Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

LUẬN VĂN: Tỉnh ủy cà mau lãnh đạo phát triển kinh tế biển trong giai đoạn hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.67 KB, 120 trang )









LUẬN VĂN:

Tỉnh ủy cà mau lãnh đạo phát triển kinh tế biển
trong giai đoạn hiện nay












MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ra nghị quyết về chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 được
Quốc hội phê duyệt. Chiến lược biển ra đời đó đáp ứng được sự mong đợi của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta, đáp ứng được nhu cầu cơ bản và cấp bách sự phát triển của đất
nước, quyết tâm phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển.


Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm
2007 và các định hướng chung của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhỡn
2025 - 2030 là: "Trên cơ sở quyết tâm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến
hành động để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, đảm bảo vững chắc chủ
quyền, chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần quyết định làm cho đất nước mạnh, giàu".
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, được tách ra từ tỉnh Minh Hải từ ngày 01
tháng 01 năm 1997. Hỡnh dạng tỉnh Cà Mau giống chữ V, là tỉnh duy nhất của cả nước Việt
Nam có ba mặt tiếp giáp với biển. Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh
Bạc Liêu, phía Đông và Đông Nam giáp với biển đông, phía Tây giáp với Vịnh Thái Lan,
kéo dài từ biển Đông sang biển Tây. Vùng biển tỉnh Cà Mau nằm trong vũng cung đường
biển của nhiều trung tâm phát triển khu vực Đông Nam Á, có ngư trường rộng trên
80.000km
2
, với nhiều loài thủy sản quý hiếm, có trữ lượng lớn, khả năng khai thác
khoảng 250.000 tấn/năm và có tiềm năng khá lớn về dầu khí trong lũng biển.
Tỉnh Cà Mau nằm trong vùng kinh tế động lực của đồng bằng sông Cửu Long.
Trong mối quan hệ của vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Cà Mau là điểm đến của
một số tuyến quốc lộ và đường thủy quan trọng. Trong mối quan hệ của khu vực, Cà Mau
nằm trong hành lang phát triển phía nam của tiểu vùng Mê Kông mở rộng.
Diện tích phần đất liền 5.329,5 km
2
(bằng 13,13% diện tích đồng bằng sông Cửu
Long) bằng 1,58 % diện tích cả nước) chiều dài bờ biển Cà Mau 254 km, chiếm 7,8%
chiều dài bờ biển của cả nước và là tỉnh có bờ biển dài nhất trong số 28 tỉnh, thành phố
có biển; có 6/9 huyện, thành phố và 101 xó, thị trấn; 24 xó, thị trấn trong tỉnh tiếp giáp
với biển; diện tích đất liền các huyện ven biển trên 402.000 ha, chiếm 75,5% diện tích tự

nhiên toàn tỉnh; dân số năm 2008 trên 730.000 người, chiếm gần 60% dân số toàn tỉnh.
Vùng biển Cà Mau rộng trên 80.000 km
2

, biển Cà Mau có vị trí nằm ở trung tâm vùng
biển các nước Đông - Nam Á nên có nhiều thuận lợi giao lưu, hợp tác kinh tế bằng đường
biển, phỏt triển kinh tế biển, khai thỏc dầu khớ và tài nguyờn khỏc trong lũng biển.
Cà Mau có hệ thống sông ngũi, kênh, rạch chằng chịt, với 33 cửa sông lớn, nhỏ
thông ra biển; Cảng Năm Căn có khả năng xây dựng và phát triển thành cảng nước sâu,
tạo điều kiện cho tỉnh phát triển các vùng ven biển, phát triển kinh tế biển và mở rộng
giao lưu với các nước trong khu vực và quốc tế. Do vậy, vùng biển và ven biển Cà Mau
có vị trí, vai trũ rất quan trọng trong quá trỡnh phát triển kinh tế - xó hội và đảm bảo quốc
phũng, an ninh của tỉnh Cà Mau nói riêng, của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả
nước nói chung.
Khí hậu Cà Mau là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt cao, rất
thuận lợi cho việc phát triển đa dạng cây, con trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng
thủy hải sản. Nhiệt độ trung bỡnh 26,5
0
C. Nhiệt độ trung bỡnh cao nhất trong năm vào
tháng 4, khoảng 27,6
0
C; nhiệt độ trung bỡnh thấp nhất vào thỏng 01 khoảng 25
0
C. Biên
độ trung bỡnh trong một năm là 2,7
0
C. Trong năm có hai mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bỡnh hàng năm
khoảng 2.300mm. Số giờ nắng trong năm 2.500 giờ. Độ ẩm tương đối 82%.
Do đặc trưng thổ nhưỡng và chế độ thủy văn như trên nên kinh tế biển là thế
mạnh của tỉnh Cà Mau. Chính vỡ vậy, cùng với việc chỉ đạo phát triển kinh tế nói chung,
những năm gần đây, Tỉnh ủy Cà Mau đó coi trọng lónh đạo phát triển kinh tế biển trên
địa bàn tỉnh và xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và đó đạt
được những kết quả, tạo nên sự chuyển biến cơ bản về kinh tế - xó hội của tỉnh. Tuy nhiên,

trong lónh đạo kinh tế, vẫn cũn những thiếu sót khuyết điểm và có mặt yếu kém. Bước vào
lónh đạo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế của những thập niên đầu thế kỷ XXI, sự lónh
đạo kinh tế của Tỉnh ủy Cà Mau nói chung, lónh đạo phát triển kinh tế biển cần được tăng
cường và nâng lên một tầm cao mới. Nghiên cứu làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn sự lónh
đạo kinh tế biển của Tỉnh ủy Cà Mau thực sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Để góp
phần vào việc trên, tôi chọn đề tài: "Tỉnh ủy Cà Mau lónh đạo phát triển kinh tế biển trong

giai đoạn hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng lónh đạo kinh tế nói chung và các cấp ủy đảng lónh đạo kinh tế biển nói
riêng trong điều kiện hiện nay được nhiều nhà khoa học và các cán bộ chỉ đạo thực tiễn
quan tâm nghiên cứu, đạt được những kết quả quan trọng. Kết quả nghiên cứu và những
kết luận rút ra từ thực tiễn đó được đăng tải trên các sách báo, tạp chí của Đảng:
- Cuốn sách Sự lónh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống
xó hội nước ta, do PGS Lê Văn Lý chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, trong
đó có một chương về Đảng lónh đạo kinh tế.
- Về phương thức lónh đạo của Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số chuyên đề,
tháng 12-1995.
- Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1999), Sự
lónh đạo kinh tế của Tỉnh ủy trong điều kiện hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, do GS,TS
Lưu Văn Sùng là chủ nhiệm đề tài.
- Tác động của nhà nước đối với quá trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của PGS,TS Nguyễn
Văn Cúc; đề tài khoa học cấp bộ (2000).
Ngoài ra, cũn có các luận văn tốt nghiệp đại học chính trị, cao cấp lý luận chính
trị, luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ đó bảo vệ thành công ở Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài:
- Phương hướng và giải pháp về quản lý nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tỉnh Tuyên Quang theo hướng sản xuất hàng hóa, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh

tế, của Nguyễn Sáng Vang, (2000);
- Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (qua
thực tế ở tỉnh Quảng Bỡnh), Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, của Phạm Phong Duễ,
(2000);

- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý kinh tế của Đảng và Nhà
nước Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, của Xỉnh Khăm
Phôm Ma Xay (Lào), (2003).
Và gần đây, từ khi có Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam,
đó có một số bài chuyên bàn về kinh tế biển đảo, như:
- Kinh tế biển phải được phát triển theo hướng bền vững, của Nguyễn Văn
Hoàng, đăng trên báo Việt Nam Net.vn, 2008.
- Tổ chức không gian phát triển kinh tế biển, đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gũn,
thứ hai, ngày 16-04-2007.
- Kinh tế biển chiếm 48% GDP cả nước, đăng trên Việt Nam Net.vn lúc
20h06’ngày 08-4-2008.
- Phát triển kinh tế biển bền vững - kiên quyết hạn chế tác động xấu đến môi
trường, đăng trên Việt Nam Net.vn (chuyên mục kinh tế biển), của tác giả Anh Tú - Văn
Lượng (Bộ Tài Nguyên và Môi trường).
- Phát triển kinh tế biển, đăng trên Việt Nam Net.vn lúc 10h37’ thứ sáu, ngày 14-
4-2006, của Trần Minh Sanh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Xây dựng Lý Sơn thành đặc khu kinh tế biển đảo giàu mạnh và bền vững, đăng
trên Việt Nam Net.vn ngày 11-8-2008, của Vừ Xuân Huyện.
- Hiện trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam, đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 7-2007.
- Đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển: Vô cùng cấp bách! của Kim Toàn, đăng
trên Việt Nam Net.vn, lúc 18h41’ ngày 28-4-2008.
- Chương trỡnh hành động số 13-CTr/TU ngày 04/6/2007 của Tỉnh ủy Cà Mau
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chiến lược kinh tế biển.
- Kế hoạch số 16/KH-UBND tỉnh Cà Mau thực hiện Chương trỡnh hành động

của Tỉnh ủy, với mục tiêu xây dựng Cà Mau trở thành một tỉnh mạnh về biển, hướng ra
biển để phát triển, nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần cho dân cư vùng biển,
ven biển

Song, cho tới nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ
thống về Tỉnh ủy Cà Mau lónh đạo phát triển kinh tế biển trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở làm rừ những vấn đề lý luận về Tỉnh ủy Cà Mau lónh đạo kinh tế nói
chung, lónh đạo phát triển kinh tế biển nói riêng, khảo sát, đánh giá thực trạng lónh đạo
kinh tế của Tỉnh ủy thời gian qua, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu
tăng cường sự lónh đạo kinh tế của Tỉnh ủy Cà Mau đến năm 2015.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rừ những đặc điểm chủ yếu về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xó hội
của tỉnh liên quan trực tiếp đến sự lónh đạo của Tỉnh ủy đối với kinh tế biển.
+ Làm rừ các quan niệm và những vấn đề lý luận chủ yếu về Tỉnh ủy Cà Mau
lónh đạo kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
+ Khảo sát và phân tích thực trạng kinh tế biển ở Cà Mau và phân tích, đánh giá
thực trạng lónh đạo kinh tế của Tỉnh ủy Cà Mau từ năm 2005 đến nay, chỉ ra ưu, khuyết
điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lónh đạo của
Tỉnh ủy đối với phát triển kinh tế biển đến năm 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng:
Sự lónh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy Cà Mau đối với phát triển kinh tế biển.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tỡnh hỡnh kinh tế của tỉnh Cà Mau nói chung, tỡnh hỡnh phát triển
kinh tế biển nói riêng và sự lónh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy đối với phát triển kinh tế biển
từ 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn


Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; điều tra khảo
sát thực tế, phương pháp thống kê, đối chiếu so sánh, phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử;
phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Những kinh nghiệm về lónh đạo kinh tế của Tỉnh ủy Cà Mau từ 2005 đến nay.
- Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lónh đạo kinh tế biển của Tỉnh ủy Cà
Mau đến năm 2015.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong
quá trỡnh lónh đạo kinh tế của Tỉnh ủy Cà Mau và các huyện, thành ủy trong tỉnh.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ giảng dạy, học tập ở Trường Chính trị tỉnh Cà Mau, Trung tâm bồi dưỡng chính
trị thành phố và các huyện trong tỉnh Cà Mau.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
TỈNH ỦY CÀ MAU LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN - NHỮNG VẤN
ĐẾ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ BIỂN CỦA TỈNH VÀ VAI TRề, CHỨC NĂNG,
NHIỆM VỤ CỦA TỈNH ỦY CÀ MAU
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa xó hội tỉnh Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực Nam của nước Việt Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang,
phía Đông Bắc giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông và Đông Nam giáp với biển đông, phía
Tây giáp với Vịnh Thái Lan. Tỉnh Cà Mau nằm trong vùng kinh tế động lực của đồng
bằng sông Cửu Long. Trong mối quan hệ của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tỉnh Cà
Mau là điểm đến của một số tuyến quốc lộ và đường thủy quan trọng. Trong mối quan hệ
của khu vực, Cà Mau nằm trong hành lang phát triển phía nam của tiểu vùng Mê Kông
mở rộng.


Diện tích phần đất liền 5.329,5 km
2
(bằng 13,13% diện tích đồng bằng sông Cửu
Long, bằng 1,58 % diện tích cả nước) chiều dài bờ biển Cà Mau 254 km. Vùng biển Cà
Mau rộng trên 80.000 km
2
, tiếp giáp với vùng biển của các nước: Thái Lan, Malaysia,
Indonesia. Biển Cà Mau có vị trí nằm ở trung tâm vùng biển các nước Đông - Nam Á nên
có nhiều thuận lợi giao lưu, hợp tác kinh tế bằng đường biển, phỏt triển kinh tế biển, khai
thỏc dầu khớ và tài nguyờn khỏc trong lũng biển.
Ngoài phần đất liền, Cà Mau có các đảo Hũn Khoai, Hũn Chuối và Hũn Đá Bạc,
diện tích các đảo xấp xỉ 5 km
2
. Địa hỡnh toàn tỉnh thuần nhất là đồng bằng, có nhiều sông,
rạch, độ cao bỡnh quõn 0,5 m so với mặt nước biển. Hàng năm ở vùng Mũi Cà Mau bồi ra
biển khoảng 50 m đến 80 m; bờ biển phía đông (từ cửa sông Gành Hào đến cửa sông Rạch
Gốc) bị xói lở, có nơi mỗi năm 20 m.
Khí hậu Cà Mau là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt cao, rất
thuận lợi cho việc phát triển đa dạng cây, con trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng
thủy hải sản.
Toàn bộ diện tích đất đai Cà Mau chịu ảnh hưởng của hai chế độ nhật triều. Nhật
triều không đều ở biển Tây và bán nhật triều ở biển Đông. Do ảnh hưởng chế độ thủy
triều, dẫn đến việc xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền vào mùa khô, gây úng lụt một số
vùng vào mùa mưa. Cà Mau là vùng đất thấp, thường xuyên bị ngập nước, đặc biệt là vào
mùa mưa. Trong đó, có khoảng 90% diện tích đất ngập mặn có chứa phèn. Những đặc
trưng này đó hỡnh thành nờn những vựng đất và môi sinh rất đặc trưng của Cà Mau.
Cà Mau là vùng đất trẻ của đồng bằng sông Cửu Long có sự lắng bồi từ Rạch
Mũi đến Tiểu Dừa (biển Tây) và xói lở từ Rạch Gốc đến Gành Hào (biển Đông). Đất
canh tác gồm 4 loại chính: Đất nhiễm phèn khoảng 60% diện tích đất tự nhiên, đất nhiễm

mặn khoảng 33%, đất bói bồi khoảng 1,5%, đất than bùn 1,6%.
Do đặc trưng thổ nhưỡng và chế độ thủy văn như trên nên việc sử dụng đất ở Cà
Mau đó hỡnh thành cỏc vựng: Vựng trồng cõy lương thực, thực phẩm; vùng trồng cây lâu
năm; vùng nuôi trồng thủy sản. Trong đó, diện tích đất và mặt nước nuôi trồng thủy sản
229.190 ha, đất nông nghiệp 142.428 ha, đất lâm nghiệp 106.085 ha.

