LUẬN VĂN:
Lợi ích kinh tế của người lao động trong
các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa ở Bình Định
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng nhiều hình thức sở hữu nhằm phát huy mọi tiềm
lực của đất nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong những năm qua, các
DNNN nói chung - bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, góp phần thúc đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNNN
vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, quy mô nhỏ, hiệu quả kém, năng lực cạnh tranh thấp,
công nghệ lạc hậu, thậm chí một số DNNN còn làm ăn thua lỗ kéo dài… Vì vậy, vấn đề cải
cách DNNN được đặt ra cấp bách. Một trong những giải pháp mang tính chiến lược là
chuyển một bộ phận DNNN không cần nắm giữ 100% vốn sang CTCP.
Là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của Miền Trung và của cả nước, Bình Định có
vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế Miền
Trung và Tây Nguyên. Cùng với tiến trình CPH DNNN nói chung, các DNNN sau CPH ở
Bình Định thời gian qua cũng đã thể hiện được vai trò to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế -
xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó các DNNN sau CPH ở Bình Định trong quá trình
hoạt động vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề về lợi ích kinh tế
của người lao động. Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo nhằm mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
có thực hiện được hay không chính là ở chỗ giải quyết đúng đắn quan hệ kinh tế trong kinh
tế, trong đó lợi ích kinh tế của người lao động là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với
quá trình sản xuất của cải vật chất xã hội. Nó phải được sự quan tâm thích đáng, phải trở
thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh Bình Định muốn phát triển kinh tế, ổn
định xã hội, ngoài việc giải quyết nhiều vấn đề khác thì việc đảm bảo lợi ích kinh tế cho
người lao động phải được quan tâm nhiều hơn nữa.
Xuất phát từ lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Lợi ích kinh tế của người lao động trong
các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Bình Định” làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế đã được Đảng ta bắt đầu quan tâm từ Hội nghị lần thứ 6 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (9 - 1979). Đến Đại hội VI Đảng ta nhấn mạnh: Lợi
ích của người sản xuất kinh doanh là động lực trực tiếp đối với hoạt động kinh tế, và tạo cơ
sở cho việc đáp ứng các lợi ích khác. Ở nước ta, từ năm 1980 đến nay đã có nhiều bài viết
về lợi ích kinh tế, các doanh nghiệp cổ phần nhà nước…được công bố như:
- “Bàn về các lợi ích kinh tế” do Đào Duy Tùng chủ biên (1982), Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội.
- “Lợi ích, động lực phát triển xã hội” do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên (1999), Nhà
xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.
- “Hệ thống các lợi ích kinh tế và cơ chế thực hiện các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”, Bùi Thu Hà (2000), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- “Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Mai Đức Chính, Luận văn
thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005.
- “Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc bảo vệ lợi ích
này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân”, Nguyễn Lợi, Luận văn thạc sĩ, Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, 1995.
- “Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành
phố Đà Nẵng”, Lê Thị Phúc, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2006.
- “Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Lê
Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản, số 22/2004.
- “Cổ phần hóa DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp” Hồ Xuân Hùng, Tạp chí
Cộng sản, số 18/2004…
Ngoài ra còn có một số cuộc hội thảo, hội nghị liên quan đến vấn đề quan hệ lợi ích
trong các doanh nghiệp.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề lợi ích, lợi ích kinh tế, vai
trò của lợi ích kinh tế…dưới nhiều góc độ khác nhau; đề cập đến mục tiêu, kết quả, những
thuận lợi, khó khăn của quá trình CPH DNNN…mà chưa đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về
quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các DNNN
sau CPH. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở kế thừa các tài liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn về lợi ích kinh tế
của người lao động, tìm ra những vấn đề tồn tại và nguyên nhân trong việc thực hiện lợi ích
kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định. Từ đó đề xuất
phương hướng và giải pháp góp phần giải quyết một cách hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế
giữa doanh nghiệp và người lao động trong các DNNN sau CPH.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế nói
chung và lợi ích kinh tế của cá nhân người lao động nói riêng.
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật và chính sách của Nhà nước có liên quan đến
lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH.
- Đi sâu tìm hiểu, phân tích thực trạng thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế cần khắc phục.
- Xuất phát từ lý luận và thực tiễn đã trình bày trên, luận văn nêu lên một số phương
hướng và giải pháp cơ bản để đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN
sau CPH ở tỉnh Bình Định trong trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định trong quá trình tiến hành CPH DNNN, nhất là
từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý luận của các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước về lợi ích kinh tế, kinh tế nhà nước, DNNN sau CPH;
tham khảo và tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các nhà kinh tế học và các nhà hoạt
động thực tiễn qua các bài viết của họ đã được công bố.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hóa khoa học; phương pháp thống
kê phân tích lý luận gắn với thực tiễn được đặc biệt coi trọng trong việc giải quyết những
vấn đề đặt ra của luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế nói chung
và lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH nói riêng.
- Giúp cho các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định nhận thức sâu sắc hơn vai trò của
lợi ích kinh tế đối với người lao động trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Trên cơ sở
đó có những chính sách, quy định phù hợp, tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh.
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng, Đại học trong khuôn khổ môn
Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc soạn thảo các văn bản
pháp lý đối với việc đảm bảo lợi ích cho người lao động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ
PHẦN HÓA
1.1. Mét sè vÊn ®Ò lý luËn c¬ b¶n vÒ lîi Ých kinh tÕ
1.1.1. Bản chất và đặc điểm của lợi ích kinh tế
* Bản chất của lợi ích kinh tế
Có nhiều quan điểm khác nhau về lợi ích, nhưng hầu như các nhà lý luận đều thống
nhất khẳng định rằng lợi ích hình thành trên cơ sở nhu cầu và những hoạt động thỏa mãn
nhu cầu của con người. Vì vậy, tìm hiểu nhu cầu của con người và các mối quan hệ xã hội
trong đó con người hoạt động để thỏa mãn nhu cầu là cơ sở khách quan để xem xét lợi ích.
Nhu cầu là những đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội
khác nhau hay của toàn xã hội về những điều kiện để tồn tại và phát triển. Như vậy, trước
hết nhu cầu là sự thể hiện mối liên hệ hữu cơ giữa một cơ thể sống và môi trường sống. Do
đó, nhu cầu là tất cả những gì cần thiết để duy trì sự tồn tại và phát triển của cơ thể sống. Nhu
cầu xuất hiện nảy sinh trong mối quan hệ tác động biện chứng giữa cơ thể sống với môi
trường. Vì vậy nó là đặc trưng vốn có của hệ thống sinh vật và hệ thống xã hội: nhu cầu là một
đặc tính của tất cả các cơ thể sống, nó thể hiện là hình thức đầu tiên của tính tích cực, của quan
hệ lựa chọn đối với những điều kiện môi trường sống.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng nhu cầu là một thuộc tính, một đặc trưng
chung của một loài vật nói chung, của con người nói riêng. Tuy nhiên, nhu cầu của con
người hoàn toàn khác biệt với nhu cầu của loài vật.
