LUẬN VĂN:
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên - Huế
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền
kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã khẳng
định: nguồn lực trong nước là chính, nguồn lực bên ngoài giữ vai trò quan trọng. Thực
tiễn các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thời gian qua cho thấy,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế.
Kể từ khi ban hành và có hiệu lực Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 1987
đến nay, FDI đã góp phần đáng kể vào bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, tăng
xuất khẩu và giải quyết việc làm, trở thành nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội đất nước. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á
1997 đã khiến cho lượng vốn FDI vào nước ta bị suy giảm mạnh, song thời gian gần đây,
lượng vốn này đang có xu hướng gia tăng, theo báo cáo mới nhất của Cục Đầu tư nước
ngoài năm 2008, sau 2 năm gia nhập WTO Việt Nam đã đạt kỷ lục trong thu hút vốn đầu
tư nước ngoài kể từ trước tới nay với 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp 3 lần so với năm 2007.
Điều này chứng tỏ có một sự chuyển biến đáng kể trong tâm lý các nhà đầu tư nước
ngoài về tiềm năng và môi trường đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố với những đặc thù khác nhau, do đó
lượng vốn FDI phân bổ vào các địa phương không đều. Đồng thời mức độ phát huy tác
động cũng không giống nhau, bên cạnh những tác động tích cực thì FDI cũng đã và đang
thể hiện những ảnh hưởng không mong muốn, do đó vẫn đề bức xúc đặt ra không những
chỉ là tăng cường thu hút FDI, mà còn là làm sao để FDI phát huy được những tác động
tích cực, giảm thiểu những tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
nói chung và từng địa phương nói riêng.
Thừa Thiên - Huế được xác định là cực phát triển kinh tế quan trọng của vùng kinh
tế trọng điểm miền trung, là cửa ngõ của tuyến hành lang thương mại Đông - Tây nối
Myanma, Thái Lan, Lào với biển Đông. Những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội đang là điều kiện thuận lợi cho Thừa Thiên - Huế đẩy mạnh thu hút FDI, mở rộng
giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và thế giới phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh. Trong thời gian qua, cùng với các hoạt động đầu tư khác, FDI đã góp phần
đáng kể trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cho đến
nay so với nhiều địa phương khác trong cả nước, Thừa Thiên - Huế vẫn chưa thu hút
được nhiều FDI, đồng thời vẫn chưa phát huy tốt những tác động tích cực của FDI đối
với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù thu hút FDI vào Thừa Thiên - Huế vẫn là cần thiết và đang gặp không ít khó
khăn, song không vì thế mà thu hút bằng mọi giá. Để phát huy vai trò của FDI trong phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nghiên cứu làm rõ những tác
động của FDI tới phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được tác động hai mặt của FDI là
cơ sở khoa học để xây dựng và thực các giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác động tích
cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI trên địa bàn cả nước nói chung và tại Thừa
Thiên – Huế nói riêng. Đó là lý do học viên cao học lựa chọn đề tài ''tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên -
Huế'' làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình nghiên
cứu và được công bố, chẳng hạn như:
- Hoàng Thị Kim Thanh: những giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, luận án tiến sĩ kinh
tế, Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Văn Tuấn: đầu tư nước ngoài với phát triển kinh tế Việt Nam, nxb. Tư
pháp, Hà Nội 2005.
- Hà Thanh Việt: Thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn duyên hải
miền trung, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2006.
- Ts. Nguyễn Thị Tuệ Anh: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, nghiên cứu của dự án SIDA, Hà Nội, 2006.
- Hà Quang Tiến: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển công
nghiệp ở Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội 2007.
- Ts. Hà Xuân Vấn: Hoàn thiện môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn ở
tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ,
Huế 2008.
Trong các công trình đó, các tác giả đã có nhiều đóng góp quan trọng trong làm rõ
những lý luận chung về FDI, phân tích vai trò của FDI, đưa ra những giải pháp chung để
đẩy mạnh thu hút FDI vào nước ta, cũng như một số địa bàn giai đoạn tới. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu cụ thể tác động của FDI đến
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng và tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của luận văn là:
- Làm rõ một số lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài và mối quan hệ
giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên - Huế trong thời gian qua.
- Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội ở
Thừa Thiên - Huế và những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong thời gian tới, phát huy tốt những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu
cực đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của
nó tới phát triển kinh tế - xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu: về không gian: tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên - Huế; về thời gian: chủ yếu phân tích đánh giá thực trạng tác động của FDI tới phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế từ năm 2000 đến nay và đề xuất giải
pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI từ nay đến năm 2015
tầm nhìn đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào lý luận của Lênin về xuất khẩu tư bản, quan điểm của Đảng,
chính sách của Nhà nước về thu hút FDI, kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu
trong các công trình khoa học đã công bố để làm rõ tác động của FDI tới phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế và đề xuất các giải pháp phù hợp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận.
- Kết hợp lý luận, quan điểm đường lối của Đảng với thực tiễn địa phương để lý giải
những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic - lịch sử, kết hợp với
phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI và tác động của
FDI đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế, từ đó đề xuất
những định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực
và hạn chế những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng bền vững.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy nghiên cứu về
FDI cũng như đối với cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn chia
làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Lịch sử phát triển và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Về lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản –
thời kỳ mà các nước tư bản bắt đầu đi xâm chiếm hình thành các thuộc địa. Hình thức của
đầu tư trực tiếp nước ngoài lúc bấy giờ tồn tại dưới dạng các nhà tư bản đầu tư vốn vào
các thuộc địa, trên cơ sở sử dụng nguồn lao động tại chổ để khai thác khoáng sản, đồn
điền nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu cung cấp cho các ngành sản xuất ở chính quốc.