Nguồn nước ngọt cung cấp cho nông nghiệp chủ yếu là nước mưa. Nước ngọt
cung cấp cho sinh hoạt và công nghiệp là nước ngầm. Nước mặn ở Cà Mau là tài nguyên
quý giỏ, rất thớch hợp cho việc phỏt triển lõm, ngư nghiệp, nuôi tôm cá.
Cà Mau có 9 đơn vị hành chính cấp huyện và 101 đơn vị xó, phường, thị trấn. Dân
số 1.219.505 người bao gồm ba dân tộc, kinh 96%, Hoa 1,5%, Khmer 2,5%. Tỷ lệ tăng dân
số trung bỡnh hàng năm 1,55%. Mật độ 232 người/ 1 km
2
. Dân số nông thôn 975.641
chiếm 80%. Toàn tỉnh có 211.820 hộ dân (số liệu của Cục Thống kê thời điểm năm
2007).
Mặt bằng văn hóa của nhân dân cũn thấp, nguồn nhõn lực cũn nhiều hạn chế, cán
bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh theo thống kê cuối năm 2000 cho thấy, trỡnh độ cao đẳng
trở lên có khoảng 4.146 người/1,1 triệu dân, trong đó số có trỡnh độ sau đại học là 62
người. Lao động ở Cà Mau dồi dào nhưng đa số có học vấn thấp, trỡnh độ, kỹ năng lao
động hầu như không cao, chủ yếu lao động giản đơn. Khu vực đô thị dân cư khá tập
trung, ở nông thôn dân cư phân tán và rải rác, chỉ tập trung chủ yếu ở các trung tâm xó,
đầu mối giao thông và dọc theo các trục kênh chính.
Cà Mau là tỉnh có nhiều tôn giáo và giáo phái gồm có Cao Đài Minh Chơn đạo,
Tiên Thiên, Tây Ninh, thiên lâm, tịnh độ cư sĩ, khất sĩ, ni giới Việt Nam. Hai tôn giáo ra
đời sớm nhất, có tín đồ đông nhất là Đạo phật và Thiên chúa. Các Tôn giáo khác ra đời
chậm hơn như Cao đài, Tin lành.
Về mặt lịch sử, Cà Mau là vùng đất trẻ được hỡnh thành trờn 200 năm. Dân cư
Cà Mau không hỡnh thành từ cỏc lũy tre làng như các tỉnh phía Bắc, mà dân cư Cà Mau
là dân khắp nơi trong cả nước về cùng chung sống. Đặc điểm nổi bật của cư dân nông

thôn Cà Mau là định cư rải rác trên các bờ sông, kênh rạch, nhà gắn với vườn, vườn gắn
với ruộng. Người Hoa, Kinh, Khmer sống đan xen nhau, luôn tương trợ đoàn kết khi
hoạn nạn, chân thành cởi mở; phong cách ứng xử của người dân Cà Mau mang tính nông
dân chất phát, tính bộc trực, thẳng thắn.
Sau khi được tái lập, bên cạnh những thuận lợi, Đảng bộ và nhân dân Cà Mau
gặp không ít khó khăn. Thuận lợi cơ bản là Cà Mau tiếp tục kế thừa và phát huy những
kinh nghiệm, thành quả của quá trỡnh xõy dựng, phỏt triển kinh tế, xó hội của tỉnh Minh

Hải để lại; nhân dân Cà Mau có truyền thống cách mạng kiên cường, cần cù, năng động,
sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác và học tập. Khá đông đội ngũ cán bộ, đảng
viên được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, tâm huyết với bao công việc kiến thiết xây dựng quê hương.
Khó khăn nổi rừ nhất là Cà Mau vẫn cũn là tỉnh nghốo, mặt bằng phỏt triển kinh
tế - xó hội cũn thấp so với cỏc tỉnh trong khu vực, kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất,
đời sống cũn nhiều yếu kộm. Cũn 38 xó chưa có đường ô tô đến trung tâm. Hệ thống
thủy lợi phục vụ cho sản xuất ở các vùng, tiểu vùng không bảo đảm. Nền sản xuất của
tỉnh phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất, sản lượng, hiệu quả cũn thấp,
tớnh cạnh tranh yếu. Đời sống nhân dân, nhất là nông dân ở những vùng nông thôn xa xụi
cũn rất nhiều khú khăn. Hầu hết các cơ sở đào tạo xây dựng trước đây đều nằm ở tỉnh
Bạc Liêu; đội ngũ cán bộ lónh đạo ở cấp tỉnh bị biến động, thiếu nghiêm trọng, chỗ nơi,
phương tiện làm việc khụng thuận lợi. Cú lỳc nội bộ lónh đạo ở tỉnh có nhiều vấn đề đặt
ra cần giải quyết, việc tập trung lo cho công việc chung hạn chế.
Đánh giá đúng những thuận lợi và những khó khăn đó, được sự chỉ đạo của
Trung ương, Đảng bộ tỉnh luôn nỗ lực khắc phục những khó khăn, yếu kém, tăng cường
đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, tính năng động sáng tạo,
khai thác phát huy nguồn lực tại chỗ, đẩy mạnh khai thác tiềm năng thế mạnh của địa
phương, tập trung lónh đạo, chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu sản xuất; sớm ổn định, kiện toàn
bộ máy tổ chức, đội ngũ cỏn bộ lónh đạo. Từ những việc làm thiết thực đó, sau 10 năm
được tái lập, Đảng bộ Cà Mau đó giành được những thành quả rất quan trọng và khá toàn
diện. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng, những vùng chuyển đổi sản xuất từ

trồng lúa sang nuôi tôm, tụm - lỳa phỏt huy hiệu quả rất rừ, năng lực, quy mô chế biến
xuất khẩu hàng hóa thủy sản tăng vọt, Cà Mau đóng góp 25% giá trị kim ngạch xuất khẩu
hàng thủy sản của cả nước; tăng trưởng GDP của tỉnh đạt khá, tăng dần qua hàng năm
(bỡnh quõn từ năm 1997 - 2007 đạt trên 10%); thu nhập bỡnh quõn đầu người từ khoảng
150 USD/ năm 1997 lên trên 785 USD/năm 2007. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất
và đời sống phát triển khá nhanh, nhất là hệ thống giao thông bộ. Đến nay, đó cú đường ô
tô đến 7 huyện (năm 1997 là không có), 62/83 xó (năm 1997 là 03 xó). Thu hỳt đầu tư

ngoài tỉnh có nhiều triển vọng, khu công nghiệp khí - điện - đạm đó tạo động lực mạnh
mẽ thúc đẩy quá trỡnh phỏt triển của Cà Mau trong thời gian tới.
Về dân số, Cà Mau có trên 1,2 triệu dân, mật độ dân số ở mức độ trung bỡnh
tương đương 500 người/km
2
. Tuy nhiên, dân cư phân bổ không đều, cũng như tỡnh hỡnh
chung của cả nước, dân cư thường tập trung ở các đô thị, các trung tâm xó, thị trấn, cỏc
khu thương mại, các khu công nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp, vùng sâu, vùng xa,
mật độ dân số không đông. Theo các quy định hiện hành của Nhà nước, xó đồng bằng
trung bỡnh khoảng 10.000 dõn. Cỏc tỉnh đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ thông thường có
diện tích hẹp, dân số cũng không nhiều, khoảng từ 5.000 đến 10.000 dõn/một xó. Tại Cà
Mau, xó trờn 10.000 dõn khỏ phổ biến, cú 18 xó cú dõn số trờn 15.000 dõn. Vớ dụ: xó
Khỏnh Hũa (huyện U Minh) cú 17.854 người; xó Hồ Thị Kỷ (huyện Thới Bỡnh) cú
19.525 người (xem phụ lục 2). Cà Mau là vùng đất trẻ, sông rạch nhiều nên cơ cấu tổ
chức dân cư theo tập quán khác với các vùng đất khác; vùng đất đồng bằng Bắc bộ và
Trung bộ, dân cư hỡnh thành từng làng, tập trung, nhưng Cà Mau cũng như một vài vùng
đất của đồng bằng sông Cửu Long dân cư sống không tập trung, thường ở rải rác theo
chiều dài của các con sông, con kênh hoặc trục đường lộ. Dân cư không tập trung là một
trong những điều kiện khó khăn cho phát triển kinh tế - xó hội như làm đường, phát triển
mạng lưới y tế, giáo dục, phát triển mạng lưới điện, công tác tuyên truyền thụng tin, tổ
chức giữ gỡn trật tự, an toàn xó hội trờn địa bàn.
Là vùng đất thấp, sông rạch chằng chịt, không có nguồn nguyên vật liệu xây