Nhu cầu của con người được hình thành, phát triển, hoàn thiện và được đáp ứng
chính trong thực tiễn lao động sản xuất và phân phối trao đổi sản phẩm của lao động. Một
mặt, con người thông qua quá trình đó mà tạo ra sản phẩm để đáp ứng những nhu cầu hiện
có đang đặt ra, mặt khác, cũng chính trong quá trình đó mà những nhu cầu mới hình thành,
nảy sinh. Nhu cầu của con người rất đa dạng về chủng loại, hình thức, cấp độ, tính
chất…đồng thời những nhu cầu đó lại luôn luôn phát triển và mở rộng.
Nhu cầu của con người do vậy bao gồm hai loại cơ bản: Nhu cầu tự nhiên và nhu
cầu xã hội. Nhu cầu tự nhiên là những nhu cầu về ăn, ở, mặc, còn những nhu cầu về xã hội
là cả một hệ thống những nhu cầu và hệ thống này ngày càng mở rộng, đó là nhu cầu về
hoạt động sáng tạo, về nâng cao học vấn, về thẩm mỹ, về tình cảm…Từ hai loại nhu cầu cơ
bản đó người ta còn nói đến các loại nhu cầu cụ thể về: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hóa, khoa học kỹ thuật…Tất cả các nhu cầu này gắn bó chặt chẽ và có mối quan hệ hữu cơ
và chúng lại có những hình thức biểu hiện cụ thể: cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, xã
hội, nhân loại.
Lợi ích không phải là cái trùng lắp với nhu cầu, nhưng cũng không hoàn toàn tách
biệt với nhu cầu. Phương tiện để thỏa mãn nhu cầu đối với chủ thể hoạt động chính là lợi
ích. Lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và do đó nó chỉ có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong
mối quan hệ với nhu cầu [42, tr. 38]. Ví dụ: Bán được sức lao động đắt, đó là lợi ích của
người công nhân nhưng không phải là lợi ích của nhà tư bản, vì điều đó không đáp ứng nhu
cầu của nhà tư bản mà là đáp ứng nhu cầu của người công nhân.
Vậy là cùng một sự vật, cùng một hiện tượng, thì đối với chủ thể này là lợi ích,
nhưng đối với chủ thể khác lại là tai họa. Điều đó cũng có nghĩa là, xét về mặt bản chất, lợi
ích chính là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật hiện tượng của thế giới bên ngoài với
nhu cầu của chủ thể. Còn xét về mặt nội dung thì lợi ích là cái thõa mãn nhu cầu, đáp ứng
nhu cầu.
Mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài này với nhu cầu là mối
quan hệ khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, vào nhận thức của chủ thể.
Nếu nhu cầu của con người, chủ thể là đa dạng và phong phú thì lợi ích của họ cũng đa
dạng và phong phú nhưng lại thể hiện thành các loại lợi ích cụ thể: lợi ích kinh tế, lợi ích
chính trị, lợi ích văn hóa…Những lợi ích này đáp ứng hay thỏa mãn cho nhu cầu của các đối
tượng khác nhau: lợi ích của cá nhân, lợi ích của tập thể, lợi ích của toàn xã hội.
Cũng cần nhấn mạnh thêm là trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, nhu cầu
quyết định đối với chủ thể là lợi ích, do đó nhu cầu là cơ sở của lợi ích, còn lợi ích
ngược lại xuất phát từ nhu cầu, dựa vào nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu. Khi nhu
cầu bắt đầu xuất hiện thì con người chủ thể cũng bắt đầu hướng sự nhận thức của mình
vào việc tìm kiếm cái thỏa mãn nhu cầu đó, tức là lợi ích chưa có thì hành động của con
người nhằm đoạt lấy lợi ích cũng chưa có. Nhưng một khi lợi ích đã xuất hiện và đã
được tìm thấy, đã được nhận thức, thì nó trở thành mục tiêu của hành động con người.
Nói cách khác, sự phản ánh của lợi ích trong ý thức lúc này đã biến thành mục đích,
thành động cơ tư tưởng và chính động cơ tư tưởng đó trực tiếp thúc đẩy con người hành
động để dành lấy lợi ích đặng thỏa mãn nhu cầu.
Như vậy, lợi ích kinh tế luôn gắn chặt chẽ với nhu cầu. Nhưng nhu cầu ở đây không
phải là nhu cầu nói chung. Để nghiên cứu lợi ích kinh tế, điều có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn không phải phạm trù nhu cầu nói chung, mà là nhu cầu về những của cải vật chất và
dịch vụ - sản phẩm của nền sản xuất xã hội. Những nhu cầu đó rất đa dạng và có thuộc tính
chung là chúng được thỏa mãn bằng các sản phẩm của sản xuất. Với tính chất đó, nên nhu
cầu về của cải vật chất và dịch vụ gần với lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế gắn chặt với nhu cầu kinh tế. Là một phạm trù kinh tế, lợi ích kinh tế
biểu hiện tính khách quan trong hoạt động kinh tế của con người. Nó phát sinh và tồn tại
trên cơ sở một quan hệ sản xuất nhất định không tùy thuộc vào ý muốn con người. Vì vậy,
các quan hệ kinh tế của mỗi xã hội được biểu hiện trước hết là lợi ích. Trong tác phẩm
“Vấn đề nhà ở” Ph. Ăngghen đã viết : “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định
nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [26, tr.376].
Khi bàn về lợi ích, các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ nhiều góc độ tiếp
cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
Hàn Phi - nhà triết học cổ Trung Quốc coi lợi ích vật chất là cơ sở của tất cả các mối
quan hệ xã hội và chi phối mọi hành vi của con người. Theo ông, bản chất ích kỷ của con
người là ham mê lợi ích, tránh hại, cầu lợi. Vì vậy, tất cả mọi điều thiện ác, sự hỗn loạn,
nạn chiến tranh…đều bắt nguồn từ lợi ích vật chất mà ra.
Trong bộ “Tư bản”, C.Mác cho rằng “nói về người…chỉ là người tượng trưng cho
một phạm trù kinh tế, là người mang những quan hệ giai cấp và lợi ích nhất định”[23,
tr.213]. Vấn đề lợi ích kinh tế đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phân
tích một cách khoa học trong các tác phẩm của mình. Trong cuốn “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” và đặc biệt trong bộ “Tư bản” vấn đề lợi ích kinh tế và vai trò của nó trong quá
trình sản xuất xã hội đã được C. Mác nghiên cứu một cách cặn kẽ và khoa học trên quan
điểm làm rõ tính không điều hòa về lợi ích kinh tế giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Trong các tác phẩm của mình V. I. Lênin tiếp tục nghiên cứu cụ thể vấn đề lợi ích kinh tế
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
Lênin cho rằng cần phải thấy những lợi ích là khách quan khi nói: “Lợi ích thúc đẩy cuộc sống
các dân tộc”[18, tr. 82], đồng thời lợi ích là phạm trù có tính chất chủ thể - xác định, tức là bất
kỳ một lợi ích nhất định nào cũng đều là cái vốn có của những chủ thể (những con người,
những giai cấp,…) tương ứng.
