Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN: Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 105 trang )








LUẬN VĂN:

Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch
ở tỉnh Thừa Thiên Huế





MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình lịch sử phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ khi nhà Nguyễn
chọn đất Huế làm đất định đô, hệ thống làng xã nông thôn của Thuận Hóa - Phú Xuân lúc
bấy giờ đã có những chuyển động cùng với sự ra đời của những phố chợ, bến cảng … đặc
biệt nhu cầu trao đổi hàng hóa đã tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của ngành nghề thủ
công nghiệp; sau đó quá trình hình thành và phát triển của làng nghề thủ công nghiệp
cũng đồng thời là quá trình thu hẹp dần kinh tế nông nghiệp và đổi mới diện mạo nông
thôn theo huớng nghề và làng nghề gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp trong
nền kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam truyền thống.
Nghề và làng nghề truyền thống đã góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa Huế, đóng
góp vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, nhất là đối với các vùng nông
nghiệp, nông thôn. Mặt khác, làng nghề truyền thống góp phần vào sự phân công lao
động trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam truyền thống thành ba ngành công - nông -
thương nghiệp. Cơ cấu kinh tế này đã thực sự tạo cho làng xã Việt Nam có thế ổn định


lâu dài, vững chắc, thậm chí cho đến cuối thế kỷ XX đầu thế kỉ XXI với những tiến bộ
khoa học công nghệ tác động vào cũng không làm cho nó thay đổi đáng kể. Vì vậy, trong
xu thế hội nhập kinh tế và văn hóa giữa các nuớc ngày càng phát triển, việc bảo tồn và
phát triển các đặc trưng văn hóa của một vùng, một quốc gia là điều vô cùng quan trọng,
nó vừa giữ gìn, phát triển được truyền thống văn hóa của dân tộc để có thể “ hòa nhập
quốc tế nhưng không hòa tan”, vừa góp phần tích cực tạo động lực thúc đẩy xóa đói giảm
nghèo nâng cao đời sống cho dân cư và đổi mới bộ mặt nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn phải gắn liền với quá trình
xây dựng nông thôn mới, trong đó phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề là một trong những nhân tố có tính quyết định bởi vì phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trong nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải tạo và giữ gìn môi trường sinh thái trong các cộng
đồng dân cư nhất là trong quá trình phát triển các ngành nghề và làng nghề truyền

thống gắn với du lịch sinh thái và du lịch làng nghề, cải thiện và nâng cao mức sống
cho cư dân nông thôn.
Để phát huy truyền thống của một vùng đất có bề dày lịch sử phát triển nghề và làng
nghề truyền thống phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương trước xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, với lợi thế do thiên nhiên
ban tặng cho vùng đất kinh thành Huế một quần thể di tích văn hóa lịch sử, sinh thái thì
việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống thành các làng nghề truyền thống
phục vụ du lịch là một yêu cầu tất yếu khách quan cần thiết để giúp cho kinh tế du lịch
của tỉnh Thừa Thiên Huế phát triển nói riêng và của cả nước nói chung.
Du lịch từ lâu đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực
của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu xã hội không thể thiếu được
trong đời sống sinh hoạt của các nước đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển, các
nước đang tiến hành công nghiệp hoá và đô thị hoá.
Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề truyền thống ở Việt Nam
ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá trị văn

hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng.
Nhiều du khách nước ngoài đã rất thích thú khi tham gia các tour du lịch làng nghề.
Họ từng cho biết lý do thích thăm làng nghề ở Việt Nam vì được ngắm nhìn phong cảnh
làng quê yên bình, được tìm hiểu về các vị tổ nghề, làm quen với những nghệ nhân, nông
dân và có khi còn được trực tiếp tham gia vào các quy trình sản xuất sản phẩm thủ công.
Huế là cố đô duy nhất còn giữ lại gần như nguyên vẹn một tổng thể kinh đô của
triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam với các công trình kiến trúc độc đáo được
UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Với những ưu ái mà thiên nhiên ban tặng cho Huế thì kinh tế du lịch thực sự trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tài nguyên du lịch ở Huế rất phong phú và đa dạng đã
tạo nên sự đa dạng của nhiều loại hình du lịch như: tham quan, chữa bệnh, an dưỡng,
học tập, thể thao, tín ngưỡng, lễ hội, làng nghề truyền thống…

Vì vậy, tỉnh Thừa Thiên Huế là một trong những điểm đến của phần lớn khách du lịch
trong và ngoài nước và trong những năm gần đây loại hình du lịch làng nghề truyền thống ở
đây ngày càng đặc biệt hấp dẫn đối với du khách.
Nghề và làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên Huế ra đời, tồn tại và phát triển luôn
gắn liền với những bước thăng trầm của trên 310 năm lịch sử Thuận Hóa - Phú Xuân -
Huế hôm nay. Tuy nhiên, việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống ở tỉnh
Thừa Thiên Huế chưa được chú trọng và chưa khai thác hết tiềm năng nhằm đưa vào
phục vụ du lịch ở tỉnh này.
Với lý do như vậy nên tôi chọn “Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh
Thừa Thiên Huế” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
- Đề tài “Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề truyền thống Thừa Thiên Huế"
thuộc đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng
các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam”.
Chủ trì: TS. Lê Văn Thăng, thuộc khoa Môi trường, Đại học Khoa học Huế.
- Các đề tài nghiên cứu các làng nghề truyền thống ở các tỉnh, thành khác:
+ Đề tài: “Vốn cho phát triển làng nghề ở Hà Tây”, Nguyễn Văn Công.