dựng tại chỗ, giao thông giữa các xó trong vựng của Cà Mau khoảng 10 năm trước cơ
bản bằng phương tiện thủy (xuồng, ghe, vỏ lói ), những năm gần đây, nhờ có sự đầu tư
của Trung ương (TW) (khai thông tuyến quốc lộ I xuống đến huyện Năm Căn) phong
trào xây dựng giao thông nông thôn phát triển rất mạnh, đường bộ về cơ bản đó được nối
với tỉnh, đường bê tông đó nối liền huyện với cỏc xó. Tuy vậy, Cà Mau cũn cú một huyện
(Ngọc Hiển) chưa có đường ô tô tới và chưa có điều kiện để làm đường giao thông để nối
liền giữa các ấp với xó. Xõy dựng và giao thụng ở Cà Mau hết sức khú khăn và tốn kém.
Cà Mau là vùng đất có nhiều tiềm năng, lúa, cá, tôm, rừng, đánh bắt và nuôi
trồng thủy hải sản. Những tiềm năng này cơ bản được thiên nhiên ưu đói, khớ hậu núng

ẩm quanh năm Tất cả những đặc điểm đó chi phối đến sự hỡnh thành con người và tính
cách của con người nơi đây - sự phóng khoáng, mến khách, chơi hết mỡnh. Có thể nói
lao động để đủ sống ở vùng đất Cà Mau là không khó, nhưng để làm giàu thỡ cũng khụng
dễ. Hơn nữa, cùng với những khó khăn về kết cấu hạ tầng, người dân Cà Mau nói chung,
đội ngũ cán bộ nói riêng chưa thật sự chú ý đến việc học. Cà Mau hiện có 12.339 người
tốt nghiệp đại học, cao đẳng trở lên (trong đó có 50% được đào tạo chính quy tập trung,
04 tiến sĩ, 62 thạc sĩ). Tớnh bỡnh quõn cả nước hiện có 210 người tốt nghiệp đại học, cao
đẳng/1 vạn dân, trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 127 người/ 1 vạn dân,
riêng Cà Mau là 85 người/ 1 vạn dân.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm, vai trũ của kinh tế biển tỉnh Cà Mau đối với sự
phát triển của tỉnh
* Quan niệm kinh tế biển
Kinh tế biển quan niệm theo nghĩa hẹp gồm:
Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế hàng
hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3.
Khai thác dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ tỡm kiếm, cứu
hộ, cứu nạn; và 7. Kinh tế đảo.
Kinh tế biển quan niệm theo nghĩa rộng gồm:
Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn
ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp

phục vụ các hoạt động kinh tế biển, bao gồm: 1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động
này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu,
khí; 3. Công nghiệp chế biến thủy, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin liên
lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế
biển bao gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp
liên quan đến khai thác biển.
* Đặc điểm kinh tế biển

Biển là một kho tàng vô giá mà không phải nước nào cũng có được, cung cấp cho
nhân loại mọi nguyên liệu khoáng sản cho mọi ngành sản xuất. Cung cấp một lượng cá,
tôm vô tận cho nhân loại, với tầm quan trọng như vậy, biển là vấn đề quan tâm hàng đầu
đối với các nước có sở hữu vùng biển. Với lợi thế này các nước sẽ có những hướng phát
triển kinh tế riêng được gọi là kinh tế biển. Trước kia các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Anh với lợi thế về biển đó làm chủ thế giới trong vài thập kỷ do họ biết tận dụng
con đường nhanh nhất và an toàn nhất để thông thương. Khám phá ra những vùng đất
mới lạ. Những nước có lợi thế về biển nếu biết tận dụng tốt thỡ đó sẽ là một kho báu vô
tận, có thể đó chỉ là ngành khai thác đánh bắt cá, tôm nhưng nó cũng đem lại cho người
dân sự ấm no hạnh phúc. Nhật Bản, Indonesia,… những quốc đảo đó tận dụng biển là con
đường thông thương giao lưu hàng hóa với các nước khác trên thế giới để trở thành
cường quốc trên thế giới.
Việt Nam có bờ biển trải dài dọc Bắc vào Nam nằm ở trung tâm của Đông Nam
Á và Thái Bỡnh Dương nên con đường giao lưu trên biển là con đường vô cùng quan
trọng trong phát triển kinh tế của nước ta. Nhiều mỏ khoáng sản, mỏ khí cũn nằm trong
kho tàng vô tận mà chúng ta chưa tỡm ra vỡ thế kinh tế hướng biển là một quyết sách
hoàn toàn chính xác mà Đảng và Nhà nước đó xác định. Dựa vào biển để phát triển,
hướng ra biển là việc cần phải làm ngay. Cà Mau là tỉnh được sở hữu một vùng biển
tương đối lớn, nhân dân Cà Mau đang từng bước khám phá để phát triển cho tương xứng
với tiềm năng này. Triển vọng là rất lớn nhưng để có được nó là một việc vô cùng khó
mà không phải một quốc gia, một tỉnh nào cũng có thể đạt được, vỡ thế vấn đề phát triển

kinh tế biển là một vấn đề đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu.
Trong thời đại hiện nay, để giải quyết những vấn đề then chốt về lương thực,
thực phẩm cũng như về nguyên, nhiên liệu và năng lượng cho sự tồn tại và phát triển
của nhân loại, không cũn con đường nào khác là phải kết hợp chặt chẽ giữa khai thác
tiềm năng kinh tế của đất liền với tăng cường khai thác tiềm năng kinh tế của biển.
Ngay từ buổi sơ khai của lịch sử, loài người đó biết sử dụng biển cho các mục
đích khác nhau phục vụ cuộc sống của mỡnh. Tuy nhiên thực tế cho đến nay, sự hiểu biết
của con người về biển cả cũn quá ít ỏi. Theo đà phát triển, biển và đại dương ngày càng