V.N. Lavrinenko viết: “Lợi ích là mối quan hệ xã hội khách quan của sự tự khẳng
định xã hội của chủ thể”[16, tr.16].
Theo V. P. Ca- man-kin, trong tác phẩm: “Các lợi ích kinh tế dưới chủ nghĩa xã hội”
của mình, cho rằng thực chất của lợi ích kinh tế có thể trình bày như sau: “Lợi ích kinh tế
của một chủ thể nhất định là sự tác động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể
đó”[3, tr.12].
Ở Việt Nam, tác giả Đào Duy Tùng cho rằng: Lợi ích kinh tế là cái biểu hiện những
động cơ, mục đích, những nhân tố kích thích khách quan thúc đẩy hoạt động lao động của
con người. Lợi ích kinh tế gắn chặt với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích.
Nhưng sẽ là không đúng nếu đồng nhất nhu cầu với lợi ích kinh tế…lợi ích kinh tế không
phải là nhu cầu nói chung mà là việc thỏa mãn nhu cầu một cách tốt nhất, bao gồm cả nội
dung của nhu cầu và phương thức thỏa mãn nhu cầu. Vì suy cho cùng cái thúc đẩy người ta
hành động chính là thỏa mãn trên thực tế nhu cầu một cách tối ưu…Có người hiểu lợi ích
kinh tế như là sự thống nhất giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan. Theo chúng
tôi, lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở một
quan hệ sản xuất nhất định, không tùy thuộc vào ý muốn con người…Lợi ích kinh tế tồn tại
không tùy thuộc ở chỗ người ta có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong
hệ thống sản xuất - xã hội quy định. Vì vậy, về bản chất phải khẳng định rằng, lợi ích kinh
tế là tồn tại khách quan [33, tr.94 - 96].
Như vậy, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện
trước hết của quan hệ sản xuất, nó không tùy thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con
người.
Quan hệ sản xuất là khách quan. Nó luôn luôn tồn tại trong vận động. Sự vận
động của quan hệ sản xuất biểu hiện ở sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực
tiếp sinh ra. Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà quan hệ sản xuất ảnh
hưởng tới quá trình sản xuất. Ở đây, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua
lợi ích để chi phối người ta phải hành động theo quy luật, do đó đảm bảo quan hệ sản
xuất khách quan. Lợi ích kinh tế bao giờ cũng phản ánh một quan hệ sản xuất, quan hệ
kinh tế nhất định.
Ý kiến trên còn được khẳng định bởi một số tác giả khác như Vũ Hữu Ngoạn: Lợi
ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan
hệ sản xuất… Lợi ích kinh tế là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [31,
tr.54]. Hay tác giả Khoa Minh lại cho rằng: Lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan
hệ kinh tế đối với việc thõa mãn những nhu cầu vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình
thức mục đích xác định của hoạt động kinh tế của con người… Lợi ích kinh tế là hình thức
biểu hiện cụ thể các quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [29,
tr.296].
Từ những phân tích khái quát trên có thể hiểu, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế
khách quan, được quy định bởi hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định và biểu hiện mối quan
hệ lẫn nhau giữa sản xuất vật chất và nhu cầu vật chất. Lợi ích kinh tế, trong ý nghĩa khách
quan của nó, là những khoản thu nhập được ấn định bởi các quan hệ kinh tế nhằm đảm bảo
cho các chủ thể kinh tế tồn tại, hoạt động và phát triển.
Khi không thực hiện được lợi ích kinh tế, nghĩa là không nhận được những những
khoản thu nhập nhất định, chủ thể kinh tế không thể tồn tại và phát triển như là đại biểu
độc lập của các quan hệ kinh tế. Như vậy quan hệ kinh tế quyết định lợi ích kinh tế thông
qua vai trò, vị trí của các chủ thể lợi ích trong một hệ thống xã hội nhất định.
Lợi ích kinh tế tuy là một phạm trù kinh tế khách quan, nhưng con người có khả
năng nhận thức được nó và vì nó mà hành động. Lợi ích kinh tế không được nhận thức
ngay sau khi xuất hiện, mà trước hết chúng biểu hiện mối quan hệ có tính quy luật giữa sản
xuất vật chất và nhu cầu vật chất của con người. Trong việc hình thành lợi ích, vai trò
quyết định thuộc về sản xuất vật chất, quá trình sản xuất này, đến lượt mình lại được phát
triển dưới tác động của nhu cầu của con người. Đồng thời chính sản xuất có tác động
ngược trở lại đến quá trình hình thành nhu cầu của xã hội. Khi là tiền đề cho hoạt động của
con người, nhu cầu đồng thời là sản phẩm của hoạt động đó và khi xuất hiện trên cơ sở sản
xuất xã hội, nhu cầu đến lượt mình lại có thể tác động đến sản xuất vật chất, nhưng không
phải là trực tiếp, mà là gián tiếp thông qua tổng hoà các lợi ích kinh tế.
Mối quan hệ giữ các phạm trù trên có thể được biểu hiện như sau: SẢN XUẤT -
LỢI ÍCH - NHU CẦU - LỢI ÍCH - SẢN XUẤT.
Nhờ thế, lợi ích kinh tế trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ biến của sự
phát triển không ngừng của sản xuất và đời sống xã hội. Ăngghen cho rằng: Lợi ích kinh tế
là những động cơ đã lay chuyển quần chúng đông đảo và khi chúng biến thành sự kích
thích hoạt động của con người, thì chúng “lay động đời sống của nhân dân”[25, tr.408].
Từ bản chất của lợi ích kinh tế, có thể thấy lợi ích kinh tế có những đặc điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế luôn gắn với nhu cầu kinh tế, là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
Lợi ích và nhu cầu của con người luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, bởi lẽ lợi ích là sự
hiện thực hóa nhu cầu, đáp ứng nhu cầu của con người. Như vậy, xét một cách khái quát,
lợi ích là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài với nhu cầu của
chủ thể, là điều kiện để thỏa mãn về nhu cầu nhất định của con người.
Con người luôn mong muốn có đời sống vật chất và đời sống tinh thần ngày càng
cao hơn, đầy đủ hơn, do đó các nhu cầu của con người là không ngừng phát triển. Muốn
thỏa mãn nhu cầu thì lợi ích phải được thực hiện. Lợi ích không phải tự nhiên xuất hiện và
ban phát đầy đủ cho mỗi cá nhân mà nó đòi hỏi con người phải hành động. Từng cá nhân,
tập thể cho đến toàn xã hội đều phải hành động mới đạt được mục đích. Điều đó đã gây
nên những biến đổi lớn lao trong đời sống cộng đồng. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định:
lợi ích là một trong những động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy hành động của con
người và thông qua đó gây nên những biến đổi của thế giới vật chất và lịch sử xã hội.