Thoạt đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là một trong những phương thức tìm
kiếm, khai thác các yếu tố cần thiết, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Theo sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đầu tư trực tiếp
nước ngoài liên tục gia tăng dưới tác động của tích lũy tư bản, đồng thời với sự phát triển
và ngày càng mở rộng của quá trình phân công lao động xã hội trên qui mô quốc tế đã tạo
ra những cơ hội mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, dưới tác động của
nhiều yếu tố đặc biệt là khoa học – công nghệ, tốc độ mở rộng sự giao lưu hợp tác kinh tế
quốc tế đã làm cho không gian hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng mở
rộng hơn, và nó đã trở thành phổ biến trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
V.I.Lênin là người đã nghiên cứu một cách đầy đủ và chỉ ra nguồn gốc lịch sử của
đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể khái quát quan điểm của Lênin như sau: Do sự phát
triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản
nên trong hầu hết các trường hợp, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như một công cụ
bóc lột của các nhà tư bản. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh đã dẫn tới sự hình thành, phát triển và trở thành thống trị của các
tổ chức độc quyền trong nền kinh tế. Sự thống trị của độc quyền tư bản dưới hình thái tư
bản tài chính là cơ sở vững chắc cho việc thu lợi nhuận độc quyền cao, trở thành điều
kiện quan trọng cho sự lớn lên của tư bản, và sự xuất hiện tình trạng “tư bản thừa” như là
một tất yếu. Lênin cho rằng nếu chủ nghĩa tư bản chú ý đến phát triển nông nghiệp, đến
việc nâng cao mức sống của quần chúng nhân dân… thì không thể có hiện tượng tư bản
thừa.
Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản
thừa vẫn còn được dùng không phải là để nâng cao mức sống của quần
chúng trong nước đó, vì như thế thì sẽ đi đến kết quả làm giảm bớt lợi
nhuận của bọn tư bản, - mà là để tăng thêm lợi nhuận đó bằng cách xuất
khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc hậu
này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản hãy còn ít, giá đất đai tương đối thấp,
tiền công hạ, nguyên liệu rẻ. [21, tr.456]
Như vậy “tư bản thừa” là do khi chúng đã nhìn thấy được những “mảnh đất màu
mỡ” mà tại đó chúng có khả năng sinh lợi cao, trong khi ở nước sở tại các điều kiện để
cho đầu tư sinh lợi đã trở nên rất hạn chế. Lênin cho rằng, xuất khẩu tư bản là đặc điểm
kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại (chủ nghĩa tư bản độc quyền) [21, tr.455].
Thời kỳ từ Cách mạng tháng Mười Nga thành công về sau, khi mà trên thế giới đã
hình thành hai hệ thống chính trị xã hội đối lập, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những
thay đổi nhất định. Bên cạnh loại hình như vẫn tồn tại (ở các nước thuộc địa) đã hình
thành một loại hình mới đó là loại đầu tư chỉ có thể thực hiện khi được sự chấp thuận của
nước nhận đầu tư. Loại hình này, dù còn có sự khác nhau về mức độ nhưng cả nhà đầu tư
và nước nhận đầu tư đều có lợi. Trong thời kỳ đầu của chính quyền Xô Viết, Lênin chủ
trương sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức tô nhượng như là một biện
pháp để giải quyết khó khăn và thúc đẩy kinh tế phát triển. Ông cho rằng:
Đó là một giao kèo, một đồng minh, một liên minh giữa chính quyền nhà
nước Xô Viết, nghĩa là nhà nước vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong
đó, “…(nhà tư bản)”, họ kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận:
họ đồng ý thỏa thuận với chính quyền vô sản để cốt thu được lợi nhuận bất
thường, lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có được nguyên liệu mà họ không thể
tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô Viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất
phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn nhất…
khi “du nhập” chủ nghĩa tư bản dưới hình thức tô nhượng, chính quyền Xô Viết
tăng cường được nền đại sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất
lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hóa đối lập với nền sản xuất thủ công… [22, tr.448-
449].
Như vậy, nước nhận đầu tư không những bị áp đặt mà đối với họ còn tính toán
trước được những lợi ích mà việc đầu tư có thể mang lại.
Về dòng chảy của FDI, nếu như trước chiến tranh thế giới thứ hai, đầu tư trực tiếp
nước ngoài chủ yếu từ các nước tư bản phát triển đầu tư vào các nước kém phát triển và
thuộc địa, thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, luồng đầu tư đã có sự thay đổi. Đã xuất
hiện sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước tư bản phát triển, xuất hiện những nước vừa là nơi
cung cấp nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài vừa là địa điểm tiếp nhận đầu tư.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới có sự phân cách đáng kể về sự giàu nghèo giữa
các quốc gia đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhiều người đánh giá như là lối thoát cho
các nước nghèo. Điển hình là lý thuyết “Cái vòng luẩn quẩn” và “cú hích” từ bên ngoài
của A.Samuelson. A.Samuelson đánh giá cao vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối
với sự phát triển của các nước nghèo. Ông cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là lực
lượng có khả năng làm phá vỡ “vòng luẩn quẩn của nghèo khổ”, tạo ra những điều kiện
cho sự phát triển mà không để lại nợ nần. Về cơ bản, nhận định trên của ông nhận được
nhiều sự đồng tình. Tuy nhiên, không nên quan niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều
kiện duy nhất để các nước nghèo đi lên, là “chìa khóa vạn năng” của sự phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới vẫn bị phân chia theo hai con đường phát triển
tương ứng với hai hệ thống chính trị đối lập (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), và cả hai
hệ thống đều đạt tới một trình độ phát triển nhất định, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được
xem như là phương tiện riêng có, địa bàn hoạt động của nó cũng chịu sự giới hạn trong phạm
vi nội bộ của từng hệ thống.