+ Đề tài: “Giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề ngoại
thành Hà Nội”, Nguyễn Thị Mùi.
+ Đề tài: “Hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn thủ đô Hà Nội: Thực trạng và
giải pháp”, Nguyễn Thị Thuý Minh.
+ Đề tài: “Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện
nay”, Đoàn Thị Thanh Thuý.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã có nhiều cách tiếp cận và giải quyết vấn
đề dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu các làng nghề truyền thống nhất là
nhằm phục vụ du lịch thì dưới góc độ kinh tế chính trị chưa có công trình nào nghiên cứu.
Luận văn này cố gắng làm sáng tỏ vấn đề trên cả về lý luận và thực tiễn dưới góc độ kinh
tế chính trị Mác- Lênin.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Hệ thống hoá lý luận về các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch, nghiên cứu
thực trạng các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đưa
ra hệ thống giải pháp nhằm khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa
Thiên Huế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có 3 nhiệm vụ chủ yếu là:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề truyền thống nói chung và lang
nghề truyền thống phục vụ du lịch nói riêng.
- Phân tích thực trạng của các làng nghề truyền thống để phục vụ du lịch tại tỉnh
Thừa Thiên Huế.
- Hình thành cơ sở khoa học để đề xuất những giải pháp cơ bản để khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống nhằm phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong
những năm tới.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu các làng nghề truyền thống để phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa

Thiên Huế, từ đó để có những đề xuất nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề truyền
thống này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ năm 2000 đến nay ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những quan điểm cơ bản của kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề truyền
thống và du lịch.
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng gồm: Phương pháp biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp…
6. Những đóng góp của luận văn

- Đóng góp về lý luận
Luận văn được mở đầu bằng việc hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến làng
nghề truyền thống. Bản thân việc đưa ra các đặc thù của làng nghề góp phần gợi ý các
định hướng, giải pháp phát triển. Các vấn đề lý luận và thực tiễn trước đây ít được đề cập
một cách hệ thống cũng được xem xét và phát triển, việc chọn và phân tích kinh nghiệm
ở các địa phương khác trong việc khôi phục các làng nghề truyền thống với các mức độ
khác nhau tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa ra các giải pháp cho làng nghề truyền
thống ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đóng góp về thực tiễn cho địa phương
Các giải pháp có khả năng ứng dụng thực tiễn cao cũng như được phân loại theo cấp
độ của tầm quan trọng và cấp thiết tạo ra một hệ thống giải pháp liên kết, có tính logic.
Ngoài ra những định hướng đề tài đưa ra tạo điều kiện cho công tác hoạch định chiến
lược đối với các cơ quan quản lý ở địa phương, góp phần khôi phục, phát triển làng nghề
truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn 3
chương, 8 tiết.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH

1.1. KHÁI NIỆM LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm làng nghề truyền thống
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông
nghiệp,càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ
với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo kiểu nghề nghiệp,
tạo thành các phường hội như Phường gốm, Phường đúc đồng, Phường dệt vải… Từ đó,
các nghề được lan truyền và phát triển thành các làng nghề.

Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản
phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hóa,văn minh dân tộc. Quá trình phát triển của
làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát
triển đó từ một vài gia đình, rồi đến cả họ và sau đó lan ra cả làng. Thông qua lệ làng mà
làng nghề định ra những quy ước như: không truyền nghề cho người làng khác, không
truyền nghề cho con gái, hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí quyết… Trải qua một thời
gian dài lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai
một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời. Vì vậy, quan niệm về làng nghề và làng
nghề truyền thống có nhiều ý kiến khác nhau:
Quan niệm về làng nghề:
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt
động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Với quan niệm này thì làng nghề đó
hiện nay còn không nhiều.
Ví dụ như nghề gốm chỉ có ở Phù Lãng (Bắc Ninh), Bát Tràng (Hà Nội)… Đó là
những làng thuần nhất không làm ruộng, còn đa số vừa làm ruộng, vừa làm nghề, ở đây
thủ công nghiệp đối với họ chỉ là nghề phụ để tăng thêm thu nhập mà thôi.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở đây không
nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công, nhiều khi cũng

là người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người
thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi
khác. Quan niệm này về làng nghề như vậy vẫn chưa đủ. Không phải bất cứ làng nào có
vài ba lò rèn hay dăm ba gia đình làm nghề mộc, nghề khảm… đều là làng nghề. Để xác
định làng đó có phải là làng nghề hay không, cần xem xét tỷ trọng lao động hay số hộ
làm nghề so với toàn bộ lao động và hộ ở làng hay tỷ trọng thu nhập từ ngành nghề so
với tổng thu nhập của thôn (làng).
Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ
nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ
trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa
và nhỏ, và có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ tính chất làng nghề; nó

như một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, là một
đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - văn hóa-
xã hội một cách tích cực.
Từ những cách tiếp cận trên chúng ta có thể thấy khái niệm về làng nghề liên quan
đến các nghề thủ công cụ thể. Vào thời gian trước đây, khái niệm làng nghề chỉ bao hàm
các nghề thủ công nghiệp, còn ngày nay với xu hướng trên thế giới khu vực kinh tế thứ
ba đóng vai trò quan trọng và trở thành chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng thì các nghề buôn
bán dịch vụ trong nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề
sẽ có loại làng chỉ có một nghề và làng nhiều nghề, tùy theo số lượng ngành nghề thủ
công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ ưu thế có trong làng. Làng một nghề là làng duy nhất có
một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác
chỉ có lác đác ở một vài hộ không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại
nhiều nghề có tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Trong nông
thôn Việt Nam trước đây loại làng một nghề xuất hiện và tồn tại chủ yếu, loại làng nhiều
nghề gần đây mới xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.
Vậy, làng nghề là gì?
Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số
nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các

nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng [15, tr.11-13].
Quan niệm về làng nghề truyền thống:
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề truyền thống là một cộng đồng dân cư, cư trú trong
một phạm vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm
một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất ra một hoặc nhiều loại
sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện được yếu tố truyền
thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, những tuân thủ yếu tố truyền
thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề truyền thống là những làng nghề làm nghề thủ công
có truyền thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ
bởi vì khi nói đến làng nghề truyền thống ta không thể chú ý đến các mặt đơn lẻ, mà phải

chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ
thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ
thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ ba: Làng nghề truyền thống là những làng có tuyệt đại đa số bộ phận
dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử,
được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối hoặc ít nhất cũng tồn
tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài hoa
và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề. Đồng thời sản
phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng và đậm nét văn hóa dân tộc.
Giá trị sản xuất và thu nhập, tiểu thủ công nghiệp ở làng chiếm tỷ lệ 50% so với tổng giá
trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
Đây là khái niệm được xem là tương đối đầy đủ bởi vì những làng nghề được gọi là làng
nghề truyền thống hay cổ truyền phải là những làng nghề có các nghề thủ công truyền thống;
được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác, sản xuất
tập trung, có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề, sản phẩm mang tính tiêu
biểu và độc đáo.
Để xác định một làng nghề là làng nghề truyền thống thì cần có những tiêu thức sau:
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên so với

tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% tổng
giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hóa và bản sắc dân tộc
Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác [22].
Như vậy, từ những cách tiếp cận trên, có thể định nghĩa làng nghề truyền thống là những
thôn làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản
xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công
đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của thời

gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với
một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có
quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ
nghệ và đã trở thành hàng hóa trên thị trường [15, tr.13-15].
1.1.2. Khái niệm làng nghề truyền thống phục vụ du lịch
Từ khái niệm làng nghề truyền thống đề cập ở trên, có thể hiểu làng nghề truyền
thống phục vụ du lịch là có một không gian lãnh thổ nông thôn mang đậm nét văn hóa,
lịch sử, có các nghệ nhân tiêu biểu thực hiện tổ chức sản xuất một hoặc một số sản phẩm
thủ công truyền thống, đồng thời các làng nghề này còn cung cấp các dịch vụ phục vụ và
thu hút khách du lịch. [11]
Cần phân biệt rõ sự khác nhau cơ bản giữa làng nghề truyền thống thông thường hay làng
nghề thương mại và làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở chỗ làng nghề truyền thống
phục vụ du lịch có lợi thế thu hút khách du lịch (có giá trị văn hóa lịch sử, thuận tiện về mặt vị
trí địa lý…) và các dịch vụ phục vụ du lịch (trưng bày, bán hàng, biểu diễn quy trình sản xuất,
hướng dẫn tham quan…).
Ở đây, cần phải hiểu rõ khái niệm làng nghề truyền thống phục vụ du lịch và du lịch
làng nghề. Du lịch làng nghề là loại hình du lịch khai thác giá trị văn hóa vật thể, các sản
phẩm do nghề thủ công của các làng nghề tạo ra như một đối tượng tài nguyên du lịch có giá

trị, được khai thác để phục vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa,
tham quan du lịch, xe, hoặc tham gia vào các công đoạn sản xuất sản phẩm đặc trưng của
làng nghề đó, mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương và đất nước, góp phần tôn vinh, bảo
tồn giá trị truyền thống văn hóa và tăng cường vai trò kinh tế của làng nghề.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ HOẠT
ĐỘNG DU LỊCH
1.2.1. Sự cần thiết phải khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trong
việc phát triển du lịch
Trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát
triển như vũ bão, tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cùng

với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu thì làng nghề truyền thống có nguy cơ bị mai một
dần theo thời gian.
Với lợi thế thiên nhiên ban tặng cho nước ta thì việc phát triển du lịch được xem là
một trong những lĩnh vực hàng đầu góp phần vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước.
Nhìn chung, các làng nghề truyền thống vẫn tồn tại nhưng chủ yếu là phát triển một cách
tự phát nên tính ổn định và bền vững kém. Ngoài ra, Nhà nước chưa có các chính sách
đồng bộ, phù hợp với thực trạng của các làng nghề hiện nay nên chưa tạo lập được thị
trường tiêu thụ các sản phẩm thủ công truyền thống, chưa phát triển được đội ngũ nghệ
nhân tài hoa trong các làng nghề truyền thống… Vì vậy, việc các làng nghề truyền thống
ngày càng mai một, đội ngũ nghệ nhân tài hoa ngày càng giảm, một số nghề truyền thống
mất hẳn,… là điều tất yếu xảy ra. Đây là việc ảnh hưởng rất lớn đến phát triển du lịch ở
nước ta.
Do đó, việc phải khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống hiện nay là rất
cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch ở nước ta, biểu hiện cụ thể
là:
Thứ nhất, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề là một trong
những nhân tố có tính quyết định bởi vì phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề trong nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải
tạo và giữ gìn môi truờng sinh thái trong các cộng đồng dân cư nhất là trong quá trình

phát triển các ngành nghề và làng nghề truyền thống gắn với du lịch sinh thái và du lịch
làng nghề, cải thiện và nâng cao mức sống cho cư dân nông thôn.
Thứ hai, do nhu cầu, thị hiếu của du khách về các sản phẩm và dịch vụ mà các làng
nghề truyền thống cung cấp.
Sự phát triển của các nghề và các làng nghề truyền thống đã góp phần đáp ứng thõa
mãn nhu cầu tiêu dùng một số sản phẩm thiết yếu của xã hội, đồng thời từng bước đa
dạng hóa sản phẩm phục vụ du lịch trên địa bàn. Do mức sống của người dân trong nước
ngày được nâng cao cùng với việc phát triển giao lưu văn hóa giữa các nước trong quá
trình hội nhập và mở cửa nên nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng lớn, đặc biệt là
các trung tâm du lịch trong nước và địa phương.

Thứ ba, do sự phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hoá các loại hình du lịch.
Ngày nay, ngoài những loại hình du lịch cổ điển thì du lịch làng nghề là loại hình du
lịch phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Nó có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế - xã hội,
văn hóa và giáo dục. Nhu cầu của du khách theo đó mà phát triển ngày càng đa dạng,
phong phú từ sản phẩm đặc trưng của từng vùng miền, từng làng nghề cho đến dịch vụ
phục vụ cho chuyến du lịch….
Vì vậy, việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống cũng là một trong
những nội dung quan trọng nhằm phục vụ và đáp ứng nhu cầu của du khách ngày một
phong phú hơn, mặt khác tạo ra nhiều sản phẩm mới độc đáo, đặc trưng riêng có của từng
làng nghề để phục vụ du khách… Qua đó, thương hiệu du lịch Việt Nam được quảng bá
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư, giải quyết việc làm cho lao động ở các vùng nông thôn
Sự khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống đã thu hút được hàng ngàn lao
động nông thôn có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho các hộ lao động, nâng cao đời
sống cho cư dân nông thôn tại các địa phương nói riêng và trên cả nước nói chung.
Trong điều kiện hiện nay, ở nông thôn đất đai canh tác ngày càng ít, nguồn vốn hạn
hẹp… do đó, lượng lao động dư thừa ngày càng lớn. Vì vậy, phát triển làng nghề truyền
thống ở nông thôn là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người lao động. Việc
phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn với nhiều ngành nghề phong phú với nhiều

loại hình đa dạng thì không chỉ thu hút lao động ở gia đình, làng xã mình mà còn thu hút
được nhiều lao động từ các địa phương khác đến làm thuê đồng thời kéo theo nhiều dịch
vụ khác phát triển, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động.
Thứ năm, nhằm giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trước xu thế hội nhập
kinh tế và văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới tránh “hòa nhập chứ
không hòa tan”.
Từ xa xưa, người nước ngoài hiểu Việt Nam, quan hệ mật thiết với Việt Nam, trước
hết là từ yếu tố văn hóa. Làng nghề truyền thống là một sự kết tinh giá trị văn hóa văn
minh lâu đời của dân tộc Việt Nam. Các sản phẩm thủ công truyền thống vừa phản ánh
những nét văn hóa chung của dân tộc, vừa có những nét riêng của làng nghề.