Thứ hai, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, bắt nguồn từ các quan
hệ kinh tế của các chủ thể mang những lợi ích nhất định.
Nói đến lợi ích kinh tế là nói đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất hình thành thu
nhập của những người tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. Theo C. Mác thì quan hệ
phân phối này lại phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Mỗi quan hệ sản xuất
có một phương thức phân phối do đó có một hình thức thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất
của lợi ích kinh tế là do quan hệ sản xuất quyết định, mà quan hệ sản xuất này lại do trình
độ của lực lượng sản xuất quyết định. Vì vậy lợi ích kinh tế có tính khách quan.
Lợi ích kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao
động. Để tối đa hóa lợi ích kinh tế, người lao động và người sử dụng lao động buộc phải
quan hệ với nhau bằng cách này hay cách khác để đôi bên đều có thể thụ hưởng phần lợi
ích nhất định do sản xuất tạo ra.
Ở Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, mục đích chung của toàn bộ nền kinh tế là thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong điều
kiện giai cấp công nhân mà đại diện của nó là Đảng cộng sản nắm chính quyền và mục
đích của người lao động là có việc làm, có thu nhập và nâng cao đời sống, thì mối quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động tốt nhất là mối quan hệ đôi bên cùng có
lợi. Ở đây, người nắm giữ các điều kiện vật chất của người lao động cũng cần được thụ
hưởng một phần thỏa đáng bộ phận giá trị mới do lao động tạo ra và người lao động cũng
cần nhận được một phần hợp lý bộ phận giá trị mới do chính lao động của mình sáng tạo
ra.
Thứ ba, lợi ích kinh tế luôn mang tính lịch sử
Lợi ích kinh tế là sự hiện thực hóa các nhu cầu. Song không phải mọi nhu cầu của
con người đều có khả năng hiện thực hóa mà chỉ có nhu cầu nào xuất phát từ chính năng
lực đáp ứng của nền sản xuất xã hội mới được hiện thực hóa. Theo C.Mác: “quy mô của
nhu cầu được gọi là tất yếu và những phương thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm
của lịch sử và phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn hóa của đất nước”[27, tr.27]. Vì vậy, lợi ích
kinh tế phụ thuộc vào hoàn cảnh của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là một trong những hiện tượng phổ biến nhất của đời sống xã hội. Nó
gần gũi trong quan niệm và hành động hằng ngày của quảng đại quần chúng. Lợi ích kinh
tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống xã hội. Lịch sử đã chứng
minh, động lực thúc đẩy con người hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
không phải là cái gì khác ngoài lợi ích của họ. Chính lợi ích đó đã gắn bó con người với
cộng đồng của mình và tạo ra ở con người những sự kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự
say mê trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bất cứ hoạt động nào của con người cũng bị chi phối bởi hai động lực chính đó là
động lực vật chất và động lực tinh thần. Để đạt được những kết quả cao trong hoạt động
kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà còn cả động lực tinh thần. Nhưng, ở
đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò quyết định nhất, là động lực quan trọng thúc đẩy
hoạt động của con người. Cho nên, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ
cũng đặc biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế, vì
nó luôn là động lực kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với toàn xã hội.
Đồng tời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các
loại lợi ích khác. Đời sống xã hội phồn vinh thì đời sống tinh thần mới được nâng cao.
Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các mối
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Một khi con người (chủ thể)
tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới các lợi ích nhất định. Đạt được
những lợi ích tương xứng với kết quả SXKD thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định
và sự phát triển của các chủ thể lợi ích. Ngược lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi
ích không được thực hiện đầy đủ thì sẽ làm cho mối quan hệ giữa các chủ thể xuống
cấp. Nếu tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong hoạt
động SXKD.
Từ sự phân tích trên, ta thấy lợi ích vật chất có vai trò vô cùng quan trọng, có tính
chất quyết định trong sự phát triển xã hội vì những lẽ sau:
- Lợi ích kinh tế là cơ sở, điều kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người
và xã hội loài người. Xã hội vận động về cơ bản là vận động thông qua việc thực hiện các
lợi ích kinh tế.
- Các quan hệ kinh tế giữ vai trò quyết định và chi phối đời sống chính trị, tư tưởng
của xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Vì động lực lợi ích kinh tế là nền tảng, là cơ sở cho việc hình thành và giải quyết
các động lực lợi ích khác của con người, cho nên đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hợp lý
quan hệ lợi ích kinh tế và không ngừng nâng cao lợi ích kinh tế cho con người để tạo cơ sở
cho việc giải quyết mọi vấn đề khác của đời sống xã hội.
- Để kích thích tính tích cực ở mức độ cao nhát, cần quan tâm đặc biệt đến lợi ích
kinh tế, đồng thời không quên các lợi ích khác của mỗi cá nhân. Sự kết hợp đó không chỉ
khai thác được thế mạnh của lợi ích kinh tế mà cả thế mạnh của các lợi ích khác và thế
mạnh tương hỗ giữa các lợi ích đó trong mỗi con người.
- Quan tâm đến lợi ích cá nhân, tạo điều kiện để mỗi người lao động có thể thực
hiện được lợi ích cá nhân của mình, nhưng không khuyến khích họ thực hiện lợi ích cá
nhân bằng mọi cách. Việc khuyến khích lợi ích kinh tế cá nhân phải nằm trong mối quan
hệ hài hòa với các lợi ích kinh tế khác ( lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội),
nghĩa là quan tâm đến lợi ích kinh tế cá nhân phải đặt trong mối quan hệ không làm tổn hại
đến lợi ích xã hội và lợi ích tập thể.
Thực tế cuộc sống đã chứng minh, trong cơ chế kinh tế cũ, chúng ta chỉ tập trung
quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung bao cấp
mà ít quan tâm đến lợi ích của người lao động, có người còn coi lợi ích cá nhân là cái gì đó
trái với nền tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng. Điều đó đã làm triệt
tiêu động lực của con người trong lao động sản xuất.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, thực hiện phân phối theo lao động, đã tạo ra một động lực rất lớn đối với người
lao động, kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì
vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là động lực kích thích hoạt động của con người, có
ý nghĩa sâu sắc trong việc phát huy nhân tố con người.
1.1.3. Các chủ thể lîi Ých kinh tÕ và hệ thống lợi ích kinh tế trong nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
Vì lợi ích kinh tế là khách quan và được quy định trực tiếp bởi phương thức sản
xuất và hệ thống các quan hệ sản xuất, cho nên chúng được thể hiện ở tất cả các khâu của
quá trình sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị
trường, hình thành nên một hệ thống các lợi ích kinh tế với cơ cấu phức tạp, đa dạng trong
không gian và thời gian, bao gồm lợi ích kinh tế của xã hội, lợi ích kinh tế của người
SXKD (doanh nghiệp, doanh nhân), lợi ích của những người tham gia vào quá trình trao
đổi kết quả SXKD, lợi ích kinh tế tập thể, lợi ích kinh tế của người lao động và lợi ích hinh
tế của người tiêu dùng, lợi ích kinh tế của cộng đồng…Việc xác định chủ thể của các lợi
ích là một vấn đề quan trọng và cần thiết cả về phương diện phương pháp luận và cả về
mặt thực tiễn trong quá trình nghiên cứu lợi ích kinh tế.
