh thành các
khu công nghiệp đó ảnh hưởng lớn tới việc làm của người nông dân, bởi họ sinh sống
được chính là nhờ vào đất canh tác của họ. Do đó, các địa phương đó chỳ trọng giải quyết
vấn đề này đối với nông dân bị thu hồi đất. Mỗi địa phương có cách giải quyết riêng,
nhưng chung quy lại các tỉnh đều tạo cho người lao động cần câu để câu cá mà ăn chứ
không phải là cho họ con cá để ăn ngay. Đó là những cách làm mang tính lâu dài để đảm
bảo cho người dân có thể tự tạo việc làm, nâng thu nhập, ổn định đời sống lâu dài của họ.

Các cách làm của các tỉnh nêu trên là những bài học thực tiễn quan trọng có thể vận dụng
vào Vĩnh Phúc trong việc giải quyết vấn đề đất nông nghiệp bị thu hẹp do phát triển các
khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Chương 2
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
TỚI NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÚC

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH THUẬN LỢI
CHO PHÁT TRIỂN CễNG NGHIỆP VÀ NÔNG NGHIỆP
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Vĩnh phúc là 1 trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Phía Bắc giáp
tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang; phía Nam và Phía Đông giáp Hà Nội; phía Tây giáp
Phú Thọ. Tỉnh có 1 thành phố là Vĩnh Yên; 1 thị xó là Phỳc Yờn và 7 huyện: Bỡnh
Xuyờn, Tam Đảo, Tam Dương, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Lập Thạch và Sông Lô (Từ
01/8/2008 huyện Mê Linh cắt về Hà Nội, 01/4/2009 huyện Lập Thạch tách thành huyện
Lập Thạch và huyện Sông Lô). Tính đến 01/01/2009 tổng diện tích tự nhiên của tỉnh

Vĩnh Phúc là 123.176,43ha, giảm 14.164,53 ha so với 2007 do điều chuyển 18 xó, thị
trấn của huyện Mê Linh về Thành phố Hà Nội, dõn số là 1.017 nghỡn người. Tỷ lệ dân số
thành thị 23%.
Nằm tiếp giáp với Hà Nội, Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông đa dạng, thuận lợi
cho phát triển kinh tế và giao lưu văn hoá với các tỉnh phía Bắc. Về đường bộ tỉnh có
Quốc lộ 2A (Hà Nội - Hà Giang), 2B (Vĩnh Yên - Tam Đảo), 2C (Vĩnh Tường - Vĩnh
Yên - Tam Dương - Tuyên Quang) chạy qua và nối với Quốc lộ 18, Quốc lộ 5. Đường
tỉnh lộ đang được đầu tư xây dựng với quy mô mặt cắt từ 36m trở lên đến các trung tâm
khu công nghiệp và đô thị, cùng hệ thống đường liên huyện, xó được đầu tư mở rộng.
Trong tương lai không xa có tuyến đường cao tốc mới từ sân bay quốc tế Nội Bài đi Vân
Nam (Trung Quốc) chạy qua - tuyến đường này đi thẳng tới cảng nước sâu Cái Lân
(Quảng Ninh) rất thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá đến các sân bay, bến cảng trên
toàn thế giới; Về đường sắt có tuyến Hà Nội - Lào Cai chạy qua với chiều dài 41 km, có

6 ga, trong đó ga Vĩnh Yên và ga Phúc Yên là 2 ga chính; Về đường thuỷ có 50km Sông
Hồng, 35km Sông Lô đảm bảo cho việc vận chuyển dưới 30 tấn, cùng hệ thống sông -
suối nhỏ, đầm - ao - hồ cung cấp nguồn nước, chất lượng nước cho phát triển kinh tế và
sinh hoạt của người dân; liền kề với cảng hàng không quốc tế Nội Bài cho phép Vĩnh
Phúc tiếp cận với các trung tâm kinh tế lớn, các trung tâm công nghiệp, các đô thị lớn,
của thủ đô Hà Nội và tiếp nhận sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ những nơi này, tận dụng mọi
cơ hội cho phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội
của tỉnh.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bỡnh hàng năm là
24,2
o
C. Do vị trí địa lý đặc thù chuyển tiếp trung du miền núi với vùng châu thổ Sông
Hồng nên địa hỡnh thấp dần theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam, với 3 vùng sinh thái:
Vùng núi; vùng trung du và vùng đồng bằng. Với địa hỡnh đa dạng rất thuận tiện cho
phát triển nông - lâm - thuỷ sản, dịch vụ, đặc biệt là công nghiệp và du lịch
Vĩnh Phúc có nhiều phong cảnh đẹp cho phép phát triển nhiều loại hỡnh du lịch,
vui chơi giải trí: rừng Quốc gia Tam Đảo có khu nghỉ mát, hồ Làng Hà, Xạ Hương, thác
Bản Long, hồ Đại Lải, Đầm Vạc…và gần 250 di tích lịch sử, văn hoá. Mỗi danh lam

×