Làng nghề truyền thống là cả một môi trường kinh tế - xã hội và văn hóa, nó bảo lưu
những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Bởi vậy, việc khôi phục, bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống là góp phần
tích cực, quan trọng vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.2. Xu hướng phát triển của hoạt động du lịch hiện đại và phát triển làng
nghề truyền thống
Sự phát triển của làng nghề và làng nghề truyền thống trên con đường đi lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa có tác động to lớn trên các mặt kinh tế - xã hội không chỉ đối
với ngành nghề thủ công truyền thống mà cả đối với nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại
hóa, nông nghiệp nông thôn. Mặc dù làng nghề truyền thống có vị trí quan trọng như vậy
nhưng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế nó vẫn có
những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Với xu hướng thị trường hóa nền kinh tế, quốc tế hóa kinh tế và việc hội nhập vào nền
kinh tế thế giới và khu vực càng tạo điều kiện cho làng nghề truyền thống phát triển theo
hướng xuất khẩu thuận lợi hơn. Từ đó làng nghề truyền thống sẽ chuyển từ thủ công nghiệp
sang công nghiệp vừa và nhỏ hiện đại.
Tuy nhiên, do chính sách mở cửa hàng ngoại nhập tràn vào cũng tạo ra sự cạnh
tranh gay gắt hơn, một bộ phận tiểu thủ công nghiệp của làng nghề truyền thống có

nguy cơ không cạnh tranh được ngay ở thị trường trong nước. Đặc biệt đối với một số
mặt hàng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc nhưng không được chú
trọng hiện đại hóa cho nên đã để mất thị trường nội địa cũng thị trường quốc tế, ví dụ:
hàng sơn mài, thêu ren, tranh dân gian…
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các làng nghề truyền thống luôn luôn
bị các công nghệ mới cạnh tranh đe dọa như các làng nghề đúc đồng đã mất đi khi có đồ
nhôm thay thế, làng nghề sản xuất mây tre đan bị đồ nhựa thay thế, gần đây một số làng
tranh dân gian bị các công nghệ in hiện đại thay thế…

Trong điều kiện mới hiện nay các làng nghề truyền thống được phục hồi và phát
triển có xu hướng đổi mới ngành nghề theo nhu cầu của thị trường. Đồng thời nhiều làng
nghề mới xuất hiện trên cơ sở lan tỏa của làng nghề truyền thống.
Ở nhiều làng nghề truyền thống đã có xu hướng và đang đưa cơ khí thay thế một
phần lao động thủ công như nghề mộc đã sử dụng máy cưa, bào, máy mộc vạn năng;
nghề làm bún, bánh đa đã làm bằng máy; ở làng dệt phần lớn các gia đình đều chuyển
sang dệt bằng máy.
Vì vậy, trong quá tình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế làng nghề
truyền thống vẫn tồn tại và phát triển nhưng cần cải tiến cho phù hợp với yêu cầu của thị
trường, cụ thể là:
Ở những làng nghề chế biến nông lâm thủy sản thì đây là làng nghề có những
mặt hàng tương đối thông dụng mà kỹ thuật và công nghiệp hiện đại dần dần thay
thế nhất là lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm. Trong tương lai, ở các ngành
này sản xuất thủ công như cũ sẽ không có triển vọng phát triển mạnh như sản xuất
rượu, bia, nước mắm… xuất phát từ tình hình thực tế nguồn nguyên liệu, công nghệ
chế biến nông sản tập trung chủ yếu trong các làng nghề là chế biến lương thực, thực
phẩm, rau quả, bánh kẹo… nhưng các máy móc trang bị cho lĩnh vực này là cũ kĩ lạc
hậu, do vậy cần đổi mới, áp dụng ngay kỹ thuật hiện đại và công nghệ sinh học với
quy mô vừa và nhỏ để chế biến nông, lâm, hải sản, đặc biệt là chế biến lương thực,
thực phẩm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo vệ sinh công nghiệp, đồng
thời phát huy các ngành nghề chế biến truyền thống trong vùng nhằm đáp ứng nhu

cầu tiêu dùng trong nước và tiến tới xuất khẩu.
Những sản phẩm mang tính truyền thống, nét đặc sắc độc đáo của dân tộc như các
mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, mỹ thuật chạm khắc, kim hoàn, gốm… cơ sở để nó
phát triển là lao động có trình độ cao và kỹ thuật truyền thống được lưu giữ kết hợp với
công nghệ hiện đại. Đối với các ngành nghề này cần có nhiều ứng dụng cải tiến về kỹ
thuật so với truyền thống để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả trong sản xuất
kinh doanh. Những làng nghề sản xuất ra những sản phẩm này có xu hướng được khôi

phục khai thác và phát triển thành các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trong
tương lai.
Mặt hàng cơ khí sản xuất nông cụ, đúc cán thép: nhu cầu về những mặt hàng này
cho sinh hoạt vẫn rất cần thiết, song đòi hỏi lao động phải được đào tạo và áp dụng công
nghệ tiên tiến vào sản xuất thì mới tồn tại được hoặc phải làm gia công chi tiết phụ tùng
cho công nghiệp đô thị.
Đối với những làng nghề khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng: đây là những
ngành nghề mới sử dụng nguyên vật liệu thông thường sẵn có ở nông thôn và nhu cầu
xây dựng ở đây còn lớn do đó ngành này có khả năng phát triển ổn định trong những năm
tới.
Tóm lại, làng nghề truyền thống ở nước ta đang tích cực vận động theo xu hướng
ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, trên cơ sở đó để duy trì và mở rộng
ngành nghề xây dựng làng nghề truyền thống phù hợp với thời đại. Ngoài ra còn tập
trung đổi mới công nghệ, trang thiết bị cơ khí kết hợp với công nghệ truyền thống để sản
phẩm làm ra có chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường khu vực và
quốc tế tạo ra những sản phẩm truyền thống phục vụ du lịch của đất nước. Tất nhiên,
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các làng nghề truyền thống qua sàng lọc
của kinh tế thị trường sẽ có một số nghề suy thoái và một số nghề được phát triển lan tỏa
tạo thành xã nghề.
1.2.3. Mối quan hệ giữa làng nghề truyền thống và hoạt động du lịch
Hệ thống làng nghề truyền thống là một trong những nguồn tài nguyên du lịch
quan trọng của nước ta. Theo các chuyên gia, tiềm năng du lịch làng nghề truyền