Trong nền sản xuất xã hội, tùy thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà chủ
thể trong nền sản xuất xã hội ấy có thể là cá nhân, tập thể hay xã hội và có bao nhiêu chủ
thể thì có bấy nhiêu lợi ích kinh tế tương ứng.
Chủ thể của thực tiễn sản xuất xã hội - đó là con người nhận thức và cải tạo thực
tiễn sản xuất, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Tính tích cực và sáng tạo là đặc trưng
chủ yếu, vốn có của con người - với tư cách là chủ thể. Nói một cách khác, chỉ có những
tác động vào tự nhiên và xã hội thì con người mới bộc lộ mình như là một chủ thể của lịch
sử. Như vậy, nói đến chủ thể là nói đến con người với những phẩm chất nhất định đang
hành động nhận thức và cải tạo thế giới.
Cần phân biệt chủ thể và cá thể. Mọi chủ thể đều có tư cách như một cá thể, nhưng
chỉ có những cá thể nào tham gia hoạt động SXKD … mới trở thành chủ thể. Như vậy, tùy
thuộc vào chủ thể là cá nhân thì có lợi ích kinh tế của cá nhân, nếu chủ thể là tập thể thì có
lợi ích kinh tế của tập thể, nếu chủ thể là toàn xã hội thì có lợi ích kinh tế của xã hội. Dĩ
nhiên các lợi ích này luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ gắn bó, tác động lẫn nhau.
Lợi ích kinh tế luôn luôn gắn với các chủ thể nhất định. Các chủ thể đó lại được
phân bổ, điều động vào các quá trình, các khâu, các lĩnh vực của sản xuất xã hội - sự phân
bổ, điều động các chủ thể ấy không chỉ là sự phân bổ, điều động cho hiện tại mà cho cả
tương lai. Cho nên, mỗi chế độ kinh tế xã hội luôn hình thành một hệ thống lợi ích đa dạng,
phong phú và phức tạp. Hệ thống lợi ích này không ngừng biến đổi, mở rộng theo thời gian
và theo không gian. Tính phong phú, đa dạng và phức tạp của hệ thống lợi ích càng trở nên
phong phú, đa dạng và phức tạp hơn trong hoàn cảnh và điều kiện của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay. Hiện nay, với nhiều cách tiếp cận khác nhau, có thể xác
định lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay gồm các loại lợi ích sau:
- Lợi ích kinh tế xã hội
- Lợi ích kinh tế tập thể
- Lợi ích kinh tế cá nhân
- Lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế
- Lợi ích kinh tế của các khâu (các giai đoạn của quá trình tái sản xuất xã hội đó là
sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng)
- Lợi ích kinh tế hiện tại
- Lợi ích kinh tế tương lai …
Ba loại lợi ích kinh tế: lợi ích kinh tế xã hội, lợi ích kinh tế tập thể, lợi ích kinh tế cá
nhân mang tính chất khái quát nhất. Bởi lẽ, lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế, lợi
ích kinh tế của các khâu, lợi ích kinh tế cho hiện tại, lợi ích kinh tế cho tương lai…suy cho
cùng cũng là lợi ích kinh tế cho cá nhân con người hoặc cho cùng một số cá nhân hoặc cho
cùng một cá nhân, hoặc cho tất cả các cá nhân mà thôi. Nói cách khác, mục đích cuối cùng
của công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế dưới bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng
chỉ có ý nghĩa đích thực khi nhắm vào vì con người, cho con người, của con người, cho dù
con người đó hoạt động độc lập tương đối hay trong quan hệ với tất cả các cá nhân khác
Việc nhận thức và tìm hiểu mối quan hệ giữa ba loại lợi ích trên có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng giúp chúng ta giải quyết tốt các vấn đề của thực tiễn. Sự vận động các lợi ích
kinh tế thường là không trùng khớp nhau, thậm chí trái ngược nhau không chỉ diễn ra trong
phạm vi rộng lớn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mà còn diễn ra trong từng doanh
nghiệp, trong đó có DNNN sau CPH. Nếu không giải quyết tốt mối quan hệ giữa chúng sẽ
làm suy yếu và có thể dẫn đến việc triệt tiêu động lực, nguy hiểm hơn có thể dẫn đến xung
đột. Chẳng hạn, tổng thu nhập của người lao động trong DNNN sau CPH không thể vượt
quá quỹ lương, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Nếu vượt quá giới hạn của quỹ đó, sẽ
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, tức vi phạm lợi ích của tập thể. Lợi nhuận của
doanh nghiệp giảm đi thì mức đóng góp cho ngân sách nhà nước cũng bị giảm theo, do đó
lợi ích của toàn xã hội cũng bị cắt xén và ngược lại. Vì vậy việc giải quyết mối quan hệ
giữa các lợi ích kinh tế, thực chất là kết hợp chúng trong DNNN sau CPH, để tạo một hợp
lực mạnh mẽ trong DNNN sau CPH trở thành vấn đề tất yếu khách quan ở mọi lúc, mọi
nơi.
Mỗi loại lợi ích kinh tế có đặc trưng riêng, giữa chúng có sự thống nhất và mâu
thuẫn, làm điều kiện cho nhau, tác động qua lại và thâm nhập lẫn nhau. Trong đó lợi ích
kinh tế của cá nhân người lao động và của doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở thực
hiện lợi ích kinh tế của toàn xã hội. Ngược lại, lợi ích kinh tế của toàn xã hội chỉ được thực
hiện qua hàng loạt hoạt động có hiệu quả để đảm bảo cho lợi ích kinh tế của doanh nghiệp
và của cá nhân người lao động.
Việc kết hợp các lợi ích kinh tế trong điều kiện nước ta hiện nay chỉ được giải quyết
có kết quả thực sự khi chúng ta nhận thức rõ các loại lợi ích trên suy cho cùng là lợi ích
kinh tế cho cá nhân con người mà thôi.
Vì lý do trên, đồng thời với yêu cầu của đề tài, luận văn đi sâu vào phân tích lợi ích
kinh tế của cá nhân.
Lợi ích cá nhân gắn liền với sự quan tâm trực tiếp, thiết thân của mỗi con người
trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cái mà người lao động quan tâm và cần thiết, cần có
là sau quá trình lao động, SXKD, họ thu nhận được những gì, bao nhiêu, chứ không
phải làm gì, ở đâu. Song các quyết định để họ thu được những gì và bao nhiêu lại là số
lượng và chất lượng lao động của họ. Do đó lợi ích cá nhân gắn liền trực tiếp với lao
động cá nhân (lao động cá biệt).