Từ những năm cuối thập niên 80 đến nay, sự vận động và các điều kiện của thế giới
có những chuyển biến cơ bản, sâu sắc, sự cách biệt giữa hai hệ thống đã giảm dần; nền
kinh tế của hầu hết các quốc gia đều theo thể chế thị trường; xu hướng khu vực hóa, toàn
cầu hóa các hoạt động kinh tế đang trở thành phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh; khoa
học, kỹ thuật, công nghệ đạt tới trình độ phát triển cao;… đầu tư trực tiếp nước ngoài
không những được sử dụng như trong những hình thức hợp tác kinh tế, như phương tiện
thực hiện phân công lao động quốc tế, mà còn được xem là điều kiện quyết định sự phát
triển của kinh tế thế giới.
Nhu cầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài đang tăng lên một cách đáng kể trên
phạm vi toàn thế giới. Cùng với việc hình thành các khu vực tự do hóa đầu tư đã tạo ra
một cục diện cạnh tranh quyết liệt về lĩnh vực này.
1.1.1.2. Về bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nghiên cứu nguồn gốc lịch sử của xuất khẩu tư bản Lênin đã chỉ ra rằng mặc dù,
xuất khẩu tư bản nếu xét về mặt lượng một cách giản đơn thì nó đồng nghĩa với việc làm
giảm đi một phần năng lực phát triển, giảm bớt điều kiện tạo việc làm, làm giảm khả
năng cải thiện mức sống của nước sở hữu tư bản, nhưng đây chính lại là điều kiện, là cơ
hội giúp các nhà tư bản thu được lợi nhuận từ việc đầu tư vào nước khác với mức cao
hơn. FDI với tư cách là hình thức của xuất khẩu tư bản có bản chất ăn bám với mức độ
cao mà Lênin gọi là ăn bám “bình phương”, bởi lẽ tư bản được xuất khẩu trực tiếp vốn là
kết quả mà các tổ chức độc quyền đã bóc lột được ở trong nước, nhưng lại được sử dụng
để làm công cụ đi bóc lột nước ngoài với mức lợi nhuận ngang bằng hoặc cao hơn lợi
nhuận độc quyền cao. Hơn thế nữa, kết quả bóc lột được từ xuất khẩu tư bản không chỉ là
nguồn làm giàu trước mắt cho các tổ chức độc quyền, mà còn là nguồn để củng cố địa vị
thống trị và điều kiện ổn định cho việc thu lợi nhuận cao của các tổ chức độc quyền, bởi
lẽ một phần của lợi nhuận đó còn được dùng để mua chuộc các tầng lớp lãnh đạo của
phong trào công nhân trong nước và tại thuộc địa, tạo ra tầng lớp công nhân quý tộc và
thậm chí cả dân tộc thực lợi để phá vỡ phong trào công nhân.
Đối với nước nhập khẩu tư bản thì đây là điều kiện quan trọng để thúc đẩy kinh tế,
kỹ thuật phát triển, song về hậu quả, trong không ít trường hợp, do năng lực tổng thể của
các nước này kém, nên nhân dân ở các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột nhiều hơn, các
nước này sẽ bị lệ thuộc nhiều hơn về kinh tế, kỹ thuật nước ngoài và theo “phản ứng dây
chuyền” sẽ rất dễ dẫn đến bị lệ thuộc về chính trị. Như vậy ta thấy rằng, xuất khẩu tư bản
thực chất là một loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài. “Các nước xuất khẩu tư bản hầu như
bao giờ cũng có khả năng thu được một số “khoản lợi” nào đó” [21, tr.459]. Chính đặc điểm
này là nhân tố kích thích các nhà tư bản có tiềm lực tích cực hơn trong việc thực hiện đầu
tư ra nước ngoài. Xuất khẩu tư bản ở thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu 20 là phần lớn được đầu
tư để khai thác thuộc địa. Nói tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quan điểm của
Lênin về thực chất công cụ bóc lột của tư bản tài chính nhằm củng cố địa vị thống trị của
mình không những trong các nước đế quốc mà cả các nước thuộc địa nhằm đạt được lợi
nhuận cao hơn.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng mười Nga, Lênin cho rằng xuất khẩu tư bản giai đoạn
này đã có biểu hiện mới thông qua sự liên minh kinh tế nhằm tăng qui mô, hay năng lực
của tư bản để không những giành được thế mạnh trong cạnh tranh mà còn biến nó thành
công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Theo cách phân tích và đánh giá của Lênin thì
sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn gắn liền với lịch sử phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Xuất phát từ điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới lúc bấy giờ mà
Lênin cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là công cụ bóc lột, là hình thức chiếm đoạt
của chủ nghĩa tư bản. Lý luận trên đây của Lênin, một mặt đã phác họa bức tranh khá rõ
nét nguồn gốc và động cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, Lênin cũng khẳng
định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã là nhân tố có khả năng thực hiện vai trò động lực
thúc đẩy sự phát triển nói chung và sự phát triển nền sản xuất xã hội nói riêng của các
bên có liên quan trực tiếp đến hoạt động này.
Sau Lênin một số nhà lý luận cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài về thực chất là
hình thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất” (Vernon - học giả Mỹ), “chu kỳ tuổi thọ kỹ
thuật” (Harvey) và “nội bộ hóa di chuyển kỹ thuật” (Rugman - nhà kinh tế học Canada).
Bản chất kỹ thuật của đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề thu hút sự
chú ý của nhiều nhà lý luận. Tuy còn có sự khác nhau về cơ sở nghiên cứu, về phương
pháp phân tích, và đối tượng xem xét… nhưng quan điểm của các ông đã gặp nhau ở kết
luận: Trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan đến kỹ thuật sản xuất kinh
doanh đã buộc nhiều nhà sản xuất (có thể là hãng hay công ty) phải lựa chọn phương thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài như là điều kiện cho sự tồn tại phát triển của mình.
Sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài được qui định bởi những quy luật kinh
tế hoàn toàn khách quan với những điều kiện cần và đủ chín muồi nhất định, nó chỉ là
một trong số những mặt biểu hiện ra bên ngoài của quá trình phân công lao động quốc tế
và xã hội hóa sức sản xuất trên qui mô quốc tế. Những nhân tố khác có thể kìm hãm hoặc
đẩy nhanh hơn việc mở rộng dòng di chuyển vốn, song nếu kìm hãm cũng không thể dập
tắt được đường đi của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến những nơi có lợi thế so sánh tốt
hơn, hoặc nếu có thúc đẩy cũng không vượt qua được những điều kiện thực tế hiện có
cho phép về những điều kiện cần và đủ cả nơi đi đầu tư lẫn nơi nhận đầu tư. Vậy, sự thay
đổi thái độ từ “chống lại” qua “chấp nhận” đến “hoan nghênh” đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể xem là nhân tố tác động tạo ra những bước thay đổi nhận thức theo hướng
ngày càng đúng hơn và chủ động hơn của con người đối với quy luật kinh tế khách quan,
về sự phát triển sức sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội đang mở rộng ra một
cách thực tế trên qui mô quốc tế. Xu hướng này có ý nghĩa quyết định trong việc chi phối
các biểu hiện vận động khác nhau của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Năm 1987 lần đầu tiên Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chính thức đánh dấu một bước ngoặt lớn trong
quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta. Sau đó, luật này đã lần lượt được
sửa đổi và bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996. Trước khi được đưa vào Luật đầu tư
chung, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996) gồm 68 điều, chia thành 6
chương, trong đó các hình thức đầu tư được quy định ở Chương II. Theo đó, đầu tư trực
tiếp nước ngoài có 3 hình thức: 1) Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh; 2) Doanh nghiệp liên doanh; 3) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Luật
quy định về phương thức đầu tư mới: hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp
đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh và hợp đồng xây dựng - chuyển giao. Trong
đó các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu cụ thể là:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ nước ngoài đầu tư
100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước
ngoài góp vốn chung với các chủ doanh nghiệp ở nước sở tại trên cơ sở hình thành hợp
đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu
rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được ký kết giữa một
chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước, để tiến hành một hay nhiều hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà, trên cơ sở quy định về trách nhiệm để thực
hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên, nhưng không hình thành một pháp
nhân mới.
Các hình thức khác: ngoài các hình thức nêu trên, ở các nước và ở Việt Nam còn
có các hình thức khác như: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp
đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao
(BT) nhằm khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên, vấn đề đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được điều chỉnh bởi hai
luật riêng biệt đã dẫn đến những đối xử khác nhau giữa hai khu vực này, để đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt trong giai đoạn lúc bấy giờ Việt Nam đang chuẩn bị
gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO, những yêu cầu và rào cản về đầu tư, trợ cấp
cần loại bỏ, ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật đầu tư mới, hoàn chỉnh và phù hợp hơn với đối tượng, phạm vi
điều chỉnh được mở rộng. Luật đầu tư chung, đã làm rõ hơn một số khái niệm:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được
ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản
phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT) là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng,
kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu
tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó
cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư
được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước
Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn
đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
Nói về hình thức đầu tư, không phân biệt trong nước hay ngoài nước tại điều 21 chương
IV Luật đầu tư đã quy định các hình thức đầu tư trực tiếp [36, tr.7-8] bao gồm:
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn
của nhà đầu tư nước ngoài.
Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài.
Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng
BT.
Đầu tư phát triển kinh doanh.
Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lí hoạt động đầu tư.
Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Như vậy, so với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây thì Luật Đầu tư đã quy định rõ
hơn về những hình thức đầu tư trực tiếp. Luật Đầu tư mới đã kết nối đầu tư của doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài theo một hệ thống và khuyến khích các nhà đầu tư yên
tâm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Hình thức đầu tư trực tiếp áp
dụng cho nhà đầu tư nước ngoài được mở rộng hơn rất nhiều so với luật trước đây, và
điều này được nhận định là một trong những điểm mới được đánh giá cao của Luật Đầu
tư chung, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động rất lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội
của một quốc gia, nó vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực, điều này được
thể hiện qua mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế - xã hội
của nước tiếp nhận đầu tư. Cụ thể các tác động đó bao gồm:
1.2.1. FDI tạo vốn để phát triển kinh tế, góp phần tăng nguồn thu ngân sách
Hầu hết các quốc gia khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm mục tiêu thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vào những năm 1950, các nhà kinh tế của Liên hợp
quốc đã coi sự thiếu hụt về vốn là một hạn chế chủ yếu của tăng trưởng kinh tế ở các
nước kém phát triển. Để có vốn các nước này chỉ tiến hành bằng con đường tích lũy nội
bộ, nhưng trong xu hướng phát triển như hiện nay nếu chỉ trông chờ vào quá trình tích
lũy nội bộ thì khó tránh khỏi tụt hậu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả những khó nhăn về
vốn cho quá trình công nghiệp hóa, thúc đẩy kinh tế của một nước phát triển. Trong điều
kiện của thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hóa, nhìn chung các nước đang phát triển đều
gặp rất nhiều khó khăn: mức sống thấp, khả năng tích lũy kém, cơ sở hạ tầng chưa phát
triển, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, mức đầu tư thấp nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để
xâm nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật
tiên tiến của thế giới… giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm đến với các
nguồn đầu tư quốc tế. Nhưng trong số các nguồn đầu tư quốc tế thì vốn viện trợ tuy có
một số ưu đãi nhưng lại đòi hỏi phải đi kèm một số điều kiện ràng buộc về chính trị, xã
hội thậm chí cả về quân sự. Còn vốn vay thì thủ tục vừa khắt khe mà lại phải chịu lãi suất
cao. Ở các nước đang phát triển, khi khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế, trình độ tổ
chức sản xuất kinh doanh cũng như quản lí chưa có kinh nghiệm thì việc đầu tư (nhất là đối
với vốn vay nước ngoài) rất khó đạt hiệu quả. Đối với vốn vay, cho dù đầu tư có lãi hay
không thì hàng năm cũng phải chi trả thêm một mức lãi suất nhất định.