thống Việt Nam hiện nay rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hóa, hệ thống
di tích và truyền thống riêng. Tuy nhiên, để làng nghề du lịch phát triển tương xứng
với tiềm năng còn là cả một quá trình lâu dài.
Điểm chung của các làng nghề truyền thống là thường nằm ở trung tâm hoặc gần
các đô thị lớn, các trục giao thông đường bộ, đường sông, do đó rất thuận tiện cho việc
xây dựng các tour, tuyến du lịch làng nghề. Hiện nay, các tỉnh thành như Hà Tây, Hòa
Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng đang triển khai mạnh mẽ loại hình du lịch

này. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả còn chưa cao. Một số làng nghề như gốm Bát
Tràng, Lụa Vạn Phúc, mộc Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ, đá Non Nước đã thu hút khá
nhiều du khách, nhưng vẫn chỉ ở mức độ tự phát.
Nguyên nhân trước hết là thiếu sự phối hợp giữa các ngành liên quan trong xây
dựng, quy hoạch du lịch làng nghề. Sự biến động của thị trường, khó khăn trong cạnh
tranh, tiêu thụ hàng hóa khiến nhiều làng nghề chỉ còn hoạt động cầm chừng, không tạo
được môi trường du lịch có sức hút mạnh. Bên cạnh đó, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, vệ
sinh môi trường cảnh quan cũng cần được chú trọng.
Thực tế hiện nay, du khách muốn đến tận làng nghề để tham quan, tìm hiểu về các
vị tổ nghề hoặc danh nhân văn hóa. Và hơn thế, nhiều người muốn tận tay tham gia vào
quá trình sản xuất ra sản phẩm ấy, thậm chí đó là một sản phẩm theo ý tưởng, mẫu thiết
kế riêng của du khách. Đáp ứng được những nhu cầu đó, các làng nghề nước ta sẽ là điểm
dừng chân thú vị và độc đáo của du khách trong nước lẫn quốc tế, bởi đó là sẽ là kỷ niệm
thú vị với họ, tránh sự nhàm chán, đơn điệu cho du khách.
Trong khai thác du lịch làng nghề, các đơn vị đưa khách đến cần thực hiện phân
chia lợi nhuận thu được qua các hình thức đóng góp xây dựng đối với cộng đồng làng
nghề và trả lương cho những nghệ nhân, thợ thủ công ở các cơ sở để họ yên tâm với
nghề. Đồng thời, nên bố trí một hệ thống dịch vụ, bán sản phẩm, đồ lưu niệm cho du
khách, giúp tăng thu nhập cho nhân dân trong vùng.
Việc phát triển các làng nghề truyền thống có lợi thế về du lịch thành các làng nghề
truyền thống phục vụ du lịch sẽ thực sự hấp dẫn với du khách khi ngành du lịch các địa
phương quan tâm thực hiện những dự án đầu tư đúng mức, thiết thực, mang tính bền

vững. Bên cạnh đó là công tác quảng bá, thu hút khách và giúp các làng nghề tiêu thụ sản
phẩm, duy trì sản xuất.
1.2.4. Đặc điểm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống
phục vụ du lịch
1.2.4.1. Đặc điểm làng nghề truyền thống phục vụ du lịch

Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trước tiên phải có đầy đủ các đặc điểm làng
nghề truyền thống thông thường. Làng nghề truyền thống nước ta có truyền thống lâu
đời, phát triển đa dạng và phong phú, được thể hiện bởi một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làng nghề truyền thống phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề
và gắn chặt với sản xuất nông nghiệp.
Các làng nghề truyền thống ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông nghiệp. Ban
đầu, người lao động ở nông thôn do nhu cầu việc làm và thu nhập đã làm nghề thủ công
bên cạnh làm ruộng, nghề chính là làm ruộng, nghề phụ là nghề thủ công. Khi lực lượng
sản xuất đã phát triển thì thủ công nghiệp tách ra thành ngành độc lập, vươn lên thành
ngành sản xuất chính ở một số làng; song để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng
làm thêm nghề nông hay buôn bán hoặc làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề này
thường thể hiện trong một làng hay trong từng gia đình bởi vì người thợ thủ công vốn là
người nông dân tách ra làm nghề thủ công, từ đó nghề thủ công truyền thống ra đời nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nông dân, nông nghiệp và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Về cơ cấu ngành nghề đã có sự thích ứng với cơ chế thị trường, một số ngành phát
triển mạnh như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản-thực phẩm, cơ kim khí. Có
thể nói cơ cấu ngành nghề của các ngành nghề truyền thống trong vùng rất đa dạng và
phong phú. Ở các địa phương khác nhau thì tỷ lệ các ngành nghề cũng khác nhau do nhu
cầu tiêu thụ và tiêu dùng cũng khác nhau.
Về quy mô, đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống
có quy mô nhỏ, vốn ít, bình quân mỗi hộ gia đình có vài ba chục triệu đồng. Tính đặc thù
của làng nghề truyền thống là phát triển với nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ
chức của các đơn vị sản xuất cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp nông thôn như các hộ,
tổ hợp tác, hợp tác xã… Trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định ấy, các hình thức

tổ chức sản xuất của làng nghề truyền thống cũng bắt đầu mang dáng vẻ của hình thức
sản xuất công nghiệp đô thị hoặc các khu công nghiệp tập trung. Đó là các công ty, các
doanh nghiệp ở nông thôn. Đặc biệt là trong những năm gần đây, do nhu cầu của thị
trường còn xuất hiện những nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất vật
liệu xây dựng và xây dựng…