Trong nền kinh tế hàng hóa, người kinh doanh (chủ thể) chỉ có thể có lợi khi mà
hao phí lao động cá biệt của họ bằng hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội. Để có thể đạt
được điều đó, người lao động cá biệt phải có số lượng lao động nhiều và chất lượng tốt,
muốn vậy họ phải tự học hỏi, tự đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải
thường xuyên cải tiến quy trình sản xuất đổi mới kỹ thuật công nghệ. Như vậy, nói lợi ích
cá nhân gắn liền với lao động cá nhân nghĩa là gắn liền với số lượng và chất lượng lao
động cá nhân của họ. Do đó, muốn đạt được lợi ích cá nhân thỏa đáng, bản thân người lao
động phải tìm mọi cách để nâng cao chất lượng lao động và tăng số lượng lao động.
Trong nền kinh tế hàng hóa, lợi ích cá nhân của người lao động thể hiện trước hết ở
tiền lương (kể cả tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế) mà người lao động nhận
được trước hoặc trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tiền lương hay tiền công, theo Mác lại
chính là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động mà, mà sức lao động lại là toàn bộ
khả năng về thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể sống. Khả năng thể lực, trí lực đó chính là
sức khỏe và bằng cấp kiến thức. Vì vậy mà sự thực hiện lợi ích cá nhân thể hiện trước hết
trong lĩnh vực tiêu dùng - tiêu dùng để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Trong lĩnh
vực tiêu dùng nói chung, thì sự tiêu dùng mà người lao động quan tâm trước nhất để làm
tăng số lượng và chất lượng lao động của mình là tự đào tạo và đào tạo lại để nâng cao
trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hóa.
Lợi ích cá nhân còn được thực hiện về mặt pháp luật. Nghĩa là, luật pháp luôn tạo
điều kiện và khuyến khích việc thực hiện lợi ích cá nhân trên cơ sở lao động và tính sáng
tạo lao động của cá nhân. Sự khuyến khích và tạo mọi điều kiện về mặt luật pháp để thực
hiện lợi ích cá nhân là nhằm mục đích phát triển sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng
suất lao động xã hội….điều đó cũng có nghĩa là luật pháp khuyến khích và tạo điều kiện để
mọi người có thể làm giàu.
Lợi ích cá nhân còn được thực hiện thông qua hình thức sở hữu về vốn và tài sản và
cuối cùng lợi ích cá nhân còn được thực hiện thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và những
thu nhập từ kinh tế phụ gia đình. Do đó lợi ích cá nhân có thể được kiểm kê, kiểm soát
thông qua pháp luật. Thông qua việc kiểm kê và kiểm soát mà Nhà nước có thể định
hướng, giúp đỡ tạo điều kiện để thực hiện lợi ích cá nhân, mặt khác mà Nhà nước cũng có
thể dùng luật pháp để hạn chế, ngăn chặn việc thực hiện nó bằng hành vi trái pháp luật, trái
đạo lý.
Thông qua việc kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước mà xã hội có thể chủ động tạo
mọi điều kiện cho người lao động có thể tự do học nghề, tự do chọn nghề và nâng cao
trình độ nghề nghiệp. Tạo điều kiện để người lao động nâng cao khả năng về thể lực
bằng cách tự do luyện tập, tự do khám chữa bệnh và được hưởng quyền chăm sóc về y
tế. Tự do đầu tư vốn và tài sản vào ngành nghề nào để có thể thu được nhiều lợi nhuận
và lợi tức trong khuôn khổ luật pháp quy định thông qua con đường tham gia mua cổ
phiếu, tín phiếu…Đó là những biện pháp, cách thức mà Nhà nước có thể hoàn toàn chủ
động để “điều tiết” lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động.
Trong các DNNN sau CPH, người lao động là người trực tiếp tiến hành quá trình
sản xuất để sản xuất ra hàng hóa nhằm thỏa mãn những nhu cầu của xã hội, của tập thể và
của bản thân mình nên họ là người trực tiếp thực hiện các lợi ích kinh tế và biến những lợi
ích kinh tế đó thành động lực của sản xuất và sản xuất cũng nhằm thực hiện các lợi ích
kinh tế đó.
Tuy nhiên, người lao động tiến hành sản xuất , trước hết và trực tiếp là vì lợi ích
kinh tế của bản thân họ, tức là nhằm thực hiện được quyền lao động và có được thu
nhập để thỏa mãn những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, giải trí…của bản thân và gia đình
mình. Nói một cách khác, lợi ích kinh tế cá nhân là lợi ích trực tiếp của người lao động.
Nó là mục đích trực tiếp của hoạt động sản xuất của người lao động, là động cơ trực
tiếp thôi thúc họ phải tiến hành sản xuất . Một khi mục đích, động cơ đó trở thành hiện
thực, tức là lợi ích kinh tế cá nhân người lao động được thực hiện, thì nó trở thành động
lực trực tiếp của sản xuất, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các DNNN sau CPH phát
triển.
1.2. ĐẶC TRƯNG VÀ HÌNH THỨC BIỂU HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA
1.2.1. Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ
phần hóa
1.2.1.1. Thu nhập của người lao động được thực hiện trực tiếp dưới hình thức
tiền lương và tiền thưởng theo nguyên tắc phân phối theo lao động kết hợp với phân
phối theo giá trị sức lao động
Để lợi ích kinh tế cá nhân người lao động được thực hiện, trở thành động lực của
sản xuất và động lực đó không có gì khác hơn là tính tích cực, tinh thần và thái độ lao
động, tính chủ động, sáng tạo của người lao động được phát huy trong quá trình sản xuất,
gắn bó với các doanh nghiệp, quan tâm đến sự sống còn và thành quả hoạt động của các
doanh nghiệp. Đồng thời động lực đó chỉ trở thành hiện thực khi người lao động được thực
hiện quyền lao động và được hưởng thụ một cách thỏa đáng những thành quả lao động mà
họ đã cống hiến.
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường, thì sức
lao động của người lao động trong các DNNN sau CPH cũng được thừa nhận là hàng hóa.
Việc mua bán sức lao động đó được thực hiện thông qua hợp đồng lao động giữa người lao
động và chủ doanh nghiệp sử dụng sức lao động trên cơ sở pháp luật hiện hành. Một khi
sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì tiền lương chẳng qua là hình thức biểu hiện bằng
tiền của giá trị hay giá cả sức lao động của người lao động.
Để cho người lao động thật sự yên tâm, từ đó hăng say và sẵn sàng mang hết sức
sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải trả
công cho họ đầy đủ, kịp thời, phù hợp với sức lao động của họ đã hao phí trong quá trình
sản xuất. Có như vậy mới đảm bảo tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao
động của họ được.