có vai trũ quan trọng hơn đối với sự phát triển của nhân loại và trở thành địa bàn luôn
diễn ra những tranh chấp về lợi ích rất phức tạp của các quốc gia trên thế giới.
Nhận thức được vai trũ quan trọng của biển cả đối với sự tồn tại và phát triển của
trái đất, các nước trên thế giới đó tiến hành nhiều nghiên cứu về tiềm năng của biển bao
gồm cả tiềm năng của vùng biển, ven biển và tiềm năng tiềm ẩn ở dưới đáy đại dương.
Theo thống kê hiện nay, trong lũng biển có khoảng 18 vạn loài động vật và 2 vạn
loài thực vật, trong đó đó phát hiện hơn 400 loài cá và hơn 100 loài hải sản khác có giá trị
kinh tế. Theo ước tính sức sản xuất nguyên khai của biển và đại dương khoảng 500 tỷ tấn
sinh khối/năm, trong đó riêng sản lượng cá biển ước chừng 600 triệu tấn/năm. Hiện nay
sản lượng khai thác cá biển hàng năm của thế giới mới đạt hơn 100 triệu tấn. Như vậy,
biển vẫn cũn tiềm lực lớn về hải sản mà con người chưa khai thác hết được.
Diện tích rộng lớn mặt biển cùng với điều kiện môi trường thuận lợi và các kỹ
thuật vi sinh ngày càng hiện đại là những nhân tố hết sức quan trọng để phát triển ngành
nuôi trồng biển, đặc biệt là nuôi trồng thuỷ, hải sản ven biển trong tương lai.
Trong biển chứa đựng gần như tất cả các loại tài nguyên khoáng sản đó phát hiện
trên đất liền. Những loại tài nguyên đó được nghiên cứu nhiều và bắt đầu sử dụng là dầu
mỏ, khí thiên nhiên, than, sắt, lưu huỳnh, silic, cát, aragonite, vàng, bạch kim, kim cương,
imenit, rutin, uranium… Theo đánh giá của Viện nghiên cứu dầu mỏ Pháp, trữ lượng dầu
mỏ đó thăm dũ của thế giới là 95 tỷ tấn và khí thiên nhiên là 98,5 ngàn tỷ mét khối, trong
đó 26% lượng dầu và 23% lượng khí phân bố ngoài biển.
Dọc ven bờ và dưới đáy biển có nhiều quặng kim loại tồn tại dưới dạng thể rắn

và bùn nhóo với trữ lượng rất lớn. Các mỏ trên bờ biển gồm nhiều loại: kim hồng thạch,
đá kim cương, cát thạch anh và các loại đá làm vật liệu xây dựng. Dưới đất đại dương đó
phát hiện nhiều mỏ kết cuội mang trữ lượng lớn (khoảng 3.000 tỷ tấn), trong đó chứa hơn
50 nguyên tố kim loại như mangan, niken, đồng… Các mỏ sunfit đá kim nằm dọc theo
các dải núi ngầm giữa đại dương cũng là các mỏ kim loại chứa tới 11% đồng, 0,8% kẽm
và các chất bạc, chỡ, kẽm…
Ngoài ra, trong lũng biển cũn chứa một nguồn năng lượng khổng lồ (có thể nói là
vô tận), đó là các nguồn năng lượng thủy triều, năng lượng sóng, năng lượng dũng chảy,

năng lượng nhiệt biển. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu năng lượng mới, nguồn
năng lượng thủy triều của thế giới có khoảng 1 tỷ KW, nguồn năng lượng do chênh lệch
nhiệt độ khoảng 2 tỷ KW, nguồn năng lượng hải lưu là 5 tỷ KW. Có thể nói, đây là nguồn
năng lượng dồi dào mà loài người có thể khai thác sử dụng từ giữa thế kỷ XXI này.
* Vai trũ kinh tế biển
Kinh tế biển có vai trũ rất quan trọng trong tiến trỡnh phát triển kinh tế nói chung
và phát triển bền vững nói riêng. Có ba yếu tố chủ yếu được lồng ghép trong phát triển
bền vững là: 1. Phát triển có hiệu quả về kinh tế biển;
2. Phát triển hài hũa các mặt xó hội, nâng cao mức sống, trỡnh độ của các tầng lớp dân
cư; 3. Bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Cả ba yếu tố trên đều liên quan đến quá
trỡnh phát triển kinh tế biển. Điều này chứng minh vai trũ kinh tế biển mang ý nghĩa rất
quan trọng cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và toàn cầu.
Trong giai đoạn hiện nay, hũa nhập với cộng đồng quốc tế, trong quá trỡnh đổi
mới kinh tế và xó hội, phát triển bền vững với những nội hàm phát triển toàn diện và có
hiệu quả về kinh tế biển, đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xó hội và bảo vệ môi
trường luôn luôn là mục tiêu phát triển trong từng thời kỳ đổi mới đất nước.
Trong quá trỡnh phát triển đất nước, với tiềm năng biển to lớn, Đảng và Nhà
nước ta đó có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển, đến nay những kết quả
bước đầu đó cho thấy kinh tế biển chiếm giữ nhiều ngành kinh tế mũi nhọn và chủ lực
của nền kinh tế cả nước. Kinh tế biển ngày càng giữ vai trũ quan trọng trong nền kinh tế
biển đó trở thành động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp vỡ biển là cửa ngừ giao lưu

với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất, nhập khẩu hàng hóa thuận lợi với chi phí
thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay thỡ biển ngày
càng đóng vai trũ quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của quốc gia và của
ngành công nghiệp. Ngoài ra, biển cũn là nơi cung cấp nguyên liệu phong phú, đa dạng
cho công nghiệp chế biến ở tỉnh Cà Mau, kinh tế biển, cú vai trũ quan trọng gúp phần
tớch cực vào việc phỏt triển kinh tế - xó hội, an ninh - quốc phũng của địa phương. Kinh
tế biển góp phần thúc đẩy, tác động mạnh mẽ các lĩnh vực kinh tế khác trên địa bàn tỉnh
như thủy sản, công nghiệp, dầu khí, điện lực, du lịch

- Đối với ngành thủy sản
Ngành thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế vùng
biển Cà Mau, bao gồm các hoạt động khai thác, nuôi trồng, vận chuyển thủy sản, bảo
quản, chế biến, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thủy sản, dịch vụ trong hoạt động thủy
sản; điều tra, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Trong số những lợi ích mà biển
mang lại, kinh tế thủy sản chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, đan xen giữa lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài.
Trong các hoạt động của ngành, khai thác hải sản giữ vị trí rất quan trọng. Sản
lượng khai thác hải sản hàng năm được tăng lên liên tục. Bước vào thời kỳ đổi mới,
ngành thủy sản Việt Nam đó nhanh chóng chuyển đổi từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản
xuất hàng hóa, đạt hiệu quả kinh tế cao. Năm 2006, tổng sản lượng của ngành thủy sản Việt
Nam đạt gần 3,7 triệu tấn, chủ yếu khai thác từ biển. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm
2000 đạt mốc 1 tỷ USD/năm, năm 2002 đạt mốc 2 tỷ USD/năm, năm 2005 đạt mốc 2,5 tỷ
USD/năm và năm 2006 đó đạt 3 tỷ 357 triệu USD, đứng vững trong tốp đứng đầu đất
nước về kim ngạch xuất khẩu và tiếp tục giữ vững vị trí trong 10 nước xuất khẩu thủy sản
đứng đầu thế giới. Trong thành tích này, có một phần đóng góp không nhỏ của nền kinh
tế biển tỉnh Cà Mau.
Ngành thủy sản với sự phát triển nhanh của mỡnh đó tạo ra hàng loạt việc làm và
thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm
giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước nói chung và tại tỉnh Cà Mau
nói riêng.