Về trình độ kỹ thuật - công nghệ, đã có sự đan xen kết hợp yếu tố truyền thống với
yếu tố hiện đại trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế lao động của mỗi địa phương,
đồng thời kết hợp tay nghề cao với công cụ cơ giới hóa, hiện đại hóa và áp dụng công
nghệ tiên tiến và sản xuất như thiết bị chế biến lương thực, thực phẩm, công nghệ sinh
học…
Thứ hai, sản phẩm của các làng nghề truyền thống mang tính đơn chiếc và tính mỹ
thuật cao.
Mỗi một sản phẩm là một tác phẩm văn hóa nghệ thuật và văn hóa tinh thần kết tinh
trong văn hóa vật thể. Quá trình sản xuất tuân theo công nghệ truyền thống và thường
nhạy bén với thị trường trong việc đổi mới mẫu mã, chất lượng và có điều kiện linh hoạt
thay đổi hướng sản xuất. Nhờ bám sát thị trường, am hiểu thị hiếu nên các mặt hàng của
làng nghề truyền thống được cải tiến nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng, sản phẩm của họ ngày càng chiếm ưu thế trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đây là nét nổi trội mang tính cách tân của làng nghề truyền thống. Mỗi một sản phẩm là
một tác phẩm nghệ thuật, thể hiện rất rõ trên những bức chạm khảm bằng vàng bạc, thêu
ren và những bộ gốm sứ cao cấp… Hơn nữa, các làng nghề truyền thống không chỉ đơn
giản cung cấp tư liệu tiêu dùng mà còn là nơi trao đổi tư liệu sản xuất với nhau.
Các sản phẩm của các làng nghề truyền thống đều là sự giao kết giữa phương pháp
thủ công tinh xảo với sự sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân, chính điều này đã tạo ra
những đặc thù khác nhau của hàng thủ công truyền thống như tính riêng lẻ, tính đơn
chiếc mạnh hơn tính đồng loạt; chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính tính trường
phái, gia tộc giữ bí quyết hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi; đầy chất trí tuệ trí thức lâu
đời. Ngoài ra việc sử dụng các sản phẩm này đồng thời phải thưởng thức tính nghệ thuật
của nó.

Chính sự giao kết này đã tạo nên tính cá biệt và sắc thái riêng của mỗi làng nghề, nó
giải thích tại sao làng nghề cụ thể này không có sản phẩm bằng làng nghề kia, nghệ nhân
ở làng nghề này không thể thay thế bằng nghệ nhân ở làng nghề khác. Mặc dù, ở các làng
nghề ấy đều cùng làm một nghề và sản xuất ra cùng một loại sản phẩm.

Sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng
tình cảm và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ
những con rồng, phượng, lân, rùa… chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống
đồng, cửu đỉnh, màu men và các họa tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các
bức thêu… tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn
hóa tinh thần, quan niệm về nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của người Việt chúng ta.
Chính yếu tố tài hoa đậm nét này của sản phẩm thủ công truyền thống đã tạo nên vị trí
quan trọng của các sản phẩm này trên thương trường và giao lưu quốc tế.
Thứ ba, làng nghề truyền thống có khả năng giải quyết tốt việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động.
Do đặc điểm của làng nghề truyền thống lao động thủ công vẫn là chủ yếu nên lao
động trong các làng nghề truyền thống là những người lao động thủ công có trình độ, tay
nghề tinh xảo, khéo léo, có đầu óc thẩm mỹ và đầy tính sáng tạo.
Một đặc điểm nổi bật là lao động trong các làng nghề truyền thống chủ yếu là trong
các hộ gia đình (chiếm khoảng 90%), chỉ khoảng 10% nằm ở các doanh nghiệp. Chính vì
vậy, đã giải quyết được phần lớn lao động nông nhàn bằng cách thu hút họ làm việc ở
những công đoạn sơ chế…
Thứ tư, về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống.
Làng nghề truyền thống ở nước ta bên cạnh nghề làm ruộng còn có những ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp tồn tại lâu đời. Thời kỳ mới hình thành, quy mô sản xuất trong
các làng nghề truyền thống chủ yếu là hộ gia đình (huyết thống) gắn với các phường
nghề, hội nghề như: phường gốm, phường mộc, phường đúc đồng…
Trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp, làng nghề truyền thống được gọi là "Đội
ngành nghề” của hợp tác xã như: đội gốm, đội mộc, đội nề, đội làm sơn mài, sơn
khảm…Nơi có đông thợ thủ công thì thành lập hợp tác xã thủ công nghiệp. Nhưng dần

dần “Đội ngành nghề” hay “Hợp tác xã thủ công nghiệp” hoạt động kém hiệu quả không
tồn tại được nữa.
Từ khi bước vào cơ chế mới, quy mô sản xuất trở về với mô hình truyền thống là
hộ gia đình, đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, các hình

thức hợp tác xã kiểu mới…Trên cơ sở các hình thức sở hữu này, các doanh nghiệp,
các hợp tác xã có bước phát triển và được pháp luật thừa nhận. Chính cơ chế đổi mới
đã tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh trong làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, trong những năm qua, hình thức
sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình vẫn còn chiếm ưu thế ở các làng nghề truyền
thống, có nơi lên tới 90%.
Hiện nay, trong quá trình phát triển đi lên sản xuất cơ giới hóa, kế thừa và phát huy
kinh nghiệm chuyển từ hợp tác xã thủ công nghiệp lên trình độ hợp tác xã tiểu công
nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống vẫn tiếp tục đẩy mạnh,
đẩy nhanh trang bị cơ sở vật chất cho sản xuất như: làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Tây); làng
rèn Đa Hội, làng mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ (Từ Sơn- Bắc Ninh); làng gốm sứ Bát Tràng (Hà
Nội), làng cơ khí Vân Chàng (Nam Định), Đồng Sâm (Thái Bình), v.v. Đặc biệt là nghề
gốm sứ sử dụng một cách phổ biến máy nghiền đất, đá, máy phun men, lò điện và bắt đầu
dùng lò gas vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, trong quá trình vận động để phát triển, các
hộ gia đình sẽ xảy ra nhiều vấn đề bất cập như: quy mô sản xuất không được mở rộng,
không có điều kiện để đầu tư lớn cho sản xuất.
Thứ năm, làng nghề truyền thống là một sự kết tinh giá trị văn hóa văn minh lâu đời
của dân tộc.
Từ xa xưa, người nước ngoài hiểu Việt Nam, quan hệ mật thiết với Việt Nam, trước
hết là từ yếu tố văn hóa. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta coi nhẹ các yếu tố khác.
Một đặc điểm nổi bật là những làng thủ công truyền thống mang chất văn hóa dân tộc rất
đậm đà và là những bảo vật vô giá. Trống đồng Ngọc Lũ; tượng Phật nghìn mắt, nghìn
tay; tranh sơn mài, tranh lụa, tranh dân gian khắc trên đá, trên gốm…Đó là những minh
chứng cho đời sống sinh hoạt, cảnh quan thiên nhiên và phong tục tập quán của dân tộc ta
qua từng thời kỳ lịch sử.