Nguồn vốn được đánh giá có hiệu quả nhất đối với giai đoạn đầu tiến hành công
nghiệp hóa của các nước đang phát triển là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này
cũng dễ hiểu, khi nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư cũng đồng thời họ hoàn toàn chịu trách nhiệm
về hiệu quả của đồng vốn mà mình bỏ ra, do đó trước khi đầu tư họ buộc phải tính toán
kỹ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện dự án. Trước khi tiến hành đầu tư, các nhà
đầu tư nước ngoài thường có sẵn một số điều kiện cơ bản như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lí, khả năng thị trường… tức là nhà đầu tư đã dự báo được phần nào hiệu quả có thể
thu được của đồng vốn đầu tư. Mặc dù vậy, cũng không ai dám chắc khi có đầy đủ các
điều kiện như vậy là sẽ đạt kết quả tốt trong đầu tư. Rất dễ nhận thấy rằng khi nhà đầu tư
bắt đầu bỏ vốn thực hiện dự án đầu tư thì xác suất giữa thành công và thất bại là ngang
nhau. Khi doanh nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài kinh doanh có lãi, thì phần lãi thu
được họ phải trích một phần đóng góp cho nước sở tại, nhưng nếu kinh doanh thua lỗ thì
nhà đầu tư phải gánh chịu toàn bộ. Trong trường hợp kinh doanh gặp khó khăn thì chính
các công ty mẹ ở chính quốc phải tìm cách hỗ trợ… nói đúng hơn đây là những rủi ro có
thể xảy ra mà tất cả các nhà đầu tư đều phải tính toán trước. Điều này chỉ ra rằng không
có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nào lại không tính toán kỹ trước khi đầu tư. Hay nói
cách khác, các nhà đầu tư chỉ xin phép và triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro
ít và khả năng thu lợi cao. Đây là lợi thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các
loại vốn vay khác.
Như vậy, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài là bước đi hiệu quả nhất cho các nước để
phát triển, trong đó nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Thực chất của việc làm này là tận dụng điều kiện khách quan thuận lợi mà
thế giới đã tạo ra thay vì phải mất trăm năm phát triển để tích lũy. Tức là các nước đi sau
có thể “mượn sức” những nước đi trước để thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu” để thu
dần khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển.
Mặt khác, tìm kiếm lĩnh vực và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao là bản
chất của nhà đầu tư nước ngoài. Do các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn những ngành sản
xuất, những địa bàn thuận lợi để đầu tư, nên chính phủ cần phải dành một số vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những vùng đặc
biệt khó khăn, những ngành trọng điểm, những lĩnh vực thấy không nên có yếu tố nước
ngoài, Nhằm tạo nên sự phát triển cân đối trong đầu tư. Hay nói cách khác vốn FDI là
nguồn vốn bổ sung quan trọng tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế và tiến tới
phát triển bền vững.
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về
nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư trong nước,
nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa -
hiện đại hóa mà nước ta đang thực hiện.
Khi đã đi vào hoạt động, với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình các doanh
nghiệp FDI có nghĩa vụ phải nộp thuế cho nước sở tại, qua đó góp phần tăng nguồn
thu ngân sách nhà nước, nguồn thu này lại quay trở lại phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội của nước tiếp nhận đầu tư. Ở Việt Nam trong
thời gian qua khu vực FDI đã đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của
nhà nước. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài
khoản vốn, cải thiện cán cân thanh toán nói chung và tạo ra những cân đối vĩ mô trong
nền kinh tế.
1.2.2. Thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động,
chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy ứng dụng khoa
học - công nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm cũng như khả năng
cạnh tranh của nước tiếp nhận đầu tư. Theo yêu cầu của kinh tế thị trường, muốn có được
tăng trưởng GDP và phát triển kinh tế phải không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật -
công nghệ của quá trình sản xuất từ đó làm nền tảng cho nâng cao sức cạnh tranh của các
ngành hàng, các vùng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nâng cao sức cạnh tranh là đòi hỏi
khách quan và là điều kiện để tồn tại đối với từng chủ thể sản xuất kinh doanh trong kinh
tế thị trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có tác động lớn đối với quá trình này.
Như chúng ta biết, muốn có lợi nhuận các chủ thể kinh doanh buộc phải, một mặt,
không ngừng hạ thấp hao phí lao động cá biệt so với hao phí lao động xã hội cần thiết
theo đòi hỏi của quy luật giá trị, mặt khác phải không ngừng cải tiến mẫu mã, chủng loại,
chất lượng sản phẩm, cách thức phục vụ khách hàng dựa trên sự phát triển ngày càng đa
dạng với những yêu cầu ngày càng cao của hệ thống các nhu cầu xã hội. Điều này chỉ có
thể thực hiện được khi các chủ thể kinh tế không ngừng ứng dụng những thành tựu mới
nhất của khoa học kỹ thuật - công nghệ vào quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất
lao động. Bản thân các nước đang phát triển với trình độ sản xuất còn lạc hậu nên dẫn
đến năng suất lao động không cao, sản phẩm kém chất lượng, không có khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Trong khi đó, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn được thực
hiện dựa trên những công nghệ hiện có nhất định, nên đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đồng
thời thực hiện chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào nước tiếp nhận đầu tư. Trước sức
ép cần phải tồn tại trong môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước không thể
không tiến hành ứng dụng kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất, điều này đã góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh nội bộ ngành nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung.