Ngành thủy sản có vai trũ quan trọng trong việc mở rộng quan hệ thương mại
quốc tế. Năm 1996, ngành thủy sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng
lónh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đó được mở rộng ra 60 nước và vùng
lónh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lónh thổ. Đối với các nước và vùng lónh thổ có
quan hệ thương mại, ngành thủy sản đó tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công
nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các nước trong khối EU đó chấp nhận làm bạn
hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2003, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào
bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị

kim ngạch, phần cũn lại trải rộng ra gần 60 nước và vùng lónh thổ. Có thể thấy rằng sự
mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thủy sản đó góp phần mở ra những
con đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập
ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
- Đối với các ngành công nghiệp
+ Vận tải biển: Trên thế giới có khoảng 80% lượng hàng hóa được vận chuyển
bằng đường biển. Đối với Việt Nam, 90% lượng hàng xuất nhập khẩu được vận chuyển
đi và đến Việt Nam bằng đường biển. Vỡ thế, vận tải biển là một trong những ngành kinh
tế mũi nhọn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng trong chiến lược phát triển kinh tế và
tiến trỡnh hội nhập của nước ta.
Trong hội nhập, việc mở rộng giao lưu kinh tế đối ngoại, trao đổi hàng hóa quốc
tế diễn ra bắt đầu từ các hoạt động hàng hải, chủ yếu là vận tải trên tuyến quốc tế, vận tải
hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đội tàu biển quốc gia. Vận tải biển phát triển đó thúc đẩy
quá trỡnh xuất nhập khẩu hàng hóa, là động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp. Trong
sản xuất công nghiệp, chi phí cho vận tải nguyên vật liệu, hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn,
nhất là khi phải vận chuyển xa từ quốc gia này đến quốc gia khác, thậm chí từ châu lục
này tới châu lục khác.
Công nghiệp tàu thủy và thiết bị nổi trên biển là một trong năm lĩnh vực để phát
triển kinh tế biển. Phát triển ngành công nghiệp tàu thủy là lợi thế, tiềm năng, thế mạnh
của đất nước để đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngành công nghiệp đóng tàu biển
nước ta mới khởi sắc trong ba năm gần đây, đó đóng nhiều chủng loại tàu có trọng tải lớn

đến 10 vạn tấn để xuất khẩu, là ngành mũi nhọn của kinh tế biển, hứa hẹn nhiều triển
vọng tốt.
+ Ngành dầu khí và điện lực
Ngành dầu khí ngày nay đó trở thành một trong những ngành chủ lực của nền kinh tế
Việt Nam, là ngành xuất khẩu hàng đầu của đất nước, gắn liền với kinh tế biển. Gần như toàn
bộ trữ lượng dầu khí của nước ta nằm trong thềm lục địa.
Nguồn dầu khí khai thác được tạo điều kiện phát triển công nghiệp điện lực, hóa
chất (phân bón và hóa dầu) với quy mô lớn. Các cơ sở công nghiệp này đều gắn liền với

các vùng ven biển như khu khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau; khu lọc hóa dầu Dung Quất,
Nghi Sơn.
+ Ngành du lịch
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có định hướng tài nguyên rừ rệt và phát triển
của du lịch luôn gắn với môi trường trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Những
năm qua, do nhận thức được tiềm năng du lịch biển Việt Nam, ngành du lịch không
ngừng phát triển, đến nay thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Hàng năm, du
lịch biển thu hút 80% lượng khách của toàn ngành (bỡnh quân đạt trên 3 triệu lượt khách
nước ngoài và trên 15 triệu lượt khách nội địa). Khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam
để du lịch biển ngày càng đông với mức tăng trưởng đạt bỡnh quân hàng năm là trên 15%,
tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đóng góp xây dựng các đô thị ven biển.
1.1.3. Đặc điểm, vai trũ, chức năng, nhiệm vụ của Tỉnh ủy Cà Mau
* Đặc điểm chủ yếu của Tỉnh ủy Cà Mau
- Về truyền thống cách mạng
Tỉnh ủy Cà Mau có truyền thống cách mạng kiên cường, thông minh và sáng tạo.
Chi bộ Đảng được thành lập vào đầu năm 1930 tại thị trấn Cà Mau. Đảng bộ và Tỉnh ủy
được xây dựng và phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của Đảng và sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Dưới sự lónh đạo Tỉnh ủy trong kháng chiến chống Pháp đó giành
thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Hũn Khoai (1940), và tổng khởi
nghĩa Cỏch mạng Thỏng 8 năm 1945 giành thắng lợi. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước Tỉnh ủy Cà Mau đó phải đương đầu với muôn vàn gian nan thử thách, xong đó

giành thắng lợi lợi hoàn toàn bằng chiến dịch Hồ Chớ Minh lịch sử. Trong hai cuộc
khỏng chiến, Cà Mau là vựng căn cứ cách mạng đó cung cấp sức người, sức của cho giải
phóng dân tộc. nhiều đồng chí lónh đạo cấp cao của Đảng như: Lê Duẩn, Phạm Hựng,
Vừ Văn Kiệt từng hoạt động trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Trong thời kỳ đổi mới, Tỉnh ủy
Cà Mau bỏm sỏt thực tiễn, lónh đạo và điều hành đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Tỉnh uỷ đó được tôi luyện, trưởng thành từng bước trong thời kỳ kháng chiến cũng như
trong công cuộc đổi mới đất nước. Ngày nay, dưới sự lónh đạo, chỉ đạo của Trung ương

Đảng, Tỉnh ủy đang phát huy truyền thống cách mạng, đổi mới phương thức lónh đạo
đưa Cà Mau đi lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.
- Về tổ chức bộ máy
Cơ cấu tổ chức của Tỉnh ủy gồm: Ban Tuyên giáo, Ủy ban Kiểm tra Đảng, Ban
Tổ chức, Ban dân vận và Văn phũng Tỉnh ủy. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thức XIII
(nhiệm kỳ 2005-2010), đó bầu Ban Chấp hành gồm 49 đồng chí, trong đó Ban Thường
vụ Tỉnh ủy có 13 đồng chí. Độ tuổi bỡnh quõn cỏc đồng chí Ban Chấp hành đầu nhiệm
kỳ là 48 tuổi, trỡnh độ học vấn 100% là 12/12, trỡnh độ chuyên môn: tiến sĩ 02, chiếm
4,08%; thạc sĩ 10 chiếm 20,41%; cũn lại là trỡnh độ đại học. Trỡnh độ lý luận chính trị
33 cử nhân cũn lại là trỡnh độ cao cấp
- Có 13 Đảng bộ trực thuộc gồm 8 huyện và 01 thành phố là huyện Ngọc Hiển,
Năm Căn, Đầm Dơi, Cái Nước, Thới Bỡnh, Trần Văn Thời, U Minh, thành phố Cà Mau
và 03 Đảng ủy Cụng an, Quõn sự, Biờn Phũng. Tổng số hiện có 633 tổ chức cơ sở đảng
bao gồm 179 đảng bộ (có 2.065 chi bộ trực thuộc) và 454 chi bộ cơ sở. Hiện có 27.342
đảng viên, trong đó có 3.051 đảng viên dự bị, 5.689 đảng viên nữ, 372 đảng viên người
dân tộc thiểu số 249 đảng viên là người có đạo.
Đặc điểm và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ mà Tỉnh ủy phải lónh đạo thực
hiện:
Tỉnh ủy lónh đạo phát triển kinh tế - xó hội, củng cố quốc phũng an ninh và cỏc
hoạt động của đời sống xó hội trờn địa bàn. Trước hết, là lónh đạo công tác chính trị tư
tưởng; tổ chức cán bộ và xây dựng chính quyền; công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng. Công tác vận động quần chúng của các cấp của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước phù hợp với thực tế địa phương.
- Về địa bàn và môi trường hoạt động
Tỉnh ủy Cà Mau hoạt động trên đại bàn và môi trường có nhiều thuận lợi đó là:
Nhân dân Cà Mau có bề dầy truyền thống cách mạng qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ cũng như trong thời kỳ đổi mới đó để lại những bài học xương máu vụ
cựng quý bỏo về cụng tỏc xõy dựng Đảng, phát triển và rèn luyện cán bộ, nhất là tính tiên