Các phố cổ của Hà Nội như: Hàng Lược, Hàng Mắm, Hàng Đào, Hàng Khoai, Hàng
Quạt, Hàng Da, Hàng Khay, Hàng Bạc, Hàng Trống, Hàng Sắt, vv , là nơi mà những
người thợ thủ công vùng ven đô vào làm ăn sinh sống.

Các sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam vừa phản ánh những nét văn hóa
chung của dân tộc, vừa có những nét riêng của làng nghề. Ngay cả người Việt Nam sống
ở nước ngoài khi nhớ về quê hương là nhớ ngay đến dấu ấn đậm nét của mỗi làng nghề
với bao sản phẩm độc đáo. Như vậy làng nghề truyền thống không chỉ là những đơn vị
kinh tế, thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu mà còn mang nét
đặc sắc, biểu trưng của nền văn hóa dân tộc, văn hóa cộng đồng làng xã Việt Nam nói
chung và vùng ven đô Hà Nội nói riêng.
Ngoài những đặc điểm cơ bản nói trên thì làng nghề truyền thống phục vụ du lịch
còn có những đặc thù sau:
Thứ nhất, có lợi thế về giá trị văn hóa lịch sử hay về mặt vị trí địa lí để thu hút
khách du lịch.
Thứ hai, sản phẩm của các làng nghề này có tính độc đáo riêng có, không làng nghề
nào có được và đặc trưng cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam, mang tính mỹ thuật cao do
những nghệ nhân tài hoa làm ra, không được sản xuất hàng loạt theo công nghệ hiện đại.
Thứ ba, các dịch vụ phục vụ du lịch như trưng bày, bán hàng, biểu diễn quy trình
sản xuất, hướng dẫn tham quan, hướng dẫn du khách làm những sản phẩm của làng
nghề… là phát triển hợp lý phù hợp với nhu cầu cũng như thị hiếu của du khách trong và
ngoài nước.
Thứ tư, nơi sản xuất cũng là địa điểm làm du lịch (như là tham quan trưng bày, mua
bán sản phẩm …)
1.2.4.2. Vai trò của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch
Tiểu thủ công nghiệp nói chung và làng nghề truyền thống phục vụ du lịch nói riêng
có rất nhiều đóng góp đáng kể cho nền kinh tế nói chung và cho từng địa phương nói
riêng, biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch đã tạo ra một khối lượng hàng hóa
đa dạng, phong phú nhằm phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu tại chỗ thông qua hoạt

động du lịch.
Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch nói riêng luôn huy động được các nguồn
lực sẵn có ở nông thôn như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên liệu, phế phẩm của

nông nghiệp được huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh và khai thác một cách có
hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân, cơ sở vật chất kỹ thuật và những kỹ năng, kỹ xảo của
người lao động. Trên cơ sở đó đẩy mạnh được hoạt động sản xuất nhằm tạo ra ngày càng
nhiều hàng hóa có chất lượng tốt, phục vụ đắc lực cho tiêu dùng trong nước và cho xuất
khẩu tại chỗ thông qua hoạt động du lịch.
Ngày nay, sản xuất của làng nghề truyền thống phát triển theo hướng chuyên môn
hóa, đa dạng hóa sản phẩm đã làm cho các làng nghề năng động hơn. Trong khi chưa có
điều kiện để phát triển kinh tế trang trại thì việc làng nghề truyền thống đẩy mạnh sản
xuất những mặt hàng may mặc, gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ … phục vụ tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu là rất quan trọng. Điều quan trọng hơn cả là thời gian qua ở các làng nghề
truyền thống đã có hàng trăm ngàn hộ nông dân chuyển sang phát triển ngành nghề
truyền thống hoặc vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất làm ngành nghề, do đó đã tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực cho kinh tế nông thôn. Việc sản xuất trong các
làng nghề truyền thống đang hướng vào những sản phẩm kỹ thuật cao, thị trường tiêu thụ
rộng khắp, chứng tỏ rằng, sản xuất và lưu thông hàng hóa của làng nghề truyền thống
phát triển mang tính hàng hóa tập trung khá rõ nét.
Chính việc phát triển sản xuất trong các làng nghề truyền thống đã góp phần quan
trọng trong việc đa dạng hóa sản phẩm thủ công truyền thống, kích thích cầu tiêu dùng,
nhất là trong lĩnh vực du lịch. Từ đó có tác động trở lại là ngày càng làm cho các làng
nghề truyền thống phục vụ du lịch phát triển mạnh hơn, hợp lý hơn theo xu thế của thời
đại.
Thứ hai, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch giải quyết việc làm một cách hữu
hiệu cho người lao động ở nông thôn.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp để giải quyết
việc làm cho lao động ở nông thôn như: đẩy mạnh việc hợp tác lao động quốc tế, đưa dân
đi xây dựng vùng kinh tế mới, thâm canh tăng vụ, phát triển chăn nuôi, phát triển thương

mại và dịch vụ… Những biện pháp này ít nhiều đã có tác động tích cực giải quyết một
phần công ăn việc làm cho người lao động ở nông thôn.