Như vậy, công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của một quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò của công nghệ lại càng
khẳng định rõ. FDI được coi là kênh quan trọng để phát triển công nghệ của nước chủ
nhà, trong dài hạn đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước tiếp nhận đầu tư.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện bởi các công ty
xuyên quốc gia. Tuy nhiên, việc chuyển giao những công nghệ mới, có tính cạnh tranh
cao thường khó thực hiện được, đây chính là hạn chế cơ bản trong chuyển giao công nghệ
thông qua FDI.
Bên cạnh chuyển giao các công nghệ sẵn có, các dự án FDI còn tham gia nghiên
cứu và phát triển (R&D) công nghệ của nước chủ nhà, nhờ đó mà năng lực công nghệ
của nước tiếp nhận FDI ngày càng phát triển hơn. Mặt khác, trong quá trình sử dụng
các công nghệ hiện đại của nước ngoài đội ngũ chuyên gia cũng như công nhân trong
nước học được rất nhiều kinh nghiệm. Muốn học được công nghệ hiện đại đòi hỏi lực
lượng lao động trong nước (chuyên gia và công nhân) phải nỗ lực rất nhiều mới có thể
nhanh chóng tiếp thu được công nghệ hiện đại, sau đó cải biến cho phù hợp với điều
kiện của nước mình và biến chúng thành công nghệ của mình. Công nghệ của nước
tiếp nhận FDI được cải thiện làm cho năng suất lao động ngày càng được tăng lên,
nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, thì công nghệ hiện đại có vai trò quyết định đến
năng suất lao động nó tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của ngành. Nền kinh tế
Việt Nam có xuất phát điểm thấp, trình độ công nghệ lạc hậu thì việc nâng cao trình độ
công nghệ thông qua FDI là bước đi đúng đắn. Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, công
nghệ hiện đại không là giải pháp duy nhất cho tất cả các trường hợp tiếp nhận công nghệ,
vì còn phụ thuộc vào năng lực tiếp nhận của người sử dụng.
Bên cạnh những tác động thuận lợi, chuyển giao công nghệ thông qua FDI cũng đặt
ra nhiều vấn đề cho nước tiếp nhận công nghệ như: nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ
không phù hợp với các nước đang phát triển, giá đắt hơn thực tế Về lâu dài, công nghệ
lạc hậu sẽ gây ra hậu quả xấu cho nước chủ nhà vì loại công nghệ này kém sức cạnh
tranh, năng suất lao động thấp và gây ô nhiễm môi trường, tuy giá cả của nó có thể rẻ
hơn, phù hợp với điều kiện của những nước nghèo. Đây là một vấn đề mà các nước cần
quan tâm khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.3. FDI góp phần hình thành các hình thức kinh doanh đa dạng, liên kết các
ngành nghề
Trước đây, khi Việt Nam còn thực hiện nền kinh tế khép kín, các hoạt động kinh tế
chỉ bó hẹp trong loại hình kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, do đó nền kinh tế nước ta
thời kỳ đó rất trì trệ và kém hiệu quả, không khai thác hết những tiềm năng kinh tế, nhìn
chung nước ta lúc bấy giờ chỉ là một nước nông nghiệp lạc hậu. Thực tế 20 năm đổi mới
cho thấy, sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần với sự hình thành các hình thức
đầu tư ngoài kinh tế nhà nước và tập thể đã tạo ra những đối thủ cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp nhà nước và tập thể cùng những hình thức kinh doanh đa dạng. Sự có mặt
và ngày càng gia tăng các hình thức đầu tư đó đã thực sự tạo ra nền kinh tế ngày càng
năng động, thúc ép bản thân các doanh nghiệp nhà nước và tập thể phải không ngừng
vươn lên. Sức ép đó ngày càng lớn với sự hình thành, phát triển của thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài cùng với lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của nền kinh
tế nước ta. Sự tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh của các thành phần kinh
tế khác nhau với sự góp mặt của các doanh nghệp FDI đã làm đa dạng hơn các loại hình
doanh nghiệp, tạo ra xung lực mới cho phát triển kinh tế. Từ đó làm đa dạng thêm các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, góp phần tạo dựng một nền kinh tế năng
động, tận dụng tối đa các nguồn lực của quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế.
Không những làm đa dạng các hình thức kinh doanh, đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn góp phần tạo sự liên kết giữa các ngành với nhau, đặc biệt trong lĩnh vực công
nghiệp, sự liên kết này xuất hiện do các nguyên nhân: Thứ nhất, các công ty trong nước
thường nắm giữ nguồn nguyên liệu, hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho các công ty nước
ngoài trong lĩnh vực công nghiệp; Thứ hai, bất kỳ một ngành công nghiệp nào cũng cần
các ngành công nghiệp phụ trợ, các ngành công nghiệp phụ trợ này phải do các công ty
trong nước đảm nhiệm; Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường tập trung vào các khu
công nghiệp nên xu hướng các công ty trong khu công nghiệp liên kết với nhau nhằm
giảm chi phí đầu vào.
Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu thông qua quá trình trao
đổi trực tiếp giữa các công ty nội địa với các công ty nước ngoài những hàng hóa (tư liệu sản
xuất, nguyên vật liệu đầu vào) và dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Mối
liên kết này sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới cho các ngành công nghiệp nội địa và các công
ty trong nước.