phong gương mẫu trong gian nan thử thách. Nhân dân Cà Mau thông minh, cần cù, chịu
khó. Tỉnh có điều kiện tự nhiên được thiên nhiên ưu đói là "Rừng vàng biển bạc" là vùng
đất trẻ để phát triển nền kinh tế biển bề vững theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong những
năm tới công nghiệp và dịch vụ của tỉnh và phát triển nhanh do hưởng lợi từ các công
trỡnh dự án trong điểm của quốc gia và của tỉnh như: Cụm Công nghiệp Khí - Điện -
Đạm Cà Mau; đường Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp của tỉnh cán bộ, đảng viên Cà
Mau được tô luyện trong gian nan thử thách, nhỡn chung, cú kiến thức và nhận thức tốt,
nhõn dõn một lũng theo Đảng làm cách mạng là cơ sở để thực hiện và vận động nhân dân
thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng như
của Tỉnh ủy.
Bờn cạnh những thuận lợi thỡ địa bàn và môi trường hoạt động gặp không ít
những khó khăn, đó là một tỉnh nghèo, xa trung tâm kinh tế lớn cả nước, kết cấu hạ tầng
cũn thấp kộm, kinh tế xó hội so với cỏc tỉnh trong vựng đồng bằng sông Cửu Long và cả
nước cũn nhiều yếu kộm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp đời sống một bộ phận nhõn
dõn cũn nhiều khú khăn. Văn hóa - xó hội phỏt triển chậm, dõn trớ thấp cú những tập
quỏn lạc hậu, sản xuất manh mỳn, nhận thức về cỏi mới, về kinh tế thị trường hội nhập
kinh tế quốc tế cũn những hạn chế. Đội ngũ cán bộ về trỡnh độ, năng lực, về lónh đạo,
quản lý cũn những hạn chế nhất định. Chính điều này, đũi hỏi Tỉnh ủy phải có một
phương pháp lónh đạo sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn để hạn chế tối đa những
bất lợi do khó khăn gây nên và phát huy các thế mạnh để đạt được hiệu quả cao trong
cụng tỏc lónh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ.
- Về đối tượng lónh đạo của Tỉnh ủy

Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo phát triển các nguồn kinh tế. Cà Mau được quy hoạch
đầu tư phát triển 3 vùng kinh tế chủ yếu:
+ Vùng kinh tế nội địa là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh (bao gồm phía Bắc Cà
Mau và một phần của phía Nam Cá Mau).
+ Vùng kinh tế ven biển (bao gồm 6 địa vị huyện U Minh, Trần Văn Thời, Phú
Tân, Đầm Dơi, Năm Căn và Ngọc Hiển) chủ yếu phát triển kinh tế lâm nghiệp kết hợp
với nuôi trồng thủy sản và dịch vụ thủy sản, nhất là dịch vụ hậu cần khai thác biển,

khai thác du lịch. Phát triển lợi thế nuôi tôm sinh thái, đồng thời xây dựng một số khu
vực nuôi tôm với quy mô hợp lý; đầu tư phát triển sản xuất tôm giống chất lượng
cao xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản ven biển,
nhất là khu vực Bói Bồi - Mũi Cà Mau. Quy hoạch hỡnh thành cỏc cụm tuyến dõn cư
ven biển.
+ Vùng kinh tế biển, đảo phát triển theo hướng khai thác có hiệu quả, nguồn tài
nguyên biển, kết hợp chặt chẽ với quốc phũng an ninh biển, đảo; làm tốt công tác cứu hộ,
cứu nạn. Sắp xếp lại nghề khai thác biển, các cụm kinh tế, nâng cao năng lực và hiệu quả
khai thác xa bờ; phát triển mới nghề nuôi trên biển; quản ký ngư trường, bảo vệ nghiêm
ngặt nguồn lợi thủy sản.
Các vùng kinh tế nêu trên phát triển sẽ có những tác động tích cực lẫn nhau trong
đó kinh tế biển giữ vai trũ quan trọng, chớnh vỡ vậy đối tượng lónh đạo kinh tế biển của
Tỉnh ủy có tính chất quyết định chi phối và ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xó hội
của tỉnh và sự lónh đạo của Tỉnh ủy.
* Vai trũ
Vai trũ to lớn rất quan trọng của Tỉnh ủy đối với thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng trên địa bàn tỉnh đó được khẳng định và thực tiễn hoạt động cách mạng của Tỉnh
ủy, Đảng bộ tỉnh và nhân dân nhân chứng minh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, vai trũ
Tỉnh ủy càng đặc biệt quan trọng, đó là sự lónh đạo toàn diện của Tỉnh ủy và là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi trên địa bàn. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta
đề ra và lónh đạo thực hiện được Tỉnh ủy quán triệt, cụ thể hóa và lónh đạo nhân dân tổ
chức thực hiện trên địa bàn tỉnh đó thu được thắng lợi to lớn. Sự lónh đạo của Tỉnh ủy

đối với sự phát triển kinh tế - xó hội, quốc phũng - an ninh, trong đó có lónh đạo phát
triển kinh tế biển là nhân tố quyết định để các hoạt động ấy đi đúng đường lối, quan điểm
của Đảng, kinh tế - xó hội của tỉnh phỏt triển theo hướng bền vững.
Nhỡn lại thành tựu và yếu kộm trong cụng cuộc đổi mới, tại Đại hội IX, Đảng ta
nghiêm khắc nhận khuyết điểm và khẳng định: "Những thành tựu và yếu kém trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm của Đảng và những
ưu khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng" [20, tr.137]. Khẳng định đó hoàn toàn

đúng với các cấp uỷ địa phương và Tỉnh ủy. Từ đó chỉ rừ vai trũ quyết định của Tỉnh ủy
đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới.
Tại Đại hội X của Đảng, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Bước vào giai đoạn mới
bên cạnh những cơ hội lớn, đất nước ta và Đảng ta cũng đối mặt với những thử thách rất
gay gắt. Trước tỡnh hỡnh đó, xây dựng Đảng với vai trũ là nhiệm vụ then chốt càng cú ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là vấn đề sống cũn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta [24, tr.259].
Từ khẳng định đó chứng tỏ, Đảng đó nhận thức sõu sắc về vai trũ lónh đạo của
Đảng trong điền kiện hiện nay. Vai trũ ấy càng quan trọng hơn khi trước những diễn biến
phức tạp của tỡnh hỡnh thế giới và trong nước, trước sự tăng cường phá hoại của các thế
lực thù địch đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xó hội của đất nước ta. Trong
khi đó Tỉnh ủy là người chịu trách nhiệm trước sự phát triển mọi mặt của tỉnh.
Vai trũ rất quan trọng của Tinh ủy đối với sự phát triển mọi mặt của tỉnh, mà
trọng tâm là phát triển kinh tế - xó hội, trong đó có kinh tế biển được thể hiện ở những
điểm chủ yếu sau đây:
- Tỉnh ủy cà Mau là một tổ chức Đảng trong hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung
ương đến cơ sở, đó là tổ chức thứ hai sau Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng, tức
là Tỉnh ủy là cấp dưới trực tiếp của BCHTW Đảng. Tỉnh ủy Cà Mau lónh đạo cán bộ tỉnh có
hệ thống tổ chức từ tỉnh đến cơ sở và có đông đảo đội ngũ đảng viên, hoạt động trên địa bàn
rộng lớn và có dân cư đông đúc lónh đạo mọi mặt trên địa bàn tỉnh. Cà Mau là cấp hành
chánh thứ hai sau Trung ương, trong hệ thống hành chính 4 cấp của Nhà nước ta, quản lý
một khu vực lónh thổ đất liền và biển rộng lớn, đông dân cư. Tỉnh Cà Mau có vị trí quan

trọng về kinh tế, chính trị, quốc phũng - an ninh đối với đất nước. Tỉnh ủy là cơ quan
lónh đạo của Đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh; chịu trỏch nhiệm lónh đạo
mọi hoạt động của Đảng bộ, từ xây dựng nội bộ Đảng đến hoạt động lónh đạo các tổ
chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của đời sống xó hội, trong đó có kinh tế biển.
Tỉnh ủy là hạt nhõn lónh đạo của Đảng bộ tỉnh, vận động giáo dục nhân dân thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xó hội của tỉnh và chớnh sỏch, pháp luật của Nhà nước.