Song sản xuất nông nghiệp, bản thân nó không thể có khả năng giải quyết số lao
động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Vì vậy việc phát triển làng nghề truyền thống ở nông
thôn không chỉ thu hút lao động ở gia đình, làng xã mình mà còn thu hút được nhiều lao
động từ các địa phương khác đến làm thuê mà còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát
triển, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Bởi lẽ phát triển nghề và các làng
nghề truyền thống ở nông thôn sẽ tận dụng tốt được thời gian lao động, khắc phục được
tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, giảm được thời gian nông nhàn, góp phần phân
bố hợp lý lực lượng lao động nông thôn. Chẳng hạn như nghề chế biến lương thực, thực
phẩm tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển; ngành sản xuất hàng ngũ kim, ngành tái chế
các sản phẩm…tạo điều kiện cho mạng lưới thu gom nguyên liệu, phế liệu phát triển; đặc
biệt đối với các ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ngoài việc tạo ra
kim ngạch xuất khẩu còn tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho hàng ngàn lao động
ở các làng nghề, vùng phụ cận.
Như vậy, việc phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch có vai trò rất quan
trọng nhằm khai thác các nguồn lực ở nông thôn một mặt tạo điều kiện cho những người
không có khả năng sản xuất nông nghiệp hoặc trong thời gian nông nhàn chuyển sang làm
ngành nghề có ưu thế hơn, tận dụng được tối đa thời gian rãnh rỗi, mặt khác chính điều này
đã kéo theo sự phát triển nhiều nghề dịch vụ có liên quan như bán hàng cho khách du lịch,
làm du lịch… góp phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, thu hút được nhiều lao động.
Thứ ba, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch thu hút được vốn nhàn rỗi, tận dụng
thời gian và lực lượng lao động, hạn chế di dân tự do.
Khác với sản xuất công nghiệp và một số ngành khác, đa phần các làng nghề truyền
thống không đòi hỏi vốn đầu tư lớn bởi rất nhiều nghề chỉ cần một số công cụ thủ công,
thô sơ do người thợ thủ công tự sản xuất được hoặc đặt mua với số vốn nhỏ. Hơn nữa đặc
điểm sản xuất trong các làng nghề là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và lao động ít nên rất phù
hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của các gia đình. Đây được
xem như là lợi thế để các làng nghề có thể huy động các loại vốn nhàn rỗi trong dân vào

hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do đặc điểm của các làng nghề sử dụng
phương pháp sản xuất thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao

động. Vì vậy, có khả năng tận dụng và thu hút được nhiều lao động, từ lao động thời vụ
nông nhàn trên độ tuổi hay dưới độ tuổi lao động, trẻ em vừa học vừa tham gia sản xuất
dưới hình thức học nghề hay giúp việc (lực lượng này chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng
số lao động làng nghề).
Bên cạnh đó, chính việc phát triển các làng nghề truyền thống tạo việc làm tại chỗ
sẽ là tiền đề để thực hiện “ly nông bất ly hương”, đóng vai trò quan trọng trong việc hạn
chế di dân tự do ra các trung tâm đô thị, thành phố góp phần giữ vững ổn định an ninh
trật tự xã hội.
Thứ tư, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời
sống dân cư ở nông thôn và xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
Việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở
ổn định việc làm và nâng cao thu nhập. Ở những vùng nông thôn có nghề và làng nghề
truyền thống phát triển đều thể hiện sự giàu có hơn hẳn vùng thuần nông. Thu nhập từ
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho
người dân ở đây cuộc sống đầy đủ hơn cả về vật chất lẫn tinh thần.
Khi làng nghề truyền thống và làng nghề mới phát triển đã xuất hiện một số người
mạnh dạn rời bỏ nông nghiệp (rời ruộng không rời làng) để làm nghề. Đây chính là cơ sở
vững chắc của việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động. Ở những
làng nghề có uy tín, nhiều hộ gia đình hàng năm tích lũy được hàng trăm triệu đồng. Thu
nhập từ ngành nghề ngày càng cao, đời sống người làm nghề được cải thiện, những biểu
hiện tiêu cực trong xã hội từ đó mà giảm dần.
Do vậy, sự phát triển của các làng nghề truyền thống trong nông thôn không những
tự bản thân nó yêu cầu phải có kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển mà nó còn kích thích
phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao dân trí ở nông thôn, thúc đẩy quá trình xây
dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại và thu dần khoảng cách giữa thành thị với nông
thôn.
Thứ năm, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch góp phần đa dạng hóa kinh tế

nông thôn và thúc đẩy quá trình đô thị hóa.

Đa dạng hóa kinh tế nông thôn là một trong những nội dung chủ yếu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, là biện pháp thúc đẩy kinh tế hàng hóa nông thôn
phát triển, tạo ra chuyển biến mới về chất góp phần phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
Vì vậy, việc phát triển các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trong nông thôn góp
phần quan trọng để thực hiện quá trình trên và kích thích sự ra đời phát triển các ngành
nghề dịch vụ, thương mại, vận tải, thông tin liên lạc …
Ở những vùng có nhiều làng nghề truyền thống phục vụ du lịch phát triển sẽ hình
thành các trung tâm giao lưu buôn bán, dịch vụ và trao đổi hàng hóa. Những trung tâm
này ngày càng được mở rộng và phát triển tạo nên sự đổi mới trong nông thôn. Hơn nữa,
nguồn tích lũy của người dân trong làng nghề cao hơn, có điều kiện để đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng như đường sá, nhà ở… Từ đó, ở đây dần dần hình thành một cụm dân cư
với lối sống đô thị ngày một rõ nét. Xu hướng đô thị hóa nông thôn là xu hướng tất yếu,
nó thể hiện trình độ phát triển về kinh tế xã hội ở nông thôn, là một yêu cầu khách quan
trong phát triển các làng nghề truyền thống nói chung và làng nghề truyền thống phục vụ
du lịch nói riêng.
Bên cạnh đó việc phát triển làng nghề truyền thống nói chung sẽ chuẩn bị đội ngũ
lao động có khả năng thích ứng với lĩnh vực công nghiệp và tạo cơ sở vệ tinh cho các
doanh nghiệp hiện đại. Một khi làng nghề truyền thống ở nông thôn phát triển mạnh sẽ
tạo đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Chính thông qua lực lượng
này để tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản
xuất làm cho sản phẩm có chất lượng cao giá thành giảm nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường lớn. Khi cơ sở vật chất được tăng cường và hiện đại thì nó tạo điều kiện
thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ
chức, tính kỷ luật, từ đó trình độ văn hóa của người lao động ngày được nâng cao. Đây
lại là cơ sở thuận lợi đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ và lĩnh vực sản xuất và
hoạt động dịch vụ trong làng nghề. Như vậy người thợ trong làng nghề thời nay hoàn
toàn khác với người thợ thủ công trước kia, họ phải luôn thích nghi với điều kiện và kỹ
thuật mới, tiên tiến.

×