1.2.4. Tăng cường khai thác những lợi thế tuyệt đối và tương đối để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ là một trong những mục tiêu kinh tế
quan trọng của mỗi quốc gia, bản thân mỗi nền kinh tế luôn tồn tại những lợi thế riêng,
tùy theo những tương quan nhất định mà đó có thể là lợi thế tuyệt đối hay lợi thế tương
đối. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không thể thực hiện được nếu thiếu những
nguồn lực quan trọng như vốn, công nghệ, tài nguyên và con người (đặc biệt là những
chủ thể có vai trò tạo lập). Đầu tư trực tiếp nước ngoài với việc bổ sung về vốn cho nền
kinh tế, đưa thiết bị, công nghệ hiện đại và phương thức tổ chức quản lí vào đã tạo ra
những điều kiện mới cho việc khai thác những tiềm năng của nước nhận đầu tư, từng bước
hình thành những lợi thế mới trong hệ thống phân công lao động quốc tế. Việc phát huy
nội lực và tranh thủ ngoại lực giúp nước nhận đầu tư xác định rõ hơn các ngành hàng chủ
lực, từ đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiến bộ với sự giảm dần về tỷ
trọng của nông nghiệp, sự gia tăng của công nghiệp, dịch vụ trong sản xuất GDP và cơ
cấu lao động.
Một trong những biểu hiện về tăng cường khai thác các lợi thế của quốc gia được
thể hiện thông qua việc nhận chuyển giao công nghệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những công nghệ được chuyển giao bao gồm cả những công nghệ không còn có sức cạnh
tranh ở các nước tiên tiến do nguyên nhân giá trị hàng hóa sức lao động tăng cao, đặc biệt
là những công nghệ dùng nhiều lao động và nhiều năng lượng truyền thống. Dưới các
hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài đã nhập khẩu toàn bộ thiết bị để nước tiếp nhận có
thể khai thác những công nghệ đó vào sản xuất và xuất khẩu.
1.2.5. Thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường lao động, tạo điều kiện
mở rộng việc làm và thu nhập, nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước có nhiều mục tiêu, trong đó
có mục tiêu giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực. Tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài tới vấn đề việc làm có thể xem xét trên hai phương diện: trực tiếp và gián
tiếp. Theo phương diện tác động trực tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp từ đó thu hút sức lao động vào các doanh nghiệp đó.
Theo phương diện gián tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài gián tiếp tạo thêm việc làm
trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ
trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung
gian giữa các doanh nghiệp này; đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào cải thiện điều kiện
kết cấu hạ tầng lạc hậu, yếu kém ở nhiều địa phương, điều này cũng tạo điều kiện cho người
dân có thể phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của mình, tạo nhiều việc làm
cho lao động ở nước tiếp nhận đầu tư. Có thể nói, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo cơ hội
cho người dân có khả năng tìm kiếm và tự tạo việc làm, mở mang ngành nghề giúp làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời tạo cơ hội và điều kiện cho sự hình thành và
phát triển thị trường lao động.
Cùng với việc tạo ra việc làm, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của nước tiếp nhận đầu tư. Để các dự án của mình hoạt động
ngày càng hiệu quả hơn, các chủ doanh nghiệp FDI buộc phải đào tạo đội ngũ công nhân,
cán bộ quản lí làm việc cho mình, điều này đã tiết kiệm cho nước chủ nhà một phần ngân
sách để đào tạo lao động trong nước (như trợ giúp về tài chính mở các lớp đào tạo dạy
nghề trung và dài hạn, mở các lớp huấn luyện nâng cao nghiệp vụ quản lí, v.v). Ngoài ra,
để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực trong các dự án, doanh nghiệp FDI thường
đưa người lao động đi đào tạo ở nước ngoài để họ tiếp cận được với công nghệ và kinh
nghiệm quản lí hiện đại. Trong khi làm việc ở các doanh nghiệp FDI, các chuyên gia kỹ
thuật, quản lí trong nước có cơ hội tiếp cận với các chuyên gia nước ngoài, học được các
kinh nghiệm thực hành từ các chuyên gia này. Mặt khác, do sức ép cạnh tranh trên thị
trường lao động, người lao động trong nước không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
của mình qua học tập và qua công việc, từ đó chất lượng nguồn nhân lực trong nước
không ngừng được nâng lên.
Từ những phân tích trên có thể nói FDI là một kênh quan trọng tạo việc làm cho
người lao động của nước tiếp nhận đầu tư.
Ở Việt Nam lực lượng lao động làm việc trong khu vực FDI hầu hết là lao động
giản đơn tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp chế biến, may mặc. Số lao động
trực tiếp trong các dự án FDI ngày càng tăng, nhờ các hoạt động cung ứng dịch vụ và gia
công cho các đối tác nước ngoài. Năm 2006, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử
dụng khoảng 730 ngàn lao động, chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam
[01, tr.12]. Số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt,
học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam
làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên gia nước ngoài
trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lí doanh nghiệp và điều khiển các qui trình
công nghệ hiện đại. Thúc đẩy sự hình thành tác phong làm việc theo phương pháp công
nghiệp đối với lực lượng lao động. Qua việc tạo ra ngày càng nhiều chỗ làm, đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã tạo ra thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
1.2.6. Nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, mở rộng thị
trường, thúc đẩy giao lưu kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các điều kiện cần thiết cho việc lập một hệ thống thị
trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất công nghiệp hóa, tiếp cận và mở rộng
được thị trường mới, tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế, v.v. Hình thành được các khu
chế xuất, khu công nghiệp chủ lực, tạo ra các điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế của
một quốc gia trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu.