- Tỉnh ủy tiếp nhận đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, biến đường lối, chủ trương,
chính sách đó thành hiện thực. Tỉnh ủy có thể tập hợp, động viên khá lớn sức người, sức
của để tiến hành một nhiệm vụ trọng tâm, hoặc một dự án kinh tế - xó hội quan trọng.
Tỉnh ủy cũng có đủ tư cách để liên kết tạo sự phối hợp với các tỉnh khác, với các cơ quan
Trung ương để hoạt động đạt hiệu quả tốt.
- Tỉnh ủy cũn là cấp trờn trực tiếp của huyện ủy ở các huyện và các đảng ủy trực
thuộc tỉnh, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, lónh đạo các lĩnh vực đời sống xó
hội, trong đó có chỉ đạo phát triển kinh tế biển. Sự lónh đạo, chỉ đạo đúng đắn sáng tạo
của Tỉnh ủy là nhân tố đặc biệt quan trọng để kinh tế biển của các huyện trong tỉnh phát
triển mạnh mẽ đúng hướng.
- Sự phát triển mọi mặt về đời sống xó hội của tỉnh, trong đó có kinh tế biển phụ
thuộc và được quyết định bởi sự lónh đạo đúng đắn của Tỉnh ủy. Bởi vậy, nâng cao chất
lượng lónh đạo của Tỉnh ủy trong điều kiện hiện nay, trong đó có năng lực lónh đạo kinh
tế biển là một nhiệm vụ trọng tâm và là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Nếu Tỉnh ủy yếu
kém, năng lực lónh đạo hạn chế, thậm chí không có chủ trương và giải pháp đúng để giải
quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh trong thực tiễn sẽ xuất hiện những phức tạp, thậm
chí đó thành điểm nóng, đưa lại hậu quả khó lường. Vai trũ lónh đạo của Tỉnh ủy sẽ
giảm, kinh tế - xó hội khụng phỏt triển, ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển chung của
đất nước.
* Chức năng
Chức năng chủ yếu của Tỉnh ủy Cà Mau là lónh đạo tất cả các hoạt động trên địa
bàn tỉnh. Là cơ quan lónh đạo của Đảng bộ giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh. Tỉnh ủy

lónh đạo đảm bảo cho các hoạt động xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xó hội, nghề nghiệp của tỉnh cú chất lượng về tổ chức
hoạt động có hiệu quả; đảm bảo cho các lĩnh vực đời sống xó hội trờn địa bàn của tỉnh
phát triển theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
và đúng định hướng xó hội chủ nghĩa.

Sự lónh đạo của Tỉnh ủy đối với các hoạt động nêu trên là sự lónh đạo toàn diện,
tức là Tỉnh ủy đề ra chủ trương quyết định cụ thể hóa các chủ trương, quyết định đó, lónh
đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát các tổ chức Đảng, đảng viên trong việc thực
hiện chủ trương, quyết định của Tỉnh ủy và sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm, kể
cà việc kiểm tra, giám sát việc chuẩn bị ra quyết định và ban hành quyết định.
Mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực đời sống xó hội cú đặc điểm riêng, mỗi tổ chức lại có
chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Sự lónh đạo của Tỉnh ủy đối vời từng tổ chức, từng lĩnh
vực đời sống xó hội cú nội dung và phương thức khác nhau. Bởi vậy, cùng xuất phát từ
nhiệm vụ của tổ chức đó, từ tính chất công việc, đặc điểm cụ thể để xác định nội dung,
phương thức lónh đạo phù hợp. Song, chức năng lónh đạo của Tỉnh ủy Cà Mau là sự lónh
đạo về chính trị. Tức là Tỉnh ủy lónh đạo các tổ chức, các lĩnh vực đời sống xó hội chủ
yếu bằng cỏc chủ trương, quyết định, định hướng đảm bảo cho các hoạt động tổ chức,
lĩnh vực đó theo đúng định hướng xó hội chủ nghĩa. Tỉnh ủy không can thiệp quá sâu,
không bao biện làm thay công việc cụ thể của các tổ chức, của Nhà nước, mà Tỉnh ủy
lónh đạo phát huy vai trũ, chủ động, sáng tạo của các tổ chức để hoạt động đạt hiệu quả
cao.
Trong lónh đạo kinh tế - xó hội, Tỉnh ủy cú chức lónh đạo kinh tế biển. Đây là
lĩnh vực trọng quyết trong sự lónh đạo của Tỉnh ủy, một lĩnh vực đang mang lại thu nhập
cao và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
* Nhiệm vụ của Tỉnh ủy Cà Mau
Điều 19 Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội X quy định: Cấp ủy tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Tỉnh ủy, thành ủy) lónh đạo thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên. Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng,
hướng dẫn của Trung ương, xuất phát từ chức năng của Tỉnh ủy, nhiệm vụ chính trị của

Đảng bộ tỉnh, Tỉnh ủy Cà Mau có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Lónh đạo và tổ chức thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, bao gồm quán triệt,
xây dựng chương trỡnh, kế hoạch thức hiện cỏc nghị quyết của Trung ương về công tác
xây dựng Đảng, lónh đạo, chỉ đạo các tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện.

- Quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và các nghị
quyết của Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ. Thảo luận, quyết định chương trỡnh cụng tỏc của Tỉnh
ủy hàng quý, sỏu thỏng, một năm và cả nhiệm kỳ.
- Chuẩn bị và ra các nghị quyết chuyên đề về các tổ chức trong hệ thống chính
trị, các lĩnh vực trong đời sống xó hội và tổ chức thực hiện cỏc nghị quyết ấy. Tỉnh ủy cú
nhiệm vụ lónh đạo tất cả các lĩnh vực đời sống xó hội, cỏc tổ chức trong hệ thống chớnh
trị, lónh đạo toàn diện.
- Lónh đạo Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh triển
khai thực hiện các nghị quyết của Tỉnh ủy về kinh tế - xó hội, quốc phũng - an ninh. Lónh
đạo các ban tham mưu và các cơ quan chức năng triển khai thực hiện các nghị quyết của
Tỉnh ủy về công tác xây dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể nhân dân.
- Phê quyệt quy hoạch cán bộ của cấp dưới theo phân cấp quản lý cỏn bộ.
- Tuyên truyền giáo dục nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên trong Đảng bộ
tỉnh, trước hết là các tổ chức đảng trực thuộc, (cấp dưới trực tiếp) và những đảng viên,
cán bộ thuộc diện Tỉnh ủy quản lý.
- Chuẩn bị báo cáo chính trị, nhân sự và tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ
tới.
1.2. TỈNH ỦY CÀ MAU LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN -
QUAN NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC VÀ QUY TRèNH LÃNH ĐẠO
1.2.1. Quan niệm về Tỉnh ủy Cà Mau lónh đạo phát triển kinh tế biển
Để đưa ra quan niệm về vấn đề này cần làm rừ khái niệm "lónh đạo", "Đảng lónh
đạo kinh tế".
Theo nghĩa phổ quát thỡ "lónh đạo" có hai nghĩa chính: với tư cách là động từ,

thỡ "lónh đạo" nghĩa là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể, ví dụ: lónh đạo
cuộc đấu tranh; với tư cách là danh từ, thỡ "lónh đạo" chỉ các cơ quan lónh đạo, bao gồm
những người có khả năng tổ chức, dẫn dắt phong trào, ví dụ: chờ lónh đạo cho ý kiến,
Ban lónh đạo đi vắng cả [75, tr.997].

×