Trong mỗi doanh nghiệp, tổng tiền lương cơ bản hay quỹ lương theo hợp đồng là
do quy mô, tính chất và trình độ công nghệ, kỹ thuật của doanh nghiệp quy định. Trong
doanh nghiệp, mức lương do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo
năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc Tiền lương cơ bản của từng người
lao động là cơ sở để xác định đơn giá tiền lương trong đơn vị sản phẩm hay đơn giá tiền
lương trong đơn vị thời gian. Trên cơ sở đó, tùy thuộc vào thời gian lao động dài hay ngắn,
số lượng sản phẩm làm ra nhiều hay ít mà người lao động nhận được tiền lương tương
xứng với kết quả lao động của mình.
Tiền lương là giá cả của sức lao động, cho nên nó cũng bị tác động của quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh. Điều đó đôi khi cũng gây nên những biến động trong thu nhập của
người lao động. Nó có thể lên xuống theo lượng cung và lượng cầu về lao động. Một mặt, các
chủ doanh nghiệp đã lợi dụng tình hình cung lớn hơn cầu về lao động mà trả tiền công dưới
giá trị sức lao động. Điều đó dễ dẫn đến người lao động đình công, đòi tăng lương, dẫn đến
xung đột xã hội và tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất. Mặt khác, nếu cung nhỏ hơn cầu
về lao động thì người lao động dễ gây áp lực đòi tiền công cao hơn giá trị sức lao động, điều
này sẽ tăng chi phí sản xuất, gây bất lợi cho chủ doanh nghiệp.
Hiện nay, ở nước ta, để bảo vệ người lao động, Bộ luật lao động (2005) đã quy định
rõ tiền lương trong chương VI gồm 13 điều, quy định về tiền lương cho người lao động.
Tại điều 55 đã quy định tiền lương của người lao động không được thấp hơn mức tối thiểu
do Nhà nước quy định. Tại điều 66 Bộ luật lao động quy định mức lương tối thiểu:
Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người
lao động làm việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp
sức lao động giản đơn và một phần tích lũy, tái sản xuất sức lao động mở rộng
và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác [36,
tr.37].
Như vậy, tiền lương mặc dù do cơ chế thị trường và các quy luật kinh tế chi phối
nhưng cũng không thể thấp hơn mức tối thiểu theo Bộ luật lao động ban hành.
Về bản chất, tiền lương trong các DNNN sau CPH tuy là giá cả sức lao động,
chịu sự tác động của quy luật cung cầu nhưng không vì thế mà người lao động đã bị
Nhà nước “bóc lột”. Theo cách nói của Mác, người lao động ở đây đã “ khai thác” lao
động của chính mình chứ không phải ai khác. Hình thức “làm thuê” của người lao động
cho Nhà nước ở đây không phản ánh quan hệ giữa các giai cấp khác nhau mà là quan hệ
giữa cá nhân người lao động với xã hội của mình. Lợi nhuận của doanh nghiệp không
phải do nhà tư bản chiếm đoạt mà thuộc về Nhà nước đại diện cho toàn dân và của
người lao động trong doanh nghiệp. Tùy theo tình hình kinh tế - xã hội trong từng giai
đoạn mà Nhà nước có cơ chế chính sách phân phối đảm bảo lợi ích người lao động.
Xuất phát từ quan điểm tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp phụ
thuộc vào sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động và trên cơ sở
hình thức cơ bản của tiền lương, ở nước ta Chính phủ công bố thang lương, bảng lương
riêng đối với các doanh nghiệp để làm cơ sở tính các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế và chế độ phụ cấp lương, tiền lương ngừng việc, nghỉ hàng năm và các trường hợp
nghỉ việc khác của người lao động. Các chế độ phụ cấp lương trong DNNN sau CPH
cũng có thể được thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động dựa trên
cơ sở luật lao động.
Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương và ngạch lương cũng như các chế độ
phụ cấp lương theo từng ngành, từng khu vực có tính đến trình độ chuyên môn và điều
kiện lao động có ý nghĩa quan trọng. Nó bảo đảm tính công bằng trong chế độ trả lương,
thúc đẩy người lao động không ngừng học tập, nâng cao trình độ tay nghề, quan tâm hoàn
thành tốt công việc và gắn bó với doanh nghiệp.
Cùng với tiền lương cơ bản, tiền thưởng cũng là một bộ phận thu nhập quan trọng
của người lao động. Vì thực chất tiền thưởng là phần thưởng cho người lao động khi làm
tốt công việc của mình hơn mức trung bình, nó kích thích người lao động hăng say làm
việc, cống hiến và sáng tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động.
Tuy đều gắn với lợi ích kinh tế của người lao động nhưng tiền lương và tiền thưởng
có sự khác nhau. Tiền lương thuộc phạm trù chi phí sản xuất, còn tiền thưởng thuộc phạm
trù phân phối lợi nhuận.
Việc trích một phần lợi nhuận để thưởng cho người lao động hiện nay không
phải là điều mới mẻ ở các nước trên thế giới. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước rất coi
trọng vấn đề tiền thưởng ngay từ trong cơ chế cũ. Song do quá chú ý đến động viên
tinh thần mà thiếu quan tâm thưởng bằng vật chất nên chưa phát huy hết động lực của
tiền thưởng. Lênin đã chỉ rõ “việc khen thưởng bằng vật chất là một chế độ có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng trong công tác xây dựng Chủ nghĩa xã hội”[17, tr.33]. Chuyển sang
cơ chế thị trường, vấn đề tiền thưởng vẫn được đặc biệt quan tâm và đã được đưa vào
luật.
Để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, DNNN sau CPH nhất thiết
phải dùng các hình thức tiền thưởng, nhằm động viên, khuyến khích sự sáng tạo của người
lao động. Tiền lương cao dễ thu hút lao động và động viên được người lao động làm việc
nhưng nó chỉ có giới hạn trong khuôn khổ thực hiện theo hợp đồng lao động. Nếu không
có hình thức thưởng thêm trên hợp đồng thì người lao động chỉ cần thực hiện đúng theo
hợp đồng: sản xuất giới hạn bao nhiêu phần trăm phế phẩm, với số lượng sản phẩm quy
định thì tốn bao nhiêu nguyên liệu, nhiên liệu…Ngoài ra anh ta không cần quan tâm hơn
nữa để nâng cao hiệu suất công việc vì nếu có đưa ra sáng kiến làm tiết kiệm nguyên, nhiên
liệu…cũng chẳng được ích lợi gì. Chính vì vậy, các hình thức tiền thưởng luôn là nguồn
động viên, khuyến khích đem lại hiệu quả nhất. Tuy nhiên, việc trích lợi nhuận để thưởng
cho người lao động cũng phải căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
1.2.1.2. Thu nhập bằng tiền của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước
sau cổ phần hóa dưới hình thức cổ tức (đối với những người lao động có cổ phần trong
doanh nghiệp)
Trong DNNN sau CPH, người lao động với tư cách là người lao động tiến hành sản
xuất kinh doanh, họ được doanh nghiệp trả lương dưới hình thức tiền lương theo số lượng
và chất lượng lao động. Đồng thời với tư cách là chủ sở hữu vốn , họ nhận được một khoản
lợi tức cổ phần do sở hữu vốn đem lại.