Sự phát triển của sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên những hình thức đầu tư khác
nhau theo cơ chế thị trường sẽ thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ thị trường và không
ngừng mở rộng hệ thống thị trường theo hướng đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và
quốc tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước cho phép phục vụ ngày càng tốt
hơn các nhu cầu trong nước và từng bước mở rộng xuất khẩu, sự phát triển của các doanh
nghiệp FDI là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập vì tạo thuận lợi cho khai thác
và mở rộng thị trường ở nước ngoài. Với sự gia tăng của của các dự án FDI, xuất khẩu
của nước tiếp nhận đầu tư sẽ phát triển nhanh chóng, cơ cấu xuất khẩu được cải thiện
theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt
hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định, tạo thuận lợi cho hội nhập kinh
tế khu vực và quốc tế.
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất
nhập khẩu tăng hay giảm sẽ tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, khi nền
kinh tế tăng trưởng ổn định là điều kiện tốt nhất thúc đẩy lĩnh vực ngoại thương phát
triển. Xuất khẩu cho phép chúng ta khai thác tối đa lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế nhờ
quy mô, năng suất cao nhờ chuyên môn hóa sản xuất Nhập khẩu bổ sung được hàng
hóa, dịch vụ khan hiếm đặc biệt là thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng.
Mặt khác, xuất nhập khẩu còn thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tìm kiếm thị trường
cho các doanh nghiệp nội địa.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung đầu tư
vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ xuất khẩu mà nước chủ nhà khai thác có hiệu quả hơn các
nguồn lực trong nước, mở rộng thâm nhập thị trường quốc tế, gia tăng các quan hệ kinh tế
đối ngoại. Do đó, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu thường là ưu tiên
hàng đầu trong chính sách thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư.
Trong thời gian qua, FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp.
Nhờ đó, Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai
thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v. Năm 2004, khu vực có
vốn FDI đóng góp 35,68% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Đến nay, khu vực
có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ô
tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy
móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày;
25% thực phẩm đồ uống [01, tr.11]. Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công
nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao.
Về kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI ở nước ta luôn có tốc độ tăng cao và
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1991,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong đó khu vực FDI chiếm tỷ trọng
4%, năm 2004 con số này là 26,5 tỷ USD khu vực FDI chiếm 54,6%. Riêng trong 11
tháng đầu năm 2008 Việt Nam đã có tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 58 tỷ USD, tuy nhiên
tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 38,53% đạt 22,35 tỷ USD
[48].
1.2.7. Thông qua FDI, nước tiếp nhận đầu tư có thể cải thiện đáng kể cở hạ
tầng, phát triển kinh tế
Một đặc điểm tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển là sự lạc hậu và thiếu
thốn về công nghệ và kỹ thuật. Theo quy luật và sức ép thay thế kỹ thuật thì một kỹ thuật
nào đó đã đến lúc cần thay thế ở các nước phát triển, nhưng nó có thể còn hiện đại và phù
hợp với trình độ của các nước đang phát triển. Về bản chất, các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài bao giờ cũng đặt vấn đề lợi nhuận cao và thu hồi vốn nhanh làm mục tiêu hàng đầu.
Những công nghệ, những kỹ thuật mà nhà đầu tư đưa vào thực hiện dự án đầu tư có thể
đã đến lúc cần thay thế ở nước họ. Nhưng vì đi cùng với nó thường là một số lượng nhất
định tiền vốn phải bỏ ra, có nghĩa là kỹ thuật đó sẽ là nhân tố trực tiếp chi phối lợi ích của
nhà đầu tư nên khi đưa kỹ thuật vào thực hiện dự án, họ buộc phải cân nhắc, lựa chọn
những kỹ thuật còn có khả năng phát huy hiệu quả cho tới khi họ thu hồi đủ vốn và có lãi.
Để thực hiện một số dự án đầu tư có khả năng sinh lời lớn, thu hồi vốn nhanh, nhiều nhà
đầu tư đã chọn một số lĩnh vực như giao thông vận tải, viễn thông, tin học… như là điều
kiện cho việc thực hiện các dự án đầu tư của mình. Bên cạnh đó, chính phủ các nước nhận
đầu tư cũng thường có nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu
tư vào một số lĩnh vực công nghiệp, cơ sở hạ tầng quan trọng hy vọng thúc đẩy nhanh sự
phát triển của các lĩnh vực này. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra điều kiện để
góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng của nước nhận đầu tư.
1.2.8. Tác động của FDI tới môi trường sinh thái
Những nội dung trên đã cho thấy những tác động tích cực mà đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể đem lại cho một quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đầu tư
trực tiếp nước ngoài không chỉ có tác động tích cực mà bên cạnh đó nó còn gây ra một số
tác động xấu mà bản thân nước nhận đầu tư nhiều khi không lường trước được hoặc chấp
nhận nó như một tất yếu khách quan và tìm cách hạn chế đến mức tối đa có thể. Trong
đó, nổi bật hơn cả là vấn đề môi trường, nó luôn được đặt ra bên cạnh những dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài đặc biệt là những dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, bởi bảo vệ môi
trường là một vấn đề mà ngày nay các quốc gia luôn quan tâm trong chiến lược phát triển
bền vững.
Trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần hiểu rằng, tại các quốc gia đã phát
triển, nhiều công nghệ sản xuất, đặc biệt là những công nghệ ô nhiễm môi trường, đang
có xu hướng bị thải loại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những công nghệ đó
có thể trở thành đối tượng để xuất khẩu sang các nước đang phát triển thông qua FDI, do
đó thu hút FDI ngày nay của các nước đang phát triển đang song hành với nguy cơ ô
nhiễm môi trường. Mục tiêu chủ yếu của các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài nói riêng là thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục tiêu đó các nhà đầu
tư luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất, tận dụng khai thác tối đa những công nghệ hiện
có. Tại các nước phát triển những yêu cầu cao của xã hội về môi trường đã làm cho các
chi phí về môi trường đối với một số những ngành sản xuất ngày càng tăng cao, ảnh
hưởng đến lợi nhuận của nhà đầu tư. Vì vậy, một trong những nguyên nhân của đầu tư