Lợi tức cổ phần là một phần lợi nhuận của doanh nghiệp mà doanh nghiệp phải trả
cho người có vốn cổ phần góp vào doanh nghiệp ứng với số tiền trong cổ phần. Ở các
doanh nghiệp khác nhau, lợi tức có thể không giống nhau do ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
Quyền sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp tương đương với số lượng vốn
góp, quyền này được thể hiện cụ thể ở các quyền: được hưởng lợi tức cổ phần tương đương
với cổ phần đã góp, có thể bán cổ phần theo giá thỏa thuận ở thị trường chứng khoán, có
thể cho một phần hoặc toàn phần cổ phần, có quyền biểu quyết hoặc phủ quyết bất kỳ chủ
trương kế hoạch nào của doanh nghiệp mà mình đồng ý hoặc chưa đồng ý…Trách nhiệm của
cổ đông cũng rất rõ ràng: phải chịu đền bù, chịu mất mát, tổn thất trong phạm vi số lượng vốn
góp, phải chịu góp đủ vốn khi doanh nghiệp đó chính thức hoạt động, phải thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc mọi quy định trong điều lệ của công ty…
Quyền và nghĩa vụ của cổ đông làm cho vai trò người chủ của người lao động có cổ
phần trong các DNNN sau CPH thể hiện một cách thực chất, rõ ràng nhất, tạo ra một cơ
chế hoạt động quản lý nhân sự trong doanh nghiệp một cách trôi chảy.
Quyền sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp tương đương với số lượng vốn
góp đã làm cho bản thân người lao động trong DNNN sau CPH thu được lợi ích thiết thực
chẳng những từ lao động do mình bỏ ra, mà còn do đồng vốn góp của mình, nên việc đó
tạo ra cho người lao động trực tiếp một động lực mạnh mẽ, trong sáng để họ toàn tâm, toàn
lực lao động. Điều đó đã làm cho lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội không chỉ được bảo
đảm, không ngừng tăng lên về số lượng, mà còn tạo ra một mối quan hệ chặt chẽ gắn bó và
làm tiền đề cho nhau phát triển. Người lao động tự mình kiểm soát, giám sát, và tìm mọi
cách để lao động đạt hiệu quả cao nhất, không cần phải có sự giám sát, đôn đốc của cấp
trên. Như vậy, vai trò, vị trí của người lao động trong các DNNN sau CPH đã làm thay đổi
căn bản tính chất, đặc điểm hoạt động lao động, kinh doanh của họ, làm cho sự làm chủ tập
thể không chỉ là hình thức. Trong DNNN sau CPH, mỗi cổ đông làm việc cho chính họ,
cho chính lợi ích của họ, của gia đình họ và của doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là
cho toàn xã hội.
1.2.1.3. Thu nhập của người lao động từ quỹ phúc lợi tập thể
Ngoài thu nhập do lao động và thu nhập do quyền sở hữu vốn, người lao động trong
các DNNN sau CPH còn được bổ sung bằng các phúc lợi của tập thể.
Hình thức phân phối từ quỹ phúc lợi trong các DNNN sau CPH ở nước ta là hết sức
cần thiết. Trước hết, trong điều kiện kinh tế của ta còn nhiều khó khăn, sự nghiệp phúc lợi
chưa được đảm bảo thống nhất, đầy đủ trong xã hội. Điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
phải có quỹ phúc lợi riêng hỗ trợ thêm cho người lao động trong doanh nghiệp, đảm bảo
các sự nghiệp về văn hóa, giáo dục, y tế, đời sống, nghỉ ngơi và cả những việc làm từ thiện,
nhân đạo khác.
Hai là, trong các DNNN sau CPH, việc đảm bảo phúc lợi chung là cần thiết để cải
thiện, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao đời sống người lao động, làm cho người lao động yên
tâm, gắn bó với doanh nghiệp. Đây cũng là hình thức để góp phần phát triển toàn diện cá nhân
người lao động trong các doanh nghiệp.
Ba là, trong mỗi doanh nghiệp, việc phân phối thực hiện theo cống hiến lao động
của từng người, nhưng do thể trạng năng lực từng người không giống nhau nên thu nhập có
sự chênh lệch. Hơn nữa do thực hiện hình thức phân phối theo quyền sở hữu vốn góp vào
sản xuất nên sẽ có người thu nhập cao, có người thu nhập thấp khác nhau. Bởi vậy, phúc
lợi tập thể của doanh nghiệp là điều kiện để góp phần tiến dần từng bước thực hiện sự bình
đẳng giữa những người lao động trong doanh nghiệp
Quy mô các quỹ phúc lợi phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp càng phát triển, hiệu quả kinh tế
do nó đưa lại càng cao, thì quy mô các quỹ phúc lợi càng lớn, các doanh nghiệp càng có
điều kiện thực hiện được các quỹ này.
Các hình thức phân phối từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thể hiện qua các
công việc: xây dựng nhà ở, nhà ăn, nhà nghỉ mát điều dưỡng, các công trình văn hóa,
thể thao, nghệ thuật, nhà trẻ cho con em người lao động, tài trợ cho các buổi lễ hội
trong và ngoài doanh nghiệp, tài trợ các quỹ học bổng , quỹ khen thưởng học giỏi cho
con em công nhân, trợ giúp các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, thực hiện các
công việc từ thiện, nhân đạo, tổ chức các hoạt động du lịch, tham quan, nghỉ mát, điều
dưỡng…
Các hình thức phân phối thực hiện lợi ích do lao động, lợi ích do quyền sở hữu vốn
và phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội, phúc lợi doanh nghiệp có quan hệ gắn bó với nhau.
Không thể có nhiều phúc lợi xã hội, phúc lợi tập thể doanh nghiệp khi mà thu nhập từ các
hình thức phân phối khác, nhất là thu nhập do lao động còn ở mức quá thấp. Xã hội càng
phát triển thì phần dành cho quỹ phúc lợi càng nhiều. Theo Mác, “xã hội càng phát triển,
phần này sẽ càng tăng”[24, tr.85].
Bằng hình thức phân phối từ quỹ phúc lợi, các DNNN sau CPH sẽ đảm bảo tăng
thêm thu nhập thực tế của gia đình người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao
động phát huy năng lực của mình. Hình thức thu nhập này tạo động lực gián tiếp, giúp
người lao động yên tâm hơn với công việc mình đang làm, gắn bó hơn với doanh nghiệp,
đồng thời tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao động và người sử dụng lao động,
góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ở nhiều nước trên thế giới, tùy theo mức độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mà ở đó cũng hình thành quỹ phúc lợi của mình, nhưng chủ yếu nhằm đem lại lợi ích cho
chủ doanh nghiệp và đáp ứng phần nào phúc lợi cho người lao động. Bằng các hình thức
giúp đỡ, tài trợ, các doanh nghiệp vừa thực hiện được mục đích trên, vừa là một hình thức
quảng cáo nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.